Niệm Phật
Phải Bền Lâu Không Gián Đoạn
Khải đề:
Nắng lại mưa qua
Chìm nổi vui buồn
Phù thế thương lưu lạc!
Nhớ thuở còn thơ
Cổ thụ bên nhà
Cùng trẻ nô đùa hát.
Rồi hỏi Hoàng Mai
Tìm lối Liên Hoa
Tóc xanh vừa điểm bạc.
Một nén tâm hương
Một chí Tây Phương
Chờ lắng bên trời nghe tiếng nhạc!
Thân người dễ mất
Pháp Phật khó nghe
Tinh tấn khuyên lên đường giải thoát.
Niệm không phải khó
Khó tại bền lâu
Khẩn nguyện cùng sanh về Cực Lạc.
Bền lâu không khó
Khó ở nhứt tâm
Sẽ thấy hoa sen lầu các!
Mục A. Yếu Điểm Của Môn Tịnh Độ
Tiết 53 Phải Nhớ Chí Nguyện Để Tinh Tấn
Niệm Phật muốn giữ cho được tinh tấn bền lâu,
phải có lập trường vững chắc. Lập trường đó là: nhớ đến
mục đích tu hành của mình. Ví như hàng nông phu, vì mục đích có
được lúa hay hoa mầu nhiều để nuôi sống gia đình, nên chịu cực
nhọc dãi nắng dầm mưa, cày sâu cuốc bẩm. Hàng sĩ tử vì mục
đích thi đỗ cao, để mẹ cha đẹp mặt, vinh hiển với đời, phải
thức khuya dậy sớm si?g nãng học hành, dù mỏi mệt cũng không
nản chí. Người tu cũng thế, công hạnh ngày nay là để đi đến
mục đích giải thoát tự độ độ tha ngày sau. Triệt Ngộ đại sư,
một bậc thạc đức suốt thông cả giáo lẫn tông, đ?đưa ra mười
sáu chữ, có thể gọi là cương yếu của môn Tịnh Độ. Mười sáu
chữ ấy như sau: ỀVì sự sanh tử, phát lòng bồ đề, lấy tín
nguyện sâu, trì danh hiệu Phật.Ể Chúng ta ở trong nẻo luân hồi bị
nhiều nỗi khổ, nên phải kíp cầu thoát vòng sanh tử. Vấn đề khẩn
yếu này, trước đã có nói lược qua. Nhưng giải thoát riêng cho
mình cũng hãy còn thấp hẹp; cần phải phát tâm cầu đạo Vô
thượng Bồ Đề, để độ mình và chúng sanh đến nơi giải thoát
cứu cánh. Khi xưa đức Thích Ca nói pháp bốn mươi chín nãm, đàm
kinh hơn ba trãm hội, cũng không ngoài tiêu điểm này. Đã vì sự
sanh tử phát lòng Bồ Đề rồi, đường lối dễ dàng không hiểm
nạn để đưa chúng ta mau đến mục ti? ấy, không chi hơn Ềlấy tín
nguyện sâu, trì danh hiệu Phật.Ể
Kẻ chưa biết đạo lý cũng đành thôi. Người đ?
biết đạo lý này, mà không cố gắng dụng công tu hành, há chẳng
phụ ân lớn của Phật, và để uổng mai một tánh linh của mình lắm
ư! Cho nên chúng ta phải gia công tinh tấn niệm Phật bền lâu, chớ
dần dà gián đoạn. Cổ nhơn đ?bảo:
Thân này chẳng tính đời nay độ.
Còn đợi khi nào mới độ thân?
Nếu hẹn kiếp sau sẽ tu, có khác chi người mê nói
chuyện mộng? Về phương diện thế gian, như kẻ vì cầu sắc dục, phải
chịu lội trong sương gió lạnh, băng đồng lướt bụi không kể hiểm
nguy, để tìm đến chỗ hẹn hị. Lại như kẻ đánh cờ đánh bạc, vì
say mê cầu thắng, mà bỏ cả ăn ngủ, quên cả nóng bức rét lạnh,
có khi dám ngồi luôn đôi ba ngày đ?. Hạng tầm thường vì chút
thị dục nhỏ mà còn như thế; người tu vì mục đích cao cả, há lại
không bằng những kẻ ấy hay sao? Cho nên khi tu hành mà còn biếng
trễ gián đoạn, còn ngại khó mỏi gian lao, còn tham vui mê ngủ, là
bởi chúng ta chưa giữ vững lập trường, tâm độ mình và người
chưa chí thiết.
Nãm tháng qua mau, vô thường không hẹn, thân người
dễ mất, pháp Phật khó nghe; hành giả phải nhớ điểm này, đem hai
chữ ỀkhổỂ và ỀchếtỂ dán ở đôi mày để thường tự sách
tấn.
Tiết 54 Pháp Môn Thoát Sanh Tử Trong Một Đời
Khắp mười phương thế giới, đại khái chỉ có hai
phân vức: Tịnh Độ và Uế Độ. Tịnh Độ là các cõi trong sạch
trang nghiêm của Phật, một khi sanh về tất dứt hẳng phân đoạn sanh
tử, sẽ lần chứng lên quả thánh. Uế Độ, là các cõi từ cảnh
giới đến thân tâm của chúng sanh đều ô trược, loài hữu tình
ở đó còn phải lên xuống trong sáu nẻo, chịu nỗi khổ luân hồi.
Loài người ở cảnh Ta Bà Uế Độ này, nếu chỉ tu
ngũ giới thập thiện và các điều lành khác mà không niệm Phật,
thì cùng Phật vô duyên. Vì không duyên với Phật, chủng tử vô
lậu trong thức thứ tám thiếu cơ năng dẫn phát, nên dù có tu các
nghiệp lành, nhiều lắm cũng chỉ sanh lên cõi trời, không được
về Tịnh Độ. Thọ số ở các c? trời tuy lâu, nhưng vẫn có hạn
lượng, khi phước báo hết là dứt một đoạn sống chết, rồi tùy
nghiệp thọ sanh nơi khác. Nếu như vẫn còn nghiệp lành thuộc thượng
phẩm thập thiện, lại tùy sanh ở các cõi trời thấp hoặc cao.
Nghiệp trung phẩm thập thiện, sanh về cõi người. Nghiệp hạ phẩm
thập thiện, sanh ở cõi A Tu La. Nếu là nghiệp dữ thuộc hạ phẩm
thập ác, thì sa xuống loài bàng sanh. Nghiệp trung phẩm thập ác, sanh
ở loài ngạ quỉ. Nghiệp thượng phẩm thập ác, đọa vào địa ngục.
Chúng sanh do ngã chấp làm gốc, từ nơi đó khởi
tạo các nghiệp lành dữ thuộc sáu đường, nên tùy theo sự thành
thục của mỗi loại chủng tử, phải chịu lên xuống luân hồi. Trong
kiếp luân hồi, nghiệp nhiễm dễ tạo, duyên lành khó tu, nên thời
gian đọa xuống ác đạo rất lâu dài, sanh lên thiên đạo rất ngắn
ít. Đức Phật đ?than: ỀChúng sanh thường lấy ba ác đạo làm quê
nhà!Ể Vì thế chúng ta có thể đoán định: ỀTất cả loài hữu
tình, nếu không về Tịnh Độ của chư Phật, tất phải ở Uế Độ.
Đ?ở Uế Độ, với hoàn cảnh xấu ác nhiều chướng duyên, với
căn cơ người thời mạt tất sớm muộn cũng phải đọa ác đạo.
Và, muốn sanh về Tịnh Độ của Phật, tất phải niệm Phật.Ể
Có kẻ gạn hỏi: ỀĐường lối giải thoát có nhiều
môn, hà tất phải niệm Phật?Ể Điểm này nếu suy nghiệm sẽ tự
hiểu, tuy nhiên cũng xin phúc đáp cho rõ hơn:
- Khi xưa đức Như Lai tuy diệt độ, nhưng chánh pháp
cịn thạnh, chúng sanh nghiệp nhẹ tâm thuần, nên dù tu pháp môn nào,
cũng đều có thể thành tựu. Giảm xuống đến thời tượng pháp
thì cách Phật đã xa, hoàn cảnh và nhơn tâm lần lần phức tạp,
trăm ngàn người tu hành, hoặc may mới có một hai người đắc
đạo. Huống nay lại đi sâu vào thời mạt pháp, đạo đức suy vi,
bậc tu hành chân chánh còn có ít người, nói chi đến việc chứng
quả? Bởi thời nay chúng sanh chướng nặng tâm tạp, sự sống và
lối tổ chức xã hội khó khăn phiền toái hơn xưa. Lại thêm chiến
tranh, đói rách, thiên tai nhơn họa thường thường tiếp diễn, cảnh
khiêu dâm bắn giết được cổ xúy, tôn giáo đạo đức bị xem là
trò ma túy, chuyện lỗi thời. Với nhiều chướng duyên trong và
ngoài ảnh hưởng nhau như thế, nếu tự lực tu hành theo các pháp
môn khác, tất nhiên khó bề thành tựu. Vả lại muốn thoát luân
hồi, phải dứt trừ kiến hoặc và tư hoặc. Nhưng theo lời cổ
đức: Ềngãn được kiến hoặc khó như ngãn chận dịng nước mạnh
từ bốn mươi dặm xa chảy lại,Ể huống chi là diệt trừ, và kế
đến dứt cả tư hoặc ư? Cho nên trong thời mạt pháp, muốn được
giải thoát, chỉ duy có Niệm Phật pháp môn. Bởi môn này đã dùng
hết tự lực, còn nhờ thêm tha lực, dù nghiệp hoặc chưa dứt,
cũng nhờ sức Phật tiếp dẫn mà được đới nghiệp v?g sanh. Khi
đ?về Cực Lạc, tất không còn thối chuyển vĩnh viễn thoát luân
hồi.
Đức Thế Tôn là bậc bi trí sâu xa, về cãn cơ thời
mạt pháp và hiệu lực của môn Tịnh Độ, Ngài có huyền ký
trước nơi Kinh Đại Tập và Vô Lượng Thọ, như chương thứ nhứt
đ?nói. Thế thì biết, trong thời mạt pháp, khi hiệu lực hiện
chứng của các tông đều yếu kém, để kéo dài pháp vận và cứu
độ chúng sanh, chỉ duy có môn Niệm Phật. Các tông khác như Thiền,
Giáo, Luật, Mật tuy còn lưu truyền và có nhiều người tu, cũng chỉ
ở trong khả năng giáng xuống làm trợ duyên, chớ không thể riêng
rẽ sanh hiệu nghiệm trên đường giải thoát. Trong bức thơ gởi cho
một vị tãng, Ấn Quang đại sư đ?nói: ỀỞ sâu vào thời mạt
pháp này, nếu tu theo các môn khác, nói đến sự gieo cãn lành và
làm nhân duyên đắc độ về sau thì có, nói đến sự chứng quả
giải thoát trong đời hiện tại thì không.Ể
Do những điều đ?dẫn giải trên đây, ta có thể
kết luận: ỀỞ vào thời mạt pháp, duy Niệm Phật mới là môn
thoát sanh tử trong một đời.Ể
Tiết 55 Niệm Phật Chớ Sợ Cười, Đừng Chờ Hẹn
Có nhiều vị muốn tu học Phật pháp, nhưng lại sợ bị
người chê cười là tiêu cực, hủ bại, mê tín. Do đó khi xem kinh
thì lén lút không dám công nhiên cho người thấy; hoặc có ăn chay
niệm Phật cũng không dám cho ai hay. Nên biết đạo Phật chẳng những
là một tôn giáo, lại là một môn triết học rất cao thâm, các
học giả uyên bác đông tây đ?có nhiều vị nghiên cứu và thật
hành. Phật đạo là con đường sáng suốt đưa người từ hung ác
đến thiện lương, từ hàng phàm phu mê mờ đến địa vị thánh nhơn
toàn giác. Cho nên người đã có duyên may tu học Phật pháp, nên
mừng cho mình được phước lành, và tùy nghi đem ra khuyên nhắc kẻ
khác làm theo, chớ không chi phải e ngại. Những kẻ chê tu Phật là
tiêu cực, hủ bại, mê tín, chỉ vì họ chưa hiểu biết mà thôi.
Lại trong giới tu học Phật pháp, có những người
vừa mới xem qua các kinh điển cao, đ?vội tự phụ cho mình là bậc
Đại Thừa hành giả, thấy ai ăn chay niệm Phật liền xem là hạng
căn cơ thấp kém, chỉ bắt chước theo các ông già bà cả ngu dốt
tối tăm, Nên biết môn Tịnh Độ là pháp Đại Thừa viên đốn.
Nói ỀĐại ThừaỂ, vì pháp này lấy niệm Phật làm nhân, lấy địa
vị Toàn Giác làm quả. Nói ỀviênỂ vì môn này nhiếp tròn cả
năm tông tám giáo, như các bậc cổ đức đ?luận phê. Nói
ỀđốnỂ vì phương tiện này đưa từ hàng cụ phược phàm phu lên
ngôi bất thối chuyển, từ bậc sơ học lên quả Vô thượng Bồ
Đề, rất thẳng tắt mau lẹ. Cho n? pháp môn này sáu phương chư
Phật đều khen ngợi, các vị Bồ Tát như Vãn Th? Phổ Hiền, Mã Minh,
Long Thọ đều phát nguyện vãng sanh. Xem thường và khinh chê niệm
Phật, chẳng những là không hiểu sâu về Tịnh Độ, mà còn mang lỗi
khinh chê chư Phật và các bậc Thánh giả đã nói trên. Cho nên
niệm Phật là chính mình đã thật hành theo pháp môn viên đốn Đại
Thừa, không n? ngại đến sự cười ch?của người chưa hiểu
biết.
Muốn cầu giải thoát, đối với sự niệm Phật phải
xem là điều rất khẩn yếu, biết được lúc nào là phải thật
hành ngay khi ấy, không nên chờ hẹn. Phật đã từng dạy, mạng
sống của con người chỉ ngắn ngủi trong hởi thở; vì hơi thở có ra
mà không vào, tức đã bước sang kiếp khác. Thế thì năm tháng
ngày giờ, cho đến mỗi giây phút, đều có cái chết không chờ
hẹn ta ở trong đó; chẳng ai dám quyết đoán mạng sống của mình
dài được bao lâu. Cổ thi có câu:
Ngày trước đầu đường cịn ruỗi ngựa.
Hôm nay trong quách đ?nằm yên!
Hoặc câu:
Chớ hẹn đến già rồi niệm Phật.
Đồng hoang mồ trẻ thấy đông người.
Đây là những điều xác thật. Cho n? muốn phòng
ngừa cơn vô thường chợt đến, mỗi thời khắc chúng ta phải gắng
chãm niệm Phật. Như thế, gặp giây phút cuối c?g mới không bị
bối rối tay chân.
Trên đường tu, để ngãn trách về sự giải đ?,
đức Phật đ?rãn dạy: ỀThầy Tỳ Khưu thường hay có tám cách
biếng trễ. Chẳng hạn, bữa nào đi khất thực đói, liền nghĩ rằng:
ỀHôm nay, khất thực đói, trong người tất thiếu sức khỏe, để
huởn tu một đ?.Ể Bữa nào khất thực no, liền nghĩ: ỀHôm nay ăn
no, trong người nặng nề mệt nhọc, thôi tạm xả tu, mai sẽ tiếp
tục.Ể Như thế cho đến những khi: sắp làm việc nhiều - lúc làm
việc nặng vừa xong - sắp muốn đau - khi đau bịnh vừa mạnh - sắp đi
xa - lúc đi xa mới về; trong các trường hợp ấy, lúc nào cũng
nại cớ này, cớ khác, rồi bỏ tu để ngủ nghỉ. Trái lại, những
vị Tỳ Khưu tinh tấn, trong tám trường hợp đó, luôn luôn nghĩ đến
sự vô thường, hằng si?g nãng tu tập.Ể
Tâm niệm giải đ? của người xuất gia đ?như thế,
tất tâm lý biếng trễ của hàng tại gia chắc có lẽ nhiều hơn.
Hoằng Nhứt đại sư từng khuy? một người thân hữu niệm Phật.
Ông này viết thư gởi đến, than mình mắc bận nhiều công việc, xin
để tạm xếp đặt cho ổn thỏa rồi sẽ hay. Đại sư liền bi? vào
bức thư đó hai câu thi, rồi gởi trả nguyên lại. Hai câu ấy như
sau:
Ngay giờ quyết dứt, liền thôi dứt.
Chờ hẹn cho xong, chẳng lúc xong!
Thật thế, chuyện đời đến khi nhắm mắt cũng không
rồi công việc.
Khi xưa, có vị tãng khuy? người bạn là Trương Tổ
Lưu niệm Phật. Ông bạn bảo: ỀTôi có ba việc làm chưa xong: Một
là quan tài ông thân còn để ở nhà mồ chưa chôn, hai là đứa
con trai chưa cưới vợ, ba là đứa con gái chưa gả chồng. Chờ ba
việc đ?xong, tôi sẽ vâng lời.Ể Mấy tháng sau, ông bạn bị bạo
bịnh chết. Vị tãng đến tụng kinh cầu si?, và điếu một bài thi
rằng:
Bạn tôi tên là Trương Tổ Lưu
Khuyên ông niệm Phật, hẹn ba điều.
Ba điều chưa vẹn, vô thường bắt
Đáng trách Di? Vương chẳng nể nhau!
Trong bài thi, ý vị tăng nói: ông hẹn khi xong ba việc
sẽ niệm Phật, nhưng ngặt nỗi vô thường bất ngờ đến, nó có
chờ hẹn ông đâu? Xem đấy chúng ta ai dám bảo đảm rằng mình
chẳng là ông Trương Tổ Lưu thứ hai? Cho nên người quyết chí tu
hành, được hở giây phút nào liền niệm Phật ngay lúc ấy, đừng
nên đạp nhầm dấu xe đổ của người xưa mà để hận ngàn thu.
Mục B. Làm Thế Nào Niệm Được Bền Lâu?
Tiết 56 Phải Tuần Tự Tiến Tu
Người tu Tịnh Độ, muốn niệm Phật được bền lâu,
phải t? theo tinh thần, sức khỏe, và hoàn cảnh của mình mà đặt
thời hạn, rồi lần lần tãng tiến, chớ n? bước đầu đ?vội
hành trì quá nhiều. Như người đi quá gấp, tất dễ bị vấp ngã.
Kẻ chưa lượng sức mình, mà vội hành trì quá mức, sau có thể vì
mệt mỏi chán nản rồi bỏ trôi luôn.
Đại để người tu môn Niệm Phật, n? phân làm định
thời và không định thời. Định thời là mỗi ngày đều phải có
thời khóa nhứt định, lại nên ghi số là bao nhiêu câu. Không định
thời là ngoài các thời khóa, đi đứng nằm ngồi đều niệm thầm,
nhưng niệm thả không ghi số. Điểm cốt yếu của sự Niệm Phật là
dù niệm chậm hay mau, cũng phải rành rẽ rõ ràng, tâm bắt kịp
tiếng niệm, tâm và tiếng dung hòa nhau. Cứ như thế niệm lâu thành
thuần thục, sức niệm mau dần, có thể tăng từ một ngàn, hai ba
ngàn, một muôn, bốn năm muôn, cho đến mười muôn câu trong mỗi
ngày đ?.
Có người bảo: ỀTôi đ?nhiều lần thí nghiệm qua,
dù với cách nào cũng không thể mỗi ngày đêm niệm đến mười
muôn câu được. Cho n? lời xưa nói: Mỗi ngày đêm lấy mười
muôn câu làm định khóa, đại khái n? hiểu một ước số để
khuyến tấn mà thôi.Ể
Lời nói trên, chỉ đề cập đến sự Ềthí nghiệmỂ
nhưng chưa bàn đến cách Ềtập luyệnỂ. Theo Đạo Nguy? pháp sư,
nếu tập luyện cho tinh thuần, mỗi ngày đêm hành giả có thể niệm
đến mười muôn câu Phật hiệu, nhưng phải y theo mấy điều kiện như
sau:
Phải ngồi mà niệm. Tuy đi đứng nằm ngồi đều có
thể niệm Phật, nhưng muốn niệm cho mau mà vẫn nghe được rành rẽ
rõ ràng, thì nên ngồi mới thích hợp.
Nên dùng chuỗi nhẹ và lấy mười câu làm một đơn
vị. Bởi nếu niệm mau mà mỗi câu đều lần một hạt chuỗi, e tay
lần không kịp, dù có kịp cũng dễ bị chứng đau gân tay và mỏi
nhức chả vai.
Chỉ niệm bốn chữ A Di Đà Phật, không niệm sáu
chữ. Bởi niệm sáu chữ một muôn câu, nếu rút ngắn niệm bốn
chữ, có thể lên đến một muôn nãm ngàn câu.
Phải niệm theo lối Kim Cang trì, nghĩa là chỉ sẽ động
môi mà thôi. Nếu niệm thầm hoặc ra tiếng, sợ e niệm không được
mau, và khi cổ động cho tiếng phát ra khỏi miệng, phải mất một
khoảng thời gian. Niệm ra tiếng một muôn câu, đổi lại niệm theo
lối Kim Cang trì, có thể lên đến hai ba muôn câu.
Nếu y theo bốn điều kiện tr? đây tập luyện cho tinh
thuần, lâu ngày lâu tháng sức niệm càng mau chóng, nhưng vẫn không
mất sự rành rẽ rõ ràng. Như thế luyện cho đến khi nào niệm một
ngàn câu chỉ mất năm phút làm mục đích. Thế thì trong một giờ
niệm một muôn câu cộng lại tốn năm mươi phút, còn mười phút
để thay đổi oai nghi cho khỏi mỏi nhọc hoặc đứng l? lễ Phật,
hoặc buông chuỗi chắp tay vừa đi nhiễu Phật, vừa nhẹ hô hấp để
lấy sức. Cách thức vừa niệm vừa nghỉ ngơi như thế, niệm mười
muôn câu duy phí có mười giờ. Trong một ngày đ? hai mươi bốn
giờ, trừ ngủ nghỉ sáu giờ, ãn uống đại tiểu tiện ba giờ,
mười giờ để khóa niệm mười muôn câu, cộng lại hết mười
chín giờ, h? còn dư ra năm giờ đồng hồ. Nãm giờ ấy, hoặc để
làm công chuyện vặt, hoặc tĩnh tọa hay xem kinh vẫn còn thư thả.
Tiết 57 Nên Cầu Tinh Thuần, Đừng Tham Nhiều
Có người niệm Phật không thích lần chuỗi, chỉ ước
định mỗi thời khóa là bao nhiêu giờ. Niệm như thế được điểm
lợi là dễ dưỡng tâm, mỗi câu Phật hiệu đều rành rẽ thâm
nhập. Nhưng nếu không phải là người có tâm lực mạnh, chí kiên
quyết, thì sẽ lạc vào khuyết điểm; niệm lực trì trệ khó thành
tựu, mau sanh chán mỏi, thường nhìn vào đồng hồ để xem coi gần
m? giờ hay chưa? Còn lần chuỗi mà niệm theo định số, thì sức
niệm tinh tấn mau thuần thục, ví như người tuy yếu chân nhưng nhờ
nương nơi cây gậy, nên dễ tiến lên núi cao. Song nếu không khéo
giữ đúng theo điểm cãn bản của sự niệm Phật là: ỀCâu niệm
rành rẽ rõ ràng, tâm cùng tiếng dung hòa nhau,Ể tất lại bị khuyết
điểm bởi ham mau ham nhiều mà thành ra niệm dối! Nên biết lúc hành
giả khởi niệm, thì mỗi câu Phật hiệu đều đi sâu vào tạng
thức. Khi sức dồn chứa huân tập đ?nhiều, tức câu niệm Phật
từ nơi tạng thức tự phát hiện ra trong khi thức hoặc lúc ngủ.
Đây gọi là cảnh giới Ềkhông niệm tự niệm.Ể Nếu bình thường
niệm rành rẽ thì nó phát hiện rành rẽ, niệm giả dối không rõ
ràng, tức câu Phật hiệu hiện ra không rõ ràng. Điểm thất bại
của người niệm Phật là tại chỗ đó, nên phải dè dặt ngay từ
lúc đầu. Lời tục thường nói: ỀĐa hư bất như thiểu thật.Ể
Nếu vì ham mau ham nhiều để cầu danh là mình niệm mỗi ngày được
mấy muôn câu rồi niệm hư dối không rõ ràng, tâm không bắt kịp
tiếng, chẳng thà niệm ít mà chắc còn hơn.
Bút giả có biết một bà Phật tử tu Tịnh Độ. Bà
này có lòng tin Tam Bảo, nhưng tánh còn thích rong chơi. Mỗi khi về
tối, con cháu mời lại bàn cùng ăn cơm, bà nói: ỀThầy dạy tao
phát nguyện mỗi ngày niệm Phật mười chuỗi, nếu tao không giữ
đúng lời hứa thì có tội với Tam Bảo. Bây hãy chờ một chút
cho tao ỏlàm đủ sốõ, rồi sẽ dùng cơm.Ể Nói đoạn, bà vội mặc
áo tràng, niệm Phật lia lịa gấp như chữa lửa, chỉ mười lăm phút
là xong việc. Niệm Phật như thế thì làm sao mà vãng sanh được?
Chẳng những một bà này, mà còn nhiều Phật tử khác cũng niệm
Phật theo lối Ềlàm cho đủ sốỂ đó. Vậy n? biết niệm Phật quí
ở nơi phát tâm chân thật, câu niệm chắc chắn rõ ràng, gọi là
Ềlão thật niệm PhậtỂ mới mong có kết quả.
Vào khoảng cuối đời nhà Thanh bên Trung Hoa, ở Hàng
Châu có một bà Phật tử đến am Hiếu Từ hỏi Đạo Nguy? hòa
thượng: ỀCon niệm Phật đã lâu, nhưng chưa thấy có chi tiến bộ,
không biết tại sao?Ể Hòa thượng bảo: ỀNiệm Phật không khó, mà
khó ở giữ cho được bền lâu. Chắc có lẽ bà niệm không
được đều và bền nên mới như thế.Ể Bà thưa: ỀQuả đúng như
vậy. Con vì mắc gia duyên bận buộc, nên niệm Phật thường hay gián
đoạn không được bền. Từ đây xin gát hết mọi duy?, nguyện
giữ đúng như lời thầy dạy.Ể Cách ít lâu sau, bà lại đến hỏi:
ỀTừ khi nghe lời chỉ giáo đến nay, con dẹp hết mọi việc ngoài,
mỗi ngày niệm Phật đều đều, sao vẫn chưa thấy có hiệu lực?Ể
Hịa thượng dạy tiếp: ỀNiệm Phật không khó, khó ở bền lâu.
Niệm bền lâu không khó, mà khó ở nơi nhứt tâm. Bên ngoài tuy
bà gát hết mọi duyên, nhưng trong tâm còn lo đến việc nhà cửa
ruộng vườn, luyến tưởng đến cháu con quyến thuộc. Ý lo lắng chưa
dứt, gốc tình ái vẫn còn, làm sao mà được nhứt tâm thấy
Phật?Ể Bà nghe nói liền than: ỀThật quả có như vậy! Con duyên
ngoài tuy bỏ, nhưng tâm tưởng vẫn còn vấn vương. Từ đây xin
trãm việc không quản đến, để nhứt tâm niệm Phật.Ể Sau khi l?h
giáo về nhà, con cháu hoặc người ngoài có bày tỏ hỏi han điều
chi, bà đều bảo: ỀTôi muốn yên tâm, trăm việc xin không quản
đến.Ể Do duyên cớ này, mọi người đều gọi là bà lão Bá Bất
Quản. Vài năm sau, bà đến am Hiếu Từ lạy ngài Đạo Nguyên thưa:
ỀNhờ ơn chỉ dạy, nay con niệm được nhứt tâm và đã thấy Phật.
Xin đến lễ tạ giả từ hòa thượng, vì con sắp sẽ vãng sanh.Ể
Bà Bá Bất Quản trên đây, do lãnh ngộ hai nguyên
tắc: bền lâu và nhứt tâm mà được kết quả giải thoát. Cho nên
người niệm Phật muốn đi đến mức tinh thuần, phải xem từ nhà
cửa ruộng vườn đến thân tình quyến thuộc như cảnh duyên giả
tạm, hợp rồi lại tan. Nếu có lòng thương quyến thuộc, trước
tiên phải làm sao cho mình được vãng sanh giải thoát, rồi sau sẽ
độ người thân, mới là tình thương chân thật. Cho nên muốn niệm
Phật, suy ra chẳng những trăm việc không quản, mà ngàn việc, muôn
việc đều không quản đến mới được.
Tiết 58 Chớ Để Mất Phần Nhập Phẩm
Người tu khi niệm Phật phát nguyện cầu sanh về Tây
Phương, nơi ao thất bảo ở cõi Cực Lạc liền mọc lên một hoa sen.
Nếu cứ tiếp tục niệm không gián đoạn, thì hoa sen ấy lần lần to
lớn mãi lên. Trái lại tự nhiên hoa cũng héo tàn. Chừng nào
phát tâm tinh tấn trở lại, sẽ có một hoa sen khác hóa hiện. Hoa sen
đó do sức tu niệm của hành giả hiện thành, tùy nơi công hạnh cao
thấp mà có hơn kém, chia thành chín phẩm, từ Hạ Phẩm Hạ Sanh lên
đến Thượng Phẩm Thượng Sanh. Tuy nói khái ước có chín phẩm,
nhưng vì công hạnh của người tu rất khác biệt, nên thật ra trong
ấy bao hàm đến vô lượng phẩm. Chẳng hạn như trong xã hội đại
khái có ba giai cấp: quyền quí, trung lưu và bần khổ; nhưng thật ra
trong mỗi giai cấp đều có nhiều thứ bậc hơn kém khác nhau. Phẩm sen
ở Cực Lạc cũng như thế.
Tu Tịnh Độ t? nơi cãn cơ và hoàn cảnh nên công
hạnh của mỗi người thành ra sai biệt. Có những vị mỗi ngày niệm
tới số trăm, số ngàn, lên đến số nhiều muôn. Nhưng dù bận
việc bao nhiêu, ít nhứt mỗi ngày hành giả phải có mười niệm,
bằng không sẽ mất phần Ềnhập phẩmỂ, nghĩa là không được dự
vào chín phẩm sen ở cõi Tây Phương. ỀNhập phẩmỂ là danh từ
riêng của người tu Tịnh Độ, nó gợi ý nhắc nhở hành giả
đừng quên phần niệm Phật. Mười niệm cũng gọi là Thập Niệm
Pháp. Đấy là phương thức của ngài Từ Vân sám chủ, căn cứ
theo chương Hạ Phẩm Hạ Sanh của Kinh Quán Vô Lượng Thọ mà chế ra,
để dành riêng cho những người quá bận về công việc nước hay
nhà có thể niệm Phật và vãng sanh Cực Lạc. Phương pháp này gồm
có mười niệm, mỗi niệm là một hơi thở, mật ý đi về chỗ
Ềmượn hơi nhiếp tâm.Ể Người hơi dài có thể mỗi hơi niệm
mười mấy câu, kẻ hơi ngắn chỉ bảy, tám câu cũng được. Cứ
mỗi hơi niệm Phật gọi là một niệm, mười hơi là mười niệm. Sau
khi niệm xong mười hơi, tiếp tục đọc bài kệ hồi hướng:
Nguyện sanh Tây Phương cõi Tịnh Độ.
Mẹ cha là chín phẩm sen lành.
Hoa nở thấy Phật ngộ vô sanh.
Độ khắp tất cả loài hàm thức.
Nguyện xong, lễ Phật ba lạy rồi lui ra. Phương pháp này
phát xuất bởi lòng từ bi vô lượng của Phật, Tổ, dù người đa
đoan công việc thế mấy, cũng có thể thật hành để bước l?
đường giải thoát.
Về chỗ niệm Phật mười hơi, có điểm cần chú ý
là cứ để tự nhi? đừng kéo dài hoặc rút ngắn. Nếu chẳng
thế tất sẽ mang chứng bịnh Ềthương khí.Ể Trung Luân pháp sư khi
đến Bắc Bình giảng đạo, một hôm có ông lão đến nói: ỀTại
tôi niệm Phật, nên bây giờ sanh chứng lãng tai và đôi khi không
nghe chi hết.Ể Pháp sư hỏi duyên cớ, ông lão đáp: ỀCó vị đại
đức bí mật truyền cho tôi một phương pháp niệm Phật. Vị ấy bảo:
ỀPhép niệm mười hơi, hiện tại các hòa thượng, thượng tọa
không ai biết cả, bởi trong ấy có một khẩu quyết mà bây giờ
đã thất truyền.Ể Tôi thành khẩn cầu pháp, vị đó dạy mỗi hơi
phải niệm suốt một tràng chuỗi, gồm một trăm lẻ tám câu. Tôi y
theo lời, cố gắng thật hành, và lỗ tai sanh ra lùng bùng rồi lãng
điếc từ khi ấy. Vậy chẳng biết phương pháp niệm như thế có
đúng lời Phật dạy chãng?Ể Ngài Trung Luân nghe xong bác bỏ, trách
vị đại đức kia đem pháp Phật biến thành pháp ngoại đạo, diễn
n? kết quả hại người. Rồi Ngài từ từ đem nguy? lý Thập Niệm
Pháp giảng cho ông lão nghe.
Đây là một câu chuyện mà người niệm Phật phải
lưu tâm, để rút lấy phần kinh nghiệm.
Mục C. Tịnh Độ, Môn Giải Thoát Đãc Biệt
Tiết 59 Niệm Phật, Phương Pháp Dễ Tu
Môn Tịnh Độ, đặc biệt với pháp Trì Danh, là
đường lối dễ tu, điều này ai cũng có thể biết. Nhưng Ềdễ tuỂ
lại có nhiều nghĩa, việc này vị tất mọi người đã am tường.
Bởi tu các pháp môn khác, nếu từ Giáo mà đi vào,
thì kinh điển mênh mang, nghĩa lý vô cùng sâu sắc. Trước tiên
người học Phật phải lãnh hội nghĩa căn bản, rồi từ đó lần
lượt ngộ giải những nghĩa sai biệt. Sau đó lại phải dung thông
các đạo lý, rút lấy chỗ tinh hoa, và chọn lựa vạch mở đường
lối tu tập để trọn đời noi theo. Sự kiện này nếu chẳng phí vài
mươi năm công phu khổ nhọc, tất không thể hoàn thành. Nếu từ
Luật mà đi vào, thì phải xuất gia, mà giới tướng rộng nhiều,
hành giả cần phải rành rẽ về danh, chủng, tánh, tướng của các
loại giới pháp. Lại phải có trí huệ để thông hiểu thế nào là
nghĩa cùng ngữ, để áp dụng các điểm khai giá, trì, phạm tùy theo
xứ sở thời cơ. Cho nên học kinh chưa phải là khó, học luật mà
biết quyền biến khéo léo để không rời luật cũng không bị luật
buộc ràng mới là khó. Hiểu rành xong về luật, lại phải có tinh
thần nhẫn nại, có nghị lực chịu kham khổ, mới đi đến chỗ thành
công. Nếu từ Thiền mà đi vào, như túc huệ chưa gieo, căn khí
chẳng hợp, muốn đem cơ yếu kém để mong cầu pháp cao mầu, tất sự
chia ánh sáng truyền đãng cũng tuyệt phần hy vọng. Cho n? ông Tạ
Linh Vận, một danh sĩ học Phật khi xưa đ?bảo: ỀTu Thiền để thành
Phật, phải là hàng huệ nghiệp văn nhơn.Ể Lời này vẫn không
phải sai lầm hoặc quá đáng.
Riêng về pháp Trì Danh của môn Tịnh Độ, khi đ?phát
lòng tín nguyện, dù căn cơ nào cũng có thể niệm Phật tu hành.
Lại các pháp môn khác duy cậy nhờ tự lực, môn Tịnh Độ đ?
dùng hết tự lực, còn được thêm phần tha lực. Sức tha lực
tức nguyện lực tiếp dẫn của Phật A Di Đà vô cùng lớn mạnh,
dù người chưa sạch nghiệp hoặc, cho đến kẻ tạo nghiệp ác quá
nặng biết hồi tâm niệm Phật, cũng được đón rước về Tây
Phương. Cổ nhơn đ?từng so sánh: ỀTu các môn khác khó khãn vất
vả như con kiến bị lên non cao. Niệm Phật vãng sanh mau chóng dễ dàng
như đi thuyền theo nước xuôi gió thuận.Ể Lời này thật rất xác
đáng. Hơn nữa, khi sanh về Cực Lạc rồi, sống trong cảnh đẹp mầu
an thuận, thường gần gũi với Phật Bồ Tát, d?tu pháp môn nào
cũng đều mau thành tựu, như lăn khúc gỗ tròn từ trên non cao
xuống, thế vẫn tiến mãi không tạm dừng.
Tóm lược qua các điều tr?, sự dễ tu của môn Tịnh
Độ gồm có ba điểm: một là dễ thật hành, hai là dễ vãng sanh, ba
là dễ thành Phật. Do sự dễ dàng đó mà kết quả tu chứng xưa nay
về môn Tịnh Độ như ngọc chạm vàng khua tiếng vang thảnh thót, sen
cười cúc mỉm mấy phẩm tươi thơm. Trong ấy lịch trình từ phàm phu
cho đến khi thành Phật cũng có giai cấp mà cũng không giai cấp. Vì
khi được vãng sanh tức đã thoát khỏi sống chết luân hồi, và
niệm Phật tức là thành Phật. Như con tằm, nhộng, và bướm vẫn
không thể chia phân, nói bướm nguyên là tằm, hay tằm là bướm
cũng chẳng xa chi mấy.
Tiết 60 Từ Tán Tâm Sẽ Đi Đến Định Tâm
Miệng niệm Phật, tâm tưởng Phật, hoặc trụ nơi câu
niệm Phật, gọi là Định Tâm Niệm Phật. Miệng niệm Phật, tâm không
nhớ Phật mà suy nghĩ mông lung việc khác, đó là Tán Tâm Niệm
Phật. Tán tâm mà niệm, hiệu lực so với định tâm yếu kém rất
nhiều. Vì lẽ ấy, từ xưa đến nay các bậc thiện tri thức đều
khuy? người cố gắng định tâm trì niệm, đừng để tán tâm. Cho
n? tán tâm niệm Phật không đủ làm gương mẫu.
Tuy nhiên, mỗi tác động bên ngoài đều liên quan
đến tiềm thức, tức là thức thứ tám ở bên trong. Nếu tán
tâm niệm Phật hoàn toàn không công hiệu, thì sáu chữ hồng danh kia
từ đâu phát hiện? Đ?có sáu chữ hiện thành, tất phải có hai
chuyển lực: một là do chủng tử, từ tiềm thức phát hiện ra
ngoài. Hai là sức tác động từ ngoài lại huân tập trở vào bên
trong. Cho nên chẳng thể nói tán tâm niệm Phật hoàn toàn không
công hiệu, bất quá so với định tâm nó yếu kém hơn nhiều mà
thôi. Lối niệm tán tâm từ xưa đến nay không được đề xướng,
nhưng hàm ý và công dụng của nó cũng không thể phủ nhận. Vì
thế cổ nhơn có lưu một bài kệ rằng:
Di Đà sáu chữ pháp trung vương,
Tạo niệm phân vân chớ ngại màng!
Muôn dặm phù vân che ánh nhật.
Nhơn hoàn khắp xứ ửng dương quang.
Bài kệ này suy ra có điều xác đáng. Bởi hạt
giống niệm Phật nơi thức thứ tám khi thành thục, tất dẫn phát
thức thứ sáu khiến cho sanh khởi tịnh niệm. Rồi từ thức thứ
sáu lại cổ động ra nãm thức trước để thành hiện hành. Nhưng
vì lúc chủng tử niệm Phật trải qua thức thứ sáu, bởi trần
nhiễm của chúng sanh sâu dày, nên bị các niệm khác lấn cướp, tuy
có lọt khỏi vòng vây song ảnh hưởng còn lại chẳng bao nhiêu. Ví
như ánh mặt trời tuy rực rỡ, nhưng vì bị nhiều lớp mây che, nên
khi lọt xuống nhân gian, chỉ còn vẻ ửng sáng. Nhưng ánh sáng thừa
ấy sở dĩ có, cũng do công năng ảnh hưởng của mặt trời. Biết
được lẽ này, người tu Tịnh Độ đừng quá ngại màng đến tạp
tưởng phân vân, chỉ li? tiếp niệm hết câu này sang đến câu
khác, chánh niệm còn được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Niệm như thế
một lúc lâu, tự nhiên ngựa ý sẽ quay về tào, vượn lòng lần
lần vào động. Niệm một lúc lâu nữa, thì chánh niệm hiển lộ rõ
ràng, không cần gạn bỏ điều nhiếp, mà tự nhiên thành tựu.
Hiểu được lẽ này thì chỉ quí niệm nhiều, đừng ngại tán tâm.
Như nước tuy bợn đục, lóng m? tất sẽ thành trong. Người tuy tạp
niệm nhiều, niệm Phật lâu tất sẽ thành chánh niệm. Nên biết cổ
đức khi đi đứng nằm ngồi và tất cả hành động đều niệm Phật.
Nếu các vị ấy hoàn toàn dùng định tâm mà niệm, thì lúc đi
đường tất phải vấp chạm, hoặc khi tả kinh hay làm việc cũng không
thể thành công. Cho nên người xưa cũng có lúc phải phân tâm mà
niệm, nhưng vẫn không rời câu niệm Phật, bởi dù có tán tâm
vẫn không mất phần ảnh hưởng.
Đến đây, xin thuật một câu chuyện. Lúc nọ, có
người đến hỏi một thượng tọa: ỀThưa thật với thầy, tôi niệm
Phật đ?hơn mười nãm nay mà vọng niệm vẫn còn nhiều, không biết
cách chi trừ diệt. Tôi có đi nhiều nơi cầu hỏi phương pháp với
những bậc đ?tu trước mình. Vị này đưa kinh nghiệm này, vị kia dạy
cách khác, có một đại đức lại khuy? tôi nên nín hơi niệm luôn
hai mươi mốt câu rồi nuốt một cái. Tôi đ?áp dụng qua đủ mọi
phương thức, nhưng chỉ định tâm được lúc đầu, rồi sau có lẽ vì
lờn quen nên vọng niệm trở lại như cũ. Không biết thầy có
phương pháp nào hữu hiệu để dạy tôi chãng?Ể
Vị thượng tọa đáp: ỀĐiểm thất bại đó do ông
không bền lòng, mà cứ thay đổi đường lối. N? biết phàm phu
chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay gây tạo nghiệp nhiễm vọng
quá nhiều đâu thể nhứt thời mà thanh tịnh được! Chỗ cốt yếu
là phải dụng tâm cho bền lâu. Tôi xin đưa ra đây hai thí dụ: Ví
như một bình nước hôi nhơ dẫy đầy, ông đem nước thơm sạch đổ
vào. Vì nước dơ đã đầy, nước sạch tất phải dội ra ngoài, song
ít nhứt nó cũng lưu lại trong bình một vài giọt. Nếu ông cứ bền
tâm đổ vào mãi, ngày kia bình nước hôi sẽ hóa ra nước sạch
thơm. Lại ví như ông đau bịnh dạ dày, uống thuốc chi cũng đều ói
mửa ra. Ông cứ bền lòng dùng ngay thuốc trị bịnh dạ dày mà uống,
đừng thay đổi thuốc chi khác. Mỗi phen uống tuy có bị ói mửa,
nhưng chất thuốc cũng lưu lại ít nhiều, lần lần bệnh của ông sẽ
dứt. Bệnh phiền n? vọng tưởng của chúng sanh cũng thế, dùng
thuốc niệm Phật điều trị tự nhiên là thích đáng, nếu thay đổi
m? làm sao thành công? Như có người dùng phèn lóng nước, nó
chưa kịp trong, lại nóng nảy vội quậy lên đổ muối vào, đổ muối
chưa kịp trong, lại quậy lên đổ vôi bột vào. Cứ thay đổi mãi như
thế, làm sao nước trong cho được? Thế nên vấn đề dứt vọng
niệm, không phải do nơi thay đổi nhiều phương pháp, mà ở nơi lựa
một phương pháp thích hợp rồi thật hành cho bền lâu là thành
tựu.Ể Vị ấy nghe xong gật đầu cho là hữu lý.
Như đ?nói, muốn được định tâm, điểm cãn bản
là phải dụng công cho bền lâu. Tuy nhiên nếu sợ niệm lực tán
loạn, cần có phương tiện để tâm dễ yên tịnh, thì nên áp dụng
pháp Thập Niệm Ký Số đã trình bày ở trước. Phép này do dùng
hết tâm lực ghi nhớ từ một đến mười câu, nên dễ vào tịnh
định. Nếu tâm còn rối loạn và không thể dùng phép Thập Niệm Ký
Số, thì trong mỗi câu niệm chỉ cần chú tâm ghi giữ cho chắc một
chữ ỀAỂ. Khi chữ A còn thì mấy chữ khác đều còn, nếu mê mờ
để cho nó mất, tất nãm chữ kia cũng mất. Lại chữ A cũng chính
là chữ căn bản, và là mẹ của tất cả chữ. Chú tâm vừa niệm
vừa ghi chắc chữ A, lâu lâu tự nhiên tâm và cảnh đều tiêu tan
dung hợp thành một khối, lượng rộng lớn dường hư không, Phật
và mình cũng đều mất. Lúc bấy giờ đương nhi? chữ A cũng không
còn. Nhưng lúc trước nó mất là do bởi tâm xao động rối loạn,
lúc này nó không còn chính thuộc về trạng thái dung hóa của
thường định. Đây là hiện tượng tâm cảnh đều không, điểm sơ
khởi để đi vào Niệm Phật Tam Muội.
Tiết 61 Mười Phương Tịnh Độ Và Đâu Suất Tịnh Độ
Trong mười phương quốc độ, có vô số c? Phật mầu
đẹp tinh sạch trang nghi?, chẳng hạn như thế giới Tịnh Lưu Ly trong
Kinh Dược Sư, thế giới Chúng Hương và Diệu Hỷ trong Kinh Duy Ma Cật.
Nhưng tại sao ta không niệm danh hiệu chư Phật để cầu sanh về các
Tịnh Độ ở mười phương, lại chỉ phát nguyện sanh về Cực Lạc? -
Trong ấy có ba nguy? do:
Do sự giới thiệu khuyên dạy của đức Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni, bảo nên cầu sanh về cõi Cực Lạc. Theo lời cổ đức,
thì ngoài sự kiện cõi Cực Lạc có nhiều duyên nhiệm mầu thích
hợp cho việc nhiếp hóa căn cơ ở các cõi Uế Độ, đức Bổn Sư
không muốn thuyết minh nhiều về những Tịnh Độ khác, sợ e chúng
sanh khởi niệm so sánh phân vân, tâm không qui nhứt. Do việc đủ
duy? nhiệm mầu để nhiếp hóa, mà không những riêng ở tại cõi
Ta Bà, các chúng sanh ở vô số thế giới trong mười phương đều
cầu về Cực Lạc.
Do đức A Di Đà Thế Tôn có 48 lời thệ rộng lớn
trang nghiêm cõi Tịnh Độ, nguyện tiếp dẫn từ bậc Bồ Tát, cho đến
hàng phàm phu nhiều tội ác.
Do vì chúng sanh ở cõi này có nhân duyên lớn với
Phật A Di Đà và Bồ Tát Quán Thế Âm ở cõi Cực Lạc. Điều minh
chứng là khi các Phật tử gặp nhau đều chào mừng bằng câu A Di
Đà Phật và lúc bị tai nạn thường niệm danh hiệu đức Quán Thế
Âm.
Bởi những lẽ trên, mà cõi Cực Lạc có những
điểm ưu thắng để cầu sanh hơn các Tịnh Độ ở mười phương.
- Về Đâu Suất Tịnh Độ, Phương Luân cư sĩ, một vị
uy? bác về Phật học đ?trình bày ý kiến của ông như sau:
Tại thế giới này, về phương trên có cung trời
Đâu Suất nội viện, do đức Di Lặc Bồ Tát làm chủ. Nơi ấy cũng
tốt đẹp trang nghi?, đức Di Lặc hằng thuyết pháp, chư thượng
thiện câu hội tu hành, nên gọi là Đâu Suất Tịnh Độ. Trong Kinh Di
Lặc Thượng Sanh và Hạ Sanh, đức Thích Tôn cũng giới thiệu quốc
độ ấy rất tinh tường và khuyên nên cầu sanh. Sở dĩ có sự
giới thiệu đó, bởi bản ý đức Thích Tôn muốn cho hành giả
trước theo Di Lặc Bồ Tát học tập, tương lai lại theo ngài hạ sanh
mà được đắc quả trong ba hội Long Hoa. Điều này chính do đức Bổn
Sư khuyến tán, nhân đó người tu Phật cũng có nhiều vị cầu về
Đâu Suất Tịnh Độ. Hơn nữa, Di Lặc Bồ Tát từng nói luận Du Già
Sư Địa, Ngài là thỉ tổ của tông Duy Thức. Thế nên người tu về
Duy Thức Tông phần nhiều đều có tâm nguyện cầu sanh Đâu Suất, cho
chỗ tu hành tiến đến mức cao thâm. Đối với việc này, người
cầu sanh Cực Lạc chỉ có tán thán đức Thích Tôn lịng từ bi vô
lượng, khéo mở nhiều phương tiện độ sanh. Lại cũng tán dương
những vị cầu về Đâu Suất tâm háo học không chán mỏi, ý nguyện
trở xuống c? trược để hóa độ rất tinh thành. Nhưng Đâu Suất
nội viện chưa là cảnh tối thắng, và chẳng phải chỗ thành đạt
chắc chắn cho những kẻ cãn cơ trung, hạ. Bởi trong ấy có ba sự
kiện:
Đâu Suất nội viện về y báo chẳng trang nghi? rộng
lớn nhiệm mầu bằng Cực Lạc. Về chánh báo lại cũng kém hơn, vì
ở Tây Phương hiện có đức Phật A Di Đà đang thuyết pháp, vô
lượng bậc Nhứt Sanh Bổ Xứ Bồ Tát giúp th? phần khuyến tấn
dắt dìu. Vả lại ở Cực Lạc dân chúng thọ mạng vô biên, là
chỗ nương về tốt đẹp an ổn nhứt.
Đức Di Lặc không có bản nguyện tiếp dẫn như Phật A
Di Đà sanh về Đâu Suất hoàn toàn nhờ tự lực, sợ e khi lâm
chung bịnh khổ hôn mê, không nắm vững kết quả.
Đâu Suất nội viện rất khó v?g sanh. Như khi xưa
Huyền Giác đại sư giới hạnh trang nghi?, tham thiền ngộ đạo, thông
suốt tam tạng đến chỗ sâu mầu. Khi lâm chung Ngài hội hàng đệ
tử lại, làm kệ phó chúc xong, bỗng ngửa mặt lên hư không nói:
ỀLạ này, ta đã phát nguyện sanh về Đâu Suất nội viện, sao nay
lại làm vị thiên chủ ở cung trời Dạ Ma?Ể Đệ tử thưa hỏi,
Ngài bảo: ỀChẳng phải việc các ngươi hiểu được.Ể Giây lát
lại nói: ỀTrên trời tân khách thật đông nhiều!Ể Nói xong liền
tịch.
Lại sau khi Phật diệt độ chín trãm nãm, ở xứ Thi?
Trúc có ba vị Bồ Tát huynh đệ với nhau, là Vô Trước, Thế Thân
và Sư Tử Giác, tu môn Nhật Quang Định đồng phát nguyện sanh Đâu
Suất nội viện. Ba người cùng ước hẹn, ai sanh lên trước phải
xuống báo tin cho hay. Sau Sư Tử Giác mãn phần trước, trải qua ba
năm tuyệt vô âm tín. Kế đó ngài Thế Thân viên tịch rồi cũng
bặt tin luôn. Hai năm sau vào một buổi chiều tối, ngài Vô Trước
đang ngồi giảng kinh, bỗng thấy giữa hư không ánh sáng chói lòa,
một vị thiên tử áo mão trang nghiêm hiện xuống, tự xưng mình là
Thế Thân, bảo đã được sanh lên Đâu Suất nội viện. Ngài Vô
Trước hỏi: ỀTại sao đến bây giờ mới cho hay?Ể Thế Thân đáp:
ỀEm vừa sanh l?, được đức Di Lặc xoa đảnh thuyết pháp, nghe
pháp xong đi nhiễu ba vịng rồi xuống đây liền. Bởi thời gian tại
Đâu Suất một ngày đ?, ở dưới này đến bốn trãm nãm, n?
thành ra làm cho anh nhọc lòng chờ đợi.Ể Vô Trước lại hỏi:
ỀCòn Sư Tử Giác ở đâu?Ể - Đáp: ỀTrong khi em đi nhiễu, nhìn ra
thấy Sư Tử Giác lạc vào ngoại viện, đang say mê theo thiên nhạc.Ể
Như ngài Huyền Giác là bậc cao tăng, ngài Sư Tử
Giác là hàng Bồ Tát, mà một vị chỉ lên đến cung trời thứ ba,
một vị tuy lên được cung trời thứ tư, nhưng lại lạc vào ngoại
viện, bị cảnh ngũ dục thắng diệu làm mê. Những bậc cao minh như
thế mà còn không đạt được kết quả sanh về Đâu Suất Tịnh Độ,
thì kẻ cãn cơ dung thường, tất chưa dễ chiếm phần hy vọng. Nhớ
lại khi xưa Bạch Lạc Thi? từng đề thi rằng:
Có người đi biển lại thần châu
Nói thấy cung viên hải đảo mầu
Thật đẹp, ti? đồng tay trỏ bảo:
Sẽ chờ Bạch Lạc bước lên lầu.
Đến mến không môn, chẳng học tiên
Chuyện ni e cũng việc hư truyền
Bồng Lai chẳng phải nơi ta ở
Về chỉ về cung Đâu Suất Thiên.
Bạch Lạc Thiên trước học tiên cầu về Bồng Lai, sau
lại bỏ tiên học Phật cầu về Đâu Suất. Đến lúc tuổi già, ông
lại niệm Phật cầu sanh về Cực Lạc. Đây có thể gọi là càng suy
gẫm lựa chọn, càng đi đến chỗ tinh vi vậy.
---o0o---