Lời tựa cuốn Ấn Quang Pháp Sư Khai Thị Lục
Thế gian biến loạn do đâu? Nói gọn một lời: Do tâm tham -
sân - si của chúng sanh tạo nên mà thôi. Tâm tham thuận theo sự hưởng thụ vật
chất càng tăng trưởng mãnh liệt, hễ có chút gì chẳng toại ý liền ganh đua ngay.
Nếu vẫn chẳng toại ý liền công kích, chiếm đoạt, đấu đá khiến cho tử vong, tai nạn
xảy ra. Bởi đó, dịch lệ đói kém xảy ra, hết thảy tai họa phát khởi. Lửa sân
hừng hực, cả thế giới cháy sạch thành tro.
Chỉ mình đức Phật ta xiển dương sự thật Khổ, Không để trị
lòng tham của chúng sanh, hoằng dương tông chỉ từ bi để trị lòng sân của chúng
sanh. Ngài lại dạy pháp môn Tịnh Ðộ để chỉ dạy chúng sanh con đường lìa khổ
hưởng vui, phương tiện vượt ngang ra khỏi tam giới. Là Phật tử, phải tin vào
thể tánh bình đẳng của tam giới, hiểu rõ tướng trạng nhân quả khổ vui, biết
công dụng tự tha cảm ứng, khởi vô duyên Đại từ, đồng thể Đại bi, ngày nào nỗi khổ
của chúng sanh chưa trừ thì ngày đó trách nhiệm của kẻ thất phu chưa tận, nên
trong ngày ấy, các sự nghiệp thỉnh pháp, tùy học, sám hối, cúng dường chưa thể
ngưng nghỉ được. Tông chỉ kiến lập pháp hội Hộ Quốc Tức Tai của Bồ Ðề Học Hội và
các hội viên đã giống như thế, mà lão pháp sư Ấn Quang phó hội diễn thuyết cũng
do bổn hoài ấy. Ðạo lý Hộ Quốc Tức Tai nào có phải là cầu gì ở bên ngoài đâu!
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng
sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy! Ai nấy có
thể làm các điều thiện thì hết thảy những việc lợi ích chúng sanh không gì là
chẳng làm, quốc gia ắt đạt đến cảnh bình trị vậy! Ai nấy có thể tu hạnh Tịnh Ðộ
thì sẽ tự tịnh ý mình. Một niệm niệm Phật thì một niệm tương ứng với bi tâm của
đức Di Ðà. Niệm niệm niệm Phật thì niệm niệm tương ứng với bi tâm của đức Di Ðà.
Tịnh niệm tiếp nối, tham sân tự trừ. Nếu thật sự được như thế thì Sa Bà chính
là Tịnh Ðộ, còn lo chi cõi nước chẳng yên, tai nạn chẳng dứt nữa ư? Yếu nghĩa
trong những lời khai thị nhiều phen của Ðại Sư chẳng ngoài điểm này.
Nguyện ai đọc đến cuốn Ngữ Lục này sẽ tin nhận, vâng làm
theo. Ðọc rồi mới biết trong đạo lý Hộ Quốc Tức Tai, hễ buông bỏ pháp môn Tịnh
Ðộ là chẳng được!
Mùa Ðông năm Bính Tý,
Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã kính đề
Triệt Ngộ Ðại Sư Khai Thị
Một là tin hễ có sanh ắt có tử, khắp cả thiên hạ từ xưa
đến nay chưa hề có ai tránh khỏi.
Hai là tin nhân mạng vô thường, hơi thở ra khó còn, hơi hít
vào khó giữ, một hơi thở chẳng vào thì đã thành đời sau.
Ba là tin đường luân hồi hiểm trở, một niệm lầm lạc liền
đọa nẻo ác. Ðược thân người như đất đọng trên móng tay, mất thân người như đất
trong Đại địa.
Bốn là tin nẻo khổ dài lâu, một phen chịu báo trong tam đồ
là cả năm ngàn kiếp, biết khi nào mới ló đầu ra nổi!
Năm là tin lời Phật chẳng luống, vầng mặt trời, mặt trăng
đây còn rơi rụng được, núi chúa Diệu Cao còn khuynh động được, chứ lời chư Phật
chẳng hề sai khác.
Sáu là tin thật có Tịnh Ðộ giống hệt như Sa Bà hiện tại,
hiện hữu rành rành.
Bảy là tín nguyện liền sanh, nay mình đã nguyện thì nay
mình sẽ sanh. Kinh đã giảng rõ, nào dối ta đâu!
Tám là tin sanh rồi chẳng thoái, cảnh thù thắng, duyên
mạnh mẽ, tâm thối chuyển chẳng khởi.
Chín là tin một đời thành Phật, thọ mạng vô lượng, việc gì chẳng xong!
Mười là tin pháp vốn duy tâm. Duy tâm có hai nghĩa: cụ (có
đủ tất cả) và tạo (tạo ra tất cả). Các pháp [vừa nói] như trên tâm ta sẵn đủ,
đều do tâm ta tạo ra.
Tin lời Phật thì tạo thành bốn pháp sau (tức là từ điều 5
đến điều 8); chẳng tin lời Phật sẽ tạo ra pháp bốn trước (điều 1 đến điều 4).
Vì thế tin sâu lời Phật là tin tự tâm; tu Tịnh nghiệp, đầy đủ mười thứ tín tâm
này thì sanh về Lạc Ðộ như đưa bằng khoán lấy về vật xưa, nào khó khăn
gì!
Tháng
7 năm Giáp Tý, Nột Ðường Ðạo Nhân viết.