Niệm Phật
Phải Đoạn Tuyệt Phiền Não
Khải đề:
Thanh sắc tài danh thế lợi trêu
Bể trần chìm nổi kiếp vô liêu!
Giai nhân kiệt sĩ chừ đâu vắng?
Dấu sử nghìn thu để hận nhiều!
Hươu Tần tranh đuổi khắp giang san
Cỏ xót, mây thương, cuộc thảm tàn!
Lầu Hán vui trãng ai đó mấy?
Hơn thua thù hận thuở nào tan?
May gặp Như Lai ánh huệ không
Nước dương quyết rửa sạch mê lòng!
Đi lên non pháp quên tìm báu
Lần lựa đi về tiếc uổng công!
Vượt hết non cao vực thẳm rồi
Bên đường bỗng thấy sắc hoa tươi
Mới hay siêu đọa do mình cả
Mà cõi mười phương cũng huyễn thôi.
Mục A. Lược Đàm Về Tham Phiền Não
Tiết 34 Phương Diện Khai Tâm
Đ?là phàm phu, tất còn ở trong vòng phiền não, bị
nó mê hoặc sai khiến, lắm lúc không tự chủ được. Phiền não
có nghĩa: Ềkhuất động thiêu đốtỂ làm cho tâm niệm không yên,
ngăn trở bước tu hành, nên gọi nó là phiền não chướng. Pháp
thân huệ mạng ta bị phiền não phá hại, nên cũng gọi nó là phiền
não ma.
Có những Phật tử tuy ãn chay, bố thí, tụng kinh,
niệm Phật, nhưng chỉ chú ý về hình thức, không quan tâm đến việc
dứt trừ phiền não vọng duyên. Nên biết, nếu phiền vọng tăng
một phần, tất đạo tâm phải thối một phần, d?có tụng kinh niệm
Phật cũng không được thanh tịnh. Cho n? trong Kinh Pháp Bảo Đàn,
đức Lục Tổ đ?bảo:
Người mê tu phước chẳng tu đạo
Bảo rằng tu phước ấy là đạo
Bố thí cúng dường phước không lường
Nơi lòng ba ác vẫn còn tạo.
Chữ Đạo của đức Lục Tổ nói, chỉ cho chân tâm
thanh tịnh. Tất cả đường lối tu hành đều là phương tiện trở về
chân tâm ấy. Chứng được chân tâm mới hoàn phục tánh bản
giác, thoát nỗi khổ luân hồi, mà điểm cãn bản để tu chứng, là
phải dứt trừ phiền não vọng niệm.
Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật cũng dạy:
ỀBậc sa môn hành đạo đừng giống như con trâu kéo chiếc cối xay,
thân tuy hành đạo mà tâm đạo chẳng hành. Nếu tâm đạo được
hành, cần gì dùng thân hành đạo?Ể Niệm Phật, sám hối, ngồi
thiền, lễ bái, kinh hành, đều là phương tiện phá trừ vọng
nghiệp, mở rộng chân tâm. Nếu thân, miệng áp dụng hình thức ấy,
mà lòng còn dẫy đầy nghiệp chướng tham, sân, si, thì đâu gọi là
hành đạo? Trái lại, tuy không dùng hình thức đó, nhưng tâm vẫn
luôn luôn trong sáng như gương nguyệt hồ thu, mới thật là người
hành đạo. Khi xưa vua Hương Chí hỏi Tổ Bát Nhã Đa La rằng: ỀCác
vị tu hành khác đều tụng kinh, sao Ngài lại không tụng?Ể
Tổ đáp: ỀBần tãng hơi thở ra không tiếp xúc các
duy?, hơi thở vào không ở trong ấm giới, thường chuyển thứ kinh
ấy đã ngàn muôn ức quyển rồi!Ể Tổ muốn nói rằng mình hằng
tụng vô tự tâm kinh, tâm kinh ấy là chẳng trụ trước muôn duyên
bên ngoài, và bên trong hằng vắng lặng không thấy có năm ấm
mười tám giới, cả tướng trong, ngoài, chính giữa cũng đều dứt
tuyệt. Đây là ý nghĩa Ềtâm hành đạoỂ.
Tuy nhiên, cũng đừng chấp theo điều nói tr?, mà
bác bỏ ăn chay, bố thí, sám hối, niệm Phật, tụng kinh. Bởi các
sự kiện ấy về mặt huệ nó giúp cho hành giả mau tiêu nghiệp
chướng, sớm ngộ bản tâm; về mặt phước nó lại khiến cho
người tu được quả báo đẹp vui, sanh về các c? lành, hoặc miền
Tịnh Độ để tiếp tục đường tu không cịn thối chuyển. Mà phước
huệ lưỡng toàn mới thành Phật được. Cho nên các bậc đại Bồ
Tát tuy đ?ngộ suốt nguồn tâm, nhưng vẫn tu muôn phước để trang
nghi? Phật độ. Như đức Di Lặc Bồ Tát tuy đ?lên ngôi Nhất Sanh
Bổ Xứ, xong mỗi ngày vẫn sám hối sáu thời để cầu tiêu trừ
tế chướng, mau chứng quả Diệu Giác của Phật Đà. Nên biết lời
dạy trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương và lời của Tổ Bát Nhã Đa La ở
trên, chỉ có tánh cách phiến diện hoặc bán dụ, để phá trừ lối
tu chấp tướng quên tâm mà thôi.
Để kết lại vấn đề, người tu tịnh nghiệp ngoài
phương diện niệm Phật, trì chú, tụng kinh, sám hối, còn phải chú
trọng về phương diện Ềkhai tâmỂ. Muốn cho tâm mở mang sáng suốt,
để giúp kết quả niệm Phật mau thành tựu được sanh về Tây
Phương, phải dứt trừ phiền não. Nếu nhận thức sâu thêm, câu
niệm Phật tuy là tướng mà cũng chính là tánh, bởi lý không
ngoài sự, tức niệm là Phật, tức niệm là tâm. Cho nên trong sáu
chữ hồng danh, phước huệ gồm đủ, sự lý viên dung, vừa đưa
người tu mau đến thể vi? giác diệu tâm, vừa khiến hành giả
được tịnh báo vãng sanh cõi Phật.
Tiết 35 Đối Trị Dục Nhiễm
Các phiền não về tham không ngoài sự đắm nhiễm
ngũ dục lục trần. Từ cội gốc tham, sanh ra các chi tiết xấu khác
như: bỏn sẻn, ganh ghét, lường gạt giả dối... gọi là Tùy phiền
não. Ngũ dục, chỉ cho nãm món nhiễm gồm: sắc dục, tiền của, quyền
danh, ãn mặc, ngủ nghỉ. Lục trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp. Trong lục trần đ?thâu nhiếp ngũ dục, nhưng sở dĩ lập riêng
danh từ ngũ dục, là muốn nêu ra năm món nhiễm nặng của chúng sanh
trong cảnh lục trần. Lục trần nói với tánh cách bao quát, ngũ dục
với tánh cách đặc biệt. Nơi đây nói th? lục trần là để chỉ
cho các thứ nhiễm khác mà trong ngũ dục không có như: thích âm
nhạc ca hát, mê tiểu thuyết nhãm nhí v.v...
Khi tâm tham nhiễm ngũ dục lục trần khởi động, cách
đối trị tổng quát, là nên quán sát thuần thục bốn lý: Bất Tịnh,
Khổ, Vô Thường, Vô Ngã.
ỀBất TịnhỂ là chỉ cho thân không sạch, tâm không
sạch, và cảnh không sạch. Thân không sạch, là phải quán xét thân
ta và người bên ngoài nhờ có lớp da che giấu, bên trong chỉ toàn
những thứ hôi tanh nhơ nhớp như: thịt, xương, máu, mủ, đờm, dãi,
phẩn, nước tiểu v.v... Đã thế mà các thứ nhơ nhớp bên trong
còn bài tiết ra cửu khiếu bên ngoài. Suy xét kỹ, sắc thân của
chúng sanh không có chi đáng ưa thích. Tâm không sạch, là khi tâm
sanh tham nhiễm tất nó đã thành xấu xa nhơ bợn, chẳng khác chi hồ
nước trong bị cáu bùn làm bẩn đục. Hồ nước đục không thể soi
bóng sắc cây núi trời mây, tâm nhơ bợn mất hết thần thông trí
huệ. N? nhớ câu:
Biết tu hành chớ phí uổng công.
Tâm bình tịnh thần thông trí huệ!
Người đ?phát nguyện bước lên đường tu, phải
lập chí lần lần dứt trừ tâm phiền não nhiễm dục từ thô đến
tế. Cảnh không sạch, là cảnh giới cõi ngũ trược này dẫy đầy
bùn đất, đá sỏi, chông gai, lại dung chứa vô số chúng sanh từ
thân đến tâm đều nhơ bợn. Cho n? cảnh Uế Độ này không có chi
đáng say m?tham luyến.
ỀKhổỂ là chỉ cho thân khổ, tâm khổ và cảnh khổ.
Thân khổ, là thân này đã nhơ nhớp, lại bị sự sanh già bịnh
chết, nóng lạnh, đói khát, vất vả cực nhọc chi phối, làm cho khổ
sở không được tự tại an vui. Tâm khổ, là khi tâm ta khởi phiền
não, tất bị lửa phiền não thiêu đốt, giây phiền não trói buộc,
roi phiền não đánh đuổi sai khiến, khói bụi phiền n? làm tăm tối
nhiễm ô. Cho nên người nào khởi phiền não tất kẻ đó thiếu trí
huệ, vì tự làm khổ mình trước nhứt. Cảnh khổ, là cảnh này
nắng lửa mưa dầu, chúng sanh vất vả trong cuộc mưu sinh, mỗi ngày ta
thấy trước mắt diễn đầy những hiện trạng nhọc nhằn bi thảm.
ỀVô ThườngỂ là thân vô thường, tâm vô
thường và cảnh vô thường. Thân vô thường là thân này mau tàn
tạ, dễ suy già rồi kết cuộc sẽ phải đi đến cái chết. Người
xưa đ?than:
Nhớ thuở còn thơ dong ngựa trúc.
Thoát trông nay tóc điểm màu sương.
Mưu lược dõng mãnh như Văn Chủng, Ngũ Tữ Tư; sắc
đẹp dễ say người như Tây Thi, Trịnh Đán, kết cuộc:
Hồng nhan già xấu, anh hùng mất.
Đôi mắt thư sinh cũng mỏi buồn.
Tâm vô thường, là tâm niệm chúng sanh thay đổi
luôn luôn, khi thương giận, lúc vui buồn. Những niệm ấy xét ra
huyễn hư như bọt nước. Cảnh vô thường, là chẳng những hoàn
cảnh xung quanh ta hằng đổi thay biến chuyển, mà sự vui cũng vô
thường. Món ăn dù ngon, qua cổ họng rồi thành không; cuộc sum họp
dù đầm ấm, kết cuộc cũng phải chia tan; buổi hát vui rồi sẽ vãng;
quyển sách hay, lần lượt cũng đến trang cuối c?g.
ỀVô NgãỂ nghĩa là không có ta, không tự thể,
tự chủ. Điều này cũng gồm có thân vô ngã, tâm vô ngã và
cảnh vô ngã. Thân vô ngã là thân này hư huyễn không tự chủ, ta
chẳng thể làm cho nó trẻ mãi, không già chết. Dù cho bậc thiên
tiên cũng chỉ lưu trụ được sắc thân trong một thời hạn nào
thôi. Tâm vô ngã, chỉ cho tâm hư vọng của chúng sanh không có tự
thể; như tâm tham nhiễm, niệm buồn giận thương vui thoạt đến rồi
tan, không có chi là chân thật. Cảnh vô ngã là cảnh giới xung quanh
ta như huyễn mộng, nó không tự chủ được, và bị sự sanh diệt chi
phối. Đô thị đổi ra gị hoang, ruộng dâu hóa thành biển cả, vạn
vật luôn luôn biến chuyển trong từng giây phút, cảnh này ẩn mất,
cảnh khác hiện lên.
Khi quán xét từ thân tâm đến cảnh giới đều bất
tịnh, khổ, vô thường, vô ng? hành giả sẽ dứt trừ được tâm
tham nhiễm. Bởi chúng sanh thiếu mất trí huệ, thường sống trong sự
đi? đảo, không sạch cho là sạch, khổ cho là vui, vô thường cho
là thường, vô ngã cho là ngã, rồi sanh ra mê say đắm nhiễm, nên
đức Phật dạy phải dùng bốn pháp này để quán phá bốn sự
đi? đảo đó. Chẳng hạn như phẩn uế, ta cho là thối tha nhơ nhớp,
nhưng loài chó lợn vì nghiệp mê nhiễm, thấy là thơm sạch ngon, nên
đua nhau tranh giành. Sự dục nhiễm ở nhơn gian, loài người cho là
vui sạch đáng ưa thích, nhưng chư thiên cho là hôi tanh nhơ nhớp,
chẳng khác chi ta thấy loài chó lợn ăn đồ ô uế. Sự dục nhiễm
của chúng sanh rất si m?đi? đảo đại khái là như thế, nên
người tu phải cố gắng lần lượt phá trừ.
Tiết 36 Đối Trị Tham Vi Tế
Như trên đã lược nói qua sự tham ngũ dục thô phù
dễ thấy. Ngoài ra còn mối tham nhiễm ẩn sâu vi tế, mà người tu
cần phải lưu tâm. Chẳng hạn như số tiền trăm vạn không làm cho
tham, nhưng số bạc triệu tỷ có thể khiến phải động tâm; sắc đẹp
tầm thường dễ dàng lướt qua, song giai nhân tuyệt mỹ có năng
lực giục người mê lụy. Cho đến các vị tu mà còn đắm ưa chuỗi
tốt; tượng đẹp, hoặc cảnh giới lành, cũng thuộc về tâm tham
nhiễm. Phải nên xem đó là những phương tiện, hoặc cảnh nhân
duyên như huyễn, chớ sanh lòng tham trước. Để phân tích tâm trạng
này, xin đưa ra ba câu chuyện với tánh cách hiểu dụ từ cạn đến
sâu:
Thuở xưa bên Trung Hoa có một vị quan nổi tiếng là
thanh liêm, ai đưa vàng bạc lo lót, cũng đều nghiêm trách không
nhận. Nhưng độ nọ, một nhà hào phú vì muốn nhờ giải quyết việc
riêng có tánh cách đặc biệt, nên hối lộ đến mười vạn quan
tiền. Vị quan liền thâu nhận. Sau đó người bạn hỏi duy? cớ, ông
đáp: ỀSố tiền mười vạn có thể thông cảm với thần minhỂ,
(tiền chí thập vạn khả dĩ thông thần). Vị quan trên chỉ có thể thanh
liêm được với số tiền nhỏ, nhưng không thanh liêm nổi với số
tiền quá lớn. Đây là lòng tham nhiễm ẩn sâu.
Lại câu chuyện đời Minh. Một hôm Li? Trì đại sư
ngồi nói chuyện với khách tãng. Ông khách than: ỀNgười tu đời
nay hầu hết đều đắm nhiễm về danh lợi. Ể Đại sư nói: ỀTôi
thấy Ngài là bậc thanh khiết, vì từ trước đến nay đ?chối bỏ
hết danh lợi người ta đem đến cho mình.Ể Khách tãng nghe xong gương
mặt thoáng lộ nét hoan hỉ. Vị tãng này tuy không thích những danh
vọng thông thường, nhưng còn ưa được tiếng thanh cao tuyệt tục.
Đây là tâm tham nhiễm thâm trầm vi tế.
Thêm một chuyện trong thiền môn. Có bà lão nhiều
đạo tâm, cất ngôi tịnh am lo đầy đủ tứ sự cúng dường ủng
hộ một vị tham thiền tu niệm. Qua hai chục nãm, một hôm bà lão dặn
bảo cô con gái rằng: ỀBữa nay, sau khi đem cơm cho sư thọ trai xong, con
thừa lúc bất ngờ ôm ngay sư mà hỏi: ỀLúc này như thế nào? Sư
trả lời ra sao, con vào đây thuật lại cho mẹ rõ.Ể Cô con gái y
như lời, ôm sư gạn hỏi. Sư đáp: ỀKhô mộc ỷ hàn nham, tam đông
vô nỗn khí.Ể Với câu này, ý sư muốn bảo: ỀMình chẳng mảy may
động tâm về sắc dục, ví như cây khô nương tựa gộp đá lạnh,
lại ở vào ba tháng mùa đông, tìm một chút hơi ấm cũng không
có.Ể Cô con gái trở vào thuật lại, lão bà không vui, bảo:
ỀThật uổng công ta hai mươi nãm lo lắng, không ngờ chỉ ủng hộ
một kẻ phàm phu!Ể Nói xong, lão bà ra đuổi nhà sư đi, rồi châm
lửa đốt luôn cái am.
Thật ra, tu đến trình độ của sư, đời nay cũng ít
có. Cịn lão bà vốn một vị Bồ Tát, hành động đốt am là muốn
khai ngộ cho thiền sư. Tại sao thế? Bởi sư tuy không động tâm về
sắc dục, nhưng cịn thấy mình thanh tịnh, còn trụ tâm nơi tướng vắng
lặng không không của thiền định, tức chưa được đại triệt đại
ngộ. Để phân tích th? cho rõ, thiền môn có ba cửa ải phải
vượt qua là: Bản Tham quan, Trùng quan và Lao quan. Người tu thiền tham
thoại đầu đến khi phá được nghi tình, tỏ suốt ý tây lai, nhìn
rõ mặt mày trước khi cha mẹ chưa sanh, tức đã vượt qua cửa ải
thứ nhứt, gọi là ỀPhá Bản ThamỂ. Đến trình độ này, dù đã
dứt được tưởng tâm hư vọng từ vô thỉ, nhưng còn cảnh giới
năng sở đối đ? của quán trí, hãy chưa tuyệt tướng quên tình.
Cho nên tuy đã vô tâm cùng thế sự, nhưng đối với đại đạo
vẫn cách một lớp cửa dày dặn trập trùng. Cổ đức bảo:
Chớ gọi vô tâm nguyên thật đạo.
Vô tâm còn cách một trùng quan!
Chính là ý này. Nhà sư trên tuy đã đạt đến cảnh
giới khá cao, nhưng h? còn trụ tâm nơi tịnh tướng. Đây cũng là
một sự tham nhiễm vi tế, mà người tu cần phải dứt trừ.
Người niệm Phật cũng thế. Phải rõ tất cả sắc
tướng đều như huyễn, dù tu đến cảnh giới nhứt tâm, thấy hoa sen
báu, các tướng tốt, hoặc chư Phật Bồ Tát hiện thân, nên biết
đó chẳng qua là do nhân lành cảm quả lành, cứ an nhiên đừng
đắm nhiễm tham trước, cũng không n? phủ nhận. Như vậy mới gọi
là hiểu ngộ lý: ỀNhư thật bất khôngỂ của tạng tâm.
Mục B. Lược Đàm Về Sân Phiền Não
Tiết 37 Phương Pháp Đối Trị Sân
Trong các phiền não, duy có sân hận tướng trạng rất
thô bạo, phá hoại hành giả mạnh mẽ nhứt. Nên người xưa đã
bảo: ỀNhứt niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai.Ể Câu
này có nghĩa: khi khởi một niệm giận hờn, tức đã mở muôn
ngàn cửa chướng ngại. Chẳng hạn như lúc đang niệm Phật, ta chợt
tưởng đến người ngoài bạc ác khắc nghiệt xấu xa, đối đ?
với mình nhiều điều không tốt; hoặc nhớ việc người thân cận
phản phúc gây rối làm khổ mình, liền buồn giận bức rức không
an. Từ nơi tâm trạng đó, miệng tuy niệm Phật, nhưng lòng phiền
muộn, vọng tưởng sôi nổi. Có người bỏ chuỗi thôi niệm, xuống
nằm gát tay suy nghĩ vẫn vơ. Có kẻ lại buồn tức đến quên ăn bỏ
ngủ, muốn gặp ngay người đó la hét một hồi, hoặc tìm cách trả
thù cho đã giận. Tâm niệm sân hận nó phá hại người tu đến như
thế.
Muốn đối trị giận hờn, phải khởi lịng từ bi. Kinh
Pháp Hoa nói: ỀLấy đại từ bi làm nhà, nhu hòa nhẫn nhục làm áo
giáp, tất cả pháp Không làm tòa ngồi.Ể Phải nghĩ rằng: ta cùng
chúng sanh đồng là phàm phu chìm trong biển khổ sanh tử, tất cả
đều do nghiệp phiền não, mà phiền não vốn hư huyễn không có
thật. Như một niệm sân hận, trước khi chưa khởi nó từ đâu
đến, lúc tan rồi lại đi về đâu? Khi giận hờn ta tự làm khổ cho
ta trước, vì đã nổi lửa phiền não thiêu đốt lấy mình, mà cũng
không thể cải hóa làm lợi lạc chi cho người. Như thế có phải
là si mê vô ích chăng? Lại nên nghĩ: người có hành động xấu
làm tổn hại cho ta, kẻ đó vì mê muội đã gây nhân ác tất phải
chịu quả khổ. Họ đáng thương hơn là đáng giận, bởi nếu sáng
suốt biết r?lẽ tội phước, tất không khi nào lại dám làm điều
ấy. Ta là Phật tử, phải áp dụng giáo lý đức Thế Tôn để tự
cởi mở sự ràng buộc oan trái cho mình, vì mục đích tu hành là
cầu sự giải thoát an vui, chớ không phải tìm lối khổ. Đối với
hành động tàn hại đó, ta phải xót thương tha thứ, nhu hòa nhẫn
chịu và xem mọi việc đều hư huyễn không không. Nên nhớ lời cổ
nhơn: ỀLửa sân si tam độc, đốt hết rừng công đức. Muốn hành
Bồ Tát đạo, giữ thân tâm nhẫn nhục.Ể
Từ bi là nước tịnh mát mẻ, rưới tắt lửa phiền
não. Nhẫn nhục là áo giáp bền chắc ngăn tất cả mũi tên độc.
Pháp không là ánh sáng phá tan khói mù tối tăm. Biết dùng ba
điều này để dứt trừ sân hận, tức đ?vào nhà Như Lai, mặc
áo Như Lai và ngồi tòa Như Lai vậy.
Tiết 38 Cách Đoạn Tuyệt Thị Phi
Hàng phàm phu vì chưa chứng vào chân tâm bình đẳng,
còn ranh giới phân biệt giữa ta và người, nên trong đời sống,
sự hơn thua phải quấy khen chê có đến muôn ngàn, không ai tránh
khỏi. Dù cho chư Phật Bồ Tát vì lòng đại bi thị hiện giữa cõi
trần để độ sanh, cũng phải chịu cảnh thị phi thương ghét. Cổ ngôn
có câu:
Thùy nhơn bối hậu vô nhơn thuyết.
Na cá nhơn tiền bất thuyết nhơn!
Lời này ý nói: Ềkhông có ai chẳng bị kẻ khác chỉ
trích chê bai sau lưng, nhưng ở trước mặt người ta không nói ra mà
thôi.Ể Đây là câu thành ngữ xác thật, do sự kinh nghiệm của
người xưa.
Những sự thị phi làm cho hành giả, nếu không sáng
suốt bình tỉnh, nhiều khi phải xao động sanh phiền não, rất chướng
ngại cho đường tu. Cho n? ở đây n? ra vấn đề này để tìm cách
phá giải. Muốn dứt trừ thị phi, phải y theo ba sự kiện:
Điều thứ nhứt: phải xét sửa lỗi mình, đừng nhìn
nói lỗi người. Ví như con trâu đen thấy cị trắng đứng tr? mình
thì để yên; khi con quạ bay đến đậu lại lấy sừng quơ đuổi; nó
không ngờ mình còn đen nhiều hơn con quạ. Phàm phu cũng thế, thích
lời khen, ghét tiếng xấu, ưa bươi móc điều dở của người, không
dè mình cũng nhiều lỗi lầm, chẳng có chi là tốt đẹp! Cho nên
nguyên tắc của người tu là phải tự phản tỉnh xét sửa lấy mình,
đừng nên nhìn nói điều dở của người. Xét sửa lỗi mình thì
càng ngày càng sáng, nhìn nói lỗi người tất càng gây thêm việc
trái oan.
Điều thứ hai: khi bị sự thị phi khinh báng, n? an
nhẫn, đừng tìm cách biện minh. Ví như tờ giấy trắng bị vết mực
làm lem, cứ để yên, nó chỉ dơ một chỗ đó rồi lần lần phai
nhạt; nếu lấy đồ lau ch?, tất sẽ hoen ố cả toàn diện. Luận Niệm
Phật Bảo Vương Tam Muội nói: ỀBị oan ức chớ cầu biện minh, nếu
biện minh tất oán hận càng sanh.Ể Bởi người đ?cố tâm nói
xấu, ta biện minh tức là cho kẻ đó nói sai, dĩ nhiên sẽ sanh sự
oán thù tranh cãi, mà vô tình lại làm cho quần chúng hay biết, và
để ý nghi ngờ mình. Thông thường, người mới tu hay thấy mình
phải kẻ khác quấy. Người tu hơi lâu, thấy mình và kẻ khác đều
có phải có quấy. Người tu càng lâu, duy chỉ thấy mình quấy. Tại
sao thế? - Bởi khi việc khinh báng xảy ra, nếu hiện tại mình không sai
quấy tất kiếp trước cũng lỗi lầm, nên đời nay phải chịu quả.
Giả sử kiếp trước ta không có biệt nghiệp trực tiếp gây nên
lỗi, thì cũng do cộng nghiệp tội ác, mới đồng sanh trong cõi ngũ
trược này. ỀĐã mang lấy nghiệp vào thân. Cũng đừng trách lẫn
trời gần trời xa.Ể Lời của cụ Nguyễn Du nói, cũng thầm hợp
với lý đạo.
Điều thứ ba: người tu phải giữ vững lập trường,
tin chắc lý nhân quả, đừng xao động vì tiếng hay dở bên ngoài.
Kinh Pháp Cú nói: ỀNgọn núi cao đứng vững giữa cơn giông tố.
Người chân chánh an nhiên giữa tiếng thị phi.Ể Tất cả tiếng khen
chê bên ngoài không làm cho ta tốt hoặc xấu, siêu hay đọa, mà tốt
xấu siêu đọa đều do nơi ta. Nếu ta gây nhân lành dù người có
khinh là xấu xa tội ác, ta vẫn được siêu thăng. Trái lại, ta gây
nhân ác, tuy người quí trọng ngợi khen, ta vẫn phải chịu đọa lạc.
Do hiểu lẽ này, một thiền sư Việt Nam đ?viết ra những lời thi ý
tứ rất thanh tân siêu thoát:
Thị phi ngôn trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn!
Hoa lạc, vũ tinh, sơn tịch tịch
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.
Tạm dịch:
Thị phi tiếng rụng theo hoa sớm
Danh lợi lòng băng với bão đêm!
Mưa tạnh, hoa rơi, non vắng vẻ
Chim kêu xuân lại quá bên thềm.
Đừng quan tâm đến danh lợi thị phi, h? để cho nó
rơi theo hoa sớm, lạnh với mưa đ?, rồi tan biến lần lần. Kìa một
tiếng chim kêu, một mùa xuân đã qua, sao ta không lo tu tập?
Tiết 39 Những Lời Khuyên Răn Về Việc Thị Phi
Cổ ngữ nói: ỀKinh mục chi sự do khủng vị chân, bối
hậu chi ngôn khởi túc thâm tín; nhỉ khả đắc vãn, khẩu bất khả
đắc ngôn d?Ể Câu này có nghĩa: ỀViệc thấy trước mắt còn e
không đúng với sự thật, thì lời nói sau lưng đâu đáng để tin?
Cho nên sự thị phi tai có thể được nghe, nhưng miệng không nên
nói.Ể Tiếng thị phi lắm khi phát xuất từ sự nghi lầm, hiểu lầm,
nghe lầm, rồi ở trong nhà nó là hình con chuột, khỏi cửa ngõ nó
biến thành hình con dê, ra tới ngoài đường lại hóa thành hình con
trâu; nguyên khởi thật không có chi, nhưng khi đồn đải đến
người thứ mười, thì người đồn lần thứ nhứt nghe cũng phải
kinh sợ! Nhiều khi tiếng ch?bai lại có do lòng hơn thua ganh ghét,
với sự cố tâm trả oán, hoặc dìm kẻ có nhiều phương diện hơn
mình. Tánh ưa nói nhiều và tâm tật đố thị phi, nhứt là phái
nữ, rất dễ khởi phạm; khi họ kính thương, thì người đó mau
thành tiên Phật, lúc họ khinh ghét, kẻ ấy cũng dễ hóa yêu ma.
Một sư cụ thuộc bậc tiền bối đã nói: ỀMấy bà mấy cô có
nhiều đức tin hơn phái nam, việc hành đạo phần đông si?g nãng
tinh tấn. Nhưng công đức tu niệm được bao nhi?, đều bị cái miệng
nó đốt hết cả!Ể Với ý niệm ngãn những điều lầm lỗi của
thị phi để giữ gìn cho công đức tu hành không bị hủy tổn, và
tránh những ác báo về sau, xin dẫn lời hay của người xưa, cho
đến lời rãn dạy của Phật, Tổ để c?g nhau khuyên nhắc.
Một buổi nhàn hạ, Đường Thái Tông hỏi bề tôi
là Hứa Kính Tôn rằng: ỀTrẫm thấy khanh phẩm cách cũng không phải
là phường sơ bạc, sao lại có nhiều tiếng thị phi chê ghét như
thế?Ể Kính Tôn thưa: ỀTâu bệ hạ! Mưa mùa xuân tầm tả như dầu,
người nông phu mừng cho ruộng đất được thấm nhuần, kẻ bộ hành
lại ghét vì đường sá bùn lầy trơn trợt. Trăng mùa thu trong sáng
như gương, hàng tao nhân mừng gặp dịp thường du ngâm vịnh, nhưng
bọn đạo tặc lại ghét vì ánh nguyệt quá rõ ràng! Như trời đất
là vô tư, mà cơn nắng mưa thời tiết còn bị thế gian trách hận
ghét thương, thì hạ thần đâu phải người vẹn toàn, làm sao tránh
khỏi sự chê bai chỉ trích? Cho nên ngu ý trộm nghĩ: đối với tiếng
khen chê, nên bình tâm suy xét, đừng vội tin nghe. Nếu vua tin nghe
lời thị phi thì tôi bị giết; cha mẹ tin nghe lời thị phi tất con bị
hại; anh em vợ chồng tin nghe lời thị phi, sẽ phải chia lìa; thân bằng
hàng xóm tin nghe lời thị phị rồi đi đến chỗ đoạn tuyệt. Miệng
lưỡi thị phi thật độc hơn rồng rắn, bén hơn gươm đao, giết
người không thấy huyết!Ể Hứa Kính Tôn sử sách ch?là gian
thần, nhưng dù sao lời nói của ông cũng chí lý đáng làm gương
khuyên nhắc cho hậu lai, nên vẫn được người đời truyền tụng.
Kinh Pháp Hoa nói: ỀSau khi Như Lai diệt độ, người
nào thọ trì đọc tụng kinh này, sẽ được phước báo trong đời
hiện tại. Nếu kẻ nào thấy người thọ trì kinh này, vạch bày
những lỗi lầm của người đó, hoặc có thật, hoặc không có
thật; kẻ ấy sẽ mang nghiệp quả, ghẻ lác, đui m? và những ác
báo như trước đã nói.Ể (Đại lược)
Như lời Phật dạy, ta thấy chẳng những khinh hủy
người tụng Kinh Pháp Hoa, mà khinh hủy kẻ trì chú niệm Phật và
đọc tụng các kinh điển Đại Thừa khác, cũng đều mang tội nặng.
Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới nói: ỀNếu Phật tử
nào, tự miệng rao nói tội lỗi của Bồ Tát xuất gia, Bồ Tát tại
gia, Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni; hoặc bảo người rao nói tội lỗi; hoặc từ
nhân, từ duyên, từ cách thức, cho đến từ nghiệp, rao nói những
tội lỗi trong Phật pháp; Phật tử này phạm Bồ Tát Ba La Di tội.Ể
Lại nói: ỀNếu Phật tử tự phô dương tài đức của mình mà dìm
chê điều hay tốt của người, làm cho người bị khinh chê; Phật tử
này phạm Bồ Tát Ba La Di tội.Ể Lại nói: ỀChúng sanh mỗi ngày ba
nghiệp tạo vô lượng tội, nhứt là khẩu nghiệp.Ể (Đại lược)
Đức Thế Tôn từ bi chỉ đường tội phước r?
ràng, mà hàng Phật tử chúng ta bởi quá si mê, nên có nhiều
người đã lãng quên; vì lòng tật đố thị phi, gây biết bao khẩu
nghiệp!
Trong Kinh Đại Tập, Như Lai bảo: ỀNếu hàng vua quan
đánh mắng người xuất gia giữ giới hoặc phá giới, sẽ mang tội
đồng như làm cho trãm ức thân Phật ra huyết. Nếu thấy người mặc
áo cà sa, không luận kẻ giữ giới hay phá giới, nên sanh tâm
tưởng như Phật.Ể
Kinh Đại Tập đ?nói như thế, thì hàng Phật tử
xuất gia cho đến tại gia nếu có lầm lỗi, tất sẽ chuốc lấy khổ
báo riêng về phần họ, ta chỉ sanh tâm thương xót chớ không nên
khinh chê. Niệm tôn trọng thương xót khiến thêm lớn phẩm lành,
tâm khinh mạn chê bai, lại đi vạch nói việc thi phi của người, chỉ
tổn phước đức mình, và đa mang phần khổ lụy! Cho nên người
biết tu, hằng thủ phận, lo xét ngó vào mình để tự sửa chữa.
Trái lại, mình còn nhiều lầm lỗi mà không xét nghĩ, lại đi vạch
nói chê bai người, là kẻ chưa ý thức về việc tu.
Cổ ngôn có câu: ỀNgã khuy nhơn thị họa, nhơn khuy
ngã thị phước.Ể Câu này hàm ý nghĩa: ỀTa làm tổn người là
họa, người làm tổn ta là phước.Ể Đối với người tu, khi bị
kẻ khác thị phi khinh báng, nên sanh tâm nghĩ rằng: kẻ ấy là người
đem phước đến cho mình. Tại sao thế? - Bởi chúng ta từ vô thỉ
đến nay gây ra tội chướng vô biên, nếu bị một lời khinh chê,
tất được giảm bớt một phần tội nghiệp. Đó chẳng phải là
điều phước lợi cho mình ư? Còn kẻ khinh báng tất sẽ chịu quả
khổ, ấy là lẽ dĩ nhiên; bởi họ mê lầm tự chuốc lấy tai họa.
Lại để chỉ r?thế nào là chân tu, cùng tư cách
của bậc chân tu, xin dẫn chứng thêm một đoạn trong bài kệ Vô
Tướng, Kinh Pháp Bảo Đàn của đức Lục Tổ:
Nếu là bậc chân tu
Không thấy lỗi của đời.
Nếu như thấy lỗi người
Mình chê, là kém dở!
Người quấy, ta đừng quấy
Ta chê, tự có lỗi.
Muốn phá tan phiền não
Hãy trừ tâm thị phi
Thương ghét chẳng để lịng
Nằm thẳng đôi chân nghỉ!
(Pháp Bảo Đàn Kinh, Vô Tướng kệ)
Những hàng con Phật hoặc xuất gia hoặc tại gia, đều
tự xem mình là người tu hành lo đạo. Nhưng làm thế nào biết
được ai là chân tu, giả tu? Về điều này, đức Lục Tổ đưa ra
một cách giảo nghiệm rất đơn giản, Ngài bảo: ỀNếu là bậc chân
tu, không thấy lỗi của đời.Ể Mà thật thế, bậc chân tu luôn
luôn tự nhìn để sửa lỗi, trụ nơi tịch định; dứt hẳn lịng ngã
nhơn phân biệt, có tâm tư đâu nghĩ đến việc hay dở tốt xấu của
người! Kẻ giả tu trái lại, tâm nhơn ngã hơn thua ganh ghét dẫy
đầy, mở miệng ra là phê bình chỉ trích, nói điều hay dở của thế
gian; rất cách xa với đạo. Bởi thế, khi cịn thấy lỗi người rồi
khinh báng chê bai, tất nhiên tỏ ra mình đã kém dở trước nhất,
vì tâm hãy còn vọng động phân biệt, thiếu đức trí huệ từ bi,
sẽ chi? cảm lấy tội báo về sau. Người quấy mặt người, ta
đừng quấy, n? học bậc trí nhơn, để lịng trong sáng như gương,
việc sắp đến không đón trước, việc đ?qua chẳng luyến mơ, tâm
linh sáng suốt bình đẳng khắp mọi nơi, sẽ có sự diệu ứng vô
cùng! Nếu động niệm ganh ghét, nói lời khinh chê, thì bên trong
chân tánh đã bị nhiễm ô, bên ngoài lại chuốc lấy việc oán thù
tranh chấp, sự sai lầm tội lỗi càng thêm. Cho nên muốn được an
nhàn khỏi phiền não, đừng phê luận việc phải quấy của người.
Câu ỀHãy trừ tâm thị phiỂ còn có ý nghĩa sâu là: trừ tứ
cú, tuyệt bách phi. ỀNằm thẳng đôi chân nghỉỂ, tức là cảnh
giới đại giải thoát, chỉ cho sự tham học đ?xong, đói thì ãn,
mệt nằm ngủ.
Bậc chân tu luôn luôn có lập trường sáng suốt
vững chắc, không quan tâm đến sự khen ch?thương ghét bên ngoài.
Như thuở xưa Nghĩa Thanh thiền sư sau khi đắc pháp với ngài Phù Sơn,
đến ngụ nơi chùa của Viên Thông Tú hòa thượng. Tuy ở trong đại
chúng nhưng sư không tham thiền hỏi đạo, mỗi ngày chỉ nằm ngủ. Vị
tãng chấp sự đem việc ấy bạch lại. Ngài Viên Thông cầm tích
trượng đến tãng đường, thấy sư đang nằm nhắm mắt liền quở
rằng: ỀNơi đây không có thừa cơm gạo để cho thượng tọa ãn
rồi nằm ngủ!Ể Sư nói: ỀThế thì hòa thượng bảo tôi phải làm
gì?Ể Thông hỏi: ỀSao không đi tham thiền?Ể - Đáp: ỀThức ngon
chẳng giúp gì cho người đ?ãn no.Ể Hịa thượng bảo: ỀCó nhiều
người không bằng lòng thượng tọa.Ể Sư nói: ỀGiả sử bằng
lòng, thì tôi sẽ được gì?Ể Thấy lời nói khác thường, ngài
Viên Thông hỏi tiếp: ỀThượng tọa đã từng tham kiến vị nào?Ể -
Đáp: ỀTôi từ nơi ngài Phù Sơn đến đây.Ể Hịa thượng nói:
ỀThảo nào ông lại chẳng cứng đầu!Ể Liền nắm tay nhau cả
cười, rồi đi về phương trượng.
Sau Nghĩa Thanh thiền sư nối pháp cho ngài Đầu Tử
Ngung. Vào hôm mùng bốn tháng năm, niên hiệu Nguyên Phong thứ sáu
đời Tống, thiền sư tắm gội rồi lên pháp tòa từ biệt đại
chúng, lưu bài kệ xong, liền buông bút tọa hóa. Như Nghĩa Thanh thiền
sư tác phong phóng khoáng, sống chết tự do dường ấy, có phải
Ngài đã lãnh hội câu: ỀThương ghét chẳng để lòng. Nằm thẳng
đôi chân nghỉỂ đó ư
Mục C. Lược Đàm Về Si Phiền Não
Tiết 40 Nói Chung Về Nghiệp Si
Người tu khi với sự lý của mọi vấn đề không
thể hiểu minh bạch, rồi từ đó dẫn sanh tất cả điều mê hoặc,
khiến cho tâm niệm chẳng yên, đó là lúc nghiệp si nổi lên. Chẳng
hạn như trong khi đang tu, thoạt nhớ có kẻ nói phải niệm chừng nào
nhứt tâm bất loạn mới được vãng sanh, nay xét mình khó nỗi
đến trình độ ấy, công hành đạo e luống uổng, rồi sanh ý phân
vân, đó là hiện tướng của nghiệp si. Si mê là nguồn gốc của
tất cả phiền não. Tham, Sân do Si mà Mạn, Nghi, Ác Kiến cũng đều do
Si. Như khi khởi niệm: sự hành đạo siêng nhọc của ta, chưa chắc
người xuất gia đã bằng; đó là Ngã Mạn phiền não. Lúc niệm
Phật, bỗng sanh ý nghĩ: cõi Cực Lạc trang nghiêm dường ấy, mình
nghiệp dày phước mỏng, biết có được vãng sanh hay chăng? Đó là
Nghi phiền não. Ác kiến là sự thấy hiểu cố chấp xấu ác, gồm
năm điều Thân kiến, Bi? kiến, Tà kiến, Kiến Thủ kiến, và Giới
Thủ kiến. Như đang tu hành, chợt nghĩ: thể chất mình vẫn yếu, hôm
nay lại nghe mỏi nhọc, nếu niệm Phật thêm lâu nữa sợ e phải đau;
đó là Thân kiến. Hoặc nghĩ: chết rồi như đ? tắt, nếu có đời
trước sao mình không nhớ? Tốt hơn là nên tu tiên để được sống
lâu không chết. Đây là đoạn kiến và thường kiến trong Biên
kiến. Hoặc suy tưởng tại sao có người làm lành lại mạng yểu,
chết một cách dữ dằn; kẻ làm nhiều điều ác lại sống lâu,
chết rất tốt đẹp y? ổn? Vậy thì tu hành đâu có ích lợi chi!
Đây là lối chấp Tà kiến, không thấu suốt lý nhân quả ba đời.
Có kẻ lại nghĩ: trước kia mình tu theo cách luyện điển của giáo
phái khác, mới ít tháng liền có sự biến đổi; nay sao niệm Phật
đ?lâu mà không thấy chuyển động gì? Đây là Kiến Thủ kiến,
tức là chấp lấy sự nhận thức sai lầm của mình. Hoặc lại suy
nghĩ; bên đạo khác họ sát sanh vẫn cầu được về Thi? Đường;
mình cũng cầu sanh Cực Lạc, vậy cần chi phải giữ giới sát? Đây
là Giới Thủ kiến, tức sự chấp hiểu lầm lạc về giới pháp.
Hình thức của nghiệp si rất nhiều; nhưng người tu
Tịnh Độ cần nhứt là phải y theo kinh Phật, và đặt trọn vẹn đức
tin vào đó. Đối với đạo lý sâu xa, điều nào không biết thì
nên tìm hỏi nơi bậc thiện tri thức. Nghiệp si dễ khiến cho người
lạc mất chủ hướng khi bị các thuyết khác đả phá, mà môn Tịnh
Độ lại là pháp thâm diệu khó tin hiểu. Theo kinh luận, người niệm
Phật nên y theo ba lượng để củng cố lòng tin.
Lý Trí Lượng: là sự suy lường tìm hiểu của lý
trí. Chẳng hạn như suy nghĩ: Các thế giới đều do tâm tạo, đ?có
cõi người thuộc phân nửa nghiệp thiện ác, tất có tam đồ thuộc
nhiều nghiệp dữ, và các cõi trời thuộc nhiều nghiệp lành. Như
thế tất cũng có cõi Cực Lạc do nguyện lực thuần thiện của
Phật, và công đức lành của chư Bồ Tát cùng những bậc thượng
thiện nhơn.
Thánh Ngôn Lượng: là giá trị lời nói của Phật,
Bồ Tát trong các kinh luận. Đức Thế Tôn đ?dùng tịnh nhãn thấy
rõ y báo, chánh báo cõi Cực Lạc, và diễn tả cảnh giới ấy trong
các kinh Tịnh Độ. Các bậc đại Bồ Tát như Vãn Th? Phổ Hiền đều
ngợi khen c? Cực Lạc và khuyên nên cầu vãng sanh. Người Phật
tử nếu không lấy lời của Phật, Bồ Tát làm mực thước, thử
hỏi còn phải tin ai hơn?
Hiện Chứng Lượng: là lối tìm hiểu do sự thấy
biết hoặc chứng nghiệm hiện thật, để khởi lòng tin. Trong Tịnh Độ
Thánh Hiền Lục đ?chứng minh rất nhiều vị niệm Phật được v?g
sanh, và ở Việt Nam ta cũng có nhiều Phật tử tu Tịnh Độ được
về Cực Lạc. Chẳng những thế, mà hiện tiền khi tịnh niệm các vị
ấy cũng thấy cảnh Tịnh Độ hiện bày. Nếu không có cõi Cực Lạc,
và không có Phật A Di Đà tiếp dẫn, thì làm sao những vị ấy thấy
rõ và được kết quả v?g sanh?
Trên đây là ba lượng mà hành giả Tịnh Độ phải y
cứ để giữ vững lịng tin. Lại theo Ấn Quang pháp sư, người niệm
Phật không nên đem sự tu Tịnh Độ thỉnh giáo các vị thiện tri thức
b? Thiền Tông. Bởi lối đáp của những vị ấy đều đi về bổn
phận, tức là nói về lý tánh, mà Tịnh Độ thì thuộc về tướng
tông. Vì chỗ chủ trương khác nhau như thế, nếu kẻ sơ học chưa dung
thông tánh tướng, e không được lợi ích chi, mà còn tăng thêm
lòng nghi ngại phân vấn bất nhứt.
Tiết 41 Phải Diệt Niệm Buồn Chán
Có một chi tiết trong nhà đạo, nguyên nhân cũng chỉ
vì nghiệp si, mà nhiều người thường hay vướng mắc. Nhân tiện xin
nói rộng thêm để các hành giả được sự bền chí trên đường
tu niệm.
Người hoài bão tâm thương đời, hay kẻ có lòng lo
đạo, trên đường chí nguyện thường thường phải trải qua ba giai
đoạn. Giai đoạn thứ nhứt là tâm nhiệt thành sốt sắng. Giai đoạn
thứ hai là niệm buồn rầu chán nản. Giai đoạn thứ ba là lòng bi
trí tùy cơ. Nhưng thông thường, những vị hữu tâm ấy hay bỏ cuộc
và tiêu tán chí niệm ở đoạn hai, ít ai đi đến đoạn ba. Vượt
đoạn hai để đi đến đoạn ba là người có tâm bi trí rộng lớn,
như con thần long khi bay lên mây xanh, lúc ẩn nơi lòng biển cả. Nhà
Nho gọi điều này là: Ềdụng chi tắt hành, xả chi tắc tàng.Ể Đây
là ý nói: Ềbậc chân nho đời hữu đạo thì đem đạo lưu hành,
đời vô đạo lại lui về ở ẩn.Ể Như đức Khổng Tử khi đem
đạo thánh hiền truyền hóa, các vua thời Đông Châu không ai chấp
nhận, Ngài lui về viết sách dạy học trò, chí thương lo cứu đời
không khi nào bị thối giảm. Kẻ chưa thấu hiểu thời tiết cơ duyên,
chưa suốt được đạo lý này, thường hay chán buồn bi phẫn!
Trước tiên hãy thử nhìn xét tâm niệm ấy qua phương diện thế
gian.
Ta thấy có nhiều vị lúc tuổi trẻ khí huyết phương
cương, nhìn đời như hoa mộng, tâm nhiệt thành sốt sắng, quyết chí
xây dựng nếu không cho thiên hạ, thì ít nhứt cũng cho người xung
quanh hay cá nhơn mình được một cuộc đời tươi đẹp như lý
tưởng. Nhưng khi trải qua nỗi thãng trầm vinh nhục, rước lấy bao
cuộc thất bại chua cay, đi sâu vào đời thấy r?nhơn tình sơ bạc,
thì đâm ra chán nản. Lúc trước nhiệt thành hăng hái bao nhiêu,
bây giờ lại lạnh lùng dè dặt bấy nhiêu! Có người lại muốn
đóng cửa tránh duyên xa lánh tất cả. Tâm trạng này có thể
mượn mấy câu sau đây để diễn tả:
Lỡ làng nước đục bụi trong
Trãm nãm để một tấm lòng từ đây.
Hay:
Thôi thà đừng biết cho xong
Biết bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu!
Hoặc:
Chuyện đời thấy vậy thì hay vậy
Thà ẩn non cao chẳng biết nghe.
Nước đục bụi trong? Đây là chỉ cho người ngay
thẳng thành thật bị vu báng nghi ngờ, kẻ thủ đoạn khéo bề ngoài
lại được tin nghe quí trọng! Và còn biết bao sự đảo lộn khác
nữa! Có người lại bảo: thà làm kẻ ngu dốt mà còn được niềm
vui, hiểu biết chi nhiều để th? buồn lòng nhọc trí! Thi sĩ Tản Đà
đã nhìn xét đời bằng câu:
Giang hà nhật hạ nhơn giai trược
Thiên địa lô trung thực hữu tình?
Nước sông giang hà càng xuống lại càng đục, đời
càng mạt, đạo đức càng suy, trong trời đất ai là người có
chân tình? Chí sĩ Phan Bội Châu lúc tuổi trẻ, từng than thở:
Lương bằng hải khoát thiên trường hận
Sơn thủy vân thôn vụ thổ sầu!
Nước non đ?tối tãm bởi mây khói ngoại xâm, mà
trong vùng bể rộng trời xa lại không tìm thấy bóng người đồng
chí, tình cảnh thật đáng buồn! Nhưng đến lúc sắp tắt hơi, ông
cũng cịn buông ra mấy lời hận thương chán nản: ỀTrời xanh thánh
chúa hỡi ơi! Tiếc bấy trong tâm vùi Khổng, Mạnh! Non nước dân
tình dường ấy! Thà ra ngoài thế bạn Hy, Hoàng!Ể (Thiên hồ nhi!
Đế hồ nhi! Khả tích hung trung mai Khổng, Mạnh. Dân như thử! Quốc như
thử! Ninh ư thế ngoại tác Hy, Hoàng!) Đại khái đường tâm nguyện
của con người dễ bị nản buồn thối chuyển là thế! Và vì lẽ này
mà Khuất Nguyên bi phẫn đem thân tự trầm; Giới Tử Thôi giận
hờn cam chịu chết thiêu nơi rừng vắng.
Trong giới tu hành cũng thế. Câu: ỀHọc đạo thỉ cần
chung tắc đ?Ể, vô hình đã chỉ rõ sự tiên kiến xác đáng của
người xưa. Câu này ý nói: thông thường việc học đạo trước
siêng năng, sau hay sanh biếng trễ. Lắm người khi mới phát đạo
tâm, lịng tín thành sức dõng mãnh dường như Bồ Tát, nhưng lần
lần trong do nghiệp lực, ngoài bị cảnh duyên, ý khinh mạn bị biếng
trễ nổi lên, mỗi niệm đều là chúng sanh. Đại khái phần đông vì
chưa nhận thức rõ cuộc đời ngũ trược, nên khi chạm mặt với
sự thật, dễ bị thối tâm. Bởi thế nhiều tăng ni do thấy trong đạo
có những sự sai lầm, hoặc hàng thiện tín có những phiền não cố
chấp nặng, nên sanh niệm thối chuyển. Từ ý niệm đó họ hoàn
tục, hoặc tiêu tán chí nguyện độ tha, thích ở ẩn để tự tu,
không muốn gây duy? hoằng hóa. Và nhiều Phật tử tại gia bởi
thấy có những tăng ni hành không đúng pháp, rồi nản chí bỏ đạo
không muốn tiếp xúc với người xuất gia; hoặc sanh lịng ngã mạn,
bảo chỉ quy y Phật, Pháp, không quy y Tăng. Lại nhiều bà Phật tử khi
nghe phong thanh thầy mình có điều gì, chưa thấu đáo tình lý việc ấy
ra sao, đã vội bỏ ăn chay niệm Phật tụng kinh. Họ chưa nắm vững
lẽ đạo, không biết rằng tu cho mình chớ đâu phải tu cho thầy, bỏ
tu hành chỉ tự làm thiệt hại, nào có tổn thất đến ai?
Luận chung, những tâm niệm bi phẫn buồn chán như trên
đều sai lầm, thiếu lập trường vững chắc. Bởi dù đời hay đạo,
bậc chân chánh thiện lương tuy là ít, nhưng chẳng phải không
người. ỀMía sâu có đốt, nhà dột có nơiỂ, đừng lấy cớ một
phần tử lỗi lầm, mà cho rằng tất cả đều sai quấy. Lại: ỀNhơn
hư đạo bất hưỂ, d?tất cả người đều sai lạc, đạo vẫn là con
đường sáng suốt làm bước tiến tốt đẹp cho mình. Và, trước khi
phê bình người nên tự xét mình đã được hoàn hảo chưa, hay
sự thật còn kém hơn kẻ mình chỉ trích. Nên có lượng xót thương
xả thứ, đem lòng trách người trách mình, dùng tâm thứ dung mình
mà thứ dung cho người. Chớ lấy đá liệng kẻ lỗi lầm, khi chính
mình cũng còn nhiều lầm lỗi. Lại tiêu điểm trước tiên của
đường tu là lo cứu mình, tìm lối tự giải thoát. Nếu vì một
đối tượng nào bên ngoài mà bỏ luôn cả chính mình, có phải là
mê muội chăng? Cho nên người tu có sự nhìn thấu suốt, hằng lo
giữ đúng như bổn phận; tự sanh lịng trung thật, từ bi, xả thứ,
thẹn cho mình nghiệp chướng hãy nhiều, thương cho người còn ở
trong vòng chìm mê phiền não, luôn luôn nắm vững chí nguyện, gắng
tìm phương tự độ độ tha. ỀTừ bi hỷ xả là nhà, trí huệ,
phương tiện là cửaỂ, không vì chúng sanh nhiều phiền não, đường
tu nhiều trở ngại gian lao mà thối thất đạo tâm. Có sự nhận
thức như thế, là đã vượt qua nỗi chướng ngại nơi giai đoạn hai,
mà bước lên chỗ bình thản của giai đoạn ba vậy.
Tiết 42 Cách Đối Trị Tổng Quát
Nghiệp tham, sân, si biểu hiện dưới nhiều hình thức,
không thể tả xiết! Nơi đây chỉ nói tổng quát bốn điều cãn bản
để đối trị những nghiệp ấy:
Dùng tâm đối trị: - Người mê với bậc giác ngộ
chỉ có hai điểm sai biệt: tịnh là chư Phật, nhiễm là chúng sanh. Chư
Phật do thuận theo tịnh tâm nên giác ngộ, đủ thần thông trí huệ;
chúng sanh bởi tùy nơi trần nhiễm nên mê hoặc, bị sống chết luân
hồi. Tu Tịnh Độ là đi sâu vào Niệm Phật Tam Muội để giác ngộ
bản tâm, chứng lên Phật quả. Vậy trong niệm Phật, nếu thấy bất
cứ một niệm vọng động nào khác nổi lên, liền phải trừ ngay và
trở về tịnh tâm. Đây là cách dùng tâm để đối trị.
Dùng lý đối trị: - Nếu khi vọng niệm khởi lên,
dùng tâm ngăn trừ không nổi, phải chuyển sang giai đoạn hai là
dùng đến quán lý. Chẳng hạn như khi tâm tham nhiễm nổi lên, quán
lý: Bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã. Tâm giận hờn phát khởi,
quán lý: Từ bi hỷ xả, nhẫn nhục nhu hòa, các pháp đều không.
Dùng sự đối trị: - Những kẻ nghiệp nặng, dùng lý
đối trị không kham, tất phải dùng sự, nghĩa là dùng đến hình
thức. Thí dụ, người tánh dễ sân si, biết rõ nghiệp mình, khi phát
nóng bực sắp muốn tranh cãi, họ liền bỏ đi và uống từ từ một
ly nước lạnh để dằn cơn giận xuống. Hoặc như kẻ nặng nghiệp ái,
dùng lý trí ngăn không nổi, họ lựa cách gần bậc trưởng
thượng, làm Phật sự nhiều, hoặc đi xa để l?g quên lần tâm
nhớ thương. Câu: ỀDám xa xuôi mặt mà thưa thớt lòng!Ể thật ra
chính là Ềcàng xa xuôi mặt, càng thưa thớt lòng!Ể Bởi tâm
chúng sanh y theo cảnh, cảnh đã vắng tức tâm mất chỗ nương, lần
lần sẽ phai nhạt.
Dùng sám tụng đối trị: - Ngoài ba cách trên từ tế
đến thô, còn có phương pháp thứ tư là dùng sám hối trì tụng
để đối trị. Sự sám hối, niệm Phật, trì chú hoặc tụng kinh, mà
giữ cho đều đều, có nãng lực diệt tội nghiệp sanh phước huệ.
Vì thế thuở xưa có nhiều vị trước khi thọ giới hay sắp làm Phật
sự lớn, thường phát nguyện tụng mấy muôn biến Chú Đại Bi,
hoặc một tạng Kinh Kim Cang Bát Nhã. Bên Trung Hoa các cư sĩ khi hợp
lại Niệm Phật đường để kiết thất, nếu ai nghiệp nặng niệm Phật
không thanh tịnh, hay quán Phật không được r?ràng, vị pháp sư chủ
thất thường bảo phải lạy hương sám. Đây là cách đốt một cây
hương dài, rồi thành kính đảnh lễ hồng danh Phật sám hối, cho đến
khi nào cây hương tàn mới thôi. Có vị suốt trong thời kỳ kiết
thất bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày, toàn là lạy hương sám.
Bốn cách trên, hành giả tùy trường hợp mà đối
trị tổng quát ba nghiệp tham sân si. Nếu bền bỉ chí tâm, thì không
việc chi chẳng thành tựu.
---o0o---