Phần Ba
Thơ đáp Cư Sĩ Hoàng Tụng
Bình
Thơ gởi Cư Sĩ Tạ Dung Thoát
Thơ đáp Cư Sĩ Hà Huệ
Chiêu
Thơ đáp Cư Sĩ Lâm Giới Sanh
Thơ đáp Cư Sĩ Lưu Trí Không
|
Thơ đáp Cư Sĩ Hoàng
Tụng Bình
Bệnh do thân sanh, thân do nghiệp sanh, muốn
cho bệnh mau lành, các hạ nên
tha thiết sám hối để tiêu trừ túc
nghiệp. Với việc phòng thất, cũng phải tự răn cấm thì bệnh
mới khỏi tăng thêm. Bất luận bệnh gì, nếu không răn chừa
sự vợ chồng chung chạ, tất nhiên khó được lành.
Hàng ngoại đạo
rất nhiều có đến trăm ngàn phái,
nhưng cách dụng
công của họ đều không ngoài việc vận khí luyện đơn. Bên
ngoại đạo dù có bảo người xem
kinh niệm Phật, cũng là việc bề ngoài, chính họ cũng không
cho đó là đạo.
Khi truyền giáo, các ngoại đạo thường lựa vào lúc ban đêm,
đóng kín các cửa lớn cửa sổ, bên
ngoài phái người qua lại canh tuần, chỉ để một người thọ
giáo vào thất. Trước khi được
điểm đạo, người thọ giáo phải phát lời thề rất độc
địa thảm ác. Nếu kẻ nào trái với
lời dạy bảo của họ, sẽ phải chịu kết quả của lời
thề ấy. Khi phát thệ rồi, họ lại
chỉ khiếu điểm huyệt hoặc ở đầu, ở mặt, ở thân. Những
huyệt nơi thân cần phải cởi áo mới chỉ điểm được. Việc
làm như thế thật là một bức sáo
để mê hoặc người. Họ lại thêm rằng một phen truyền
qua, không tu cũng có thể đắc quả. Giả sử bỏ hẳn những
việc chỉ điểm bí
mật cùng phát lời thề, mà đem công
bố rõ ràng ra cho mọi người tự do lựa chọn, tất hạng
ấy không còn căn
cứ đứng vững. Trong Phật Pháp không có việc bí mật truyền
lén nhau, cũng không dạy người phát lời thề độc ác, kẻ
nào tin thì theo, không tin thì thôi.
Các hạ đã niệm Phật
mà còn sợ lạc vào ngoại đạo, ấy cũng bởi chính mình
không phân minh sự tà chánh giữa đôi bên, chỉ bắt chước
theo người phát sanh tín tâm, thật ra chưa có lòng tin chân thật.
Nếu có lòng tin chân thật thì chỉ gắng sức tu trì, cần
gì phải lo ngoại đạo
đông nhiều và sợ mình đi
lạc lối? Các hạ đã tự nhận có
nhiều túc nghiệp nên mang bệnh dữ, thế thì cần phải ăn
chay niệm Phật và vì những oan gia đời trước mà làm việc
siêu độ. Nói siêu độ
đây, cũng không cần phải thỉnh tăng chúng làm
Phật sự, chỉ tự mình thành thật khẩn thiết niệm Phật
và niệm Quán Âm mà thôi. Các hạ chớ nên nghĩ rằng; chỉ
niệm một đức Phật, một vị Bồ Tát sợ e không lành bệnh.
Nên biết niệm Phật là pháp rất tròn mau thẳng tắt trong Phật
Pháp, sự lợi ích vượt hơn tất cả pháp môn. Nếu có sai
biệt là do tâm mình chí thành cùng không chí thành, chẳng phải
pháp có linh nghiệm hoặc không linh nghiệm.
Thơ gởi Cư Sĩ Tạ Dung Thoát
Nơi quê hương của các hạ được biết pháp
môn Niệm Phật, là do Lâm Giới Sanh thỉnh kinh sách Tịnh
Độ đem về truyền bá. Nếu trong đời trước các vị cư
sĩ không trồng căn lành đối với pháp môn ấy, thì đâu có
thể lấy gương xưa làm thầy, sau khi
nghe rồi liền sanh lòng tín nguyện, tự tu và khuyên người
ư? Và, đâu có thể trong vòng không đầy
mười lăm năm, đạo pháp lan rộng như
thế ư?
Xét về thiên tư và cảnh duyên của các hạ
đối với thời cơ pháp vận hiện nay, thì chỉ nên giữ năm
giới để hộ trì Tam Bảo, truyền Tịnh Độ mà
khuyên chúng vãng sanh, là hợp lý hợp thời và cần yếu hơn
hết. Tại sao tôi lại nói như thế? Vì, các hạ tuổi đã hơn
bốn mươi, căn tánh chưa phải là bậc thượng, nếu muốn
nghiên cứu Tạng Kinh, tham hỏi hàng tri thức, e cho pháp môn
quá rộng, ngày tháng chẳng nhiều, rồi khi trở tay không kịp,
có sự ăn năn. Lại
hiện nay tuy có bậc tri thức, song tăng chúng phần nhiều đều
ô lạm, bạn đồng hạnh ít người (đồng hạnh: bạn giúp
đỡ về phần tu tập, có thể khiển trách lẫn nhau, khiến
cho đạo hạnh tiến thêm), nếu khi chí hướng thượng suy kém,
tất sự biếng trễ cũng nương theo, khó bề gắng gượng.
Như tôi năm hai mươi mốt tuổi, từ
cha mẹ xuất gia, cũng có thể gọi là lập chí mạnh và phát
tâm chơn. Nhưng đến
nay tuổi đã năm mươi ba, mà bên
tông bên giáo đều
không sở đắc chi cả. Nghĩ tủi thẹn luống phụ ơn mẹ
cha, uổng làm con đức Phật! Song cũng may, đối với môn Tịnh
Độ, khi mới xuất gia học Kinh A Di Đà, tôi đã
sanh lòng tin, thật chưa nhờ bậc tri thức nào chỉ dạy. Vì
lúc đó thầy thọ nghiệp và các vị tri thức chỉ chuyên về
sự tham cứu, những lời khai thị đều
phá môn Tịnh Độ. Tôi lượng biết sức mình,
nên không lay chuyển theo ai, dù Phật, Tổ hiện thân cũng chẳng
đổi ý, huống nữa là lời nói của bậc tri thức bên tông
Thiền? Lại hiện nay, chánh yếu tà mạnh, việc hộ trì Phật
Pháp, với tục thì dễ, với tăng
lại khó. Nếu các hạ giữ chắc năm giới, chuyên
niệm Phật, về phần tu thân lời và hạnh hiệp nhau, thì có
thể truyền bá chánh pháp, làm lợi ích cho mọi người. Song
chớ nên ở địa vị thầy mà tự cao, và thọ tiền của để
lợi dưỡng. Phải đem lẽ chánh khuyên bảo những kẻ thân sơ,
tất mọi người đều mến đức vâng theo lời. Đó gọi là:
'sửa mình được
chánh, tuy không bảo người cũng theo, như cỏ ở trước ngọn
gió tất phải thuận chiều vậy.' Lệnh lang không tin đạo Phật,
cũng chẳng nên ép, đợi khi nào cảnh ngộ đẩy đưa khiến
cho tánh thiên chơn phát lộ, chừng
ấy chỉ dùng một lời nhắc bảo, tự nhiên tấm lòng của y
sẽ phơi phới hướng về chánh pháp, khó nỗi cản ngăn.
Liên xã mới mở phải có quy tắc nhất định
và thận trọng về việc cho người nữ dự vào. Chẳng nên bắt
chước theo các nơi khác, thờ ơ không kiểm ước, để
đến đỗi một pháp vừa lập trăm mối tệ sanh theo, điều
ấy rất cần yếu. Không cơ duyên được lễ bái xá lợi và
gần gũi tòng lâm, việc ấy có hại gì? Nếu khi thấy tượng
Phật, tưởng như Phật sống, thấy Kinh Phật, lời Tổ, tưởng
như Phật, Tổ đối trước mình chỉ dạy, tấm lòng kỉnh sợ
không dám biếng trễ, tức là trọn ngày được thấy Phật và
gần gũi các bậc Bồ Tát, Tổ Sư, thiện tri thức. Như thế,
xá lợi và tòng lâm có thấm vào đâu?
Về tập quán thô lỗ, đừng nói hàng
cư sĩ, nếu người xuất gia mà không chơn tu, lại còn quá hơn
thế tục. Muốn trừ bỏ tánh ấy, trước phải nhận rõ các
pháp giữa đời đều
là khổ, không, vô thường, vô ngã,
hoặc nhơ nhớp, thì ba ngọn lửa tham, giận, mê, sẽ dịu tắt
lần. Nếu chưa dứt được, phải dùng lòng ngay thật, xót thương,
nhẫn nhục, tha thứ mà đối trị. Thảng hoặc còn chưa dứt,
cứ tưởng rằng mình đã chết, thì bao nhiêu sự nóng bức
đều hóa thành mát mẻ tươi nhuần. Kinh Báo Ân dạy phải lần
lượt thọ giới, người xuất gia khi thọ giới cũng y theo thứ
đệ: giới Sa Di, Tỳ Kheo và Bồ Tát. Nhưng người xưa thọ
giới là phát tâm vì dứt sự sanh tử, trái
lại, người đời nay phần nhiều đều muốn cho ra vẻ một
vị đại tăng, đắc giới hay không, chẳng cần nghĩ đến. Vì
thế, mấy ông sư thiếu học thiếu tu bên ngoài, đều là những
người đã thọ qua ba đàn đại
giới cả. Sự tệ đó do bởi vua Thế Tổ nhà Thanh bỏ độ
điệp, bãi lệ thí tăng mà ra. Cho đến
những kẻ xưng là thầy người, song chỉ cầu danh lợi, tham
quyến thuộc, cũng xuất phát từ nguyên nhân ấy. Tôi e chư
tăng ở quí địa
không rõ điều nầy, bảo rằng độ người xuất gia là việc
rất tốt, để cho hạng vô lại lẫn vào
cửa Phật phá hủy chánh pháp, nên chẳng sợ tị hiềm mà
nói thẳng ra.
Môn Tịnh Độ là
pháp rất mầu nhiệm, viên đốn
nhất trong một đời thời giáo của đức Như Lai. (Viên đốn:
một pháp đủ tất cả pháp là viên,
hiện đời tu, hiện
đời giải thoát là đốn). Hạng phàm
phu thấp kém đều
được dự vào, bậc Đẳng Giác Bồ Tát cũng không thể vượt
ra ngoài pháp ấy. Thật là con đường
rất tắt để mau đi đến quả Phật cho thượng thánh hạ
phàm. chư Phật, chư Tổ đều dùng
môn nầy làm chiếc thuyền từ để
độ khắp tất cả chúng sanh. Đối với một pháp
như thế mà chẳng sanh lòng tin, hoặc tin mà không chơn thiết,
đó là người nghiệp chướng sâu nặng, không ưng được giải
thoát, sẽ phải chịu khổ luân hồi không biết lúc nào ra khỏi.
Khi đã ở trong vòng sanh tử, dù có được làm thân trời, người
cũng ngắn ngủi
như lữ khách nghỉ nơi quán trọ. Trái lại, phần đọa vào
ác đạo, thời gian rất lâu dài, như
người ở yên nơi quê nhà. Mỗi khi tôi nghĩ đến
điều này, bất giác cả sợ, nên chẳng
nài mỏi nhọc, khẩn thiết tỏ với đồng nhân. Nay xin dẫn
một bằng chứng rõ ràng, để các hạ phát thêm lòng tín
nguyện và đem ra khuyên bảo mọi người.
Những kinh chuyên nói về tông Tịnh Độ,
có ba quyển: Phật Thuyết A Di Đà,
Quán Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Thọ Kinh. Ngoài ra, các kinh
điển Đại Thừa
phần nhiều đều phát minh pháp môn nầy. Như Kinh
Hoa Nghiêm là khi đức Phật mới thành đạo, vì các bậc
pháp thân Đại Sĩ
trong bốn mươi mốt vị: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, nói pháp cao cả về giới
ngoại, hàng phàm phu và nhị thừa đều
không thể biết được. Sau rốt, trong phẩm
Nhập Pháp Giới, Thiện Tài đồng
tử vâng lời dạy của đức Văn Thù, đi tham phỏng khắp các
bậc tri thức. (Đồng tử: danh từ xưng tặng bậc dứt hoặc
chứng chơn, phá vô minh trở về bản tánh, tâm hạnh trong sạch
chân thật ví như kẻ đồng tử. Người đời không biết, vẽ
hình tượng nhi đồng là sai lầm. Như đức
Văn Thù, trong Kinh Hoa Nghiêm có chỗ gọi
là Văn Thù Đồng
Tử. Các kinh khác đôi khi cũng dùng danh từ nầy để xưng những
bậc Bồ Tát). Ban đầu Đồng Tử ra mắt ngài Đức Vân nghe
pháp môn Niệm Phật, liền chứng bậc Sơ Trụ. Kế đó lần
lượt tham học mọi nơi đều được chứng, cho đến vị tri
thức thứ năm mươi ba là đức Phổ Hiền. Bấy giờ, Bồ Tát
Phổ Hiền dùng oai thần gia bị, khiến cho chỗ chứng của Đồng
Tử bằng mình và chư Phật, (đây gọi
là Đẳng Giác Bồ Tát) rồi khuyên ngài Thiện Tài cùng hải
chúng Bồ Tát trong cõi Hoa Tạng phát mười nguyện rộng lớn,
đem công đức ấy
hồi hướng về Tây Phương Cực Lạc, để cầu mau phương tròn
quả Vô Thượng Bồ Đề. Lại, chương Hạ Phẩm Hạ Sanh
trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: 'Những chúng sanh tạo năm
tội nghịch, mười điều ác, làm đủ những việc chẳng lành,
sẽ phải đọa vào địa ngục, trải qua nhiều kiếp chịu sự
khổ vô cùng. Nhưng nếu kẻ ấy khi sắp
chết gặp bậc thiện tri thức khuyên bảo niệm Phật, liền
vâng lời niệm đủ mười câu, tức thì tội chướng tiêu trừ,
được vãng sanh.' Như Trương Thiện Hòa,
Trương Chung Quì, trong Long Thơ Tịnh Độ
Văn chính là hạng người đó. Thế thì,
trên như đức Văn
Thù, Phổ Hiền là những bậc Đại
Bồ Tát, dưới như kẻ phạm năm nghịch mười ác sắp đọa
tam đồ, đều thuộc về cơ nhiếp hóa của môn Tịnh Độ.
Bao nhiêu đó cũng đủ thấy pháp môn này quảng đại không bỏ
sót một ai, và đức A Di Đà hạnh
nguyện rộng sâu, xem chúng sanh bình đẳng.
Tôi thường có đôi liễn:
'Bỏ đường tắt Tây Phương, chín cõi chúng
sanh khó thể được tròn nên quả
giác.
Rời cửa
mầu Tịnh Độ, mười phương chư Phật không vẹn toàn độ
khắp hàng mê.'
Các hạ gắng phát lòng mạnh mẽ tinh tiến,
đảm đương pháp
này. Nên đem
những ngôn luận hợp cơ về sự truyền dương Tịnh Độ của
người xưa, giảng lại cho trong thôn ấp nghe. Làm
sao cho ở trần không nhiễm, nơi tục tu chơn, mới hợp với
danh nghĩa hai chữ dung thoát. Vì dung thoát là lẫn với trần
mà thoát khỏi trần vậy. Đó là ý kiến quê hèn của tôi,
các hạ nghĩ thế nào? Xin suy gẫm lại.
Thơ đáp Cư Sĩ Hà
Huệ Chiêu
Được thơ, biết ngươi túc căn rất
sâu, hiện hạnh lại tinh thuần nên mới có những cảnh tượng
lạ ấy. Nhưng người đời
nay phần nhiều hay ưa danh vọng, có được nửa phần một phần,
liền nói đến trăm ngàn muôn phần. Như trong quyển ký lục
của vị cư sĩ nọ, những cảnh giới của y đều do tự ý vẽ
vời ra khác hẳn với sự thật. Ngươi đã không nói dối, nhưng
e hoặc khi có tập quán đó thì lầm lỗi rất nhiều! Đức
Phật đem tội nói dối liệt vào trong năm giới căn bản, chính
là để phòng ngừa mối tệ ấy. Như
về việc thường, không thấy nghe nói thấy nghe, tội hãy
còn nhẹ. Nếu cố ý muốn xây dựng lâu các giữa hư không,
dối nói những cảnh giới nhiệm mầu, chưa chứng đắc
bảo rằng chứng đắc, tức là đại vọng ngữ, tội này nặng
hơn giết, trộm, dâm trăm ngàn muôn ức lần. Người đã
phạm, nếu không hết sức sám hối, tất sẽ bị
đọa
vào ngục A Tỳ, vì lời nói ấy làm
cho chúng sanh nghi lầm, có thể phá hoại Phật Pháp. Vậy ngươi
cần phải thận trọng với những cảnh đã thấy, chớ nên
nói thêm bớt một mảy ly. Nếu thêm bớt tức là có lỗi,
vì bậc tri thức chưa chứng được
tha tâm đạo nhãn, chỉ dùng lời nói
làm bằng cớ để
phán đoán mà thôi. Đem những cảnh giới như thế tỏ với bậc
trí thức để cầu quyết trạch sự chơn, giả, chánh, tà,
thì không lỗi. Nếu không vì việc chứng minh quyết trạch,
ý muốn tự khoe cũng có lỗi. Lại, chỉ nên tỏ cùng bậc
tri thức cầu xin chứng minh, ngoài ra chớ nên nói với ai, nếu
lộ bày thì có hại, vì về sau không còn được
thấy cảnh giới ấy nữa. Đây là điều quan hệ thứ nhất
của người tu hành, mà trong Thai giáo
thường nói đến. Cho nên người niệm Phật đời nay phần
nhiều hay bị ma dựa,
đều do dùng tâm vọng động mong được những cảnh lạ thường.
Đừng nói cảnh ấy là ma, dù có thắng
cảnh, nếu sanh lòng vui mừng tham trước cũng bị tổn hại,
huống chi vị tất quả thật là thắng cảnh ư? Nếu người
có công hàm dưỡng, dứt hẳn tâm vọng động, khi thấy các
cảnh giới, không vui mừng, tham trước, sợ hãi, nghi ngờ,
thì dù gặp ma cảnh cũng được lợi ích, nói gì là cảnh
nhiệm mầu? Sở dĩ được như thế, là bởi không bị ma chuyển
nên có thể tiến triển thêm. Những điều trên đây
ta ít hay đem nói với người,
nay nhân
vì ngươi có việc ấy nên phải dẫn bày chỉ rõ.
Trước tiên, ngươi lễ Phật, bỗng thấy tượng
Quán Âm Đại Sĩ hiện ra là không đích
xác. Nếu quả đúng cảnh Phật thì không đến đỗi nhân khi
suy nghĩ: 'Tượng cùng Quán Kinh không
hợp', liền ẩn hình. Nhưng do
đó lòng tin của ngươi càng tha thiết,
thì cũng là nhân duyên tốt. Song chẳng nên thường muốn thấy
hình tượng, chỉ thành tâm lễ bái mà thôi. Như thế mới khỏi
lo có sự rủi ro khác.
Khi ngươi sắp ngủ, thấy trước mắt có ánh
sáng trắng và lúc lễ Phật, thấy hình
Phật đứng lơ lửng giữa hư không, tuy thuộc về cảnh tốt,
song chớ nên tham trước mong cầu, vì
nếu thế, về sau cảnh ấy không còn hiện nữa. Xem căn
tánh của ngươi dường như kiếp trước đã từng tu tập thiền
định, nên mới thường có những tướng ấy. Đời nhà
Minh, ông Ngu Thuần Hi tịnh tu ở núi Thiên Mục, chỗ tử quan
của Cao Phong Diệu Thiền Sư thuở xưa, lâu ngày tự biết việc
quá khứ vị lai, hay nói trước những cơn mưa nắng và sự họa
phước của người. Liên Trì Đại
Sư nghe được việc ấy, gửi thơ cực lực bài
xích, cho rằng đó
là lưới ma. Thuần Hi tỉnh ngộ, quả
nhiên về sau không còn đoán
trước được nữa. Cho nên người học đạo phải để tâm
lo việc lớn, nếu chẳng thế tất sẽ bị việc nhỏ làm tổn
hại. Đừng nói chi những cảnh giới ấy, dù cho được ngũ
thông cũng phải gác bỏ bên ngoài, mới
có thể chứng lậu tận thông. Nếu một bề tham trước thì
công phu khó tiến, hoặc có khi thối lui, điều nầy cần phải
biết.
Ngươi nằm mơ thấy vào điện Phật, nhớ hai
câu kinh, cũng thuộc về cảnh lành. Song hai câu ấy nghĩa lý
rất rõ ràng không chi
khó.
'Phản hư y giác lộ. Quy chơn ngộ thường không' (Bỏ giả
theo đường giác. Về chơn ngộ thường không), là
ý nói: Chúng sanh vì nhận lầm sự vật giữa đời
đều có thật, nên mới mê man xoay vần
trong nẻo luân hồi. Nếu có thể quán sát biết sự vật
đương thể vốn không, thì liền ra khỏi lối mê, nương theo
đường giác, trở
về bản tánh, ngộ được lý thật tướng, chơn không, chơn
thường. Hai câu ấy chưa thấy ở đâu, cũng có khi đó là
câu văn đã ghi nhớ đời trước, chưa chắc chính thực văn
kinh. Muốn phân biệt ma cảnh hay thánh cảnh, phải xét lại cảnh
ấy xem có hợp với lời dạy trong kinh chăng? Và
như quả là thánh cảnh, thì khiến cho người khi trông thấy
tâm liền thanh tịnh, không vọng động chấp trước; nếu là
ma cảnh thì tâm liền vọng động
chấp trước không được thanh tịnh. Lại
nữa, quang minh của Phật tuy sáng ngời song không làm xót con
mắt, nếu không đúng thế, tức là ma trá hình. Khi Phật hiện,
dùng lý: 'các tướng hữu vi, đều là giả dối' mà gạn,
thì càng hiện rõ. Nếu ma trá hiện, dùng lý ấy xét gạn
thì liền ẩn hình. Đây là
phương
châm rất vững chắc để khán nghiệm sự chơn giả vậy. Ban
đêm, ngươi thấy ánh sáng trắng và
cảnh trong ngời giữa hư không đó là do tâm thanh tịnh hiện
ra, đâu nên cho là tướng pháp giới tịch chiếu không hai? Nếu
nghĩ như thế là đem phàm lạm thánh, tội lỗi chẳng ít. Người
tu tịnh nghiệp như chẳng lấy các cảnh giới làm mong cầu,
thì cũng không có hiện cảnh chi nhiều. Nếu trong lòng chuyên
muốn thấy cảnh, tất cảnh giới hiện ra phức tạp. Lúc ấy,
như không khéo dụng tâm, hoặc có khi bị tổn hại, phải để
ý nhớ kỹ điều
này.
Pháp môn Tịnh Độ dùng
Tín, Nguyện, Hạnh làm tông. Có tín nguyện, không luận công
hạnh nhiều ít, cạn sâu, đều
được vãng sanh. Không tín nguyện,
dù cho tu đến cảnh quên cả năng
sở, thoát hẳn căn trần, cũng khó hy vọng được về Cực Lạc.
Bởi vì,
nếu
quả chứng được thật lý của cảnh ấy, có thể dùng tự
lực để thoát sanh tử, thì không cần luận. Như chỉ có
công phu dẹp trừ vọng chấp tỏ thấy lý ấy, chưa được
thật chứng, tất nhiên khó vãng sanh
khi thiếu Tín Nguyện. Nhà tham thiền khi bàn luận Tịnh Độ,
đều bỏ tín nguyện đem về tông thiền. Như y theo đó mà
tu, cũng có thể khai ngộ, nhưng nói đến sự thoát sanh tử,
e cho mộng tưởng không thành, bởi
vì chưa dứt hoặc nghiệp. Nên biết phàm phu được
về Tịnh Độ, đều do lòng tín nguyện
cảm Phật, nên nương nhờ từ lực,
đới nghiệp vãng sanh. Nếu không phát tín nguyện, lại dẫn
câu niệm Phật đem về tự tâm, thì
làm sao cảm được
Phật? Đạo cảm ứng đã không hợp,
tất chúng sanh cùng Phật riêng cách, dùng môn hoành siêu làm
pháp thụ xuất, sự lợi ích cạn mà tổn thất lại sâu. Lợi
ích, là tu y theo nhà Thiền nói, cũng có thể tỏ ngộ; tổn
thất, là bỏ tín nguyện nên không được tiếp dẫn vãng
sanh. Vì thế người chơn thật tu Tịnh Độ không dùng được
lời khai thị của nhà tu Thiền, bởi pháp môn và tông chỉ
đều riêng khác.
Vậy ngươi nên xét kỹ lại. Như chẳng cho lời
ta là phải, thì cứ thỉnh cầu nơi bậc đại thông gia, hoặc
may có thể hợp với tâm chí của ngươi. Về việc ấy, „n
Quang này vẫn không chấp trước chi cả.
Thơ đáp Cư Sĩ Lâm Giới Sanh
Đã mấy năm không gặp nhau, tấc lòng
hằng tưởng nhớ
đến cư sĩ. Mùa thu rồi, nhân lệnh huynh Lâm Chi Phân đi dự
kỳ hương thí, có đem thơ đến Phổ Đà, tôi mới được biết
sự tu trì của cư sĩ trong thời gian gần đây. Nghe nói trong
nhà bất hạnh, mất đứa con yêu,
nên cư sĩ hôm sớm thương buồn không an, tôi muốn nói rõ sự
lý nhân quả, nhưng vì công việc biên soạn quá gấp, nên chỉ
viết thơ kể sơ lược qua. Ngày rằm hôm nay, thầy Triệt Quyền
lên núi thăm, trong
câu chuyện lại nói đến tình trạng
oán trách của cư sĩ, và những tà thuyết của một vài người
tục dựa vào đó bảo: làm lành mang họa, tu hành không lợi
ích chi... Tôi nghe xong bất giác ngậm ngùi, e rằng bậc thượng
trí nhân việc này trễ nải sự tu, kẻ hạ ngu lại dám làm
ác, nên không nại quê hèn, xin đem
lời ngay để cùng nhau bày tỏ.
Trong Kinh Phật thường nói: Quả
báo thông ba đời và người sanh con cái lược có bốn nhân.
Quả báo thông ba đời gồm có: hiện báo, sanh báo và
hậu báo. Hiện báo là đời nay làm dữ, lành, đời
nay được họa phước; như sĩ tử cần học tập, hiện thân
được công danh. Việc này mắt phàm
đều có thể thấy. Sanh báo là đời nay làm dữ lành, đời
sau được họa phước; như ông cha trọng văn chất, con cháu
mới phát đạt, hiển vinh (sanh báo ước nơi bản nhơn và việc
cách đời khó chỉ rõ, là tạm mượn
thí dụ để cho dễ
hiểu, xin đừng nhân lời mà hại
ý). Việc này mắt phàm không thấy, thiên nhãn còn có thể thấy
được. Hậu báo là đời nay làm dữ, lành, đến
đời thứ ba, thứ tư, hoặc ngàn muôn đời, cho đến vô lượng
vô biên hằng hà sa kiếp về sau mới
được họa phước;
như vương nghiệp của đời Thương, Châu, thật ra m* đầu từ
ông Tắc, ông Khiết. Việc ba, bốn đời thiên
nhãn còn thấy được,
nếu việc trăm ngàn kiếp thiên nhãn
không thể thấy, nhưng đạo nhãn của hàng Thanh Văn thấy biết
rõ ràng. Đến như việc vô lượng vô biên hằng hà sa kiếp,
chỉ có đấng Như Lai ngũ nhãn tròn sáng mới nhìn sáng suốt
trước sau. Cảnh ấy còn không phải là nhãn giới của Thanh
Văn, huống chi là thiên nhãn, nhục nhãn? Biết được
quả báo ba đời, thì sự làm lành
được phước, dữ mang họa, lời thánh vẫn không sai, và
giàu nghèo, sang, hèn, thọ, yểu, cùng, thông đều có
số phần, đâu từng thiên lệch? Như
hình đẹp xấu thế nào, bóng hiện trong gương cũng như thế
ấy, người trí biết sửa đổi hình, kẻ ngu luống ghét hờn
với bóng! Cảnh nghịch vẫn thuận chịu, là biết vui số phần;
không oán trời trách người, mới có thể lập mạng.
Con cái có bốn nhân: báo ân, báo oán, trả nợ,
đòi nợ. Báo ân là con đối
với cha mẹ đời trước có mang ân, vì
báo ân nên đến làm con, trọn đời phục dịch nhọc nhằn,
khiến cho song thân khi sống còn được
phụng dưỡng an vui, lúc qua đời được chôn cất, cúng tế.
Cho đến hoặc con làm những việc
giúp nước an dân, danh nêu thanh sử, để cho thiên hạ đời
sau nhân kính người mà mến trọng cả cha mẹ như các ông: Tăng
Lỗ Công, Trần Trung Túc, Vương Quy Linh, Sử Đại Thành... Đời
nay những con thảo cháu hiền đều thuộc về hạng
ấy.
Báo oán là cha mẹ đối
với con đời trước có điều phụ nghĩa, nó mới đến làm
con để báo oán. Khi còn nhỏ con đã
sanh lòng ngỗ nghịch, lớn lên lại gây họa làm lụy cho cha
mẹ; khi song thân còn sống, không cung phụng, lúc chết, để
nhục lây đến kẻ cửu tuyền. Thậm
chí có khi, con nắm quyền chức trọng yếu rồi làm điều trái
phép, khiến cho nhà cửa nát tan, dòng họ diệt tuyệt, mồ mả
bị đào xiềng, để thiên hạ đời sau nhân thóa mạ người
mà ghét luôn cả cha mẹ, như bọn Vương Mãng, Tào Tháo, Đổng
Trác, Tần Cối...
Trả nợ là đời trước con có thiếu tiền của
nơi cha mẹ, vì trả nợ nên đến làm con, nếu số thiếu nhiều
thì trả đến mãn đời
song thân, thiếu ít hoặc đến nửa chừng rồi đi. Như con học
vừa thành danh thoạt chết mất, buôn bán mới được lợi bỗng
lìa trần.
Đòi nợ là đời
trước cha mẹ có thiếu tiền nơi con, nay nó đến làm con để
đòi lại. Như số nợ nhỏ thì cha mẹ
chỉ tốn tiền cho con ăn mặc, thuốc men, học hành, cưới gả,
và dạy bảo đủ
điều muốn cho mai sau thành lập, nhưng
vì kỳ hạn đã mãn, nó liền qua đời. Nếu số nợ
lớn,
có khi đứa con xài phá tiêu tan hết
sự sản của cha mẹ mới thôi.
Nay tôi xem lệnh tử dường như đòi
nợ mà đến, may vì số nợ có ít, nên vừa lớn khôn đã vội
từ trần. Vậy cư sĩ nên sám hối nghiệp đời trước, gắng
sức tu hành. Do sự bồi phước ấy, chắc có lẽ
rồi đây cư sĩ sẽ sanh được đứa con quí làm rực rỡ
tông môn chớ chẳng không! Xem như đức Khổng Tử là
thánh nhơn mà người con một mất thu* trung niên, thầy Nhan
Uyên là bậc đại hiền, song lại tuổi xuân ngắn ngủi, ông
Nguyên Hiến nghèo xơ xác, thầy Tử Lộ bị
tuẫn
nạn. Bá Di, Thúc Tề chết đói nơi núi Thú Dương, còn
ngài Cừ Bá Ngọc cùng khốn * nước Vệ. Cư sĩ cho rằng thánh
hiền do tu đức mà bị trời phạt ư? Hay là sống chết,
giàu sang đều có số mạng? Vậy cư sĩ chỉ nên trách đức
mình chưa đủ, chớ
hỏi điều họa phước làm chi. Được
như thế kiết thần sẽ đến, tai tinh tự nhiên
lánh xa.
Trong đời sống, con người có đủ tám sự
khổ, dù sanh lên cõi trời cũng khó
khỏi năm tướng suy, chỉ thế giới Cực Lạc * phương Tây
là thuần vui không khổ. Biết đâu do cư sĩ có công hoằng dương
pháp môn Tịnh Độ nên thánh thần đem đứa con không phước
thọ ấy, làm một mũi kim thống tỉnh đâm trên đỉnh đầu,
để cư sĩ thấy rõ ba cõi như nhà lửa
không an, các sự khổ dẫy đầy
rất đáng sợ, kiếp người vô thường mau như chớp, khi đại
hạn đã đến không ai cầm giữ được ai. Tất cả pháp hữu
vi như mộng huyễn, bóng bọt, bây giờ chưa tỉnh ngộ cần
tu tịnh nghiệp thì có khác nào gỗ
đá vô tình? Người có ý chí đâu chịu làm khối thịt biết
đi, chạy, để ngày
kia đồng chết mục với cỏ cây? Đâu nỡ tự cam ở cảnh
phàm ngu, cứ mãi nâng cao cảnh thánh?
Gặp duyên nhắc nhở khẩn yếu như thế mà không phấn phát,
nghe được chánh pháp mà không chịu làm theo, ấy là Phật phụ
chúng sanh hay là chúng sanh phụ Phật?
Là người trí huệ, mong cư sĩ xét nghĩ...
Thơ đáp Cư Sĩ Lưu Trí Không
Vừa
rồi
tiếp được thơ, biết ngươi bệnh lâu mới lành
mạnh, lòng rất vui mừng! Việc sống thác trọng đại,
cơn vô thường chóng mau, tai nghe nói đến tuy kinh sợ, song không
thống thiết bằng tự thân đã từng
trải những giờ phút gần kề cảnh ấy. Vậy ngươi nên
phát lòng đại Bồ
Đề, đem tình cảnh mình khuyên trong
thân quyến, bạn bè, và người có duyên thì sự lợi ích mới
được rộng.
Trong thơ nói: vì niệm Phật mau gấp nên mới
lao hơi, đó là tại ngươi không khéo dụng tâm. Niệm Phật
phải tùy sức mình, hoặc niệm thầm hay ra tiếng,
niệm lớn hay nhỏ đều được, sao lại cứ một mặt niệm
to tiếng, để đến đỗi lao hơi thành
bệnh như thế? Bệnh nặng của ngươi tuy bởi nơi thương khí
mà ra, song kỳ thật là do sức nghiệp từ vô lượng kiếp đến
nay phát hiện. Bởi ngươi niệm Phật tinh tấn, nên mới chuyển
hậu báo làm hiện báo, đổi quả nặng thành quả nhẹ, chớ
nên vì đó mà thối chí, nghi ngờ. Một cơn bệnh ấy, đã
tiêu không biết bao nhiêu kiếp số những tội ác đáng
lẽ phải đọa vào tam đồ. Thế mới biết sức Phật khó
nghĩ, ơn Phật khó đền, nên sanh
lòng vui mừng, hổ thẹn và càng thêm tin tưởng. Từ đây, phải
siêng năng tu hành, đem
môn Tịnh Độ khuyên người, khiến cho những kẻ thân sơ đều
được sanh về Cực Lạc. „y mới không phụ ơn đức Phật
đã dùng cơn bệnh thức tỉnh và chuyển
trừ tội chướng cho mình.
Non Phổ
Đà không cần đến làm chi, vì tiền
đi về tốn kém nhiều. - nhà niệm Phật công phu dễ tiến, lại
khỏi phí của tiền sức khỏe. Như thế có phải tiện lợi
hơn không?
---o0o---