Tịnh độ
Niệm Phật Thập Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm Tịnh Liên Đồ Thư Quán Xuất Bản
27/10/2553 05:50 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Mục lục

Lời Phi Lộ
Chương 1: Niệm Phật phải vì giải thoát sanh tử
Chương 2: Niệm Phật phải phát lòng Bồ Đề
Chương 3: Niệm Phật phải dứt trừ lòng nghi
Chương 4: Niệm Phật phải quyết định nguyện
Chương 5: Niệm Phật phải hành trì cho thiết thật vãng sanh
Chương 6: Niệm Phật phải đoạn tuyệt phiền não
Chương 7: Niệm Phật phải khắc kỳ cầu chứng nghiệm
Chương 8: Niệm Phật phải bền lâu không gián đoạn
Chương 9: Niệm Phật phải an nhẫn các chướng duyên
Chương 10: Niệm Phật phải dự bị lúc lâm chung
Lời sau cùng



Lời Phi Lộ

Bản thảo quyển này vừa viết xong, có vài ba đại đức hỏi mượn luân phiên nhau xem, rồi cật vấn:

- Chúng tôi thấy chư vị hoằng dương về Thiền Tông, dường như có ý bài xích Tịnh Độ. Chẳng hạn như trong quyển Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất có câu: ỏNiệm Phật tụng kinh đều là vọng tưởngõ. Còn trong đây lại bảo: ỏMôn Tịnh Độ hợp thời cơ, gồm nhiếp ba cãn, ki? thông cả Thiền, Giáo, Luật, Mậtõ. Xem ra cũng dường như có ý cho Tịnh Độ là độc thắng, sự việc ấy như thế nào?

Đáp: Không phải thế đâu? Mỗi môn đều có tông chỉ ri?g. Các bậc hoằng dương tùy theo chỗ lập pháp của mình, bao nhiêu phương tiện thuyết giáo đều đi về những tông chỉ ấy. Như b? Thiền lấy: ỏChỉ thẳng lòng người, thấy tánh thành Phậtõ làm tông chỉ. Tịnh Độ môn lấy: ỏMột đời v?g sanh, được bất thối chuyển?làm tông. Bên Hoa Nghiêm lấy: ỏLìa thế gian nhập pháp giớiõ làm tông. Thiên Thai giáo lấy: ỏMở, bày, ngộ vào tri kiến Phậtõ làm tông. Bên Tam Luận lấy: ỏLìa hai bên, vào trung đạoõ làm tông. Pháp Tướng môn lấy: ỏNhiếp muôn pháp về Chân Duy Thứcõ làm tông. Mật giáo lấy: ỏTam mật tương ưng, tức thân thành Phậtõ làm tông. Và Luật môn lấy: ỏNhiếp thân ngữ ý vào Thi La Tánhõ làm tông.

Cho nên, lời nói bên Thiền ở trên, không phải bác Tịnh Độ, hay bác niệm Phật tụng kinh, mà chính là phá sự chấp kiến về Phật và Pháp của người tu. Nếu niệm Phật và tụng kinh là thấp kém sai lầm, tại sao từ Đức Thích Tôn cho đến chư Bồ Tát, Tổ Sư đều ngợi khen khuy? dạy tụng kinh niệm Phật? Nên biết, Vĩnh Minh thiền sư, tương truyền là hóa thân của Phật A Di Đà, mỗi ngày đều tụng một bộ Pháp Hoa. Lại, Phổ Am đại sư cũng nhân tụng kinh Hoa Nghi? mà được ngộ đạo. Sự thuyết giáo b? Tịnh Độ cũng thế, không phải bác phá Thiền Tông, chỉ nói l? chỗ đặc sắc thiết yếu của bản môn, để cho học giả suy xét tìm hiểu sâu rộng thêm, mà tùy thích tùy cơ, chọn đường thú nhập.

Lại, mỗi môn tuy tông chỉ không đồng, nhưng đều là phương tiện dẫn chung về Phật Tánh. Như một đô thành lớn có tám ngõ đi vào, mà nẻo nào cũng tập trung về đô thị ấy. Các tông đại khái chia ra làm hai, là Không môn và Hữu môn. Không môn từ phương tiện lý tánh đi vào. Hữu môn từ phương tiện sự tướng đi vào. Nhưng đi đến chỗ tận c?g thì dung hội tất cả, sự tức lý, lý tức sự, tánh tức tướng, tướng tức tánh, nói cách khác: ỏsắc tức là không, không tức là sắc, không và sắc chẳng khác nhau. Cho nên khi xưa có một vị đại sư tham thiền ngộ đạo, nhưng lại mật tu về Tịnh Độ. Lúc lâm chung ngài lưu kệ phó chúc cho đại chúng, rồi niệm Phật sắp v?g sanh. Một vị thiền giả bỗng lên tiếng hỏi: ỏCực Lạc là cõi hữu vi, sao tôn đức lại cầu về làm chi?õ Đại sư quát bảo: ỏNgươi nói vô vi ngoài hữu vi mà có hay sao?õ Thiền giả nghe xong chợt tỉnh ngộ. Thế nên Thiền và Tịnh đồng về một mục tiêu. Hữu môn cùng Không môn tuy dường tương hoại mà thật ra tương thành cho nhau vậy.

Đến như nói: ỏTịnh Độ hợp thời cơ, gồm nhiếp ba cãn, ki? thông cả Thiền, Giáo, Luật, Mậtõ, chính là lời khai thị của chư cổ đức như: ỏLiên Trì, Triệt Ngộ, Ngẫu Ích, Kiên Mật. Các đại sư này là những bậc long tượng trong một thời, sau khi tham thiền ngộ đạo, lại xương minh về lý mầu của Tịnh Độ pháp môn. Như Triệt Ngộ đại sư, trong tập Ngữ Lục, đ?bảo: ỏMột câu A Di Đà, tâm yếu của Phật ta. dọc quán suốt nãm thời, ngang gồm thâu tám giáõ. Và Kiên Mật đại sư sau khi quán sát thời cơ, trong Tam Đại Yếu, cũng bảo: ỏĐời nay tham thiền chẳng n? không kiêm Tịnh Độ, phòng khi chưa chứng đạo bị thối chuyển, há chẳng kinh sợ lạnh lòng?õ Một câu A Di Đà, nếu không phải là bậc thượng căn, đại triệt, đại ngộ, tất không thể hoàn toàn đề khởi. Nhưng với câu này, kẻ hạ căn tối ngu vẫn chẳng chút chi kém thiếu!õ Thế nên, thuốc không quí tiện, lành bệnh là thuốc hay; pháp chẳng thấp cao, hợp cơ là pháp diệu. Tịnh Độ với Thiền Tông thật ra chẳng thấp cao hơn kém. Nhưng luận về cãn cơ, thì Thiền Tông duy bậc thượng cãn mới có thể được lợi ích; cịn môn Tịnh Độ thì gồm nhiếp cả ba cãn, hạng nào nếu tu cũng đều dễ thành kết quả. Luận về thời tiết thì thời mạt pháp này, người trung, hạ căn nhiều, bậc thượng cãn rất ít nếu muốn đi đến thành quả giải thoát một cách chắc chắn, tất phải chú tâm về Tịnh Độ pháp môn. Đây do bởi lịng đại bi của Phật, Tổ, vì quán thấy rõ thời cơ, muốn cho chúng sanh sớm thoát nỗi khổ luân hồi, nên trong các kinh luận đã nhiều phen nhắc nhở. Điều này là một sự kiện rất quan yếu và hết sức xác thật!

Tuy nhiên, như trong kinh nói: chúng sanh sở thích và tánh dục có muôn ngàn sai biệt không đồng, nên chư Phật phải mở vô lượng pháp môn mới có thể thâu nhiếp hết được. Vì vậy Tịnh Độ tuy hợp thời cơ, song chỉ thích ứng một phần, không thể hợp với sở thích của tất cả mọi người, nên cần phải có Thiền Tông và các môn khác, để cho chúng sanh đều nhờ lợi ích, và Phật Pháp được đầy đủ sâu rộng. Cho n? dù đã tùy căn cơ, sở thích của mình mà chọn môn Tịnh Độ, thâm ý bút giả vẫn mong cho Thiền Tông và các môn khác được lan truyền rộng tr? đất nước này. Và các môn khác, nếu đem lại cho chúng sanh dù một điểm lợi ích nhỏ nhen nào, bút giả cũng xin hết lòng tùy hỷ. Tóm lại, Hữu môn và Không môn nói chung, Thiền Tông và Tịnh Độ nói riêng, đồng cùng đi về chân tánh, tuy hai mà một, đều nương tựa để hiển tỏ thành tựu lẫn nhau, và cũng đều rất cần có mặt trên xứ Việt Nam, cho đến cả thế giới.

Mấy vị đại đức sau khi nghe xong đều tỏ ý tán đồng. Nhân tiện, bút giả lại trần thuật bài kệ của Tây Trai lão nhơn để kết luận, và chứng tỏ người xưa cũng đã từng đồng quan điểm ấy:

Tức tâm là độ lý không ngoa

Tịnh khác Thiền đâu, vẫn một nhà

Sắc hiển trang nghiêm miền diệu hữu

Không kiêm vô ngại cõi hằng sa

Trời Tây sáng đẹp màu châu ngọc

Nguyện Phật bao la đức hải hà

Ngoảnh lại đường tu, ai sớm tỉnh?

Nỗi thương ác đạo mỗi vào ra!

Thích Thiền Tâm
cẩn chí        

 

Mục lục chi tiết

Chương 1 : Niệm Phật phải vì giải thoát sanh tử

Mục A.     Môn Tịnh Độ, Một Pháp Hợp Thời Cơ 3
Tiết 1 Bắc Phương Phật Giáo Với Nhân Duyên Tịnh Độ 3
Tiết 2 Những Huyền Ký Về Tịnh Độ 4
Tiết 3 Sự Chuyển Hướng Từ Thiền Sang Tịnh 6
Mục B.     Môn Tịnh Độ Với Vấn Đề Sanh Tử 10
Tiết 4 Niệm Phật Thế Nào Mới Hợp Với Bản Ý Của Phật? 10
Tiết 5 Tám Mối Khổ Lớn 14
Mục C.     Biết Khổ Phải Ý Thức Đến Sự Giải Thoát 20
Tiết 6 Quán Về Sự Khổ Luân Hồi 20
Tiết 7 Muốn Sớm Thoát Khổ, Nên Tu Tịnh Độ 23

 

Chương 2: Niệm Phật phải phát lòng Bồ Đề
 

Mục A.    Luận Về Bồ Đề Tâm 33
Tiết 8 Ý Nghĩa Của Bồ Đề Tâm 33
Tiết 9 Bồ Đề Tâm Với Môn Tịnh Độ 36
Mục B.   Những Công Hạnh Của Bồ Đề Tâm 39
Tiết 10 Làm Thế Nào Để Phát Lòng Bồ Đề 39
Tiết 11 Những Huấn Thị Về Bồ Đề Tâm 48
Mục C.   Ba Sự Kiện Thiết Yếu Đối Với Bồ Đề Tâm 55
Tiết 12 Đường Sanh Tử Nhiều Nguy Hiểm 55
Tiết 13 Cần Giải Thoát Ngay Trong Hiện Kiếp 58
Tiết 14 Làm Thế Nào Để Thành Mãn Bồ Đề Tâm 64

 

Chương 3: Niệm Phật phải dứt trừ lòng nghi
 

Mục A.   Lòng Tin, Cửa Vào Tịnh Độ 71
Tiết 15 Sự Trọng Yếu Của Lòng Tin 71
Tiết 16 Những Điều Làm Giảm Phá Niềm Tin 76
Mục B.   Giải Thích Các Điều Nghi 82
Tiết 17 Những Mối Nghi Thông Thường Về Tịnh Độ 82
Tiết 18 Những Mối Nghi Thiệp Lý 87
Tiết 19 Những Mối Nghi Cãn Cứ Theo Kinh Điển 102
Tiết 20 Cần Phá Lối Chấp Nhị Biên 109

 

Chương 4: Niệm Phật phải quyết định nguyện
 

Mục A.   Nguyện Thiết, Động Lực Chánh của Sự Vãng Sanh 117
Tiết 21 Tánh Cách Trọng Yếu Của Sự Phát Nguyện 117
Tiết 22 Kinh Vãn Khuy? Phát Nguyện 120
Tiết 23 Thử Xét Qua Những Tâm Nguyện Cầu Vãng Sanh 122
Mục B.   Giới Thiệu Lời Vãn Phát Nguyện Của Tiền Nhơn 129
Tiết 24 Vãn Phát Nguyện Của Ngài Liên Trì Và Từ Vân 129
Tiết 25 Phát Nguyện Cần Phải Khẩn Thiết 134

 

Chương 5: Niệm Phật phải hành trì cho thiết thật vãng sanh
 

Mục A.   Môn Niệm Phật Với Tứ Đoạt Và Tứ Hạnh 141
Tiết 26 Hạnh Tinh Chuyên Cũng Là Điểm Không Thể Thiếu 141
Tiết 27 Niệm Phật Với Tứ Đoạt 143
Tiết 28 Niệm Phật Với Tứ Hạnh 146
Mục B.   Khái Luận Về Các Phương Pháp Niệm Phật 149
Tiết 29 Bốn Môn Niệm Phật 149
Tiết 30 Mười Phương Thức Trì Danh 153
Mục C.   Đi Vào Đường Lối Thật Hành 163
Tiết 31 Bốn Môn Tam Muội 163
Tiết 32 Ba Phần Hành Trì 167
Tiết 33 Cách Đối Trị Hôn Trầm Tán Loạn 175

 

Chương 6: Niệm Phật phải đoạn tuyệt phiền não
 

Mục A.  Lược Đàm Về Tham Phiền Não 183
Tiết 34 Phương Diện Khai Tâm 183
Tiết 35 Đối Trị Dục Nhiễm 186
Tiết 36 Đối Trị Tham Vi Tế 190
Mục B.  Lược Đàm Về Sân Phiền Não 194
Tiết 37 Phương Pháp Đối Trị Sân 194
Tiết 38 Cách Đoạn Tuyệt Thị Phi 196
Tiết 39 Những Lời Khuyên Răn Về Việc Thị Phi 199
Mục C.  Lược Đàm Về Si Phiền Não 207
Tiết 40 Nói Chung Về Nghiệp Si 207
Tiết 41 Phải Diệt Niệm Buồn Chán 210
Tiết 42 Cách Đối Trị Tổng Quát 215

 

Chương 7: Niệm Phật phải khắc kỳ cầu chứng nghiệm
 

Mục A.  Nên Định Kỳ Kiết Thất 221
Tiết 43 Sự Sống Chết Lớn Lao 221
Tiết 44 Ý Nghĩa Kiết Thất 223
Tiết 45 Cách Đả Thất 226
Mục B.  Quyết Định Cầu Nghiệm 230
Tiết 46 Sự Và Lý 230
Tiết 47 Sự Trì, Lý Trì 233
Tiết 48 Sự Nhứt Tâm, Lý Nhứt Tâm 243
Mục C.  Cảnh Giới Phát Hiện 247
Tiết 49 Nội Cảnh Giới 247
Tiết 50 Ngoại Cảnh Giới 253
Tiết 51 Biện Ma Cảnh 257
Tiết 52 Các Loại Ma 263

 

Chương 8: Niệm Phật phải bền lâu không gián đoạn
 

Mục A.  Yếu Điểm Của Môn Tịnh Độ 281
Tiết 53 Phải Nhớ Chí Nguyện Để Tinh Tấn 281
Tiết 54 Pháp Môn Thoát Sanh Tử Trong Một Đời 283
Tiết 55 Niệm Phật Chớ Sợ Cười, Đừng Chờ Hẹn 287
Mục B.  Làm Thế Nào Niệm Được Bền Lâu? 292
Tiết 56 Phải Tuần Tự Tiến Tu 292
Tiết 57 Nên Cầu Tinh Thuần, Đừng Tham Nhiều 295
Tiết 58 Chớ Để Mất Phần Nhập Phẩm 298
Mục C.  Tịnh Độ, Môn Giải Thoát Đặc Biệt 302
Tiết 59 Niệm Phật, Phương Pháp Dễ Tu 302
Tiết 60 Từ Tán Tâm Sẽ Đi Đến Định Tâm 304
Tiết 61 Mười Phương Tịnh Độ Và Đâu Suất Tịnh Độ 309

 

Chương 9: Niệm Phật phải an nhẫn các chướng duyên
 

Mục A.   Nói Lược Về Các Duyên Khảo 317
Tiết 62 Vài Nguyên Nhân Của Các Chướng Duyên 317
Tiết 63 Các Duyên Ma Khảo 321
Mục B.   Phương Thức Hóa Giải Chướng Duyên 333
Tiết 64 Lời Khuyên Dạy Của Cổ Đức 333
Tiết 65 Cách Giữ Vững Tâm Không Thối Chuyển 341
Mục C.   Những Gương Về Sự An Nhẫn 349
Tiết 66 Sự An Nhẫn Của Cư Sĩ Tiền Vạn Dật 349

 

Chương 10: Niệm Phật phải dự bị lúc lâm chung
 

Mục A.   Những Dự Bị Cần Thiết Cho Lúc Lâm Chung 359
Tiết 67 Dự Bị Về Ngoại Duyên 359
Tiết 68 Dự Bị Về Tinh Thần 361
Mục B.   Sự Khẩn Yếu Lúc Lâm Chung 369
Tiết 69 Thỉnh Bậc Tri Thức Khai Thị 369
Tiết 70 Cách Thức Trợ Niệm 372
Mục C.   Điều Khẩn Yếu Sau Khi Mãn Phần 378
Tiết 71 Khi Tắt Hơi Cho Đến Lúc Truy Tiến 378
Tiết 72 Những Gương Đắc Thất Về Sự Trợ Niệm 382

Lời sau cùng

---o0o---

Lời Sau Cùng

Người xưa bảo: Trứ thơ nghi tại vãn niên . Đây là ý nói: Viết sách nên đợi lúc tuổi già, vì tuổi càng lớn càng đầy đủ hiểu biết kinh nghiệm, quyển sách viết ra giá trị mới có thể được thành toàn. Bút giả chưa phải tuổi già muộn, chỗ kinh nghiệm cùng sự hiểu biết tất còn nhiều thiếu sót, song vì cấp thiết trong sự lợi tha, lại chẳng biết vô thường sẽ đến ngày nào, nên gắng gượng xin đem chút ngu thành hiến dâng hàng thức giả. Đây tuy nói là trứ tác song hầu hết phần lớn đều rút lời trong kinh Phật, ý kiến của chư cổ đức c?g các bậc thiện tri thức mà góp thành. Nên thiết tưởng cũng có thể đem lại lợi ích phần nào cho bạn đọc.  

Khi xưa Sở Thạch đại sư có hai câu thi:

Nhơn sanh bá tuế thất tuần hy.

Vãng sự hồi quan tận giác phi!

Lời này thốt ra trong lúc Ngài đã thất tuần, ý than: kiếp người tuy nói trăm nãm, nhưng sống được bảy mươi tuổi cũng rất ít có, và tuổi đ?bảy mươi như Ngài khi quy nhìn việc cũ, thấy mình đều lỗi lầm. Một bậc cao tãng mà còn tự phê kiểm dường ấy, thì hạng người phàm thường sự lầm lỗi biết là bao nhiêu? Cho nên khi bút giả nghĩ mình tội chướng còn dẫy đầy, tự độ chưa xong mà mạo muội nói đến chuyện khuy? nhắc người, đôi lúc cũng hổ thẹn bàng hoàng ngập ngừng không muốn viết. Nhưng nghĩ lại danh từ khuyến hóa thật ra mình chẳng dám đương, nhưng lấy tánh cách người trong biển khổ gắng kêu nhắc đồng bạn cùng vượt qua biển khổ, để mong cho mình nhờ chút ảnh hưởng đó tiêu bớt phần nào tội chướng nên mới không ngần ngại.

Nhớ lại thuở đời nhà Minh bên Trung Hoa, ông La Điện có soạn bài thi ỀTỉnh thếỂ như sau:

Vội vội vàng vàng khổ nhọc cầu,

Mưa mưa nắng nắng trải xuân thu.

Hôm hôm sớm sớm lo sinh kế,

Lãng lãng quên quên thấy bạch đầu.

Thị thị phi phi không kết liễu,

Phiền phiền não não những bi ưu.

Rành rành rõ rõ một đường đạo,

Vạn vạn ngàn ngàn chẳng chịu tu!

Lời vãn tr? tuy thô sơ, dường như không có đạo lý chi sâu sắc, nhưng đ?đem tất cả hành vi và chướng nghiệp trong đời sống của kiếp người mô tả ra rất rõ ràng. Ai có thể tránh khỏi khuôn khổ của bài thi trên đây, và cố gắng tu hành, mới gọi là người đi trên đường giải thoát.

Ông La Điện sở dĩ có lời than tr? đây, bởi thấy biển tục dễ chìm, đường tu khó bước. Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật dạy:  

Nhơn sanh có hai mươi việc khó:

- Nghèo khổ bố thí là khó

- Giàu sang học đạo là khó

- Xả thân quyết chết là khó

- Xem được kinh Phật là khó

- Nhịn sắc lìa dục là khó

- Sanh gặp đời Phật là khó

- Thấy tốt không cầu là khó

- Bị nhục chẳng giận là khó

- Có thế không ỷ là khó

- Gặp việc vô tâm là khó

- Học rộng nghiên tầm nhiều là khó

- Trừ bỏ ngã mạn là khó

- Không khinh kẻ chưa học là khó

- Tâm hành bình đẳng là khó

- Chẳng nói việc thị phi là khó

- Được gặp thiện tri thức là khó

- Thấy tánh học đạo là khó

- Tùy duyên độ người là khó

- Thấy cảnh không động là khó

- Khéo biết dùng phương tiện là khó. 

Trong hai mươi điều trên, nơi đây chỉ xin nói lược qua ít chi tiết. Như nghèo khổ bố thí là khó, bởi nghèo khổ dù muốn bố thí, nhưng ngặt vì có lòng mà thiếu sức, nếu gắng gượng bố thí tất ảnh hưởng đến sự sống của mình, nên mới thành khó. Hoặc như giàu sang học đạo khó, bởi giàu sang tuy có sức bố thí, song lại bị cảnh dục lạc lôi cuốn, khó buông bỏ thân tâm để tu hành. Sanh gặp đời Phật là khó, như Luận Trí Độ nói: Ở thành Xá Vệ gồm chín ức dân mà chỉ có ba ức người được gặp thấy Phật, ba ức người tuy nghe danh tin tưởng nhưng không thấy gặp, và ba ức người hoàn toàn không được nghe biết cũng không được thấy. Đức Phật ở tại xứ này giáo hóa trước sau hai mươi lãm nãm, mà còn có ba ức người không thấy gặp nghe biết, thì những kẻ sanh nhằm đời Phật nhưng ở cách xa, hoặc sanh trước hay sau khi Phật ra đời, tất cơ duy? gặp Phật hoặc nghe Phật pháp là điều không phải dễ. Nhưng tuy không gặp Phật mà y theo Phật pháp tu hành, thì cũng như gặp Phật. Nếu không theo lời Phật dạy, dù ở gần Phật, vẫn là cách xa. Như khi xưa Đề Bà Đạt Đa là em họ của Phật, Tỳ Khưu Thiện Tinh làm thị gia cho Phật hai mươi năm, vì không giữ đúng theo đường đạo, n? kết cuộc đều bị đọa địa ngục. Và bà lão ở phía đông thành Xá Vệ, sanh đồng nãm tháng ngày giờ với Phật, nhưng vì vô duyên nên không muốn thấy gặp Phật. Cho nên được thấy Phật nghe pháp, y theo lời dạy phụng hành, phải là người có nhiều căn lành phước đức nhân duyên. Nay Như Lai đã nhập diệt, các bậc thiện tri thức thay thế Phật ra hoằng dương đạo pháp, nếu thân cận nghe theo lời khuyên dạy tu hành, tất cũng được giải thoát. Nhưng kẻ cãn lành sơ bạc, gặp thiện tri thức cũng khó. Dù có duyên được thấy mặt nghe pháp, song nếu không hiểu nghĩa lý, hoặc chấp hình thức bên ngoài mà chẳng chịu tin theo, thì cũng đều vô ích. Theo Kinh Phạm Võng và Hoa Nghiêm, muốn tìm cầu thiện tri thức, đừng câu nệ theo hình thức bên ngoài; như chớ chấp kẻ đó trẻ tuổi, nghèo nàn, địa vị thấp, hoặc dòng dõi hạ tiện, tướng mạo xấu xa, các căn chẳng đủ, mà chỉ cầu người thông hiểu Phật pháp, có thể làm lợi ích cho mình. Lại đối với bậc thiện tri thức chớ nên tìm cầu sự lỗi lầm, bởi vị đó có khi vì mật hạnh tu hành, vì phương tiện hóa độ, hoặc đạo lực tuy cao song tập khí cịn chưa dứt, nên mới có hành động như vậy. Nếu chấp nê hình thức, tìm cầu lỗi lầm, tất không được lợi ích tr? đường đạo. Khi Phật cịn tại thế, ngài Ca Lưu Đà Di có thói quen miệng nhơi qua nhơi lại như trâu; Tỳ Khưu Ni Liên Hoa Sắc tánh ưa soi gương trang điểm; một vị Tỳ Khưu thích leo lên cây nhảy chuyền; một vị Tỳ Khưu khác nói với ai, ưa lên giọng xưng mi tao lớn lối. Nhưng sự thật bốn vị này đều đ?chứng quả A La Hán cả. Bởi kiếp trước một vị làm thân trâu, một vị là kỷ nữ, một vị làm thân khỉ, một vị là dòng quí tộc Bà La Môn, nhiều đời ở trong hoàn cảnh đó, đến nay tuy đắc quả song tập quán dư thừa hãy còn. Lại như đức Lục Tổ vì thấy người học Phật thời ấy ưa chấp nói theo kinh văn, không nhận ngay Phật tánh, nên mới thị hiện làm kẻ dốt, không biết chữ. Ngọc Lam thiền sư vì muốn tránh duyên để tu hành, nên mới giả làm người điên cuồng, quần áo lôi thôi, ãn nói không chừng độ. Hư Vân hịa thượng vì thấy người thời mạt pháp, phần nhiều thân xuất gia, mà tâm không xuất gia nên tuy đã ngộ đạo mà thường để râu tóc, mật ý chỉ cho ỀđạoỂ không phải ở nơi đầu trịn áo vuông. Nhưng đương thời của các vị ấy, cũng có nhiều kẻ chê bai chỉ trích đức Lục Tổ là dốt nát, ngài Ngọc Lam là điên khùng, Hư Vân thượng nhơn là người phạm quy luật thiền môn. Cho nên nhìn tìm bậc thiện tri thức khó là như thế. Mấy điều này người học Phật cũng nên hiểu, để bớt sự cố chấp và tránh lỗi khinh báng Tăng Ni. Còn các việc khó kia, có thể suy ra để hiểu.  

Tuy nhiên, khó và dễ là pháp đối đ?, trong khó có dễ, trong dễ có khó. Nếu nhận hiểu và quyết tâm thì các việc khó chẳng phải không thể làm được. Như thuở đời Phật Tỳ Bà Thi, có hai vợ chồng ông Kế La Di, nghèo đến đổi mặc chung một chiếc khố, khi chồng đi làm vợ phải lỏa thể đóng cửa ở nhà, vợ thay phiên đi làm thì chồng cũng y như vậy. Nhưng khi nghe chư tăng đi khuyến hóa, bảo bố thí sẽ có phước tránh cảnh ngh? khổ, hai vợ chồng bàn luận nhau đem chiếc khố duy nhứt ấy trao qua cửa sổ bố thí, đành cam cùng chịu lỏa thể đóng cửa nằm chết trong nhà. Do sự quyết tâm làm lành đó, khiến cho vị quốc vương hay được, đem y phục tiền của giúp đỡ. Từ đó về sau, mỗi đời sanh ra, hai vợ chồng đều có y phục t? thân, và sau cùng đều chứng đạo quả. Cho n? tuy nghèo khổ, bố thí là khó, nhưng nếu hiểu cái nhân nghèo nàn do bởi không bố thí, rồi quyết tâm cam chịu thiếu kém khổ cực đem của riêng để tu phước, tất việc bố thí cũng có thể làm. Lại như vua Thuận Trị nhà Thanh, lên ngôi hồi sáu tuổi, hai mươi bốn tuổi từ bỏ vương vị, theo Ngọc Lâm quốc sư đầu Phật xuất gia. Làm một vị hoàng đế giàu sang tột bực, ở lầu rồng gác phượng ăn hải vị sơn hào, phi tần có cả hàng ngàn trang tuyệt sắc giai nhơn, quyền lực nắm cả thần dân trong một nước, sự phú quí còn chi hơn? Nhưng nếu nhận rõ sự phước lạc thế gian vô thường như mộng huyễn, cảnh chân như thường tịch mới thật là vui, thì tuy nói giàu sang học đạo là khó, song đã quyết tâm tất cũng có thể thật hành. Ngoài ra, nghèo khổ quá tu hành vẫn thật khó, nhưng nếu có chí cũng chẳng phải không làm được. Như thuở Phật Thích Ca còn ở đời, có một bà lão rất nghèo khổ, ở mướn cho người từ hồi mười ba tuổi, đến tám mươi tuổi cũng còn vất vả, ban ngày làm việc không ngơi nghỉ, đêm nào cũng phải giả gạo đến canh hai, gà gáy sáng đã thức dậy quây quần bên cối xay bột. Hoàn cảnh cực nhọc không rãnh rỗi như thế, muốn tu hành là một sự vạn nan. Nhưng nhờ tôn giả Ca Chiên Diên khuyến hóa, nên mỗi buổi tối sau khi giả gạo xong, bà tắm rửa thay đổi y phục, ngồi tu niệm đến quá nửa đ? mới đi nghỉ. Nhờ sự quyết tâm cố gắng đó, mà sau khi chết bà được sanh lên làm vị thiên tử ở cung trời Dạ Ma.   

Kính thưa quí vị! Thân người khó được, pháp Phật khó nghe. Nay quí vị đ?được thân người, và có duyên xem đến quyển này, tức là đã gặp được pháp môn thành Phật mầu nhiệm. Dù gặp phải hoàn cảnh khó khăn, xin quí vị nhận rõ duyên đời khổ mộng, quyết chí tu hành, để hoa sen báu bên trời tây được nở thêm những hàng thượng thiện.

Ngày Phật Đản 2515

Thích Thiền Tâm

Kính phụng

Hồi Hướng  

Nguyện đem công đức này

Trang nghiêm Phật tịnh độ

Thượng báo tứ trọng ân

Hạ tế tam đồ khổ

Nếu có ai thấy nghe

Đều phát bồ đề tâm

Khi mãn báo thân này

Sanh qua cõi Cực Lạc

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới

Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật

Cũng như những lần xuất bản trước, quyển Niệm Phật Thập Yếu này được thực hiện là do một số Phật tử tùy hỷ phát tâm đóng góp. Vì muốn công đức in kinh sách được viên mãn, cho nên chúng tôi không liệt kê phương danh ấn tống.

Những kinh sách của Hòa Thượng Thiền Tâm đã được xuất bản:

Tịnh Độ Quyết Nghi Luận – 1997

Lá Thơ Tịnh Độ - 1998

Niệm Phật Thập Yếu - 1999

Quý vị đạo hữu muốn biết th? chi tiết về kinh sách hoặc bãng cassette ấn tống, xin li? lạc về địa chỉ sau đây:

Tịnh Liên Đồ Thư Quán

42 Boulder Creek Way

Irvine, CA 92602

(714) 573-0779

Thứ Đệ và Chương Yếu

Thứ đệ trong quyển này, chia thành Chương, Mục, Tiết, Đoạn khác nhau, mỗi Chương có nhiều Mục, mỗi Mục có nhiều Tiết, và mỗi Tiết có nhiều Đoạn.

Về Chương chỉ có mười, ghi số thứ tự La Mã (I-II-III) từ Đệ Nhất Yếu đến Đệ Thập Yếu.

Về Mục, ghi số thứ tự theo A-B-C.

Về Tiết, ghi số thứ tự 1-2-3, nhưng lại tiếp tục quán thông từ đầu đến cuối quyển, diễn thành từ số 1 cho đến số 72. Tuy sắp thành Chương, Mục, Tiết, Đoạn, nhưng Tiết mới chính là đơn vị, và thành phần cốt cán của toàn quyển. Và quyển này là sự kết hợp hay thành phần của 72 Tiết chung góp lại.

Về Đoạn, không n? chữ Đoạn, bởi nó chỉ có tánh cách gây niệm chú ý hoặc sự phân biệt trong mỗi Tiết, nên bút giả đánh dấu bằng ngôi sao ((), đôi khi cũng ghi theo số thứ tự 1-2-3. Nhưng đây chỉ là số ít, không có tánh cách quán xuyến thành số nhiều như thứ tự của Tiết. Và đó là điểm khác biệt.

Niệm Phật Thập Yếu, theo nhan đề là mười điều thiết yếu của môn Niệm Phật hay của người tu pháp Niệm Phật. Mười điều này sẽ diễn thành mười chương theo như trên đã nói. Mười chương ấy như sau:

Niệm Phật phải vì thoát sanh tử.

Niệm Phật phải phát lòng Bồ Đề.

Niệm Phật phải dứt trừ lòng nghi.

Niệm Phật phải quyết định nguyện v?g sanh.

Niệm Phật phải hành trì cho thiết thật.

Niệm Phật phải đoạn tuyệt phiền n?.

Niệm Phật phải khắc kỳ cầu chứng nghiệm.

Niệm Phật phải bền lâu không gián đoạn.

Niệm Phật phải an nhẫn các chướng duyên.

Niệm Phật phải dự bị lúc lâm chung.

---o0o---

quangduc.com