Niệm Phật Phải
Dự Bị Lúc Lâm Chung
Khải đề:
Bên đường xe tang buồn đi qua
Chiều hôm mồ hoang sương trãng tà
Vô thường đời trần thương ôi mau!
Người đi rồi lần sang phiên ta.
Nghìn xưa xa vời trong mông lung
Tài hoa tan về nơi vô cùng!
Luân hồi không cầu đường si? thãng
Dù cho hiền minh sao anh hùng?
Hoàng hôn mây hồng in non xa
Dung hoa thầm khô theo suy già
Di Đà chuyên tu phòng lâm chung
Tương tư mơ về trời Liên Hoa.
Mục A. Những Dự Bị Cần Thiết Cho Lúc Lâm Chung
Tiết 67 Dự Bị Về Ngoại Duyên
Cổ thi nói: ỀTa thấy người khác chết. Trong lòng
nóng xót xa! Chẳng phải xót kẻ mất. Vì sẽ đến phiên ta!Ể Giữa
đời, việc buồn thảm lớn lao không chi hơn tử biệt. Nhưng sự
chết, người đời lại chẳng ai tránh khỏi. Cho n? những kẻ có
lòng muốn lợi mình lợi người, không thể không sớm dự bị lo
toan. Thật ra, chữ chết nguyên là giả danh, vì đó chẳng qua là sự
kết liễu của một thời quả báo, do nghiệp cảm liên chuyền giữa
mỗi đời, khi xả thân này, lại thọ thân khác mà thôi. Kẻ không
biết Phật pháp vẫn đành để cho tùy nghiệp xoay vần. Người đã
nghe pháp môn Tịnh Độ của Như Lai, phải tín nguyện niệm Phật dự bị
tư lương, để khi lâm chung được v?g sanh an thuận. Như thế mới mong
sớm thoát nỗi huyễn khổ của sống chết luân hồi, chứng vào cảnh
chân lạc của Niết Bàn thường trú. Lại người đã tu Tịnh Độ,
chẳng những chỉ lo riêng vì mình, mà đối với cha mẹ quyến thuộc
cùng những thân bằng quen biết, nên phát lòng hiếu thuận từ bi,
khuyên cho đồng niệm Phật, và trợ niệm cho khi bịnh nặng, lúc lâm
chung. Đó là công hạnh lợi tha, cũng là việc gây phước báo
duyên lành cho mình đời sau vậy.
Nhưng dự bị cho lúc lâm chung có nhiều chi tiết, nay
trước tiên xin nói về ngoại duyên. Người tu Tịnh Độ khi cịn khoẻ
mạnh, phải dự trước tìm kết những đồng bạn, nhứt là kẻ ở
gần mình, để trợ niệm cho nhau khi bịnh nặng và lúc lâm chung. Bởi
chúng ta phần nhiều nghiệp nặng, tuy đã gắng hết sức mình, song
những lúc ấy e khi túc chướng phát hiện, thân lực yếu kém, tâm
thức hôn mê, khó giữ vững được chánh niệm. Nếu không nhờ
người hộ trợ, tất dễ bị tùy nghiệp lưu chuyển, công tu một
đời chẳng cũng uổng lắm ư? Đây là điểm cần yếu thứ nhứt.
Điểm thứ hai là người niệm Phật khi thấy mình suy
yếu, nên đem hậu sự sắp đặt dặn dị trước, để khi lâm chung
khỏi bận tâm. Nếu là người xuất gia thì phải đem việc chùa chiền
phó chúc đệ tử, chỉ định kẻ thay thế mình điều hành Phật sự.
Như người tại gia thì đem tài sản ruộng vườn tương phân cho con
cháu, sắp đặt trước mọi duyên. Lại phải dặn trước người
quyến thuộc, khi mình đau nặng hoặc lâm chung, không được khóc lóc
hoặc lộ nét bi sầu. Nếu có thương thì nên bình tỉnh, vì mình niệm
Phật cầu nguyện, hoặc hộ trợ cho sự vãng sanh, đó mới là tình
thương chân thật.
Tiết 68 Dự Bị Về Tinh Thần
Về ngoại duyên như trên đã nói, người niệm Phật
lại còn phải dự bị về tinh thần cho chính mình. Cách dự bị ấy như
thế nào? - Trên đường tu, hành giả phải có tinh thần giải thoát,
xem từ tiền của ruộng vườn cho đến thân tình quyến thuộc đều
là duyên giả tạm, sống tùy cảnh huyễn, chết rũ sạch không. Nếu
chẳng hiểu lẽ này, tất nó sẽ ngăn trở sự giải thoát, có khi
phải đọa làm loài bàng sanh như chó hoặc rắn để giữ nhà giữ
cửa. Đã có nhiều người vì nắm níu tiền của hoặc thân nhơn, mà
khi sắp chết phải khó khãn, không y? tâm nhắm mắt được.
Hồi bút giả còn làm đạo hầu, trong lúc dâng trà
khuya, có nghe một vị Giáo thọ thuật lại câu chuyện, bao hàm ý nghĩa
giác tỉnh. Cốt truyện đại khái như sau:
Khi xưa có hai bạn đồng tu, một ông thích ở cảnh non
cao, một vị cất am dựa khu rừng bên bờ suối. Thời gian sau, tăng
sĩ ở cạnh suối tịch trước, vị sư trên núi hay được xuống viếng
thãm. Sau khi tụng kinh cầu nguyện, sư liền ngồi y? nhập định coi bạn
mình sanh về cõi nào? Nhưng tìm kiếm quan sát khắp các nơi, từ cõi
trời đến địa ngục, ông không thấy người bạn ở đâu cả. Xuất
định ra, sư hỏi thị giả của ông bạn: ỀHằng ngày thầy mi làm
những việc chi?Ể Đạo đồng đáp: ỀBạch, mấy lúc sau này vì thấy
bụi mía trước am mập tốt, thầy con thường ra vun phân tỉa lá, sãm
soi m?, ra chiều thích thú lắm!Ể Vị sư nghe nói nhập định lại, quán
thấy ông bạn hóa ra làm con sâu trong thân cây mía. Sư liền đốn
cây mía ấy, chẻ bắt lấy con sâu ra, thuyết pháp chú nguyện cho nó
si? thoát.
Câu chuyện trên chỉ là truyền khẩu, bút giả chưa tìm
thấy trong kinh sách. Nhưng cứ theo lý mà đoán, thì sự kiện ấy
vẫn chẳng phải hư huyền. Nơi điển tích nhà Phật cũng có mấy việc
tương tợ. Chẳng hạn như: -Chuyện ông sa di vì tham ăn sữa tô lạc,
nên khi chết đọa làm con vòi trong bình sữa. - Chuyện vị ưu bà tắc
tuy có công giữ giới tu hành, nhưng bởi quá quyến luyến vợ, nên
khi chết thần thức hóa sanh làm con vòi trong mũi vợ. Lúc cô vợ
thương khóc sì mũi con vòi văng ra, cô cả thẹn đưa chân muốn chà
đạp, may nhờ một vị A La Hán can ngãn, nói r?nguyên do, thuyết pháp
siêu độ cho con vòi ấy. - Chuyện vợ một khách thương đường
biển, bởi luyến tiếc nhan sắc xinh đẹp của mình, nên lúc chết
liền hóa thành con vòi từ trong mũi bò ra đi quanh trên mặt, như Kinh
Hiền Ngu đã nói. Cho nên người tu Tịnh Độ hằng ngày phải tỉnh
tâm quán xét, dứt trừ lòng tham gốc ái, quyết chí hướng về
cõi Phật, để khi lâm chung không bị sức nghiệp ngãn trở cuốn
lôi.
Từ Chiếu đại sư nói: ỀNgười tu Tịnh Độ khi lâm
chung thường có ba điều nghi, bốn cửa ải, hay làm chướng ngại cho
sự vãng sanh, phải dự bị suy nghĩ trước để phá trừ ba điều nghi
là:
Nghi mình túc nghiệp sâu nặng, thời gian công phu tu
hành ít, e không được vãng sanh.
Nghi mình bản nguyện chưa trả xong, tham sân si chưa dứt,
e không được vãng sanh.
Nghi mình niệm Phật, Phật không đến rước, e không
được v?g sanh.
Bốn cửa ải là:
Hoặc nhân bị bịnh khổ mà trở lại hủy báng Phật
không linh.
Hoặc nhân tham sống mà giết vật mạng cúng tế.
Hoặc nhân uống thuốc mà dùng rượu cùng chất máu
tanh hôi.
Hoặc nhân ái luyến mà tự ràng buộc với gia
đình.Ể
Đại sư n? ra thuyết Tam Nghi Tứ Quan ở trên, bậc trí
huệ có thể suy nghĩ tìm phương pháp giải quyết. Nay bút giả xin mạn
phép nói lược qua cách phá trừ để góp ý, và các bạn đồng tu
với sự hiểu biết của mình, có thể suy diễn hiểu rộng thêm ra.
Phá mối nghi túc nghiệp nặng, công tu ít: - Phật A Di
Đà từng có lời thệ nguyện: ỀChúng sanh nào chí tâm muốn về
Cực Lạc, niệm danh hiệu Ngài cho đến mười niệm, nếu không
được v?g sanh, Ngài thề không thành Phật.Ể Phật không khi nào
nói dối, vậy hành giả phải tin nơi đức Từ Tôn. Mười niệm là
thời gian công phu tu hành rất ít mà còn được vãng sanh, huống chi
ta niệm nhiều hơn số đó. Lại dù kẻ nghiệp nặng đến đâu, như
phạm trai phá giới, tạo đủ nghiệp ác, nếu chí tâm sám hối nương
về Phật A Di Đà, Ngài đều tiếp dẫn. Kinh Quán Vô Lượng Thọ đ?
chẳng nói kẻ tạo tội nặng ngũ nghịch thập ác, khi lâm chung chí
tâm niệm mười niệm đều được v?g sanh đó ư? Trong truyện V?g
Sanh, như Trương Thiện Hòa, Hùng Tuấn, Duy Cung, trọn đời giết trâu
bị, phá giới, làm ác, khi lâm chung tướng địa ngục hiện, sợ hãi
niệm Phật, liền thấy Phật đến rước. Cho đến loài chim sáo, két
niệm Phật, còn được vãng sanh, huống chi ta chưa phải là tệ đến
mức đó?
Phá mối nghi bản nguyện chưa trả, tham sân si chưa
dứt: - Bản nguyện của hành giả đại khái có hai: đạo và đời.
Về đạo, có người nguyện cất ch? bố thí hay nguyện tụng số kinh
chú bao nhiêu, làm chưa tròn đã đến giờ chết. Phải nghĩ rằng:
chỉ tín tâm niệm Phật, khi được v?g sanh sẽ làm vô lượng vô
biên công đức, còn bản nguyện chỉ là việc nhỏ, làm xong hay chưa
không mấy quan hệ, và chẳng có hại chi cả. Về đời, hoặc có
người vì nhiệm vụ gia đình chưa tròn, như cha mẹ suy già không ai
săn sóc, vợ con thơ dại thiếu chỗ tựa nương, hoặc có kẻ thiếu
nợ người chưa kịp trả, tâm nguyện chưa vẹn nên lòng chẳng yên.
Phải nghĩ rằng: lúc ta sắp chết, dù có lo hay không cũng chẳng làm
sao được. Chi bằng chuyên tâm niệm Phật, khi đã được vãng sanh
Tây Phương chứng đạo quả, thì tất cả bản nguyện trái duyên đều
có thể trả xong, tất cả kẻ oán người thân đều có thể cứu
độ.
Lại Kinh Na Tiên nói: ỀVí như hột cát nhẹ, bỏ xuống
nước liền chìm. Trái lại tảng đá d?nặng to, nếu được thuyền
chở, có thể đem từ chỗ này sang chỗ khác. Người niệm Phật
cũng thế, nghiệp tuy nhẹ nếu không được Phật cứu độ, tất bị
luân hồi, tội chướng d?nặng bao nhiêu, được Phật tiếp dẫn sẽ
sanh về Cực Lạc.Ể Theo đoạn kinh đây, ta thấy môn Niệm Phật là
pháp có thể đới nghiệp v?g sanh, vì nhờ tha lực. Tảng đá lớn
ví cho sức nghiệp nặng to, thuyền chở ví cho nguyện lực của Phật.
Vậy người tu đừng nghĩ rằng mình còn tham, sân, si, e không được
vãng sanh. Thí dụ trên có thể phá luôn điểm nghi về nghiệp nặng
ở điều thứ nhứt.
Phá mối nghi niệm Phật, e Phật không đến rước: -
Người niệm Phật t? theo công đức mình, khi lâm chung thấy Phật,
hoặc Bồ Tát, hay Thánh chúng đến rước. Có khi không thấy chi, mà
nhờ sức nguyện của mình và Phật lực thầm nhiếp thọ, thần thức
tự bay về Tây Phương. Đây là bởi công hạnh của mình có cao
thấp, sâu cạn. Chỉ cần yếu lúc ấy ta phải chí tâm niệm Phật,
đừng nghĩ chi sai khác. Nếu nghi ngờ sẽ tự sanh ra chướng ngại.
Tóm lại, khi lâm chung d?thấy tướng tốt hay không cũng đừng quản
đến, chỉ hết lịng niệm Phật cho đến giây phút cuối c?g mà thôi.
Phá chung bốn cửa ải: - nhân bịnh khổ hủy báng Phật
- tham sống sát sanh cúng tế - cầu lành bịnh uống ruợu, hoặc dùng
thuốc có chất huyết tanh - vì ái luyến nên tâm niệm ràng buộc
với gia đình.
Người niệm Phật mà bị tai nạn bịnh khổ, đó là do
nhờ công đức tu hành, nên chuyển quả nặng thành quả nhẹ, chuyển
hậu báo thành hiện báo, trả cho hết để được sanh về Tây
Phương. Nếu trở lại nghi ngờ hủy báng, là người kém tin hiểu,
phụ ơn Phật, tự gây tội chướng cho mình. Trong sự tích Tịnh Độ
có thuật chuyện ông Ngô Mao cùng rất nhiều Phật tử khác, nhờ
dồn nghiệp mà sớm được vãng sanh. Vậy khi gặp cảnh này, người
niệm Phật nên ý thức để hiểu rõ.
Lại thân này giả tạm, tùy theo tội nghiệp mà kiếp
sống có vui khổ lâu mau. Nếu giết sanh mạng để nuôi dưỡng sanh
mạng, hoặc cúng tế, thì tội khổ càng thêm nặng, phải triệt để
nương theo Phật và tin chắc lý nhân quả.
Khi đau yếu chỉ cầu Phật, không n? cầu phù phép tà
sư, hoặc nghe lời kẻ chưa hiểu đạo, trở lại ãn mặn, uống
rượu, hay d?g thuốc bằng chất máu huyết tanh hôi. Thân này nhơ
nhớp, được về cõi Phật sớm chừng nào hay chừng ấy, như bỏ
chiếc áo hôi rách mặc sắc phục đẹp thơm, đáng chi phải bận lịng?
Đến như mối hại về ái luyến khi lâm chung, thì như
đoạn tr? đ?nói. Phải nghĩ: trong gia đình từ cha mẹ, anh em, vợ
chồng, con cái, đều do đời trước có nợ nần ân oán, nên mới
tạm hội ngộ nhau. Khi nhân duyên đã hết thì mỗi người đi mỗi
ngả. Nếu có lòng thương, tốt hơn ta nên gát bỏ tình trần cầu sanh
Tây Phương, để độ tất cả kẻ oan thân. Khi cái chết sắp đến, d?
có quyến luyến cũng không thể đem theo, không làm chi được, bởi
chính sắc thân của ta còn phải tan về cát bụi. Nếu ái luyến thì
đã không được vãng sanh, lại bị khổ luân hồi vô cùng vô tận.
Những điểm về Tam Nghi Tứ Quan tr? đây, hành giả
phải suy nghiệm ghi nhớ kỹ, để dự bị trước cho tinh thần được
y? ổn trong lúc lâm chung.
Mục B. Sự Khẩn Yếu Lúc Lâm Chung
Tiết 69 Thỉnh Bậc Tri Thức Khai Thị
Người tu Tịnh Độ, khi bịnh chưa nặng cũng n? uống
thuốc, nhưng vẫn tinh tấn niệm Phật, chớ tưởng nghĩ rằng: uống
thuốc rồi sẽ lành bịnh. Lúc bịnh đ?nặng, có thể không cần dùng
thuốc. Hoằng Nhứt đại sư khi đau nặng, có kẻ thưa để xin rước
thầy hốt thuốc. Ngài liền từ tạ và nói kệ rằng:
Đức Phật A Di Đà.
Là vô thượng y vương.
Nếu bỏ đây không cầu
Ấy là kẻ si cuồng!
Một câu hồng danh Phật.
Là thuốc diệu Dà Đà.
Nếu bỏ đây không uống.
Thật lầm to lắm mà!
Rồi Ngài chỉ chuyên tâm niệm Phật. Quả nhiên bịnh
cũng lần lần thuyên giảm.
Nên nhớ khi bịnh đã nặng, hành giả phải buông bỏ
tất cả mọi việc xung quanh, cho đến chính thân tâm của mình, chỉ
chuyên nhứt niệm Phật, một lòng mong cầu vãng sanh Tây Phương. Làm
như thế, nếu thọ mạng đã hết, quyết được vãng sanh. Như thọ
mạng chưa dứt, tuy cầu vãng sanh mà trở lại mau lành bịnh, do vì
lòng mình chuyên thành, nên có thể diệt trừ nghiệp ác đời
trước. Trái lại, nếu chẳng buông bỏ mọi duy? nhứt tâm niệm
Phật, như thọ mạng đ?hết quyết không được v?g sanh, vì mình chỉ
chuyên cầu lành bịnh chớ không cầu vãng sanh, nên không do đâu
được về Cực Lạc. Nếu thọ mạng chưa dứt, chẳng những không
được mau thuyên giảm, mà bịnh lại tăng thêm, vì mình nhân cầu
lành bịnh, vọng sanh lòng buồn lo sợ hãi.
Có nhiều người tu Tịnh Độ, trong lúc đau nặng, thân
nhơn vì kém hiểu đạo, chẳng lo khuyến tấn sự niệm Phật, trở lại
không tiếc tiền rước nhiều đông, tây y hoặc thầy phù thủy, đến
cầu điều trị hoặc cúng tế cho mau lành bịnh. Làm như thế, khiến cho
người bịnh đã không được sự trợ niệm, lại bị rộn ràng phân
tâm, nên không được vãng sanh. Đó là lấy tiền mua hiếu hoặc mua
danh, để cho người ngoài thấy mình là kẻ ân hậu, tận tâm lo
lắng. Họ đâu hiểu rằng, có lịng hay không Phật Thánh đều chứng
biết, chớ nào phải hình thức bên ngoài! Hành động ấy khiến cho
người sáng suốt chỉ mỉm cười thương xót!
Lúc bịnh nhơn đau nhiều, như thần thức cịn thanh tỉnh,
người nhà nên thỉnh bậc tri thức đến thuyết pháp khai ngộ cho.
Nếu không có bậc tri thức, n? mời một vị đồng tu đến an ủi khai
thị. Vị này nên khuyên nhắc thân nhơn kẻ bịnh, dùng lòng từ bi cố
chủ trương điều hành cho mọi việc hợp với đạo, để cho người
sắp m? phần được sự lợi ích vãng sanh. Đại khái vị khai thị
nên y theo mấy chi tiết sau đây:
Nói cảnh khổ Ta Bà, cảnh vui Cực Lạc, nhắc cho bịnh
nhơn phát lòng hâm mộ. Lại nên đem việc lành, công tu của bịnh
nhơn kể rõ ra và khen ngợi, khiến cho người bịnh sanh lòng vui mừng
không còn nghi ngại, tự biết khi mình chết sẽ nương nơi nghiệp lành
ấy sanh về Tây Phương.
Nếu bịnh nhơn có điều nghi ngờ gì, nên tùy cơ giải
thích như thuyết Tam Nghi Tứ Quan ở đoạn trên đã nói. Trong đây
điểm cần yếu là khuyên phải dứt trừ tâm tham tiếc tài sản và
niệm ái luyến gia đình.
Nếu người sắp chết có di chúc trước thì thôi,
bằng không, vị khai đạo phải can ngãn, khuy? thân nhơn không nên
hỏi han về di chúc. Lại cũng khuyên đừng nói chuyện tạp vô ích
khiến cho bịnh nhơn động tâm niệm tình ái, quyến luyến thế gian, có
ngại cho sự vãng sanh.
Khi có bà con hay thân hữu của kẻ bịnh đến thãm n?
ngãn không cho đến trước bịnh nhơn tỏ vẻ buồn thảm hỏi han. Nếu
đ?vì cảm tình đến viếng thãm, chỉ n? đứng gần b? chắp tay
niệm Phật ra tiếng một hồi, đó mới thật là có lòng thương mến.
Như kém hiểu biết chỉ dùng theo tục tình, đó chính là xô người
xuống biển khổ, tình tuy đáng cảm, mà sự lại di hại đáng thương.
Nên khuyên bịnh nhơn đem những y phục vật dụng của
mình thí cho kẻ khác. Hoặc y theo phẩm Như Lai Tán Thán trong Kinh Địa
Tạng, đem vật liệu ấy cúng dường kinh tượng lại càng hay. Điều
này cũng giúp cho người bịnh thêm phước tiêu tội, được dễ
dàng trong sự vãng sanh.
Những điều đại khái như tr?, vị khai thị phải lưu
ý. Ngoài ra có thể tùy cơ ứng biến, ở đây không thể nói hết
được.
Tiết 70 Cách Thức Trợ Niệm
Người bịnh từ khi đau nặng cho đến lúc sắp tắt
hơi, thân nhơn quyến thuộc phải bình tỉnh đừng khóc lóc. Có kẻ tuy
không khóc nhưng lại lộ nét bi thương sầu thảm, đó cũng là điều
không nên. Bởi lúc bấy giờ, bịnh nhơn đã đi đến ngả rẽ phân
chia giữa quỉ, người, phàm, Thánh, sự khẩn yếu nguy hiểm khác
thường, như ngàn cân treo dưới sợi tóc. Khi ấy duy nhứt tâm
trợ niệm Phật hiệu là điều thiết yếu. Người dù có chí nguyện
vãng sanh, mà bị quyến thuộc thương khóc làm cho khơi động niệm tình
ái, tất phải bị đọa lạc luân hồi, công tu cũng đành luống uổng!
Lại khi bịnh nhơn gần qua đời, tự họ muốn tắm gội,
thay y phục hay đổi chỗ nằm, thì có thể thuận theo, song phải nhẹ
nhàng cẩn thận mà làm. Như họ không chịu, hoặc á khẩu không nói
được, rất không n? miễn cưỡng mà làm. Bởi người sắp chết
thân thể thường đau nhức, nếu ép di động, đổi chỗ nằm hoặc
tắm rửa, thay y phục, thì bịnh nhơn càng đau đớn th?. Nhiều người
tu hành phát nguyện cầu về Cực Lạc, nhưng khi lâm chung vì bị quyến
thuộc di động nhiễu loạn, phá hoại chánh niệm, nên không được
vãng sanh, việc này xảy ra rất thường. Hoặc kẻ mạng chung có thể
sanh về cõi lành, nhưng bị người khác không biết, xúc chạm thân
thể, sửa đổi tay chân làm cho đau đớn, n? sanh lòng giận tức. Do
một niệm đó, liền đọa vào đường ác, làm rồng, rắn, cọp, beo,
hoặc các loài độc khác. Như vua A Xà Thế tu nhiều phước lành, khi
lâm chung bị người hầu cận ngủ gục làm rớt cây quạt trên mặt,
nên giận chết đọa làm rắn mãng xà. Gương này không nên răn
sợ ư!
Người bịnh khi lâm chung hoặc ngồi, hoặc nằm, đều
t? tiện, chớ nên gắng gượng. Nếu cảm thấy suy nhược chỉ có
thể nằm, mà muốn xem cho ra vẻ, gắng gượng ngồi dậy, là điều nguy
hại không nên. Hoặc theo lẽ, phải nằm nghiêng bên mặt hướng về
tây, nhưng vì thân thể đau nhức phải nằm ngửa, hay nằm nghiêng
bên trái hướng về đông, cũng cứ để tự nhi? chớ nên gắng
gượng. Đây là chính bịnh nhơn phải hiểu như thế mà tự xử sự.
Còn người thân thuộc cũng phải hiểu lẽ này, chẳng nên cầu danh,
bắt người bịnh nằm nghiêng bên mặt hướng về tây, hay đỡ dậy,
mặt áo tràng sửa ngồi kiết dà. Đâu biết rằng chỉ vì cầu chút
hư danh, mà khiến cho người chết phải đọa tam đồ, chịu vô lượng
sự khổ!
Lúc bịnh nhơn sắp mãn phần, sự trợ niệm là điều
rất cần thiết. Bởi khi ấy, người bịnh từ tinh thần đến thể
chất đều yếu kém m?mờ, khó bề tự chủ. Đừng nói kẻ bình
nhựt chưa tu không giữ nỗi câu niệm Phật được lâu bền; mà
người bình nhựt lấy câu niệm Phật làm thường khóa, nếu không
nhờ sức trợ niệm cũng khó mong đắc lực. Cách thức trợ niệm
phải y theo những điều kiện như ở dưới đây:
Thỉnh tượng Phật Di Đà tiếp dẫn để trước bịnh
nhơn khiến cho họ trông thấy. Cắm một bình hoa tươi và đốt lò
hương nhẹ, khói thơm vừa thoảng để dẫn khởi chánh niệm cho bịnh
nhơn. Nên nhớ khói chỉ nhẹ thôi, đừng để nhiều vì e ngột ngạt
khó thở.
Người trợ niệm tùy theo nhiều ít nên luân phiên
mà niệm. Ít thì mỗi lần một hoặc hai người, chia thành ba phiên.
Nhiều thì mỗi phiên có thể độ sáu hay tám người. Nên nhớ lúc
ấy bịnh nhơn sức yếu rất cần thanh khí, nếu để cho người ta vào
đông, hoặc kẻ trợ niệm quá nhiều, tất làm cho người bịnh ngột
ngạt xao động, có hại hơn là có lợi. Lại, các phiên phải canh
theo đồng hồ mà im lặng luân chuyển nhau, để cho câu niệm Phật
tiếp tục không gián đoạn, đừng k? gọi. Mỗi phiên niệm lâu
ước độ một giờ.
Theo ngài Ấn Quang, nên niệm bốn chữ để cho bịnh nhơn
dễ thâu nhận trong khi tinh thần thể chất quá suy yếu. Nhưng ý kiến
của Hoằng Nhứt đại sư, thì muốn niệm bốn chữ hay sáu chữ, tốt
hơn nên hỏi bịnh nhơn, để thuận với tập quán ưa thích thuở bình
nhựt của người bịnh, khiến cho họ có thể niệm thầm theo. Nếu
trái với tập quán ưa thích, tức là phá hoại chánh niệm của
người bịnh, tất mình cũng có tội. Lại cách trợ niệm, không nên
niệm to tiếng quá, vì mình sẽ tổn hơi khó bền; không nên niệm nhỏ
quá, vì e người bịnh tinh thần lờ lạc khó thâu nhận. Cũng chẳng
nên niệm quá mau, bởi làm cho bịnh nhơn đã không nghe nhận được
rõ ràng, lại không thể theo kịp; chẳng nên niệm quá chậm, bởi có
lỗi tiếng niệm rời rạc khiến người bịnh khó liên tục nhiếp
tâm. Đại khái tiếng niệm phải không cao không thấp, chẳng chậm
chẳng mau, mỗi chữ mỗi câu đều rành rẽ rõ ràng, khiến cho câu
niệm trải qua tai đi sâu vào tâm thức của người bịnh, như thế
mới đắc lực. Lại có điều n? chú ý, khi bịnh nhơn tâm thức
quá hôn trầm, niệm ở ngoài tất họ nghe không rõ. Trong trường
hợp ấy, phải kê miệng sát vào tai họ mà niệm, mới có thể
khiến cho người bịnh được minh tâm.
Về pháp khí để d?g trong khi trợ niệm, thông
thường nên đánh khánh. Bởi tiếng mõ âm thanh đục, không bằng
tiếng khánh trong trẻo, dễ khiến cho bịnh nhơn tâm thần thanh tỉnh.
Nhưng vấn đề đó cũng t?, vì theo kinh nghiệm riêng, Hoằng Nhứt
đại sư đ?dạy: ỀNhững kẻ suy yếu thần kinh, rất sợ nghe tiếng
khánh và mõ nhỏ. Bởi âm thanh của mấy thứ này chát chúa đinh
tai, kích thích thần kinh khiến cho người bịnh tâm thần không an. Theo
thiển ý, chỉ nên niệm suông là thỏa đáng hơn hết. Hoặc nếu có,
thì chỉ nên đánh thứ chuông mõ lớn. Những món này âm thanh
hùng tráng, khiến cho người bịnh sanh niệm nghiêm kính, thật hơn
đánh khánh và mõ nhỏ nhiều. Thứ mõ âm thanh đục cũng không
nên đánh, vì làm cho bịnh nhơn tâm thần hôn trược. Tuy nhiên, sở
thích của mỗi người không đồng, tốt hơn là nên hỏi trước bịnh
nhơn. Nếu có chỗ nào không hợp, phải tùy cơ cải biến, chớ nên
cố chấp.Ể
Trên đây là mấy điểm nên lưu ý về cách thức
trợ niệm.
Mục C. Điều Khẩn Yếu Sau Khi M? Phần
Tiết 71 Khi Tắt Hơi Cho Đến Lúc Truy Tiến
Người mới tắt hơi, điều thiết yếu là không nên
vội di động. Hoặc kẻ chết thân mình dính chất dơ cũng không nên
gấp lau rửa, phải đợi qua tám tiếng đồng hồ, hay ít nhứt cũng ba
giờ, mới được tắm rửa thay đổi y phục. Trước và sau khi chết,
người thân không được khóc lóc. Bởi khóc là vô ích mà lại
có hại, vì làm cho kẻ mạng chung sanh niệm quyến luyến, không được
giải thoát. Chỉ n? gắng sức niệm Phật mới thật có ích cho vong
nhơn. Nếu muốn khóc lóc, phải đợi tám giờ sau. Tại sao thế? Vì
bịnh nhơn tuy tắt hơi nhưng thức A Lại Da còn chưa đi. Nếu khi ấy lay
động, tắm rửa thay y phục, hoặc kêu khóc, họ vẫn còn cảm giác
đau đớn hoặc sanh buồn giận bi thương mà phải sa đọa. Điều này
rất quan hệ, rất cần yếu, nên để ý ghi nhớ kỹ.
Thuyết thãm dị hơi nóng để nghiệm xem sanh về đâu,
tuy có chứng cớ, song cũng không n? câu chấp. Nếu bịnh nhơn bình
thời tín nguyện chân thiết, khi lâm chung chánh niệm rõ ràng, có
thể chứng nghiệm là vãng sanh. Nhiều người không kỹ, cứ mãi
thăm dò, rờ chỗ này chỗ kia, làm động niệm kẻ mạng chung, cũng
có hại rất lớn.
Sau khi bịnh nhơn tắt hơi, người trợ niệm vẫn phải
tiếp tục niệm Phật cho đến ba giờ đồng hồ sau, để cho sự v?g
sanh được bảo đảm. Trợ niệm xong, liền đóng cửa phịng lại canh
chừng cho kỹ, kẻo loài mèo chó hoặc kẻ không am hiểu đổ xô vào
xúc chạm, đợi mãn tám giờ sẽ tắm rửa thay đổi y phục. Nếu
luôn trong tám giờ, có người ở gần bên niệm Phật, là điều
rất tốt. Ngoài ra cấm tuyệt không nên làm điều chi khác. Xin nhắc
lại trong khoảng thời gian này, người chết vẫn còn cảm giác.
Sau tám giờ nếu tay chân người chết đ?cứng không
thể chuyển động, n? dùng vải thấm nước nóng đắp bao quanh khớp
xương. Làm như thế giây lâu, có thể sửa tay chân co duỗi như
thường.
Trong đám tang của người quá cố, thân nhơn n? làm
đơn giản, đừng quá rườm rà mà tốn vô ích. Điều cần thiết
là phải nên dùng đồ chay, chớ có sát sanh để đ? đằng cúng
tế. Bất đắc dĩ cần có chút ít đồ mặn, thì nên mua thịt cá
chết, hoặc người ta đã làm sẵn bán ngoài chợ. Nếu sát sanh để
cúng tế đ? đằng, tất người m? phần bị oan đối không được
giải thoát. D?kẻ mạng chung đ?được v?g sanh, phẩm sen cũng vì
đó mà bị giảm thấp.
Trong thời gian trước, bút giả cùng chư tăng có đi
tụng kinh si? độ cho bà kế mẫu người bạn là thượng tọa Bảo
Huệ ở xã Tân Hội tỉnh Long An. Nơi đám tang, bút giả thấy dùng
toàn đồ chay, có khen ngợi và hỏi thăm, thì thượng tọa đáp:
ỀSự cúng đ? đồ chay thật ra có do tôi khuyến hóa, nhưng phần
lớn cũng nhờ động lực bởi một chuyện đ?xảy ra ở xóm trên.
Nguyên trên ấy có một nhà khá giàu, gia chủ mãn phần, người con
cho giết nhiều bò heo gà vịt để tiếp đ? họ hàng thân thuộc và
kẻ quen biết gần xa, suốt cả mấy ngày. Lúc sanh tiền gia chủ là
người hiền lành phúc hậu thường ăn chay tụng niệm, lại có giao
du rộng. Sau đám tang ấy, vào buổi chiều hồn ông nhập vào đứa
cháu nội, mặt đỏ rần nhảy l? ván ngồi vỗ bàn kêu gọi ngay tên
đứa con lại, và quát bảo: ỀMột đời tao tu hành làm phước,
không tội lỗi chi nặng, đáng lẽ được sanh đến chỗ giàu sang. Nay
bị mày sát sanh quá nhiều để cúng đ?, nên tao bị oan đối không
được giải thoát. Hiện thời tao bị quản thúc phạt vạ, phải chãn
giữ một bầy bò heo gà vịt, chạy trong bùn lầy gai gốc, thật khổ
sở vô cùng!Ể Thuật xong câu chuyện, thượng tọa cười bảo:
ỀChính nhờ việc đó đồn vang ai cũng đều biết, lại mới xảy ra
cách đây ít tháng, người nhà đ?tin tưởng kinh sợ, nên tôi
mới vừa đề nghị là được chấp thuận liền.Ể Việc sát sanh đ?
đằng cúng tế trong đám tang, Kinh Địa Tạng cũng đ?có nói rõ sự
nguy hại, vậy hàng Phật tử nên để tâm ghi nhớ.
Khi làm Phật sự truy tiễn cho người quá vãng, thân
nhơn nên đem công đức ấy hồi hướng khắp chúng sanh trong pháp
giới. Như thế, công đức sẽ càng thêm lớn, mà sự phước lợi
của vong nhơn cũng nhân đó được tãng th? nhiều.
Những điểm dự bị về lúc lâm chung tr? đây, phần
lớn bút giả rút lấy ý kiến của các bậc danh đức như ngài Ấn
Quang và Hoằng Nhứt đại sư mà dung hội lại. Bởi buổi lâm chung
chính là lúc quan yếu nhứt trong cuộc đời người. Nếu trước chưa
dự bị tư lương vãng sanh cho đầy đủ, đến chừng ấy khó khỏi kinh
hoàng bối rối, kêu cầu không kịp, nghiệp ác trong nhiều kiếp đồng
thời hiện ra, làm sao giải thoát?
Cho nên khi lâm chung tuy nhờ người y theo phương pháp
mà trợ niệm, nhưng chính mình lúc bình nhựt phải cố gắng tu trì
chừng ấy mới được tự tại.
Xin các bạn tu tịnh nghiệp sớm lưu tâm dự bị, để
đồng được dự phẩm sen nơi hải hội Li? Trì.
Tiết 72 Những Gương Đắc Thất Về Sự Trợ Niệm
Sự tích cư sĩ Lưu Cảnh Liệt
Cư sĩ Lưu Cảnh Liệt, người tỉnh Giang Tây ở Trung Hoa,
buổi thiếu thời có sang lưu học Nhựt Bản. Sau khi quang phục, ông
từng làm nghị viên ở quốc hội và ty trưởng nhiệm chức phương
ty. Anh của cư sĩ là Cảnh Hy, vốn hàng quan thân, từ lâu đã mến
chuộng Phật học, nên đối với cửa đạo, cư sĩ cũng khẳng khái
hộ trì. Ông đ?làm nhiều điều công đức, như việc tr?g tu ngôi
Thọ Lượng cổ sát, xuất tư sản mua chuộc ruộng hương hỏa cho chùa,
lại thỉnh Đại Xuân hòa thượng về trụ trì. Khi Đức Sum pháp sư
đề xướng việc đúc pho tượng Quán Âm Đại Sĩ bằng đồng, cao hai
mươi tám thước, cư sĩ cũng bôn tẩu góp quy? cho đến khi hoàn
thành Phật sự.
Nãm Dân Quốc 22, Cảnh Liệt nhân t?nạn chiến tranh
đến Tô Châu, quy y với Ấn Quang đại sư, được pháp danh là Đức
Thành. Từ đó ông giữ lục trai và chuyên tu tịnh nghiệp. Khi chưa
vào đạo, Cảnh Liệt thích đánh cá lưới chim, tạo nghiệp sát cũng
nhiều. Do nhân ác đó về sau cư sĩ mang chứng ghẻ Đối Khẩu Sang
rất nguy kịch, ngày đêm đau nhức rên la. Trong cảnh khổ, ông phát
nguyện dứt trừ nghiệp ác, chuyên niệm danh hiệu đức Quán Thế
Âm bỗng nghe mùi hương lạ bay ngào ngạt, bịnh lần lần thuyên giảm.
Đến nãm Dân Quốc 25, cư sĩ mới trở lại qu?hương.
Tuy lòng tin đ?phát, nhưng vì việc đời việc đạo bận rộn quá
nhiều, n? về phần thật hành, ông chưa được chuyên thuần, mỗi
ngày chỉ tùy duyên niệm Phật chút ít mà thôi. Sang năm Dân Quốc
27, do nghiệp sát đời này và đời trước, cư sĩ lại phát sanh
bịnh nặng. Lâu ngày triền miên trong cơn bịnh khổ, ông khó kham nhẫn,
liền bảo con là Lưu Phát Trang xuất tiền gởi Đức Sum pháp sư nhờ
cúng dường ngài Ấn Quang và làm các việc công đức để cầu mau
ti? tội. Pháp sư viết thơ trả lời khuyên cư sĩ nên trường trai,
nhưng dây dưa mãi đến cuối nãm ông mới thật hành được.
Qua nãm Dân Quốc 28 bịnh thế của cư sĩ càng thêm
nặng. Vợ con ông đều là đệ tử quy y của ngài Ấn Quang, đã
biết sự khẩn yếu lúc lâm chung, vội thỉnh chư tăng ở chùa Thọ
Lượng đến trợ niệm. Ngày mười chín tháng giêng nãm ấy, cư sĩ
biết mình sẽ từ trần, bảo người nhà đem ghế đỡ ra trước sân
ngồi để thay đổi thanh khí. Sau khi gọi anh em dặn dị hậu sự và bảo
con là Phát Trang quì nghe di chúc xong, thần sắc ông bỗng đổi khác.
Vợ con thấy thế liền đỡ vào nhà, đem tượng Di Đà tiếp dẫn
đến để trước mặt cư sĩ, rồi c?g chư tãng lớn tiếng trợ niệm
danh hiệu Phật. Đ?vài tháng cư sĩ bị bịnh xuội hết một cánh tay
trái, nhưng khi thấy tượng Phật, ông bỗng hoạt động được như
thường, hai tay chắp lại, miệng niệm Phật, mặt lộ vẻ hớn hở vui
mừng. Lúc đó, dường như ông không cịn cảm thấy thống khổ, tùy
theo mọi người niệm Phật giây lâu, rồi an lành thoát hóa.
Cư sĩ vãng sanh vào lúc được sáu mươi mốt tuổi.
Mấy tháng ông bị bịnh khổ là do nghiệp sát sanh chuyển thành khinh
báo trong hiện tại. Đến khi lâm chung nhờ sức trợ niệm n? hiện
ra điềm tốt, có thể gọi là: các cãn vui đẹp, chánh niệm phân
minh, xả báo an lành, như vào thiền định. Như thế sự vãng sanh Tây
Phương đã chắc không còn nghi ngờ nữa. Lúc tang tế đãi khách,
cả nhà tuân theo lời ngài Ấn Quang, dùng toàn đồ chay, ai nấy đều
khen ngợi.
Sự việc cư sĩ được v?g sanh, tuy do cãn lành đ?
thành thục, mà cũng nhờ sức trợ niệm lúc lâm chung. Vậy đối
với điểm khẩn yếu rốt sau, chư li? hữu cần để tâm chú ý.
Sự tích nữ cư sĩ Đức Hoằng
Nữ cư sĩ Đức Hoằng, là vợ của một người họ
Lý ở Dương Châu. Nhân vì chồng có vợ bé mà mình lại không sanh
dục, cô khó nỗi yên thân nơi nhà, nên đến nương ngụ với kế
mẫu là nữ cư sĩ Đinh Đức Nguy?. Bà Đức Nguyên cũng thương cô
như con đẻ, đôi b? nương nhau tình thân thiết hai mươi năm như một
ngày.
Đức Hoằng cư sĩ trường trai tu tịnh nghiệp, hôm sớm
rất chuy? cần. Cô và kế mẫu vì nghĩ duyên đời phước bạc,
quyến thuộc đi? linh, nên nương tựa nhau cùng làm bạn pháp trên
đường đạo. Luận về sự tín hướng và công hạnh tu trì lúc bình
nhựt, thì mỗi mỗi cô đều vượt xa hơn Lưu Cảnh Liệt cư sĩ. Chỉ
tiếc vì túc nghiệp cuốn lôi, nhân duyên khiếm khuyết, nên cô hằng
gặp cảnh chướng nạn không mấy lúc được yên thân.
Nãm Dân Quốc 27, nhân thấy miền Vũ Hán sắp chìm
trong cuộc chiến, hai mẹ con liền từ Hương Cảng đến thị xã Hộ tạm
lánh nạn. Bấy giờ vì vật giá lên cao, mướn nhà rất khó, mà
ở lâu nơi khách sạn tổn phí nhiều lại càng bất tiện. Duyên may
nhờ Diệu Chân hòa thượng xót thương, mở một gian tịnh thất nơi
chùa Thái Bình để cho mẹ con cô và ba người Phật tử tản cư
nữa cùng ở.
Nãm Dân Quốc 28, vào khoảng tháng ba, Đức Hoằng cư
sĩ bỗng cảm chứng thương hàn. Dây dưa qua đến tháng tư, thuốc thang
đều vô hiệu. Bịnh thế mỗi ngày càng thêm nặng. Lúc ấy trong chùa
Phật sự nhiều, phòng xá lại ít, nếu để chết tại đó thấy có
điều bất tiện, n? bất đắc dĩ bà kế mẫu phải đưa cô vào y
viện. Chương trình nơi đây đều theo cách thức Tây Phương, muốn
được tự do trợ niệm trong lúc lâm chung, thật khó toàn vẹn.
Đức Hoằng cư sĩ vào y viện được hai ba ngày, người biết Phật
pháp không thể tới lui hộ trợ, nên buổi sáng ngày mười tám
tháng tư, cô mãn phần một cách hồ đồ trong y viện. Lúc ấy nữ
cư sĩ được nãm mươi mốt tuổi.
Như Đức Hoằng cư sĩ xác thực là người có tín
tâm tu trì. Nếu khi lâm chung được sự trợ niệm đúng pháp, tất
điềm lành tướng tốt vãng sanh không ở sau Lưu cư sĩ. Cũng bởi
cơ duyên trở ngại, nên đời này cô không thọ dụng được công
hạnh tu niệm lúc bình thời, chỉ gây nhân đắc độ về sau mà thôi.
Việc xảy ra thật đáng tiếc cho cô, song cũng cho ta thấy sự trợ
niệm lúc lâm chung quả là trọng yếu.
Sự tích cư sĩ Dương Liên Hàng
Cư sĩ Dương Liên Hàng, người thời Trung Hoa Dân
Quốc, quê ở huyện Dư Diêu tỉnh Triết Giang. Ông nhà nghèo từ nhỏ
theo nghề buôn bán, tánh lịch thiệp quán xuyến hơn người.
Nãm Dân Quốc thứ mười một, Li? Hàng được biết
người bạn cùng xóm là Đồng Giác Hàng tu tịnh nghiệp, trong lòng
ưa thích hằng qua lại để nghe lời chỉ giáo. Sau đó, ông thọ quy
giới làm hàng Phật tử tu tại gia. Phần vãn học tuy cư sĩ cịn yếu
kém, song về nghĩa lý kinh Phật, sự giải ngộ lại hơn người. Tháng
chín nãm Quý Hợi, các bạn ở Li? Xã ước hẹn cùng nhau thệ
nguyện phát lòng Bồ Đề, Liên Hàng cũng có dự trong cuộc lễ ấy.
Cuối mùa Xuân năm Giáp Tý, vì đau bịnh, cư sĩ lén
phá giới sát sanh, nhân đó lần lần xa cách với các li? hữu.
Đến tháng bảy, bịnh ông càng thêm nặng, bạn đồng tu đến thãm, ai
cũng bảo rằng tất sẽ chết. Li? Hàng cũng xét biết mình khó
sống, tự cảnh giác ăn nãn việc đ?làm. Đầu tháng tám, ông
gượng đau đến trước bàn Phật, hết lòng phát lộ chí thành sám
hối, nguyện giữ lại năm giới, thề không tái phạm. Từ đó cư
sĩ buông bỏ muôn duy?, dứt trừ ái dục, một lòng thầm niệm
hồng danh Phật, chờ đến lúc mạng chung. Các liên hữu biết công
phu trì niệm của cư sĩ còn cạn, nên trước khi ông lâm chung sáu
ngày, thỉnh người đến trợ niệm. Mấy hôm rốt sau, những bạn
đồng tu cũng tự mình đến niệm Phật giúp duy?.
Cuộc trợ niệm khởi đầu từ ngày mười hai tháng
tám. Qua ngày rằm, Liên Hàng bỗng tự cảm thấy thần khí thanh nhẹ
tươi tỉnh. Đến ngày mười bảy cư sĩ bảo trong giấc mơ thấy một
vầng ánh sáng như nãm sáu ngọn đ? điện chói lịa. Vào chiều
tối, xem thần sắc ông cũng như thường, các liên hữu cho là chưa
đến giờ, tiếp tục niệm Phật tới sang canh hai, rồi sắp sửa muốn
ra về. Các vị ấy không ngờ rằng, lúc đó sự trợ niệm đ?đến
hồi tinh thuần đắc lực.
Liên Hàng nghe tiếng niệm Phật bỗng ngưng bặt, liền
nói: ỀTôi hãy còn chưa đến Tây Phương, mong nhờ chư liên hữu
trợ niệm cho suốt đêm nay.Ể Chúng nghe lời nói có vẻ khác lạ,
lại cao tiếng niệm Phật. Không đầy nửa giờ sau, cư sĩ bỗng cười
bảo: ỀTôi đ?đến Tây Phương. Ôi! Ao thất bảo to rộng quá! Kìa!
Hoa sen thật là đẹp! Ánh quang minh cũng sáng đẹp vô c?g!Ể Rồi
ông lại dặn đại chúng cao tiếng trợ niệm đừng nghỉ. Từ trước
Liên Hàng vẫn lặng lẽ nằm yên. Đến lúc bây giờ tay và đầu
ông đều hoạt động, miệng li? tiếp nói to: ỀÔi! Hoa sen thật tươi
xinh! Ao báu thật sáng đẹp!Ể Lúc ấy mặt của cư sĩ tươi cười
hớn hở, trông như người bất chợt có việc vui mừng vượt quá
hy vọng. Như thế qua một giờ sau, ông trở lại lặng yên không nói,
tay chân cũng không động, chỉ nằm ngửa mắt chãm chú nhìn tượng
Phật trước giường. Kế tiếp đôi trịng lần lần lờ lạc, hơi
thở cũng lần yếu mòn. Đến nãm giờ sáng ngày mười tám, cư sĩ
mới tắt hơi.
Đ? ấy liên hữu chỉ có bốn người, mà vừa thay
phiên nhau lớn tiếng trợ niệm suốt đêm, vừa thỉnh thoảng lại xen
đôi lời sách tấn. Như thế cứ tiếp tục niệm cho đến sau khi cư
sĩ tắt hơi một giờ rưởi, mới đổi phi? cho những vị khác vừa
đến. Sự trợ niệm vẫn tiếp tục cho tới lúc thân thể kẻ mãn
phần lạnh hẳn, người nhà đều bị ngãn không được khóc thương.
Đến mười giờ trưa, một li? hữu thãm dị thử, thì các nơi khác
đều lạnh, duy đảnh đầu cịn nóng như nước sôi.
Trong kinh, có bài kệ nói:
Đảnh Thánh, mắt sanh trời.
Người tim, ngạ quỉ bụng.
Bàng sanh ra đầu gối.
Địa ngục lịng bàn chân.
Khi người chết các nơi khác đều lạnh, duy đảnh
đầu nóng sau rốt, là kẻ ấy đ?sanh về cõi Thánh, cõi Phật; mắt
nóng sau rốt là sanh lên cõi trời; chỗ tim ngực nóng sau rốt là
sanh lại cõi người. Còn nếu ở bụng thì kẻ đó sanh về cõi ngạ
quỉ, ở đầu gối đầu thai vào loài bàng sanh; ở lòng bàn chân,
tất đọa xuống địa ngục. Thần thức thoát ly từ nơi nào, thì chỗ
đó nóng sau cùng. Cư sĩ đảnh đầu nóng sau rốt, chứng tỏ ông đ?
vãng sanh về Cực Lạc vậy.
Như Liên Hàng cư sĩ, giới phẩm không tròn, công
hạnh tu trì lại còn non kém. Nhưng không được vãng sanh, xét ra
toàn nhờ sức trợ niệm của các bạn đồng tu. Xem đây, ta thấy
sự trợ niệm rất thiết yếu cho hành giả lúc lâm chung. Bấy giờ
nhằm ngày 18 tháng bảy, năm Dân Quốc thứ 13 (1924), cư sĩ được ba
mươi tuổi.
---o0o---