Lá Thơ Tịnh Ðộ
Ấn Quang Ðại Sư
Việt dịch: HT Thích Thiền Tâm
---o0o---
26/10/2553 05:47 (GMT+7) Kích cỡ chữ:
Mục Lục
Mấy
Lời Bày Tỏ
Lời
Bạt |
Phần
Một |
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Bao
Sư
Hiền
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Bộc
Đại
Phàm
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Cừu
Bội
Khanh
(1-2)
Cư
Sĩ
Cao
Thiệu
Lân
(1-2)
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Châu
Trí
Mậu
(1-3) |
Phần
Hai |
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Châu
Mạnh
Do
(1-10)
Cư
Sĩ
Đặng
Bá
Thành
(1-2)
Cư
Sĩ
Đặng
Tân
An
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Dương
Đức
Quan
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Hoàng
Hàm
Chi |
Phần
Ba |
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Hoàng
Tụng
Bình
Thơ
gởi
Cư
Sĩ
Tạ
Dung
Thoát
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Hà
Huệ
Chiêu
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Lâm
Giới
Sanh
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Lưu
Trí
Không |
Phần
Bốn |
Thơ
đáp
Ly
Tẩu
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Mã
Khế
Tây
(1-3)
Thơ
đáp
hai
Cư
Sĩ
Ngạn
Như,
Dật
Như
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Ngô
Hi
Chân
Thơ
đáp
Nhạc
Tiên
Kiều |
Phần
Năm |
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Phạm
Cổ
Nông
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Phật
Điển
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Tạ
Thành
Minh
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Trạch
Phạm
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Trần
Huệ
Siêu |
Phần
Sáu |
Thơ
gửi
Cư
Sĩ
Trần
Tích
Châu
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Úc
Trí
Lãng
Thơ
đáp
một
Cư
Sĩ
ở
Vĩnh
Gia
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Châu
Tụng
Nghiêu
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Uông
Võ
Mộc |
Phần
Bảy |
Thơ
gởi
Cư
Sĩ
Vệ
Cẩm
Châu
Thơ
đáp
Cư
Sĩ
Trương
Vân
Lôi
Thơ
gởi
Nữ
Sĩ
Từ
Phước
Hiền. |
Phần
Tám |
Thơ
khuyên
dạy
một
vị
Tỳ
Kheo
Ni
Thơ
gởi
Đế
Nhàn
Pháp
Sư
Một
bức
thơ
phúc
đáp
khắp
nơi
Thơ
đáp
Pháp
Hải
Đại
Sư | ---o0o---
Mấy Lời
Bày Tỏ
Trong
các hành môn của đức Phật đã chỉ
dạy, môn nào cũng có pháp nghi riêng biệt, từ cách thờ cúng, lễ
bái, trì tụng, sám hối, phát nguyện v.v... Như Mật Tông lại còn
sự lập đàn, kiết ấn nữa.
Riêng về
tông Tịnh Độ, tôi thấy có nhiều người không biết nghi thức
hành trì cho đúng pháp. Lại có những vị không hiểu nghĩa chữ
Hán, thành ra khi trì tụng chỉ đọc suông theo thông lệ, khó phát
lòng thành khẩn, không thể chuyển hướng tâm niệm của mình y
như lời văn. Nghĩ vì dòng đời cứ mãi trôi qua, người sau càng
ngày lại càng ít am hiểu văn từ Hán Việt, nên theo lời yêu cầu
của một số đông, tôi soạn dịch nghi thức
tu Tịnh Độ ra Việt văn để giúp bạn đồng tu.
Về
pháp nghi Tịnh Độ, có ba bậc: thượng, trung, hạ. Để không quá
đơn giản và khỏi phiền toái, tôi
căn cứ theo pháp nghi của ngài Từ Vân trong Tịnh Độ Thập Yếu,
soạn dịch nghi thức theo bậc trung. Về cách trì danh, vẫn có nhiều
đường lối, theo chỗ kinh nghiệm và so với thời cơ, tôi
chọn pháp Thập Niệm Ký Số.
Về
pháp nghi Tịnh Độ, thuở xưa chia làm năm môn, tôi ước kết
lại thành ba môn: lễ bái, trì tụng và phát nguyện hồi hướng.
Vả lại, pháp môn Tịnh Độ có chuyên tu và kiêm tu; có vị
chuyên niệm Phật, có vị lại kiêm tụng kinh, trì chú, sám hối
hoặc tham thiền. Theo Ấn Quang Pháp Sư, thì người tu tịnh nghiệp
phải lấy sự niệm Phật làm phần chính, mấy món kia làm phần
phụ, phần chính cố nhiên phải giữ cho nhiều hơn. Riêng về tụng
kinh, trì chú, nếu dùng để giúp cho phần niệm Phật và chí tâm
hồi hướng, cầu vãng sanh, cũng có thể gọi là chuyên tu.
Trên pháp
môn trì danh, sự hơn kém thật ra không phải ở nơi nghi thức, mà
ở chỗ: âm thanh rành rõ hay lờ mờ, tâm niệm thành khẩn hay thờ
ơ tán loạn, công trì tụng sâu nhiều hay cạn ít. Nếu người biết
tu thì một lượt chiêm lễ, một câu xưng danh, công đức cũng
hơn kẻ không biết tu rất nhiều. Tuy nhiên, nếu không có pháp
nghi cho đúng, thì công đức hành trì thì cũng khó phát huy đến
chỗ viên mãn. Và vì thế tôi mới soạn ra nghi thức nầy.
Xưa và nay
cách nhau, chúng sanh căn cơ sở thích đều
sai khác, tôi không dám gọi việc làm nầy là hợp với mọi
người, cũng không dám cho nghi thức đây là hơn những pháp nghi
đã có, chỉ tùy chỗ mong cầu mà lạo thảo viết ra vậy thôi.
Liên Du Thích Thiền Tâm
---o0o---
Lời Bạt
Trong
quyển nầy, ta thấy Ấn Quang Pháp Sư, về cách khuyến hóa, chỉ
dùng lời lẽ bình thường chân thật, mà điểm cốt yếu duy ở một
chữ thành. Người học đạo biết đặt chân từ chỗ bình thật
đi vào, thì không còn vọng cầu xa xôi; có chí thành khẩn thiết
tất dễ cảm thông với Phật. Sự huyền diệu của đạo chính
là ở chỗ đó. Cho nên thuở xưa, một vị Tổ Sư đã bảo: 'Tâm
bình thường là đạo.' Nhưng, trên đường giải thoát, các tông
khác tuy cũng dùng tâm bình thường thanh tịnh làm căn bản, song chỉ
nương ở tự lực, riêng môn Tịnh Độ đã chuyên dùng tự lực lại
kiêm chú trọng về tha lực. Như bên tông Thiền tuy tham cứu câu
niệm Phật, nhưng chỉ dùng đó để ngăn làn sóng vọng tưởng,
trở về tâm thanh tịnh; bên tông Mật như phái Lạt Ma giáo ở
Tây Tạng, cũng có người chuyên trì danh hiệu của một đức Phật,
một bậc Bồ Tát hay một vị thần, song họ chỉ xem đó là một
câu chú, hoặc một đấng ủng hộ mà thôi. Tuy nhiên, nếu đem so
sánh, ta thấy bên Mật có điểm thắng hơn bên Thiền, vì bên Mật
trong khi tu niệm đã biết giữ ba nghiệp thanh tịnh (tam mật
tương ưng) để tiêu trừ vọng tưởng đồng thời lại dùng công
đức, năng lực của chân ngôn hay hiệu Phật, giúp sức phá tan hoặc
nghiệp, để mau chứng quả Bồ Đề. Nhưng đó là những lối tu
hành của bậc thượng căn, hơn nữa chúng sanh từ kiếp vô thỉ
đến nay gây nên nghiệp chướng vô lượng vô biên, dù có tu được,
cũng khó hy vọng trong một đời phá hết phiền hoặc, thoát đường
sanh tử. Và một khi nghiệp hoặc còn chừng một mảy tơ, cũng bị
luân hồi, mà đã luân hồi tất dễ quên mất túc căn, bị trần
cảnh mê mờ lôi cuốn vào trong lục đạo! Khác hơn thế, môn Tịnh
Độ bậc căn cơ thượng, trung, hạ đều có thể tu; cách tu chỉ
dùng tâm thanh tịnh làm nền tảng, rồi từ nơi đó khởi công
năng chí thành khẩn thiết niệm danh hiệu Phật cầu sanh Tịnh Độ.
Nếu đủ lòng tín nguyện trì danh, không luận người đã dứt hết
phiền não, dù cho kẻ nghiệp nặng như biển cả non cao, trong một
đời cũng được Phật tiếp dẫn sanh về Tịnh Độ. Khi niệm Phật
chí thành, trong ấy có ba năng lực: sức Phật, sức Pháp và sức
công đức không thể nghĩ bàn của tự tâm. Sức Phật là được
Phật phóng quang nhiếp thọ, thường thường hộ trì. Sức Pháp
là hồng danh A Di Đà vẫn đầy đủ muôn đức, chí thành niệm một
câu tất sẽ tiêu tội nặng sanh tử trong tám mươi ức kiếp, phước
huệ tăng thêm. Sức công đức của tự tâm là tâm ta có đủ mười
pháp giới, trong khi ta niệm Phật thành khẩn, thì pháp giới ác bị
tiêu ngưng, pháp giới lành biến chuyển lớn mãi cho đến khi
thành thục, kết quả lúc mạng chung sẽ hóa sanh trong liên bào
nơi cõi Tây Phương. - đây, ta cần nên phân biệt có hai lối niệm
Phật tương tợ như Tịnh Độ mà không phải thuộc về tông Tịnh
Độ: 1/ Niệm Phật tương tục mong đàn áp vọng tưởng chứng ngộ
bản tâm, không cầu vãng sanh, giống như tông Thiền. 2/ Niệm Phật
như trì một câu thần chú, mong Phật ủng hộ cho xa lìa ma chướng,
tiêu hoặc nghiệp, hiện đời phước huệ tăng thêm, mà không cầu
vãng sanh, giống như tông Mật. Niệm Phật như thế là lạc với
đường lối của Tịnh Tông, chỉ được kết quả nhỏ mà mất sự
lợi ích lớn. Nếu người biết trì niệm hiệu như giữ gìn bổn
mạng, chỉ tha thiết cầu sanh Tây Phương, thì tuy không cầu dứt
phiền não mà phiền não tự tiêu, không cầu sanh phước huệ mà
phước huệ tự nhiên thêm lớn, cho đến không cầu chứng ngộ
mà hoặc sớm hoặc chầy cũng được chứng ngộ; kết quả trong một
đời sẽ thoát vòng luân chuyển, lên vị Bất Thối nơi cõi bảo
liên. Thế thì chỉ thành tâm niệm Phật cầu vãng sanh, trong ấy
đã có đủ Thiền và Mật rồi. Cho nên „n Quang Đại Sư thường
nói: 'Pháp môn Tịnh Độ thống nhiếp cả Thiền, Giáo, Luật, cao
siêu hơn Thiền, Giáo, Luật.'
Môn Niệm Phật
xem giản dị mà có công năng rất huyền diệu như thế, nên một
hạng người học Phật vì nhận thức không thấu đáo, sanh tâm tự
cao, bài báng, khinh thường. Bởi thế, có kẻ dẫn câu niệm Phật
đem về lý tánh, cho lời nói trong các kinh Tịnh Độ là tượng
trưng. Lại có một hạng người nhiều chủng tử ngoại đạo,
đem sáu chữ niệm Phật bố khắp chi thể, hoặc hợp câu niệm Phật
với phép luyện khí cho đi tuần hoàn trong châu thân, hoặc dùng
câu niệm Phật tụ hỏa nơi ấn đường. Họ lại lầm cho đó là
quí báu, chỉ mật thọ nhau trong phòng kín không dám tuyên dương,
sợ e lạm truyền. Sự lầm lạc ấy khiến cho nhiều người mang
chứng lớn bụng, mờ mắt, đau đầu, kết cuộc chỉ có tổn hại
không được lợi ích. Nên biết pháp môn Tịnh Độ chính do đức
Thích Ca Mâu Ni nói ra, sáu phương chư Phật đều khen ngợi; các bậc
Đại Bồ Tát, Đại Tổ Sư như đức Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh,
Long Thọ đều tuân giữ; các Kinh Đại Thừa như Hoa Nghiêm, Pháp
Hoa, Đại Bảo Tích, Đại Bát Nhã đều tuyên dương. Kẻ ngoại đạo
vì tà kiến, hủy báng môn Tịnh Độ, vẫn không đáng nói; hàng
Phật tử nếu sanh tâm tự cao hủy báng, tức là vô tình hủy
báng ngôi Tam Bảo, ngăn lấp con đường giác ngộ của mọi người.
Tại sao thế? Vì môn Tịnh Độ là cửa mầu giải thoát duy nhất,
yên ổn nhất của chúng sanh đời mạt pháp; chính đức Phật đã
từng có lời huyền ký thuở xưa.
Trên đây,
không phải tôi cố ý phân biệt môn Tịnh Độ giữa các tông
phái, hay thiếu mỹ cảm với những kẻ đã lầm lạc, mà chính
vì tưởng niệm ân sâu của Phật, muốn cho mọi người đồng
được lợi ích đó thôi. Tuy nhiên, trên đường đạo, sở thích
của mỗi người có khác nhau, khúc nhạc hương quê chưa dễ cảm
được lòng du khách! Xem quyển nầy, ai có mến „n Quang Pháp Sư,
cũng nên theo Ngài mà đọc bài ca quy khứ:
Phải
nên phát nguyện, nguyện vãng sanh,
Đất
khách sơn khê mặc người luyến?
Tự
không muốn về, về sẽ được,
Quê
xưa trăng gió có ai tranh?
Người
Bạn
Sen
Liên
Du Thích Thiền Tâm
quangduc.com
|