Ngày thứ nhất: Niệm Phật, ăn chay là căn bản để hộ quốc tức tai
Ấn Quang vốn là một ông tăng tầm thường, vô tri, vô thức,
chỉ biết đến cơm cháo, chỉ biết niệm Phật dăm câu, tuy sống uổng quang âm hơn
bảy mươi năm, nhưng thực chưa hề triệt để nghiên cứu Phật pháp. Pháp hội Hộ
Quốc Tức Tai lần này, các vị kèo nài tham gia, chẳng từ khước được. Vả lại ,
đây là chuyện quan hệ đến phước lợi quốc gia mà cũng là trách nhiệm tôi phải tận
lực nên tôi chẳng nề mình giản lậu, đến dự pháp hội này. Ðiều tôi giảng hôm nay
chẳng phải là lý luận cao sâu gì, chỉ là thuật lại phương pháp căn bản để “tức
tai hộ quốc”. Còn về yếu nghĩa của pháp hội lần này, ngày mai sẽ bàn đến.
Mục đích của pháp hội lần này là hộ quốc tức tai. Làm sao
để đạt được mục đích đó? Tôi cho rằng phương pháp căn bản là Niệm Phật bởi vì
sát kiếp và hết thảy tai nạn đều do ác nghiệp của chúng sanh chiêu cảm. Nếu tất
cả mọi người đều niệm Phật thì nghiệp này sẽ xoay chuyển được. Nếu chỉ có một
ít người niệm Phật thì nghiệp ấy cũng có thể giảm khinh. Pháp môn Niệm Phật tuy
là vì cầu sanh Tịnh Ðộ, liễu thoát sanh tử mà lập ra, nhưng sức tiêu trừ nghiệp
chướng của nó thật cũng cực kỳ lớn lao.
Người chân chánh niệm Phật trước hết ắt phải ngăn tà, giữ
lòng thành, giữ vẹn đạo nghĩa, tận hết bổn phận, đừng làm các điều ác, vâng làm
các điều thiện. Cần nhất là phải hiểu rõ nhân quả, tự hành, dạy người hành.
Hiện tại không có bậc Thánh để gần gũi, bao tà thuyết tàn hại nhân nghĩa đều là
do bọn Tống Nho bài bác nhân quả - luân hồi đến nỗi sanh ra ác quả này. Nếu như
ai cũng hiểu rõ lý nhân quả thì chẳng một ai dám xướng lên những thuyết sai lầm
ấy cả.
Trong thế gian, người tốt hoàn toàn chẳng biến cải rất ít, kẻ xấu hoàn toàn
chẳng biến cải cũng rất ít; đa số là kẻ lúc thượng, lúc hạ, khi tốt, khi xấu,
cho nên giáo hóa là điều tối khẩn yếu vậy. Khổng Tử nói: “Chỉ bậc thượng trí và
kẻ hạ ngu là chẳng thay đổi”. Chỉ cần ra sức giáo hóa thì không một ai là chẳng
thể khiến họ cải ác quy thiện, buông dao đồ tể, lập địa thành Phật. Chỉ là do
nơi con người tin tưởng, tận lực mà hành thôi.
Ngày nay xã hội Trung Quốc sở dĩ loạn lạc đến như thế này
chính là do không được giáo hóa; nhưng giáo hóa phải bắt đầu từ lúc còn nhỏ,
như hay nói: “Dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về”. Nếu lúc
nhỏ chẳng dạy, đến lúc lớn khó lòng lay chuyển. Vì sao? Tập tánh đã thành,
không cách chi thay đổi được. Vì thế, người niệm Phật cần phải chú ý giáo dục
con cái mình trở thành người tốt, giữ tấm lòng tốt, nói lời tốt, làm việc tốt.
Nếu ai cũng làm được như thế thì tai nạn tự tiêu, quốc gia cũng giữ được bình
trị dài lâu.
Chân lý mầu nhiệm căn bản của pháp môn Niệm Phật nằm trong
ba kinh Tịnh Ðộ. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm đã chỉ rõ: Niệm
Phật chính là căn bản chẳng thể thiếu khuyết của hạnh nguyện. Vì Thiện Tài đã
viên mãn tâm Thập Tín, tham học với Ðức Vân tỳ kheo, được Ngài dạy cho pháp môn
Niệm Phật, liền nhập vào Sơ Trụ, phần chứng Phật Quả. Từ đấy, ông tham học với hơn
năm mươi vị thiện tri thức, hễ nghe xong liền chứng, từ Nhị Trụ đạt đến Thập
Ðịa là bốn mươi địa vị. Tối hậu, ở chỗ Phổ Hiền Bồ Tát, được nghe Ngài khai thị,
được sức oai thần gia bị, sở chứng ngang với ngài Phổ Hiền, ngang với chư Phật,
liền thành Ðẳng Giác Bồ Tát. Sau đó, Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười Đại nguyện vương
dẫn dắt quy hướng Cực Lạc, khuyến khích, cổ vũ Thiện Tài và Hoa Nghiêm hải chúng
nhất trí tinh tấn hành trì, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới hầu mong viên
mãn Phật Quả.
Vì thế, biết rằng: Pháp môn Niệm Phật, tự phàm phu thuở
ban đầu cũng có thể chứng nhập được, mà rốt cục, bậc Ðẳng Giác cũng chẳng thể
vượt ra ngoài nổi. Thật là pháp môn Tổng Trì trên thành Phật đạo, dưới giáo hóa
chúng sanh, thành thỉ, thành chung của mười phương tam thế hết thảy chư Phật.
Vì thế, pháp môn này được cửu giới đồng quy, mười phương chung tán thán, ngàn
kinh cùng xiển dương, vạn luận đều tuyên thuyết.
Phàm là người học Phật thì có một việc bắt buộc phải chú ý
là rất cần kiêng ăn mặn vì ăn mặn sẽ tăng trưởng sát cơ. Con người cùng hết
thảy động vật cùng sanh trong vòng trời đất, tâm tánh vốn là bình đẳng, chỉ vì
ác nghiệp nhân duyên đến nỗi hình thể sai khác quá xa. Nếu đời này quý vị ăn
thịt chúng nó, đời mai sau chúng nó sẽ ăn thịt quý vị. Oan oan tương báo, đời đời
sát cơ chẳng có lúc nào kết thúc. Nếu như ai ai cũng ăn chay được thì sẽ bồi dưỡng
tâm từ bi của chính mình, tránh khỏi sát cơ. Nếu không, dù cho niệm Phật, nhưng
chỉ lo sướng miệng, vui bụng, ăn đẫy thức tanh hôi, có được lợi ích mấy nhờ học
Phật đâu!
Hơn nữa, người đời nay ưa nói Thiền Tịnh Song Tu. Xét đến
cùng cái gọi là Song Tu đó chỉ là khán câu “người niệm Phật là ai?” Ðấy là chú
trọng tham cứu, chẳng ăn nhập gì đến việc sanh Tín, phát nguyện cầu sanh của
Tịnh Ðộ cả! Thêm nữa, Thiền Tông nói: “Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành
Phật” là nói đến đương nhân đích thân thấy được tâm nay vốn sẵn đủ Phật tánh.
Mật Tông nói: “Ngay thân này thành Phật” (tức thân thành Phật) tức là ngay thân
này được giải thoát sanh tử thì đó là “thành Phật”. Nếu vội hiểu những lời đó
có nghĩa là [ngay nơi chính thân này] có thể thành tựu được vạn đức đầy đủ,
phước huệ viên mãn thì lầm to, lầm to rồi!
Bởi lẽ, “kiến tánh thành Phật” của Thiền Gia là sở chứng của địa vị Đại triệt, Đại
ngộ, phải đoạn được Kiến Hoặc và Tư Hoặc trong tam giới mới có thể liễu sanh
thoát tử. “Tức thân thành Phật” của Mật Tông chỉ là nói về địa vị mới liễu
thoát sanh tử mà thôi. Ðịa vị đó là bậc A La Hán trong Tiểu Thừa đã liễu sanh
tử, bậc Sơ Tín trong Viên Giáo đã đoạn Kiến Hoặc, bậc Thất Tín đoạn Tư Hoặc rồi
mới liễu xong sanh tử. Bậc Thất Tín và A La Hán tuy cùng liễu sanh tử nhưng
thần thông, đạo lực khác xa nhau vời vợi. Bát Tín, Cửu Tín, Thập Tín phá được
Trần Sa Hoặc, cho đến Thập Tín Hậu Tâm phá một phẩm Vô Minh, chứng một phẩm Tam
Ðức bí tạng, nhập vào Sơ Trụ, thành bậc Pháp Thân Ðại Sĩ. [Trải qua] Thập Trụ,
Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Ðịa, Ðẳng Giác là bốn mươi địa vị rồi mới chứng
nhập Phật vị. Lịch trình lâu xa như thế đó, làm sao mà một bước vọt đến nơi ngay
được?
Người tu Tịnh Ðộ đã sanh về Tây Phương liền liễu sanh tử
thì cũng là “tức thân thành Phật”, nhưng Tịnh Tông chẳng nêu cái thuyết tiếm
phận ấy. Ðem so với việc thuần cậy vào tự lực của nhà Thiền thì sự khó dễ thật
là sai khác một trời một vực. Kính mong các vị dự hội suy nghĩ chín chắn điều
này.
Ngày thứ hai: Bàn về nhân quả báo ứng và sự giáo dục trong gia đình
Ngày hôm qua giảng về pháp môn Tịnh Ðộ, hôm nay giảng về ý
nghĩa của pháp hội Hộ Quốc Tức Tai. Muốn nói đến “hộ quốc tức tai” thì trước
hết phải biết là “hộ quốc” (giữ gìn đất nước) như thế nào? “Tức tai” (dứt trừ
tai nạn) như thế nào?
Tôi cho rằng muốn đạt đến mục đích ấy, có hai biện pháp:
Một là lâm thời, hai là bình thời. Nếu lúc bình thời có thể ăn chay niệm Phật
để cầu hộ quốc tức tai thì thật là có công đức vô hạn; mà lúc lâm thời, dốc
lòng thành kính cầu nguyện giữ yên đất nước, dứt bặt tai nạn cũng có hiệu lực
tương đương; nhưng vẫn chẳng bằng lúc bình thời mọi người hộ quốc tức tai thì
hay hơn. Bởi lẽ, nếu bình thời Đại chúng ăn chay niệm Phật, do nguyện lực tiếp
nối nên tà khí tiêu trừ, chánh khí tăng trưởng, ai nấy giữ tấm lòng tốt, nói lời
tốt, làm việc tốt thì tự nhiên quốc gia được giữ vững, tai họa chẳng khởi vậy.
Sách xưa có ghi: “Thánh nhân chẳng trị lúc đã bệnh, trị
lúc chưa bệnh; chẳng trị lúc đã loạn, trị từ lúc chưa loạn”. Bởi lẽ, đã loạn
thì trị khó bình, trị từ lúc chưa loạn thì dễ an. Trị quốc giống như trị bịnh,
có cách trị nơi ngọn, có cách trị nơi gốc. Trị bệnh là trị khi đã loạn. Bệnh đã
phát thì tìm lấy cách trị có hiệu quả nhanh chóng, chẳng được không đau đầu lại
trị bệnh đầu, đau chân thì chữa nơi chân, trị cái ngọn (triệu chứng) trước. Cái
ngọn đã lành, sau đấy mới trị cái gốc khiến cho khí huyết lưu thông điều hòa,
khỏe khoắn, sảng khoái. Gốc đã mạnh khỏe thì tự nhiên tinh thần phấn chấn, khả
dĩ hăng hái ra sức.
Hiện thời, quốc gia nguy nan như thể ngàn cân treo sợi tóc.
Tôi cho rằng hiện tại muốn bàn đến chuyện trị quốc thì phải trị cả ngọn lẫn gốc
cùng lúc. Cách kiêm trị không chi tốt hơn là trước hết phải niệm Phật, tận lực
làm lành, kiêng giết chóc, ăn chay, và hiểu sâu xa lý nhân quả trong ba đời.
Kiếp vận hiện tại của thế giới, những tai nạn chúng ta phải chịu đựng đều là do
quá khứ tạo nhiều ác nghiệp đến nỗi hiện tại cảm thọ khổ quả. Do đó, biết rằng:
những ác quả này là do ác nhân trong quá khứ tạo thành. Muốn tránh khổ quả phải
dứt khổ nhân. Quá khứ đã gieo khổ nhân thì chỉ niệm Phật, sám hối mới tiêu trừ
được nổi.
Hiện tại nếu chẳng gieo khổ nhân nữa thì tương lai sẽ khỏi
phải chịu khổ quả. Khổ nhân là gì? Là ba độc tham, sân, si. Thiện nhân là gì?
Nếu ai ai cũng hiểu rõ lẽ nhân quả thì chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều
lành, tai họa sẽ chẳng từ đâu mà khởi lên được nữa! Nhưng người đời nay chẳng
hiểu lý nhân quả nên lắm mối tư dục đầy ắp dạ, không điều ác nào chẳng làm, chỉ
biết có mình, chẳng biết có ai khác, nào biết lợi người chính là lợi mình, hại
người thật tai hại cho mình.
Vì thế, hằng ngày, tôi thường bảo: “Nhân quả là Đại căn
bản để thánh nhân trị thiên hạ, để Như Lai cứu độ chúng sanh. Bỏ nhân quả mà
toan bàn đến chuyện trị quốc bình thiên hạ khác gì tìm cá trên cây, chưa từng
thấy ai tìm được cả!” Phật dạy: “Muốn biết nhân đời trước, xem quả báo đời này.
Muốn biết quả mai sau, xem việc làm đời này”. Nếu như những điều mình tạo tác
đời này đều là việc ác, đời sau sao khỏi cảnh phải chịu khổ quả cho nổi! Nếu
những hành vi đời này đều là việc lành thì đời sau lo chi chẳng hưởng thiện
quả!
Kinh Dịch chép: “Nhà tích thiện ắt sự vui có thừa, nhà
chất chứa điều chẳng lành, tai ương ắt có thừa” (Tích thiện chi gia, tất hữu dư
khánh. Tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương). Kinh Thư chép: “Tích thiện,
giáng chi bách tường. Tích bất thiện, giáng chi bách ương” (Làm lành, trăm điều
tốt lành giáng xuống. Làm việc chẳng lành, trăm tai ương đổ xuống). Lý ấy hệt
như lý nhân quả của đức Phật ta đã giảng. Chữ “dư” đã nói đó chính là tàn dư
của chánh báo, chứ không phải là chánh báo. Chính người ấy trong đời sau tự
mình hưởng thụ điều vui mừng hay tai ương chính, còn dư báo lan qua con cháu.
Dư báo, dư ương đều là do đời trước tích chứa mà ảnh hưởng đến đời này
vậy.
Thế nhân chẳng biết nhân quả, cứ cho sau khi chết đi là đã
giải thoát hoàn toàn, không nghĩ rằng sẽ lại có quả báo thiện ác nữa. Ðây chính
là tà kiến sai lầm nhất của thiên hạ về đời sau vậy. Cần biết là: Người đã chết
đi rồi, thần thức chẳng bị diệt theo. Nếu con người biết thần thức chẳng diệt
thì ắt sẽ thích làm lành, chẳng dám làm ác. Nếu cho rằng chết đi là hết sẽ chỉ
cốt khoái ý chuyện trước mắt, mặc tình phóng túng, không điều ác gì chẳng làm.
Hành vi Đại nghịch cực ác ấy đều là kết quả của tà kiến đoạn diệt. Nếu hết thảy
mọi người thật sự có thể chẳng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì tự
nhiên thiên hạ thái bình, nhân dân an lạc. Nhưng đấy vẫn chưa phải là biện pháp
rốt ráo.
Thế nào mới là biện pháp rốt ráo? Chính là niệm Phật cầu
sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, và phải ngăn chặn điều tà, giữ lòng thành,
củng cố đạo đức, trọn vẹn bổn phận thì chẳng những chuyển được quốc vận, lại còn
tiêu trừ được tai nạn. Bởi lẽ, tai nạn ngày nay đều là do cộng nghiệp của mọi
người chiêu cảm. Nếu ai nấy đều có thể niệm Phật, làm lành thì chuyển được cộng
nghiệp, kiếp vận cũng tiêu tan. Ngay trong lúc chiến cuộc nổ ra ở đất Hỗ, những
người niệm Phật được linh cảm rất nhiều. Bọn họ chỉ tu một mình mà còn đạt được
sự linh cảm như thế, huống là tất cả mọi người cùng tu!
Vì thế, ta biết rằng: Ðại chúng chí thành khẩn thiết niệm
Phật có thể vãn hồi được quốc nạn. Lại như đức Quán Thế Âm Bồ Tát dùng ba mươi hai
ứng thân vào trong các cõi nước, tầm thanh cứu khổ. Nếu như có thể chí thành
tụng niệm thánh hiệu Quán Thế Âm thì liền được cảm ứng. Những chuyện linh cảm
xưa nay xem trong các sách vở có ghi chép rất nhiều, các vị có thể tự tìm đọc
lấy. Ngoài những thân đã thuật trong phẩm Phổ Môn: “Bồ Tát thấy nên dùng thân
nào để độ được thì liền hiện thân đó cứu độ” ra, nếu Ngài thấy nên dùng thân núi,
sông, Đại địa, cầu đò, đường sá để hóa độ được thì Ngài cũng hiện các thân núi,
sông, Đại địa, cầu đò, đường sá… để cứu độ chẳng thể nghĩ bàn, chơn thật chẳng
dối.
Con người hiện tại, kẻ phát được lòng tin chơn thật thì
ít, kẻ không tín tâm rất nhiều. Nếu tất cả mọi người phát được tín tâm, lại còn
có thể hành thiện thì có tai vạ nào mà chẳng tiêu diệt được? Bồi dưỡng tín tâm
của phàm nhân từ tuổi nhỏ là tốt nhất. Vì thế, cha mẹ hãy nên dạy con cái lẽ
nhân quả báo ứng, đạo lý củng cố đạo đức, tận hết sức mình ngay từ tuổi thơ ấu.
Nếu không, đến lúc trưởng thành, tập tánh đã thành, khó có tác dụng gì!
Ðiều quan trọng nhất là “thai giáo”. Nếu thai phụ có thể
ăn chay, niệm Phật, hành thiện, bỏ ác, mắt chẳng nhìn ác sắc, tai chẳng nghe
tiếng ác, thân chẳng làm việc ác, miệng chẳng nói lời ác, khiến cho đứa trẻ còn
trong thai đã bẩm thọ chánh khí khiến cho thiên tánh tinh thuần. Sanh ra, lại giáo
hóa thêm thì không đứa nào lại chẳng trở thành thiện nhân.
Xưa kia, các bà Thái Khương, Thái Nhậm, Thái Tự hiền thục,
nhu mì, đức hạnh giúp chồng dạy con, tạo nền móng cho vương nghiệp nhà Chu cả tám trăm năm. Họ chính là những tấm gương tiên
khởi. Vì thế, Ấn Quang tôi thường bảo: “Quyền trị quốc, bình thiên hạ, hàng nữ
nhân chiếm hơn quá nửa”. Bởi lẽ, trong gia đình, người chủ trì việc nhà đa phần
là phụ nữ. Ðàn ông thường hay lo việc ngoài. Nếu mẹ hiền thì những điều lọt vào
tai, đập vào mắt của con cái trong nhà đều là những điều dạy dỗ của mẹ, chịu
ảnh hưởng của mẹ, lợi ích vô cùng. Nếu lúc nhỏ để mặc cho chúng tánh tình kiêu
căng, phóng túng, tai nghe tự do, tuyệt chẳng lấy chuyện hiếu đễ, trung tín,
nhân quả báo ứng để giáo huấn thì đến khi khôn lớn sẽ khó gì mà không điều ác
nào không làm, trở thành quyến thuộc của Ma Vương, không hành vi nào là chẳng
ác.
Vì thế, cần phải nuôi dưỡng tâm lành của con cái từ lúc
nhỏ, quản giáo nghiêm ngặt. Phải biết là bọn sát nhân, phóng hỏa, không điều ác
gì chẳng làm hiện tại đa phần là do cha mẹ quen thói nuông chiều kiêu căng mà
nên nỗi. Thầy Mạnh dẫu hiền cũng cần phải do bà mẹ ba lần đổi chỗ ở, nghiêm
nhặt quản thúc mà thành, huống hồ là bọn phàm phu, tầm thường ư?
Hiện tại, ai nấy đề xướng nam nữ bình quyền, cho đó là
nâng cao nhân cách của nữ giới; kỳ thật, nam nữ thể chất bất đồng, năng lực,
trách nhiệm mỗi giới mỗi khác. Thánh nhân cho rằng vị trí chính đáng của nam giới
là ở ngoài, vị trí chính đáng của nữ giới là ở bên trong. Vị trí chính đáng ở
bên trong tức là chăm lo những việc trong gia đình như bếp núc, canh cửi, giúp
chồng dạy con v.v… Hiện nay nữ nhân đổi sang giành trách nhiệm của nam giới nên
bỏ phế vị trí chính đáng của mình; việc nhà không ai trông coi, con cái không ai
dạy, tai hại vô cùng. Tuy mang tiếng là nâng cao nhân cách của nữ giới, kỳ
thực, chẳng những chỉ khuynh đảo nhân cách phụ nữ lại còn phá hoại cơ sở của
gia đình nữa. Than thở khôn xiết! Xin những bậc nữ giới anh hiền hãy nhận thức
rõ nhân cách của chính mình ở tại đâu, ngõ hầu con cái trong gia đình đều thành
hiền thiện, thiên hạ lẽ nào còn chẳng thái bình nữa!
Vì thế, biết rằng: đạo trọng yếu để trị quốc, bình thiên
hạ ở ngay tại việc giáo dục trong gia đình, mà việc giáo dục trong gia đình, người
mẹ thực sự đảm nhiệm quá nửa. Lúc trong thai, con cái đã bẩm thụ khí chất của
mẹ, lúc sanh ra lại nhìn theo nghi thái của mẹ, lãnh thọ sự dạy răn của mẹ, cho
nên dễ thành hiền thiện. Ðiều này tuy chẳng hiện hình tích, nhưng lại là việc
trọng yếu để đạt đến thái bình. Tiếc rằng đa số các bậc vĩ nhân chưa thấy rõ
điều này.
Nguyện những bậc anh hiền trong nữ giới kể từ nay hãy chú
ý. Người đời nay mỗi khi gọi các bà là “thái thái” thì phải biết là ý nghĩa của
hai chữ “thái thái” rất cao quý, to lớn. Uyên nguyên của hai chữ ấy bắt nguồn
từ tận đời Chu. Thái Khương, Thái Nhậm, Thái Tự
đều là bậc thánh nhân trong nữ giới. Họ đều giúp chồng dạy con. Bà Thái Khương
sanh ra ba vị thánh nhân là Thái Bá, Trọng Ung và Quý Lịch. Bà Thái Nhậm sanh
Văn Vương. Bà Thái Tự đẻ ra Vũ Vương và Chu Công. Ba đời nữ thánh sanh ra ba đời
ông cháu mấy vị thánh vương tạo thành thời thịnh trị tốt đẹp nhất trong muôn
đời. Người đời sau gọi phụ nữ là “thái thái” tức là muốn đem so các bà ấy với ba
bà Thái. Do đấy, ngẫm xem, Thái Thái là danh hiệu không gì cao hơn nữa để tôn
xưng phụ nữ. Nữ giới thật cần phải có đức hạnh của ba bà Thái thì mới chẳng xấu
hổ với danh xưng đó. Rất mong các vị hiền nữ hiện tại đều có thể thực hiện đạo
giúp chồng dạy con, khiến cho con cái mình sanh ra đều thành hiền thiện. Có thế
mới chẳng phụ cái danh xưng ngưỡng mộ trên đây!
Kế tiếp, cần phải hiểu đúng vấn đề ăn chay. Con người và
hết thảy động vật vốn cùng thuộc loài hàm linh, nỡ nào giết hại tính mạng chúng
để thỏa mãn miệng, bụng mình. Thân ta dao vừa cắt phải một chút liền cảm thấy
thống khổ. Mới nghĩ đến đó, tim gan đau buốt, còn lẽ nào nỡ giết chúng ăn thịt?
Huống nữa kẻ sát sanh ăn thịt, lâu dần bị nhiễm, dễ khởi sát cơ. Ðao binh, tai kiếp
hiện tại đều là do đây mà phát khởi. Cổ nhân nói: “Dục tri thế thượng đao binh
kiếp; đản thính đồ môn dạ bán thanh” (Muốn biết can qua trong hiện tại. Lò mổ
xin nghe tiếng giữa đêm), thật đúng là như vậy. Nhưng thế gian có lắm kẻ tuy
cũng hiểu rõ đạo lý Phật pháp mà vẫn thấy kiêng giết, ăn chay là chuyện
khó.
Năm Dân Quốc thứ mười (1921), tôi đến Nam Kinh thăm bạn.
Ông ta mời ông Ngụy Mai Tôn đến gặp. Ông Ngụy tin Phật, niệm Phật, nhưng bảo là
chưa thể ăn chay. Tôi dặn ông hãy đọc kỹ Bài Văn Khuyên Tu Phóng Sanh của chùa
Cực Lạc ở Nam Tầm đăng trong bộ Văn Sao mấy mươi lượt sẽ ăn chay được. Bởi lẽ,
trong bài văn đó, trước hết nói chúng sanh và Phật tâm tánh chẳng hai. Tiếp đó,
nói đến bao kiếp làm cha, mẹ, huynh, đệ, vợ, con, quyến thuộc, sanh ra lẫn
nhau, làm oan gia đối đầu của nhau, giết chóc lẫn nhau. Tiếp đó, bài văn dẫn
kinh Phạm Võng, kinh Lăng Nghiêm làm chứng. Ðọc sâu nghĩ chín, chẳng những
chẳng nỡ ăn mà còn chẳng dám ăn nữa kia! Về sau, tôi biết là chưa đầy hai tháng
sau, Ngụy cư sĩ chẳng còn ăn thịt nữa.
Lại nữa, bà mẹ của cư sĩ Hoàng Hàm chưa thể ăn chay mà
cũng chẳng tin ăn chay là chuyện trọng yếu trong việc học Phật. Ông Hoàng Hàm
ngầm đến hỏi cách khuyên cho mẹ tin, tôi bảo ông sớm tối thay mẹ đối trước Phật
sám hối nghiệp chướng. Do mẫu tử thiên tánh tương quan, nếu thật sự chí thành
ắt sẽ được cảm ứng. Ông Hàm y theo đó phụng hành. Mẹ ông liền có thể ăn chay
trường. Lúc đó bà đã tám mươi mốt tuổi, nhật khóa niệm hai vạn câu Phật hiệu,
sống đến năm chín mươi ba tuổi mới mất.
Vì thế, tôi mong từ hôm nay trở đi, hết thảy Đại chúng đều
chú ý kiêng giết, ăn chay và khuyên cha mẹ, con cái, thân hữu của mình cùng
nhau ăn chay. Phải biết đấy cũng là phương pháp căn bản để hộ quốc tức tai. Hôm
nay giảng về ý nghĩa của hộ quốc tức tai và phương pháp để thực hành hộ quốc
tức tai chính là niệm Phật, ăn chay; mong quý vị chẳng coi là thiển cận rồi chẳng
buồn lưu tâm đến.
Ngày thứ ba: Trần thuật nguyên lý nhân quả và nêu sự thực làm chứng
Hai ngày hôm trước tôi đã trình bày sơ lược về đạo lý nhân
quả và phương pháp tức tai hộ quốc; hôm nay vốn chẳng cần phải luận về nhân quả
nữa; nhưng tôi thấy vẫn còn có điểm chẳng thể chẳng trình bày rõ, nên tôi định
sẽ giảng sâu hơn ít nữa, lại thuyết minh về nguyên lý nhân quả và nêu sự thực
làm chứng, ngõ hầu Đại chúng biết đến sẽ tỉnh ngộ và kinh sợ.
Hiện tại, thế nhân chẳng rõ nguyên lý nhân quả, cho đó là
chuyện bàn xằng, tà thuyết, lúc nào cũng tính chiếm tiện nghi, chẳng cam bề
chịu lép, nào biết đâu tiện nghi chính là chịu lép, chịu lép hóa ra lại là tiện
nghi. Như cha mẹ nay thường nuông chiều con cái, chẳng quản giáo nghiêm ngặt
đến nỗi tạo thành thói quen ham tiền tài, thích tiện nghi. Cứ cho là có vậy mới
gìn giữ được gia sản, chẳng đến nỗi bị tổn thất; nào hay kết quả trái ngược,
vừa di hoạn chung thân lại còn gián tiếp ảnh hưởng vô hạn đến xã hội, quốc
gia.
Nay nêu lên một chuyện để làm ví dụ: Triệu Lương Tướng ở
Ðại Châu đời Tùy, gia tư cự vạn, có hai đứa con. Ðứa lớn tên Mạnh, đứa nhỏ tên
Doanh. Doanh mạnh mẽ, Mạnh yếu đuối. Lúc người cha sắp mất, phân gia sản làm
hai, Mạnh được nhiều hơn. Sau khi Triệu Lương Tướng mất, Doanh chiếm sạch tài sản
của anh, chỉ chừa lại cho anh một căn nhà và mảnh vườn. Mạnh phải đi làm thuê
để tự nuôi thân. Chẳng mấy chốc, Triệu Doanh chết, sanh làm con của Mạnh, mang
tên là Hoàn. Sau đấy, Mạnh cũng chết, đầu thai vào nhà Doanh, làm cháu nội của
Doanh, mang tên là Tiên. Ðến lớn, nhà Mạnh càng nghèo, nhà Doanh càng giàu.
Triệu Hoàn phải làm tôi tớ cho Triệu Tiên để sống. Thiên hạ bảo: “Thiên đạo bất
bình, đã giàu càng giàu thêm”.
Một ngày kia, Hoàn nghe bà mẹ góa bảo: “Chú Doanh của mày cướp đoạt gia sản của
mày đến nỗi đời mày nghèo mạt, nay phải làm tôi tớ cho nhà nó, chẳng biết nhục
sao?” Bởi thế, Hoàn oán hận, toan giết Triệu Tiên. Năm Khai Hoàng thứ nhất (600
TL), Hoàn theo Tiên đi triều bái Ngũ Ðài, vào đến chốn hang thẳm ở phía Ðông cả
mấy mươi dặm, sâu hun hút không một bóng người. Hoàn rút dao bảo Tiên: “Ông nội
mày là em trai bố tao. Ông mày đoạt gia sản của tao. Ðến đời tao nghèo túng phải
làm đầy tớ cho mày. Mày nỡ lòng làm thế, nay tao giết mày đây!” Tiên liền cắm
đầu chạy, Hoàn đuổi theo chạy vào rừng, thấy có am tranh liền bước vào. Có một
vị lão Tăng bảo Hoàn: “Ông định làm gì thế?” Hoàn đáp: “Tôi đuổi theo kẻ oán đối!”
Vị lão Tăng cười lớn: “Ông khoan làm thế, tôi sẽ giúp ông tự biết”, rồi trao
cho dược vật bảo pha vào trà mà uống. Hoàn uống xong như mộng mới tỉnh, nhớ hết
việc cũ, thẹn thùng đau đớn.
Lão Tăng bảo: “Doanh chính là tiền thân của Hoàn, trước
kia cướp đoạt của anh chính là tự bỏ tài sản của mình. Tiên là Mạnh thác sanh
trở lại để hưởng lấy sản nghiệp kiếp trước vì ý nguyện của cha vẫn còn vậy!” Hai
người bèn bỏ nhà làm Tăng tu đạo, sau đều mất tại Di Ðà Am. Sự việc này còn
thấy chép trong Thanh Lương Sơn Chí. Nhân quả báo ứng hiển hiện rõ ràng, như
tiếng vang ứng theo tiếng, như bóng theo hình, chẳng sai mảy may. Thế mà những
kẻ tham hận sao chẳng tỉnh ngộ vậy?
Lại như hiện tại còn lưu truyền chuyện cái trống da người ở
Ngũ Ðài Sơn cũng là chuyện nhân quả báo thật rành rẽ đáng sợ vậy. Tôi xin thử
thuật lại nguyên do. Ðời Ðường, tại mặt sau ngọn Bắc Ðài, chùa Hắc Sơn có nhà
sư tên Pháp Ái làm giám tự hai mươi năm, lấy của Chiêu Ðề Tăng tậu nhiều ruộng
ở Nam Nguyên, để lại cho đồ đệ là Minh Hối. Pháp Ái chết liền sanh làm trâu ở
nhà họ X. tận lực một mình cày ruộng. Ba mươi năm sau, trâu vừa già vừa bệnh,
chủ trại muốn đem trâu đổi cho người lấy dầu.
Ðêm ấy, Minh Hối mộng thấy người thầy đã chết của mình
khóc bảo: “Ta dùng Tăng vật để tậu ruộng cho ngươi. Nay đang làm trâu vừa già
vừa còm cõi. Xin hãy lột da ta bịt trống, viết tên tuổi của ta trên đó. Mỗi khi
lễ tụng liền đánh trống thì nỗi khổ của ta mới có ngày thoát khỏi. Nếu không,
dù gò Nam Nguyên có biến thành biển xanh, ta vẫn chưa thể thoát khổ nổi!” Nói xong,
phủ phục cả thân mình xuống.
Minh Hối tỉnh giấc, chỉ mới nửa đêm liền thỉnh chuông nhóm
chúng, tường thuật tự sự. Sáng hôm sau, chủ trại báo con trâu già đã húc đầu
vào cây mà chết. Minh Hối y theo lời trước, lột da trâu bịt trống, viết tên thầy
lên trên, bán hết ruộng ở Nam Nguyên. Ðược bao nhiêu tiền đem cúng trai tăng
cho tăng chúng ở Ngũ Ðài hết. Minh Hối lại bán sạch cả y bát, vì thầy mình lễ
sám. Sau đem trống ấy gởi vào viện Văn Thù ở Ngũ Ðài. Lâu ngày, trống hư, chủ
chùa đem trống khác thế vào. Thế gian ngoa truyền là trống bịt bằng da người.
Sự tích này cũng thấy ghi trong Thanh Lương Sơn Chí.
Nói tóm lại , nhân quả rành rành, không ai trốn khỏi. Hai
người con họ Triệu do túc thế có gieo căn lành nên gặp được cao tăng, cuối cùng
thành đạo. Còn như kẻ phàm tục sao lại tự cậy, chẳng dốc lòng tin nhân quả, tự
mình lầm, làm người khác lầm, tự hại, hại người? Người đời nay chỉ thấy chuyện
trước mắt, chẳng đoái hoài đời sau, thích chiếm tiện nghi, chẳng thích bị thua
thiệt; con cái mắt thấy tai nghe, tập riết thành thói. Phong tục xã hội cũng do
đó ngày càng hiểm ác, tranh đoạt nổi lên, Đại loạn hưng khởi, giết người đầy
thành, ngập đồng mà mắt chẳng nháy, tâm chẳng áy náy đều là do đó mà ra cả. Ðã
thế, sát nhân là tàn nhẫn, ác độc, nhưng chẳng coi là đáng buồn, đáng xót,
ngược lại còn vênh váo khoe công, còn được kẻ khác khen ngợi nữa. Thậm chí có
kẻ giết cả cha mẹ, họ hàng, còn tự cho là “Đại nghĩa diệt thân!”
Ôi! Họa biến đến thế, thiên lý tuyệt, nhân đạo diệt, chẳng riêng đạo đức táng
vong mà còn bị kiếp nạn không ngơi nữa! Vì thế, hiện tại muốn cứu hộ đất nước phải
bắt đầu từ căn bản. Căn bản là gì? Ðích xác là tin vào nhân quả. Nếu đã thật sự
hiểu rõ lý nhân quả lại còn có thể dốc lòng tin, tận lực thực hành thì thế đạo,
nhân tâm tự có thể vãn hồi. Tôi cho rằng tất cả triết học, tôn giáo trong thế
gian không gì tinh áo, dễ thực hành bằng Phật giáo cả.
Hiện tại, thế nhân sở dĩ chẳng tin nhân quả, đa phần là vì
chịu ảnh hưởng của Tống Nho. Những nhà Lý học thời Tống như Trình Minh Ðạo, Trình
Y Xuyên, Chu Hối Am v.v… do xem kinh Ðại Thừa nhà Phật, chỉ lãnh hội đôi chút ý
nghĩa “toàn sự tức lý”; lại chỉ thân cận một hai bậc tri thức trong Tông Môn,
hiểu lóm rằng bất cứ pháp nào cũng chẳng ngoài ý chỉ Nhất Tâm, chứ thực sự chưa
hề duyệt trọn các kinh luận cùng tham học với khắp các bậc tri thức chư tông,
trộm lấy ý nghĩa của kinh Phật để tự khoe mẽ, dùng đó phát huy sự uyên áo của
Nho giáo. Bọn họ lại sợ người đời sau cũng xem kinh Phật sẽ thấy ngay sự kém cỏi
của mình bèn rắp tâm báng Phật.
Nhân chẳng thể báng bổ những chỗ tinh diệu, họ liền nhắm
vào mặt Sự mà bài bác. Họ bảo đức Phật dạy sự-lý tam thế nhân quả, lục đạo luân
hồi chỉ nhằm để phỉnh phờ hạng ngu phu, ngu phụ phụng hành giáo pháp của Ngài,
chứ thật sự chẳng có những điều ấy. Họ còn bảo: Sau khi con người chết đi, thân
đã mục nát thì thần thức cũng phiêu tán; dù có [muốn] băm, chặt, xay, giã cũng
không còn có gì để làm được! Thần thức đã tan thì còn ai để thọ sanh? Do những
thuyết sai lầm ấy, họ đã mở tung đầu mối phóng túng, không kiêng sợ gì
cả.
[Họ lý luận] chẳng khuyến khích điều thiện, chẳng trừng
phạt điều ác vì “trời tức là Lý” vậy, chứ nào có một vị vua thật sự cầm cân nảy
mực đâu! Họ cho rằng thần và hồn là hai lương năng của Khí, như thể sấm động là
do hai khí Âm, Dương va chạm nhau nổ thành tiếng. Họ coi những vấn đề Thực Lý,
Thực Sự là chuyện không đàm (bàn luận suông), chuyên lấy việc chánh tâm thành ý
làm gốc để trị quốc, trị dân; chẳng hề biết chánh tâm thành ý chính là do “trí
tri cách vật” mà ra. Họ bảo “trí tri” là suy xét tri thức của mình đến cùng
cực, “cách vật” là hiểu cùng tận cái lý của mọi sự vật trong thiên hạ; nào hay
“vật” chính là tư dục trong tâm mình. Do có tư dục nên tự tâm bị chướng ngăn;
bởi thế, tâm vốn sẵn đủ chơn tri nhưng không cách nào hiển hiện được. “Cách
trừ” (hiểu biết và trừ khử) được tư dục thì chơn tri sẵn có sẽ tự hiển hiện. Hễ
chơn tri đã hiển thì tâm sẽ chánh, ý sẽ thành!
Chánh tâm thành ý thì dù ngu phu, ngu phụ một chữ chẳng
biết cũng vẫn làm nổi. Còn nếu đúng như họ (các nhà Tống Nho) lý luận thì việc
suy xét đến cùng cực tri thức của mình, hiểu tận cùng cái lý của mọi sự vật
trong thiên hạ dẫu có là bậc thánh nhân cũng chẳng dễ gì làm nổi! Vì do lầm lạc
một điểm này đến nỗi căn bản trị thế bị mất sạch. Họ lại dùng thuyết không nhân
quả, luân hồi toan khuyên người chánh tâm thành ý. Nếu đã không có nhân quả,
một phen chết đi là vĩnh viễn mất hết, dù thiện hay ác cũng đều chết cả; còn ai
bận tâm đến cái tiếng hão nữa mà chánh tâm thành ý cơ chứ?
Hơn nữa, các nhà Lý học cho rằng: “Nếu có làm điều gì để
làm lành thì đó chính là ác”. Lý lẽ này đúng là phá hoại thiện pháp thế gian.
Vì sao thế? Ông Cừ Bá Ngọc năm 20 tuổi, thấy mười chín năm trước đều sai trái.
Ðến năm mươi tuổi, thấy bốn mươi chín năm trước đều sai trái, muốn bớt lỗi nhưng
chưa làm được. Như thế thì ông Cừ có làm điều gì hay là không làm điều gì?
Khổng Tử không đức nào chẳng tu, không môn học nào mà chẳng giảng, không nghe
đạo nghĩa nào mà chẳng làm theo, không điều chẳng tốt nào mà chẳng thay đổi,
nhưng vẫn lo âu. Ðến năm bảy mươi tuổi, Ngài vẫn mong trời cho sống thêm mấy
năm ngõ hầu học Dịch để khỏi mắc lỗi lớn. Như vậy thì ngài có làm điều gì hay
không làm điều gì hết vậy?
Chỉ từ sau thời Trình, Chu, nhà Nho đều chẳng dám bàn đến
nhân quả vì hễ bàn đến là bị mọi người công kích, cho rằng không phải thuần
Nho, cho là xúc phạm tiên hiền. Bởi vậy, kẻ hiểu biết phàm tục, kiến thức kém
cỏi liền hùa giọng báng Phật; người kiến thức cao minh lén lút xem kinh Phật để
mong tự hiểu biết thêm, nhưng miệng vẫn sốt sắng bài bác Phật pháp, ngõ hầu sau
này được dự vào chân Hiền Từ trong làng xóm hay chức Tư Bổn trong Văn Miếu!
Khi đó, trong thâm tâm của Trình, Chu bất quá chỉ mong
hưng long Nho Giáo, chẳng bận tâm đến Phật giáo sẽ còn hay mất! Họ nào hay đến
ngày nay, chất độc tiềm tàng “phá diệt nhân quả, luân hồi” đột nhiên bộc phát
ào ạt thành ác quả phi thánh, phi kinh, diệt lương hảo, diệt nhân luân, thú
tánh, thú hạnh, vô thân, vô sỉ, tặc nhân, tặc nghĩa, họa quốc, họa dân, chẳng
đáng đau buồn ư?
Hiện tại chiến sự ở vùng Tuy Viễn rất khẩn cấp, tai họa
cực thảm, những chiến sĩ trung dũng và đồng bào thân ái của chúng ta hoặc là
máu thịt vương vãi tung tóe, táng thân, tổn mạng, hoặc là nhà tan cửa nát, trôi
giạt, bơ vơ, không cơm, không áo, đói khát bức bách. Nói, nghĩ đến điều này, tim
gan tan nát. Sáng nay, pháp sư Viên Anh kể cho tôi nghe chuyện này, bảo tôi khuyên
Đại chúng phát tâm cứu tế, góp gió thành bão, chẳng quản ít nhiều. Có áo cho
áo, cớ tiền cho tiền, tùy duyên, tùy lực, công đức vô lượng, chắc chắn hưởng
thiện quả.
Phải biết là giúp người tức là giúp mình, cứu người tức là
cứu mình. Nhân quả vằng vặc, chẳng sai sót mảy may. Nếu chính mình gặp nạn,
không có ai giúp, nhưng nếu có thể xưng niệm thánh hiệu thì nhất định sẽ được
Phật, Bồ Tát thầm gia hộ, bảo vệ. Tôi là một ông sư nghèo, hoàn toàn chẳng cất
chứa thứ gì, hễ tại gia đệ tử có biếu tặng cái gì, tôi đều dùng để ấn loát kinh
sách hết. Nay tôi xin quyên ra một ngàn đồng để xướng xuất cứu viện vùng Tuy
Viễn. Chỉ có giúp người mắc nạn thì mới có thể dứt trừ được tai nạn cho
mình.
Hiện tại, phần lớn các bà đua nhau xa hoa, nghe nói một
bình nước hoa trị giá từ ba, bốn chục bạc đến hai, ba trăm bạc. Sao bằng đem số
tiền phung phí đó dùng để cứu trợ Tuy Viễn? Lại còn có hạng người chuyên ưa
tích tụ của cải, lúc sống đã chẳng dám dùng, chết đi còn mong chôn theo xuống
đất, ngõ hầu được con cái hậu táng, hoặc lưu truyền cho con cháu dùng, nào hay
đâu hiện tại có nạn đào mồ, những mong tích chứa lại biến thành Đại họa cho
tương lai. Chẳng hạn như ở Thiểm Tây hiện đang có cả một tổ chức đào mộ chuyên
thực hiện hành vi đó. Làm con người nỡ nào vì chữ Hiếu lại khiến cho mớ xương
khô phơi tênh hênh cho chim, thú no dạ! Sao chẳng đem khoản tiền lớn lao đó
dùng để cứu tế người dân bị nạn thì kẻ sống lẫn người chết đều được lợi. Như lại
có người nghèo túng, tuy có chí nguyện làm thế, nhưng sức chẳng kham nổi thì
hãy niệm Phật cho nhiều, thay họ hồi hướng, không những dứt tai nạn cho người còn
dứt được tai nạn cho mình. Việc này ai cũng làm được.
Tôi nghe lúc chiến cuộc xảy ra tại đất Hỗ, cháu của cư sĩ
Tào Thương Châu vâng lời cha từ đất Hỗ xuống Tô Châu đón ba ông chú và các chú
về Hỗ. Ông chú và các chú chẳng muốn đi. Cháu Tào bèn lấy châu báu của vợ giắt
vào lưng, ngồi thuyền nhỏ về Hỗ. Chợt có kẻ cướp đến, anh ta nhanh chóng trốn vào
gần bờ, vội vàng lội xuống nước, vàng ngọc giắt theo trị giá cả hai, ba vạn đều
đem cho hết chỉ để đổi áo với người khác, tự xưng mình là học trò nghèo, làm
thầy giáo dạy vỡ lòng cho trẻ, may mà thoát nạn. Nếu bọn Đại đạo biết được,
không biết còn phải tốn mấy vạn để chuộc thân nữa. Ðấy có phải là tiền tài gieo
họa cho người hay không?
Người ta nay chỉ tham phần tiện nghi trước mắt chẳng buông
được, luôn bị tiền tài làm khốn khổ, những trường hợp như vậy rất nhiều, chẳng
thể thuật đủ! Khi xưa, có một vị cư sĩ nọ hỏi tôi phương cách vãn hồi kiếp vận,
tôi bảo: “Việc này rất dễ! Hiểu rõ lý nhân quả rồi tận lực mà hành. Phát được
tín tâm ắt có thiện quả. Vả tâm tư ngụy đã tiêu, trong tâm quang minh chánh Đại
thì tai nạn nào cũng tiêu tan như băng tuyết mà thôi!”
Trong cơn loạn lạc ở Hồng Dương, ông Mộc Thương Viên Cung
Hoằng người tỉnh Giang Tây bị bọn phỉ bắt được, trói vào cây cột ở khách sảnh,
khóa chặt cửa lại , chờ đúng lúc sẽ giết. Ông Viên tự nghĩ phải chết, thầm niệm
thánh hiệu Quán Thế Âm, hồi lâu ngủ quên đi, tỉnh dậy thấy thân mình nằm ngoài đồng,
ngẩng đầu lên trông thấy vẫn còn sớm liền trốn thoát. Ðây là chuyện xác
thực.
Do vậy, tôi rất mong Đại chúng Đại phát tín tâm, nương vào
đức của cha trời, mẹ đất, giữ lòng nhân coi mọi người là đồng bào của mình,
dùng lòng nhân đối xử với loài vật hệt như con người. Phàm đối với hết thảy
những gì trong vòng trời đất đều thương xót, nuôi dưỡng, bảo vệ, xem như chính
mình. Lại còn đem lẽ nhân quả báo ứng, niệm Phật cầu sanh Tây Phương để chỉ
bảo, khuyến hóa. Nếu như tất cả mọi người đều làm được như vậy thì nước chẳng
cần giữ mà tự giữ vững, tai nạn chẳng mong dứt cũng tự dứt vậy!
Ngày thứ tư: Giảng về nhân quả lớn lao để thành Phật và lược giải Tứ
Liệu Giản
Hai ngày hôm trước, tôi đã nói qua về nhân quả. Hôm nay tôi
vẫn bàn về đề tài này, quý vị cần biết là nhân quả đã nói đó chỉ là tiểu nhân,
tiểu quả, nhân quả được bàn trong ngày hôm nay là Đại nhân, Đại quả.
Sở dĩ đức Phật thành Phật thường hưởng pháp lạc chơn
thường, sở dĩ chúng sanh bị đọa địa ngục, vĩnh viễn chịu khổ luân hồi kịch
liệt, [cả hai việc này] đều chẳng ra ngoài nhân quả. Hễ con người muốn trị thân
tâm thì trọn chẳng thể lìa nhân quả được. Con người hiện tại ham ăn nói lớn
lối, chẳng cầu thực tế, bộp chộp bảo nhân quả là pháp Tiểu Thừa. Ðây thực là
một lầm lẫn lớn.
Nên biết rằng: Tiểu Thừa hay Ðại Thừa đều chẳng ra ngoài hai
chữ “nhân quả” được! Tiểu Thừa là tiểu nhân quả, Ðại Thừa là Đại nhân quả. Tiểu
nhân là y theo Sanh Diệt Tứ Ðế, biết Khổ, đoạn Tập, hâm mộ Diệt, tu Ðạo; tiểu
quả là chứng quả A La Hán. Ðại nhân là tu Lục Ðộ vạn hạnh; Đại quả là chứng
Phật Quả rốt ráo. Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Ðã có nhân nào ắt sẽ
có quả đó, không sai hào ly. Vì vậy, chẳng những mình người thế gian thuộc
trong vòng nhân quả mà ngay chính Bồ Tát, Phật cũng chẳng ra ngoài vòng nhân
quả. Nếu bảo nhân quả là Tiểu Thừa, hóa ra Phật, Bồ Tát cũng là Tiểu Thừa ư? Ðủ
biết lời lẽ ấy ngông cuồng đến thế nào!
Pháp hội này là pháp hội Hộ Quốc Tức Tai. Tôi chỉ mới bàn
đến việc ngưng dứt tai nạn đao binh, nước lửa, vẫn chưa phải là cứu cánh. Cần phải
dứt tai nạn phiền não sanh tử thì mới là biện pháp triệt để. Chúng ta mê muội Pháp
Thân, đoạn Phật huệ mạng, đáng buồn, đáng đau! So với việc sắc thân bị họa, [mê
lầm mất Pháp Thân] nào phải chỉ nặng nề gấp cả trăm ngàn lần hơn! Vì thế, phải hộ
trì Pháp Thân huệ mạng, đoạn sanh tử phiền não mới đáng kể là biện pháp tức tai
(dứt trừ tai chướng) trọn vẹn.
Phật giáo, nói Đại cương, chẳng ngoài năm tông, tức là:
Thiền, Giáo, Luật, Mật, Tịnh.
- Luật là căn bản của Phật pháp. Nghiêm trì tịnh giới để
mong tam nghiệp thanh tịnh, nhất tánh viên minh. Ngũ Uẩn đều không, các khổ đều
độ.
- Giáo là y giáo tu Quán, rời khỏi “ngón tay chỉ mặt
trăng”, triệt ngộ Phật tánh sẵn có của đương nhân, kiến tánh thành Phật. Nhưng
chữ “thành Phật” đó nghĩa là thấy được đức Phật thiên chơn trong tự tánh bèn gọi
là “thành Phật”, chứ chưa phải là thành tựu, chứng được quả Phật của Bồ Ðề
đạo.
- Mật dùng tam mật (thân mật, khẩu mật, ý mật) gia trì,
chuyển Thức thành Trí, gọi là “tức thân thành Phật”. Ðây cũng chỉ là ngay nơi thân
này, liễu sanh thoát tử nên bảo là “thành Phật”, chứ chưa phải là thành đức
Phật phước huệ viên mãn.
Ba tông này đều có thể gộp vào Thiền vì khí phận tương
đồng. Nếu xét về yếu quyết tu trì thì Phật Pháp chỉ có hai môn Thiền và Tịnh.
Thiền chuyên cậy tự lực, nếu chẳng phải kẻ túc căn thành thục thì chẳng thể
được lợi ích thật sự. Tịnh là kiêm nhờ Phật lực, hễ ai đầy đủ tín, hạnh, nguyện
chơn thật thì đều có thể đới nghiệp vãng sanh. Sự khó dễ giữa chúng khác nhau
một trời, một vực. Vì thế, ngài Vĩnh Minh Diên Thọ thiền sư đầu đời Tống là một
vị cổ Phật thị hiện trong thế gian, triệt ngộ nhất tâm, tu trọn vạn hạnh; mỗi ngày
làm một trăm lẻ tám Phật sự, đêm đi qua ngọn núi khác, đi kinh hành niệm Phật.
Ngài rất lo hậu thế học nhân chẳng hiểu rõ tông yếu, nên riêng viết thành một
bài kệ Tứ Liệu Giản ngõ hầu mọi người biết chỗ xu hướng.
Kệ rằng:
“Có Thiền, có Tịnh Ðộ,
Khác nào hổ thêm sừng,
Hiện tại làm thầy người
Ðời sau làm Phật, Tổ.
Không Thiền, có Tịnh Ðộ,
Vạn tu, vạn cùng sanh,
Nếu được thấy Di Ðà,
Lo gì chẳng khai ngộ.
Có Thiền, không Tịnh Ðộ
Mười người, chín chần chừ
Ấm cảnh nếu hiện tiền
Chớp mắt đi theo nó.
Không Thiền, không Tịnh Ðộ
Giường sắt cùng cột đồng
Muôn kiếp với ngàn đời
Không một ai nương dự”
(Hữu Thiền, hữu Tịnh Ðộ,
Do như đới giác hổ
Hiện thế vi nhân sư
Lai sanh tác Phật, Tổ.
Vô Thiền, hữu Tịnh Ðộ,
Vạn tu, vạn nhân khứ
Nhược đắc kiến Di Ðà,
Hà sầu bất khai ngộ.
Hữu Thiền, vô Tịnh Ðộ,
Thập nhân, cửu ta lộ,
Ấm cảnh nhược hiện tiền
Miết nhĩ tùy tha khứ.
Vô Thiền, vô Tịnh Ðộ,
Thiết sàng tịnh đồng trụ,
Vạn kiếp dữ thiên sanh,
Một cá nhân y hỗ)
Tám mươi chữ này là cương yếu của cả một đời giáo hóa của
đức Như Lai, là khuôn mẫu huyền diệu để người học Phật liễu thoát ngay trong đời
này. Trước tiên, học nhân cần phải hiểu rõ thế nào là Thiền? Thế nào là Tịnh
Ðộ? Thế nào là có Thiền? Thế nào là có Tịnh Ðộ?
Thiền và Tịnh Ðộ là ước về Lý, về Giáo mà nói. “Có Thiền,
có Tịnh Ðộ” là ước về cơ, ước về tu mà luận. Luận theo Lý, hai pháp trọn chẳng
khác gì nhau. Xét về mặt Sự Tu, hai pháp khác nhau rất xa. Lời tuy tương tự, ý
nghĩa thật bất đồng, cần phải rất chú ý thì mới chẳng cô phụ tấm lòng đau đáu
của tổ Vĩnh Minh.
Gì là Thiền? Ðấy chính là chơn như Phật tánh chúng ta sẵn
có, nhà Thiền thường gọi là “bản lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra”. Tông
môn chẳng nói trắng ra để người học tự tham cứu tìm hiểu lấy nên nói như thế.
Thật sự, nó chính là tâm thể thuần chơn, không năng, không sở, ly niệm linh
tri, tức tịch tức chiếu vậy (“Ly niệm linh tri” là trọn không có ý niệm suy
lường nhưng hiểu rành rẽ tất cả cảnh tượng trước mắt).
Tịnh Ðộ tức tín nguyện trì danh, cầu sanh Tây Phương, chứ
chẳng phải chỉ riêng nói đến “duy tâm Tịnh Ðộ, tự tánh Di Ðà”.
“Có Thiền” tức là cực lực tham cứu, niệm tịch, tình vong,
thấy thấu suốt diện mục bản lai trước khi cha mẹ sanh ra, minh tâm kiến tánh.
“Có Tịnh Ðộ” là thực sự phát Bồ Ðề tâm, sanh lòng tin, phát nguyện, trì danh
hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương. Nếu như tham thiền chưa ngộ, hoặc ngộ chưa triệt
để thì đều chẳng được gọi là “có Thiền”. Nếu như niệm Phật nhưng thiên chấp duy
tâm, không có tín - nguyện, hoặc có tín - nguyện nhưng chẳng thân thiết thì đều
chẳng được gọi là “có Tịnh Ðộ”.
Thậm chí, tu Tịnh Ðộ nhưng tâm nghĩ đến trần lao, hoặc cầu
phước báo nhân thiên, hoặc cầu đời sau xuất gia làm Tăng, nghe một hiểu cả
ngàn, đắc Đại tổng trì, hoằng dương Phật pháp, giáo hóa chúng sanh cũng đều
chẳng được gọi là “người tu Tịnh Ðộ” vì chẳng chịu theo đúng kinh giáo Tịnh Ðộ
trong Phật pháp. Nếu tưởng lầm lấy việc thông đạt bác lãm giáo nghĩa làm chuẩn
hòng đời sau chẳng mê sẽ được liễu thoát thì trong cả vạn người, khó được một,
hai. Bị phước báo mê hoặc, từ mê vào mê, thật có lắm kẻ! Nếu thật sự hiểu sâu
xa ý nghĩa này thì mới đúng là người tu Tịnh Ðộ. Chẳng hiểu đúng ý nghĩa, cứ
thấy tham thiền bèn cho là “có Thiền”, thấy niệm Phật liền cho là “có Tịnh Ðộ”.
Mình lầm, lầm người, há chẳng phải là tai hại cùng cực sao?
Ở đây, tôi đã thuyết mình thế nào là có hay không có
Thiền, Tịnh; nay sẽ đem lời kệ, dựa theo từng đoạn mà phân tích thì quý vị mới thấy
tám mươi chữ này khác nào trời bày đất đặt, không một chữ nào chẳng xác đáng,
không một chữ nào thay đổi được nổi!
Bài kệ thứ nhất nói: “Có Thiền, có Tịnh Ðộ, khác nào hổ
thêm sừng, hiện tại làm thầy người, đời sau làm Phật, Tổ”, nghĩa là: Người đã
triệt ngộ Thiền Tông, minh tâm kiến tánh, lại còn thâm nhập kinh tạng, biết
trọn vẹn các pháp môn quyền, thật của Như Lai, nhưng trong các pháp, lại chỉ
chọn lấy một pháp “tín nguyện niệm Phật” để làm đường lối chung cho chánh hạnh
tự lợi, lợi tha. Phần nói về Thượng Phẩm Thượng Sanh trong Quán kinh: “Ðọc tụng
Ðại Thừa, hiểu Ðệ Nhất Nghĩa” chính là nói về hạng người này.
“Khác nào hổ thêm sừng” là người này song tu Thiền Tịnh,
có Đại trí huệ, có Đại Thiền Ðịnh, có Đại biện tài, tà ma ngoại đạo nghe danh
vỡ mật, giống như hổ mọc thêm sừng, oai mãnh khôn sánh. Có kẻ nào đến học hỏi với
mình sẽ tùy cơ thuyết pháp. Thấy nên dùng Thiền Tịnh Song Tu để tiếp độ thì
dùng Thiền Tịnh Song Tu tiếp độ. Nên dùng Chuyên Tu Tịnh Ðộ để tiếp độ thì dùng
Chuyên Tu Tịnh Ðộ tiếp độ. Chẳng luận là thượng, trung, hạ căn, không một ai là
chẳng được lợi lạc. [Người như vậy] há chẳng phải là “nhân thiên đạo sư” ư? Ðến
lúc mạng chung, được Phật tiếp dẫn vãng sanh Thượng Phẩm, trong khoảng khảy
ngón tay, hoa nở thấy Phật, chứng Vô Sanh Nhẫn, bét nhất cũng là bậc Sơ Trụ
trong Viên Giáo. Cũng có người đốn siêu địa vị, đạt lên Ðẳng Giác. Bậc Sơ Trụ
trong Viên Giáo đã có thể hiện thân làm Phật trong cả trăm cõi; huống hồ là
những địa vị sau đó càng lên cao càng thù thắng hơn, tính thẳng đến địa vị thứ
bốn mươi mốt là địa vị Ðẳng Giác [thì càng thù thắng đến mực nào] nữa?
Bài kệ thứ hai là: “Không Thiền, có Tịnh Ðộ, vạn tu, vạn
cùng sanh, nếu được thấy Di Ðà, lo gì chẳng khai ngộ”. Nghĩa là: người ấy tuy
chưa minh tâm kiến tánh, nhưng cứ quyết chí cầu sanh Tây Phương. Trong kiếp
xưa, Phật từng phát Đại thệ nguyện nhiếp thọ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu
chúng sanh thật sự như con nhớ mẹ, chí thành niệm Phật thì cảm ứng đạo giao,
liền được Phật tiếp thọ. Kẻ tận lực tu Ðịnh Huệ được vãng sanh đã đành mà kẻ
ngũ nghịch, thập ác lúc lâm chung bị sự khổ bức bách, phát tâm tàm quý lớn lao,
xưng niệm Phật danh hoặc mười tiếng hoặc chỉ một tiếng rồi liền mạng chung,
cũng đều được hóa thân của Phật tiếp dẫn vãng sanh. Ðấy chẳng phải là “vạn tu,
vạn người sanh” hay sao?
Tuy kẻ ấy niệm Phật chẳng bao lâu, nhưng do niệm Phật cực
kỳ mãnh liệt nên đạt hiệu quả nhanh chóng như thế đó, chớ nên đem người niệm
Phật hờ hững, lững lờ để so sánh dễ, khó! Ðã sanh về Tây Phương, gặp Phật nghe
pháp, tuy có nhanh, chậm bất đồng, nhưng đều cao đăng dòng Thánh, vĩnh viễn
chẳng thối đọa. Tùy theo căn tánh sâu hay cạn sẽ hoặc dần dà hoặc nhanh chóng,
chứng đạt các quả vị thì chuyện khai ngộ cần gì phải nói nữa, bởi thế mới bảo:
“Nếu được thấy Di Ðà, lo gì chẳng khai ngộ”.
Bài kệ thứ ba là: “Có Thiền, không Tịnh Ðộ, mười người,
chín chần chừ. Ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt đi theo nó”. Do người ấy tuy
triệt ngộ Thiền Tông, minh tâm kiến tánh, nhưng Kiến, Tư phiền não chẳng dễ đoạn
trừ, cần phải qua bao duyên đào luyện khiến đoạn trừ sạch không còn sót; sau
đấy, phần đoạn sanh tử mới có thể xuất ly. Còn như kẻ chưa đoạn được mảy may
nào ta chẳng cần bàn đến.
Tức là kẻ đoạn cho đến còn sót chút mảy may phiền não chưa
thể đoạn sạch hết thì luân hồi sáu nẻo vẫn y như cũ, khó bề trốn tránh. Biển
sanh tử sâu thăm thẳm, đường Bồ Ðề xa vời vợi, còn chưa về được nhà thì khi mạng
chung, trong mười người Đại ngộ, tám chín người đã giống như thế. Vì thế, mới nói:
“Mười người, chín chần chừ”. Chữ “ta lộ” ở đây nghĩa là “ta đà” tức là như lời tục
thường nói là “chần chừ”.
“Ấm cảnh” tức là lúc lâm chung, các cảnh tượng do nghiệp
lực thiện, ác trong đời này và bao kiếp trước cùng hiện ra. Khi cảnh này hiện
ra, chỉ trong nháy mắt, sẽ theo nghiệp lực thiện hay ác nào mạnh nhất đi thọ
sanh trong đường thiện hay ác, chẳng thể tự chủ được mảy may, giống như người mắc
nợ, chủ nợ nào mạnh nhất sẽ lôi đi trước. Tâm tình lắm mối, sẽ nghiêng lệch về
chỗ nào tâm mình đặt nặng. Ngũ Tổ Diễn Giới tái sanh làm Tô Ðông Pha, Thảo
Ðường Thanh lại sanh làm Lỗ Công. Ðấy đều là vì lẽ trên, nên nói: “Ấm cảnh nếu
hiện tiền, chớp mắt đi theo nó”.
Chữ Ấm (bộ Phụ) âm nghĩa giống chữ Ấm (bộ Thảo), có nghĩa
là “che đậy”. Do nghiệp lực này ngăn che nên chơn tánh chẳng thể tái hiển hiện.
Chữ “miết” (bộ Mục) cùng âm với chữ “miết” (bộ Thủ), nghĩa là “chớp mắt”. Có kẻ
cho rằng chữ “ta” nghĩa là lầm lạc, “ấm” là ngũ ấm ma cảnh thì đều là vì chưa
hiểu ý nghĩa chữ Thiền và chữ Có nên mới nói nhảm như thế. Lẽ đâu bậc Đại ngộ Đại
triệt trong mười vị, hết tám chín người lầm đường, lạc lối, lầm theo cảnh ngũ
ấm ma mà đi, thấy ma phát cuồng ư? Phàm kẻ bị ma dựa phát cuồng thì là hạng
tăng thượng mạn chẳng hiểu giáo lý, chẳng rõ tự tâm, tu mù luyện đui mà thôi.
Sao chẳng biết tốt xấu, lại gán lý đó cho bậc Đại triệt, Đại ngộ vậy? Ðiều này
quan hệ rất lớn, chẳng thể không biện bác rõ.
Bài kệ thứ tư là: “Không Thiền, không Tịnh Ðộ, giường sắt cùng cột đồng, muôn
kiếp với ngàn đời, không một ai nương dựa”. Có người bảo “không Thiền, không Tịnh
Ðộ” chính là kẻ vùi đầu tạo ác nghiệp, chẳng tu thiện pháp. Ðây cũng là điều
lầm lẫn lớn bởi pháp môn vô lượng, nhưng chỉ có Thiền và Tịnh là phù hợp căn cơ
nhất. Nếu ai đã chưa triệt ngộ, lại chẳng cầu sanh cứ hời hợt, hờ hững tu các
pháp môn khác thì chẳng thể giữ cho Ðịnh, Huệ quân bình, đoạn hoặc, chứng chơn.
Lại chẳng có duyên cậy vào Phật lực để đới nghiệp vãng sanh, do công đức cả một
đời tu trì sẽ cảm lấy nhân thiên phước báo trong đời sau. Hiện tại đã không có
chánh trí, đời sau ắt sẽ bị phước chuyển, đắm say theo đuổi ngũ dục, tạo đủ các
nghiệp ác.
Ðã tạo nghiệp ác sẽ khó tránh khỏi ác báo. Một hơi thở hít
không vào nữa liền đọa địa ngục, rõ ràng là trải qua kiếp dài lâu, nằm lăn
giường sắt, ôm ấp cột đồng để đền trả các món ác nghiệp tham thanh sắc, giết
sanh mạng v.v… Chư Phật, Bồ Tát tuy rủ lòng từ mẫn, nhưng bị ác nghiệp chướng
ngăn nên cũng chẳng được lợi ích gì. Thiền sư Triệt Lưu đời Thanh bảo: “Người tu
hành nếu không có chánh tín cầu sanh Tây phương, tu đủ các điều thiện khác thì
gọi là oan gia đời thứ ba”, chính là ngụ ý này. Bởi lẽ, đời này tu hành, đời sau
hưởng phước; cậy phước làm ác ắt bị đọa lạc. Vui chỉ tạm được trong đời sau,
khổ vĩnh viễn suốt kiếp. Giả như nghiệp địa ngục đã tiêu, lại chuyển sanh làm
quỷ, súc. Muốn có được thân người càng khó hơn nữa! Bởi thế, đức Thích Ca dùng
tay vít chút đất, hỏi ngài A Nan rằng: “Ðất trên tay nhiều hay đất trên Đại địa
nhiều?” A Nan thưa: “Ðất trên Đại địa nhiều”.
Phật dạy: “Ðược thân người như đất trên tay; mất thân người như đất trên Đại địa”.
Câu “vạn kiếp và ngàn đời, không một ai nương dựa” là còn do âm vận bài kệ bó
buộc nên chỉ nói thiển cận như vậy thôi.
Vĩnh Minh thiền sư sợ người đời chẳng hiểu được chơn nghĩa
của Thiền - Tịnh, quán sát rõ ràng nên mới làm bài kệ này để giảng rõ. Có thể
nói bài kệ này là chiếc bè báu để thoát bến mê, là người dẫn đường lìa đường
hiểm, công lao rất lớn. Bởi lẽ, hết thảy pháp môn chuyên cậy vào tự lực, chỉ mỗi
pháp môn Tịnh Ðộ kiêm nhờ Phật lực. Hết thảy pháp môn phải tiêu sạch hoặc
nghiệp thì mới có thể liễu sanh tử; chỉ riêng mình pháp môn Tịnh Ðộ đới nghiệp
vãng sanh, liền dự vào dòng Thánh. Thế nhân chẳng xem xét, coi Tịnh Ðộ là hèn
kém, thật đáng than lớn!
Hiện tại, người ta hay cho là khán thoại đầu là cách tu thích hợp nhất, cứ cho
hễ lâm chung được chết an tường thì sẽ được liễu thoát. Nào hay đó chỉ là lời nói
mớ của kẻ Chánh Nhãn chưa mở mà thôi. Ở đây, tôi dẫn ra mấy trường hợp làm
chứng:
Vào khoảng đời Càn Long - Gia Khánh nhà Thanh, có ba vị
Thiền tăng cùng tham thiền với nhau. Chết đi, một vị sanh tại Giang Tô, tên là
Bành Uẩn Chương; một vị sanh ở Vân Nam, tên là Hà Quế Thanh; một vị sanh ở
Thiểm Tây tên là Trương Phí. Trong ba người, chỉ ông Bành nhớ được chuyện kiếp
trước. Sau lên kinh đô thi Hội, gặp hai người kia liền kể chuyện kiếp trước
cùng làm Tăng. Hai người kia tuy không nhớ được việc cũ, nhưng vừa thấy ông
Bành đã như gặp lại cố nhân, trở thành bạn thân thiết.
Vào thi Ðình, ông Bành trúng Trạng Nguyên, ông Hà đậu Bảng
Nhãn, ông Trương trúng Truyền Lô. Họ Bành sau từng làm Chủ Khảo, Học Ðài, nhưng
tham sắc quá, sau chết tại nhà. Họ Hà giữ chức Chế Ðài ở Nam Kinh. Giặc Hồng
Dương nổi dậy, chiếm mất Nam Kinh, ông bị vua Thanh bắt tội chết. Ông Trương
còn từng thư từ qua lại với vua Hàm Phong, dân Hồi Hồi muốn làm phản bèn giết
phăng ông đi. Ba vị này chẳng thể coi là Tăng nhân bình thường, tiếc là chẳng
biết cầu sanh Tây Phương, tuy được phước lớn nhưng hai người chẳng được chết
yên lành. Ông Bành tham đắm nữ sắc, e trong đời sau chẳng được như đời này!
Lại nữa, tiên sinh Ngô Ẩn Chi ở Tô Châu, đậu Thám Hoa
triều Thanh. Học vấn, tướng mạo, đạo đức đều hay cả. Năm Dân Quốc thứ mười (1921),
đi triều bái Phổ Ðà, gặp tôi, tự bảo: “Kiếp trước tôi là một vị hòa thượng ở
Vân Nam”.
Nhân vì khách đến dâng hương quá đông, chẳng rảnh rỗi nhiều để hỏi tường tận
nguyên do. Năm Dân Quốc thứ mười một, tôi qua Dương Châu khắc in sách, đến ở
nhà một người đệ tử tại Tô Châu, tôi liền dò hỏi về việc ấy, định bụng: Xưa kia
vì chưa rõ nguồn cơn, nay muốn gặp ông ta để đàm luận, nhưng rồi hoàn toàn quên
mất. Từ đó, chẳng qua lại với nhau nữa.
Ðến năm Dân Quốc thứ 19 (1930), tôi bế quan tại chùa Báo
Quốc, đến tháng Mười Một, ông ta cùng hai vị Lý Ấn Tuyền, Lý Hiệp Hòa đến thăm,
tôi hỏi: “Làm sao ông biết là kiếp trước mình là nhà sư ở Vân Nam?” Y bảo: “Năm hai mươi sáu tuổi,
tôi nằm mộng đến một ngôi chùa kia, biết là chùa X. ở huyện X. thuộc tỉnh Vân Nam. Trông thấy
hình trạng điện đường, phòng xá, cây cối rất quen, cũng thấy mình làm Tăng.
Tỉnh dậy, nhớ rất rõ, ghi chép lại từng điều”. Sau đấy, một người bạn tôi đi làm
quan ở Vân Nam
(tiên sinh Trương Trọng Nhân còn chưa biết tính danh ông này), đem đối chiếu
những lời ông ta chép thì không sai lệch mảy may.
Tôi bảo: “Tiên sinh nay đã tám mươi tuổi, không còn được
bao ngày nữa, hãy nên khôi phục sự nghiệp hòa thượng kiếp trước, nhất tâm niệm
Phật cầu sanh Tây Phương thì mới chẳng phụ công khó tu trì đời trước!” Y đáp:
“Niệm Phật có gì là hy kỳ?” Tôi nói: “Niệm Phật tuy chẳng phải là hy hữu, lạ
lùng gì nhưng thế gian chẳng có mấy người chịu niệm, khinh là pháp chẳng hy kỳ.
Khác nào ăn uống, toàn thế giới không một ai là chẳng phải ăn; đấy là sự chẳng
hy kỳ bậc nhất. Thế ra ông có cần phải ăn hay không vậy?”
Y chẳng đáp được, nhưng vẫn chẳng chịu là đúng, xoay qua hỏi
hai ông Lý: “Các vị có niệm không?” Họ đáp: “Niệm chứ!” Y vẫn chẳng chịu lời,
trọn không chịu niệm. Ðến tối ngày 30 tháng Chạp, lúc sắp thắp đèn, ông ta qua
đời, vừa tròn 80 tuổi. Vị này đời trước tu trì cũng hãn hữu nên đời này mới cảm
được công danh, thọ mạng lớn, nhưng đời này chỉ giữ trọn luân thường, nhưng
chẳng còn tin vào Phật pháp nữa, há chẳng phải là đáng xót lắm sao?
Cả bốn vị trên chưa ai chứng đắc, mà dù có sở chứng đi nữa,
nhưng nếu chưa đoạn hết phiền hoặc thì vẫn chẳng tự khó xuất ly sanh tử được!
Thậm chí như thiền sư Viên Trạch đời Ðường, biết được chuyện quá khứ, vị lai,
nhưng vẫn không thoát được, huống hồ là kẻ chỉ được chết an tường lại có thể
liễu kết sanh tử nổi sao?
Cha ông Lý Nguyên đời Ðường, trấn thủ Ðông Ðô bị An Lộc
Sơn làm phản, giết chết. Lý Nguyên bèn nguyện chẳng làm quan, biến căn nhà của
mình ở Lạc Dương thành chùa Huệ Lâm, thỉnh Viên Trạch làm Hòa Thượng; Lý Nguyên
cũng tu hành ngay tại đấy. Qua mấy năm, Lý Nguyên muốn triều bái Nga Mi, mời Viên
Trạch cùng đi. Viên Trạch muốn đi theo đường Thiểm Tây, nhưng Lý Nguyện chẳng
muốn đến kinh đô nên nhất định theo đường thủy Kinh Châu. Viên Trạch đã tự biết
mình chẳng trở về được nên liền dặn dò hậu sự, mỗi mỗi đều rành rẽ; rồi chẳng
phản bác về lộ trình nữa, cùng Lý Nguyên ngồi thuyền đi.
Thuyền bơi đến thượng du Kinh Châu, sắp gần đến Giáp Sơn,
thế nước chảy xiết, chưa đến tối đã phải cắm thuyền. Chợt có một người đàn bà
mặc quần gấm, kéo nước bên sông. Viên Trạch vừa trông thấy, hai mắt ứa lệ. Lý
Nguyên hỏi nguyên do, Viên Trạch đáp: “Ta chẳng chịu đi theo đường này là vì sợ
bà ta. Bà ta mang thai đã ba năm, chờ ta sanh làm con. Chẳng thấy bà ta còn có
thể trốn lánh, chứ nay đã thấy, không cách nào không làm con bà ta được! Ông
nên tụng chú, giúp ta mau sanh. Ðến ngày thứ ba, hãy đến nhà thăm ta. Ta trông
thấy ông, cười một tiếng làm tin. Mười hai năm sau, đêm Rằm tháng Tám, đến bên
bờ giếng Cát Hồng tại Thiên Trúc ở Hàng Châu gặp ta”. Nói xong, Viên Trạch tọa
thoát. Bà nọ liền sanh con. Ngày thứ ba, Lý Nguyên đến thăm, đứa bé liền
cười.
Sau đấy, Lý Nguyên quay về Huệ Lâm, thấy trong quyển kinh
đã viết sẵn lời dự ngôn về hậu sự, càng thêm tin Sư Viên Trạch chẳng phải là kẻ
thường nhân. Mười hai năm sau, Lý Nguyên đến Hàng Châu. Tới đêm Rằm tháng Tám,
ông đến chỗ ước hẹn chờ đợi; chợt thấy bên sông có đứa bé trai chăn trâu, ngồi vắt
vẻo trên lưng trâu, dùng roi gõ sừng trâu, xướng:
Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn,
Thưởng nguyệt, ngâm phong bất yếu luân.
Tàm quý cố nhân viễn tương phỏng,
Thử thân tuy dị tánh thường tồn.
(Trên đá ba sinh, vẫn nguyên hồn
Ngâm gió, thưởng trăng lọ phải bàn
Thẹn thấy cố nhân tìm đến gặp
Thân này tuy khác, tánh thường còn).
Lý Nguyên nghe xong bèn đến chào hỏi. Hàn huyên xong xuôi,
đứa bé lại đọc:
Thân tiền, thân hậu sự mang mang,
Dục thoại nhân duyên khủng đoạn tràng
Ngô, Việt giang sơn du dĩ biến
Khước hồi yên trạo thượng cù đường
(Thân trước, thân sau sự vấn vương
Bàn chuyện nhân duyên luống đoạn trường
Ngô, Việt giang sơn chơi khắp cả,
Gác chèo mây khói, ẩn ao chuôm)
Rồi ruổi trâu đi mất.
Các vị thử nghĩ xem, Sư đã phân thân đến như thế mà còn
chưa thoát được, huống hồ là những kẻ chỉ mới lãnh hội được câu thoại đầu, được
chết an lành mà hòng được giải thoát ư? Cậy vào tự lực để thoát sanh tử khó
khăn như thế đó; cậy vào Phật lực để thoát sanh tử dễ dàng như thế đó; vậy mà
thế nhân vẫn cứ cậy vào tự lực, buông bỏ Phật lực. Họ đúng là những kẻ chưa
hiểu rõ lẽ mầu nhiệm, nên mới bị hai câu nói sau đây lung lạc, nghĩa là bị hai câu:
“Ta là hạng người bậc thượng, chẳng chịu làm chuyện tầm thường, không hy kỳ”
làm chướng ngại kiến giải vậy.
Xin hết thảy mọi người hãy suy nghĩ chín chắn sự việc của
năm người vừa thuật trên rồi tự lợi, lợi tha, sốt sắng tu Tịnh Nghiệp như lo
chôn cất cha mẹ, như cứu đầu cháy thì mới khỏi luống uổng đời này và duyên hội ngộ
này.
Ngày thứ năm: Giải thích sơ lược về giáo nghĩa Lục Tức của tông Thiên
Thai, kiêm giảng về việc ăn chay, phóng sanh
Pháp môn Tịnh Ðộ lợi khắp ba căn, thâu tóm lợi căn lẫn độn
căn, chí viên, chí đốn, đúng là pháp môn duy nhất vô thượng trong thời này.
Nhưng con người hiện tại, có kẻ tự cao, tự Đại bảo: “Chúng sanh tức là Phật thì
ta chính là Phật, sao lại phải niệm Phật?”, kẻ thì lại cho rằng: “Ta đã là phàm
phu khổ não, lo gấp thoát sanh tử làm gì, chỉ cầu kiếp sau chẳng mất thân người
là được rồi!” Hai hạng người này đều chẳng hiểu rõ nhân quả vậy. Bởi thế, hôm
nay tôi lại giảng về nhân quả.
Các vị phải biết câu: “Chúng sanh tức là Phật” chỉ cho cái
nhân chân thật là Phật tánh sẵn có đủ. Nếu chẳng tu diệu hạnh Niệm Phật thì
Phật tánh không cách nào hiển hiện, làm sao giải thoát sanh tử, thành tựu thật
quả Phật đạo được? Ví như gương báu đóng bụi, quang minh chẳng hiện, chứ thật
chẳng mất mảy may. Nếu chịu ra sức lau chùi, mài giũa thì lại chiếu soi hết
thảy. Còn như lời lẽ: “Ta là phàm phu khổ não, chẳng thể vãng sanh Tây Phương,
liễu sanh thoát tử, cho đến thành Phật” thì lại chính là lời lẽ của kẻ nghiệp
chướng sâu nặng, cam bề đọa lạc.
Nay người đời mải lo bon chen, tranh chấp, chẳng hề đoái hoài
chuyện sanh tử, chẳng biết là bao nhiêu. Nếu họ có thể dụng công tu hành niệm
Phật khó nhọc như thế thì lo gì chẳng được vãng sanh Tây Phương, thượng chứng
Phật quả! Bởi lẽ, Phật vốn chỉ là một chúng sanh tu trì, chứng đắc Phật quả mà
thôi.
Trong cuốn Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ, Thiên Thai Trí Giả
Ðại Sư đời Tùy đã lập ra giáo nghĩa Lục Tức Phật để đối trị gốc bệnh cam bề đọa
lạc và bệnh tự tôn, tự Đại sai lầm. Giáo thuyết ấy rất tinh xác, kẻ học Phật
chẳng thể không biết đến.
“Lục tức Phật” là: một là lý tức Phật, hai là danh tự tức
Phật, ba là quán hạnh tức Phật, bốn là tương tự tức Phật, năm là phần chứng tức
Phật, sáu là cứu cánh tức Phật. “Lục”: minh thị thứ lớp sâu cạn, “tức”: chỉ rõ
ngay nơi thể chính là Phật. Ví như trẻ sơ sanh hình thể chẳng khác gì cha mẹ,
nhưng sức lực khác biệt rất xa. Bởi thế, chẳng thể bảo đứa bé con ấy chẳng phải
là người, nhưng cũng chẳng thể vội bảo nó gánh vác chuyện của người đã trưởng
thành được. Nếu biết rõ “tuy sáu mà thường tức” thì chẳng sẽ chẳng lui sụt,
khiếp nhược. Nếu hiểu “tuy tức mà thường sáu” sẽ chẳng sanh lòng tăng thượng
mạn, từ đó, nỗ lực tu trì, sẽ từ phàm phu mà viên chứng Phật quả, do “lý tức
Phật” mà thành “cứu cánh tức Phật” vậy.
a. “Lý tức Phật” là hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh.
Tuy trái phản Chánh Giác, xuôi theo trần lao, luân hồi Tam Ðồ, Lục Ðạo, nhưng
Phật tánh công đức vẫn tự đầy đủ, cho nên gọi là “lý tức Phật”, coi lý thể của
tâm tức là Phật vậy. Ông Vô Cơ Tử làm bài tụng rằng:
Ðộng, tịnh lý toàn thị
Hành, tàng sự tận phi,
Minh minh tùy vật khứ,
Yểu yểu bất tri quy
(Ðộng, tịnh vốn toàn lý,
Hành, tàng chẳng trúng gì,
Tối tăm theo đuổi vật,
Mờ mịt chẳng biết về)
Ðấy là vì hết thảy chúng sanh tuy chưa nghe Phật pháp,
chẳng biết tu trì, nhưng nhất niệm tâm thể vẫn hoàn toàn giống như Phật. Vì thế
mới bảo là: “Ðộng, tịnh vốn toàn lý”. Do mê lầm tự tâm, tạo các sự nghiệp nên
mới bảo “Hành, tàng chẳng trúng gì” (Hành là hoạt động, tàng là ở yên), vì mọi việc
làm đều chẳng xứng với Phật tánh. Quanh năm, suốt tháng, tối tăm, mờ mịt ruổi theo
vật dục, phiền não vọng tưởng, từ sống đến chết chẳng hề biết phản chiếu hồi quang,
nên bảo là: “Tối tăm theo đuổi vật, mờ mịt chẳng biết về”.
b. “Danh tự tức Phật” là do nghe từ thiện tri thức, hoặc
từ kinh điển mà biết rằng tâm vốn sẵn đủ, tịch chiếu viên dung, Phật tánh bất
sanh, bất diệt. Về phương diện danh tự, thông đạt, hiểu rõ, biết hết thảy Phật
pháp đều là Phật pháp, hết thảy chúng sanh đều có thể thành Phật. Ðó chính là:
nghe danh tự Phật tánh liền hiểu rõ, thông đạt Phật pháp. Kệ tụng rằng:
Phương thính vô sanh khúc,
Thỉ văn bất tử ca,
Kim tri đương thể thị
Phiên hận tự ta đà.
(Vừa lắng khúc vô sanh,
Thoảng nghe bài bất diệt,
Liền biết ngay đương thể,
Tiếc đã trót lần khân)
Ý nói: Từ trước đến nay chỉ biết sanh tử luân hồi không
lúc nào kết thúc; nay mới biết Phật tánh chơn thường, bất sanh, bất diệt, đã biết
đương thể chính là nhân chân chánh để thành Phật liền gấp gáp tu trì, chỉ hận
từ trước đến nay mình bỏ uổng quang âm đến nỗi đến hiện giờ vẫn chưa thể sớm
chứng Thật Quả được!
c. “Quán hạnh tức Phật” là y giáo tu Quán, tức là địa vị
ngoại phàm Ngũ Phẩm trong Viên Giáo. Ngũ Phẩm là:
1. Tùy Hỷ Phẩm: nghe pháp Thật Tướng, tín giải, tùy
hỷ.
2. Ðộc Tụng Phẩm: đọc tụng kinh Pháp Hoa và các kinh điển
Ðại Thừa để hỗ trợ quán hạnh, hiểu biết.
3. Giảng Thuyết Phẩm: Tự nói những điều mình tự chứng hiểu
(nội giải) để chỉ dạy, dắt dẫn làm lợi cho tha nhân.
4. Kiêm Hành Lục Ðộ Phẩm: Kiêm tu Lục Ðộ để hỗ trợ quán
tâm.
5. Chánh Hành Lục Ðộ Phẩm: Chánh hành Lục Ðộ, tự mình
hành, dạy người khác hành, đầy đủ cả Sự lẫn Lý. Quán Hạnh càng thêm thù
thắng.
Kệ tụng rằng:
Niệm niệm chiếu thường lý
Tâm tâm tức huyễn trần
Biến quán chư pháp tánh
Vô giả diệc vô chân.
(Niệm niệm chiếu thường lý,
Tâm tâm bặt huyễn trần
Quán khắp các pháp tánh,
Nào còn giả cùng chân)
Ðã viên ngộ Phật tánh, y giáo tu Quán để đối trị phiền não
tập khí nên bảo là: “Niệm niệm chiếu thường lý, tâm tâm bặt huyễn trần”. Hiểu
rõ một sắc, một hương không thứ gì chẳng phải là Trung Ðạo; hết thảy các pháp
không pháp nào chẳng phải là Phật pháp. Hết thảy chúng sanh đều sẽ thành Phật
cho nên nói: “Quán khắp các pháp tánh, nào còn giả cùng chân”.
c. “Tương tự tức Phật” là tương tự giải ngộ, khai phát, tức là địa vị Nội Phàm
thuộc Thập Tín trong Viên Giáo. Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc;
Bát, Cửu, Thập, Tín đoạn Trần Sa Hoặc. Kệ tụng rằng:
Tứ Trụ tuy tiên thoát,
Lục trần vị tận không
Nhãn trung do hữu ế
Không lý kiến hoa hồng
(Trước đã thoát Tứ Trụ,
Nhưng lục trần chửa không,
Mắt vẫn còn màng mộng
Thấy hoa đốm trên không)
Tứ Trụ là:
1. Kiến Nhất Thiết Trụ Ðịa chính là Kiến Hoặc trong Tam Giới.
2. Dục Ái Trụ Ðịa chính là Tư Hoặc trong Dục Giới.
3. Sắc Ái Trụ Ðịa tức là Tư Hoặc trong Sắc Giới.
4. Hữu Ái Trụ Ðịa tức là Tư Hoặc trong Vô Sắc Giới.
Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc nên bảo là:
“Trước đã thoát Tứ Trụ”. Nhưng do tập khí sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp vẫn
còn, chưa đoạn sạch nên bảo là: “Nhưng lục trần chửa không”. Ðây là luận về địa
vị Thất Tín, chứ Bát, Cửu, Thập Tín đã phá được Trần Sa Hoặc nên tập khí đã
hoàn toàn hết sạch. Tập khí là những dư âm của các Hoặc Chướng. Giống như cái mâm
đựng thịt đã rửa sạch, nhưng vẫn còn có mùi hôi; bình đựng rượu tuy đã súc kỹ
vẫn còn có mùi rượu. “Mắt vẫn còn màng mộng, thấy hoa đốm trên không” là: Vì
chưa phá Vô Minh nên chưa thể thấy được bản thể của Pháp Giới.
d. “Phần chứng tức Phật” là Thập Tín hậu tâm. Phá một phần
Vô Minh, chứng một phần Tam Ðức nên gọi là “phần chứng tức Phật”. Là vì với bốn
mươi hai phẩm Vô Minh, Sơ Trụ phá được một phần; cho đến Thập Trụ phá được mười
phần. Từ các địa vị Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Ðịa cho đến Ðẳng Giác lần
lượt phá được bốn mươi mốt phần. Bậc Sơ Trụ có thể hiện thân làm Phật trong thế
giới không có Phật, lại còn tùy loại hiện thân độ thoát chúng sanh. Thần thông
đạo lực của bậc này đã chẳng thể nghĩ bàn, huống hồ là càng lên mỗi địa vị trên
càng thù thắng hơn nữa, nhất là địa vị thứ bốn mươi mốt là Ðẳng Giác Bồ Tát? Kệ
tụng rằng:
Khoát nhĩ tâm khai ngộ
Trạm nhiên nhất thiết thông
Cùng nguyên do vị tận
Thượng kiến nguyệt mông lung
(Ðột nhiên tâm khai ngộ,
Lặng trong hết thảy thông,
Vẫn chưa thông tận gốc
Còn thấy nguyệt mông lung)
“Ðột nhiên tâm khai ngộ, lặng trong hết thảy thông” là nói
về cảnh tượng chứng ngộ đôi phần, phá được vô minh đôi phần. “Vẫn chưa thông
tận gốc, còn thấy nguyệt mông lung” ý nói còn bị mây vô minh che lấp nên chưa
thể thấy thấu tột ánh sáng của vần trăng thiên chơn trong tự tánh.
e. “Cứu cánh thành Phật” là từ Ðẳng Giác lại phá một phần Vô Minh nên thấu đạt
tột cùng Chơn Tánh, đoạn sạch Hoặc Chướng, phước huệ viên mãn, chứng ngộ triệt
để Chơn Như Phật Tánh sẵn có ngay trong tâm mình, đạt địa vị Diệu Giác, thành
Vô Thượng Bồ Ðề đạo. Kệ tụng rằng:
Tùng lai chơn thị vọng
Kim nhật vọng giai chơn
Ðản phục bổn thời tánh
Cánh vô nhất pháp tân.
(Từ trước, chơn là vọng
Hôm nay, vọng là chơn,
Chỉ khôi phục bổn tánh
Có pháp nào mới đâu?)
“Từ trước chơn là vọng” nghĩa là trước khi chứng ngộ tuy
thấy Ngũ Uẩn này đều là không, nhưng lầm sanh chấp trước khiến cho Sắc Pháp,
Tâm Pháp thành lập đến nỗi khổ ách theo đó sanh ra. Sau khi đã ngộ rồi, tuy vẫn
thấy Ngũ Uẩn này, nhưng toàn thể đều là một Chơn Như, trọn chẳng có tướng Sắc,
Tâm, Ngũ Uẩn. Vì thế, bảo là: “Hôm nay, vọng là chơn”. Nhưng sở chứng ấy nào phải
là điều gì mới mẻ, chẳng qua là phục hồi lại Chơn Như Phật Tánh sẵn có đó thôi,
vì thế bảo: “Chỉ khôi phục bổn tánh, có pháp nào mới đâu?”
Lại nữa, chúng sanh còn mê thì thấy Phật, Bồ Tát và hết
thảy chúng sanh đều là chúng sanh cho nên hủy báng Phật pháp, sát hại chúng
sanh, chẳng biết là tội lỗi, trái lại còn coi đó là vui. Ðức Phật đã triệt ngộ
tâm, chứng tâm “tâm, Phật, chúng sanh cả ba không sai biệt”, thấy hết thảy
chúng sanh và Phật chẳng hai. Vì thế đều vì kẻ oán, người thân thuyết pháp
khiến cho được độ thoát; dẫu là kẻ cực kỳ ác nghịch bất tín, tâm Phật cũng
không hề có một niệm buông bỏ vì Phật thấy kẻ đó chính là vị Phật chưa thành
vậy.
Sáng hôm nay, ông Hoàng Hàm bảo tôi: “Pháp Sư Viên Anh nói
đạo tràng sắp viên mãn. Ngày hoàn mãn sẽ cử hành phóng sanh. Ðến ngày 16 sẽ nói
về Tam Quy, Ngũ Giới”, xin tôi vì Đại chúng giảng Đại ý việc phóng sanh và thọ
Tam Quy, Ngũ Giới ngõ hầu mong Đại chúng cùng phát tâm lợi vật, lợi người. Bởi thế,
bây giờ tôi sẽ riêng tuyên giảng.
Pháp hội này vốn là pháp hội Hộ Quốc Tức Tai. Nếu suy xét
đến tận cùng nguyên do phát khởi tai nạn thì đa phần là vì sát sanh, ăn thịt mà
ra. Vì thế, muốn ngưng dứt sát kiếp, phải bắt đầu từ việc kiêng giết chóc, ăn
chay, bảo vệ, tiếc thương sanh mạng loài vật và chuộc mạng loài vật. Mọi người ai
nấy phải nên phát tâm giữ gìn, thương tiếc sanh mạng loài vật. “Muốn biết binh
đao trong cõi thế, lò mổ xin nghe tiếng nửa đêm” Hãy giữ hai câu ấy làm lời răn
nhắc, tận lực cảnh tỉnh, kiêng dè.
Ý nghĩa của việc phóng sanh là khiến cho mọi người phát
tâm giữ gìn sanh mạng. Chính mình đã phóng sanh, đương nhiên sẽ chẳng sát sanh
nữa. Chính mình đã chẳng phóng sanh, trông thấy người khác phóng sanh, lẽ nào
còn nỡ sát sanh? Nếu ai nấy giữ gìn, thương tiếc sanh mạng, chẳng tàn hại nữa
thì loài vật còn chẳng nỡ giết, huống hồ là giết người? Tự nhiên trừ được sát
kiếp, chuyển được vận nước. Nhưng đời vẫn có kẻ một mặt bỏ tiền phóng sanh, một
mặt vẫn sát sanh, ăn thịt như thường. Như vậy dù có chút công đức phóng sanh,
vẫn e khó địch nổi tội lỗi sát sanh lớn lao!
Hiện pháp hội này dự định ngày viên mãn sẽ cử hành phóng
sanh, xin các vị phát tâm quyên trợ, tự lợi, lợi vật, công đức chẳng thể nghĩ
bàn. Cho đến ngày kế đó, đệ tử quy y có cúng dường chi, Ấn Quang tôi quyết định
dùng hết vào việc ngăn ngừa tai nạn, trọn chẳng để dùng một đồng nào! Bởi lẽ,
tôi là một ông Tăng trơ trọi, vốn đã không có chùa miếu, lại cũng chẳng có đồ
đệ, trừ thức ăn, quần áo ra, có giữ tiền cũng vô dụng! Mai kia mạng chung, sau
khi hỏa thiêu, đem tro rải xuống biển là hết chuyện, cũng chẳng cần phải tạo
tháp và làm bất cứ hình thức kỷ niệm nào.
Ngay cả việc quy y đây, từ đầu tôi vốn chẳng thuận, nhưng
bởi cư sĩ Khuất Văn Lục và pháp Sư Viên Anh đốc thỉnh, viện lẽ các vị phát tâm
cầu pháp tình ý ân cần, vì thỏa mãn ý nguyện của họ, chẳng thể khước từ, nên
đành chấp thuận. Tôi vốn xem nhẹ tiền bạc, chẳng giống những người khác, mỗi tên
đệ tử phải xuất tiền “hương kính” bao nhiêu đó mới chuẩn bị cho quy y. Tôi thì
không tiền cũng quy y được, chỉ cần thành kính tu trì mà thôi. Bởi lẽ, chẳng
thể coi chuyện quy y như chuyện mua bán, cần phải ra giá bao nhiêu đó mới mua
được danh mục quy y! Như thế thì mới là tín đồ chơn thật quy y Tam Bảo, mới có
thể đạt Đại lợi ích liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh.
Ngày thứ sáu: Dùng Chơn Ðế và Tục Ðế để phát trừ kiến chấp và trần thuật
những chuyện linh cảm trong thời cận Đại
Thế nhân chấp không, chấp có, vọng sanh kiến giải nên mê
muội chẳng giác ngộ. Thế Tôn lập ra giáo pháp, muốn cho chúng sanh phá trừ hai kiến
chấp ấy nên đặc biệt bày ra một pháp môn Niệm Phật, mong chúng sanh từ Hữu
chứng ngộ được Không, dẫu đắc Không nhưng chẳng phế Hữu thì hai pháp Hữu -
Không sẽ hỗ trợ nhau, được lợi ích lớn lao, huống hồ là kiêm nhờ nguyện lực của
Phật Di Ðà. Vì thế, lực dụng của pháp môn Niệm Phật siêu xuất hết thảy pháp
môn, làm chỗ quy túc cho hết thảy các pháp môn.
Trong đời có một hạng người tri kiến hèn kém, nghe nói đến
chuyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương bèn bảo: “Chúng ta là hạng nghiệp lực phàm
phu, làm sao dám vọng cầu vãng sanh Tây Phương? Chỉ cầu chẳng mất thân người là
đủ lắm rồi”. Vướng lấy mối tri kiến này là do chẳng biết tâm tánh của chúng
sanh và tâm tánh của chư Phật hệt như nhau, chẳng hai. Bất quá, chư Phật tu đức
đến cùng cực nên tánh đức hiển hiện trọn vẹn, còn chúng sanh dẫu đủ tánh đức
nhưng chưa thể tu đức, dẫu có tu tập nhưng lắm kẻ vì tu hành trái nghịch với tánh,
nên ngược lại, càng thêm mê muội.
Lại có một hạng người tri kiến cuồng vọng. Dạy họ niệm
Phật, họ liền bảo: “Ta đã là Phật, cần gì phải niệm Phật? Các ngươi chẳng biết
mình chính là Phật thì niệm Phật cũng chẳng hề gì. Ta đã biết mình chính là
Phật thì cần gì phải trên đầu lại chồng thêm một cái đầu khác nữa chứ!” Thứ tri
kiến này là do chỉ biết đến vị Phật thuộc về Phật tánh sẵn có ngay trong tâm,
nhưng chưa biết đến vị Phật đã đoạn sạch phiền hoặc, viên mãn phước huệ. Hạng người
này nếu đã biết tánh, tu, Lý, Sự đều chẳng thể thiên chấp, cực lực tu hành tịnh
hạnh thì sẽ vượt xa hạng người tri kiến hèn kém. Nếu chẳng vậy, sẽ tự lầm, lầm người,
sẽ vĩnh viễn đọa trong A Tỳ địa ngục, trọn không có kỳ ra.
Ðối với những hiểu biết lầm lạc chấp không, chấp có, kiến
giải hèn kém và kiến giải lầm lạc cuồng vọng này, chỉ có mỗi pháp Niệm Phật là
dễ đối trị nhất. “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”. Nếu chẳng chịu làm Phật
thì chẳng thể là Phật được. Hai câu kinh này chính là Vô Thượng Diệu Pháp để
phá trừ kiến chấp hèn kém và kiến giải cuồng vọng.
Luận Phật pháp Đại nghĩa đến rốt ráo thì chẳng ngoài Chơn
Ðế và Tục Ðế. Chơn Ðế: một pháp chẳng lập, là thực thể được thấy biết bởi Thánh
Trí. Tục Ðế phô bày trọn vẹn vạn hạnh, chính là hành tướng được tu trong pháp
môn (chữ Tục ở đây nghĩa là tạo dựng, kiến lập, chứ đừng hiểu là thế tục, tục
tằn). Người học Phật phải viên dung Chơn và Tục, hành trọn Nhất Ðạo. Bởi lẽ, vì
một pháp chẳng lập nên mới có thể tu đạo phô bày trọn vẹn vạn hạnh. Vạn hạnh
được phô bày trọn vẹn thì mới hiển hiện được bản thể một pháp chẳng lập.
Ở đây, để dễ hiểu, tôi nói một thí dụ. Bản thể của Chơn
Như Pháp Tánh ví như tấm gương quý báu tròn lớn, rỗng rỗng rang rang, trọn
không có một vật, thế mà người Hồ đến thì bóng người Hồ hiện, người Hán đến ắt
bóng người Hán hiện. Hồ, Hán cùng đến một lúc thì cùng lúc hiện bóng. Chánh
đáng rỗng rang, trống lỗng, trọn không có một vật, chẳng trở ngại gì chuyện người
Hồ đến, bóng người Hồ hiện; kẻ Hán đến, bóng kẻ Hán hiện. Ngay cả khi người Hồ
đến soi bóng người Hồ, người Hán đến soi bóng người Hán, gương vẫn rỗng rang,
trống lỗng, trọn không có một vật.
Thiền Tông đặt nặng Chơn Ðế, tức là ngay chỗ “vạn hạnh phô
bày trọn vẹn” chỉ ngay ra “một pháp chẳng lập”. Tịnh tông chú trọng Tục Ðế, tức
là ngay nơi “một pháp chẳng lập”, chỉ ra chuyện “vạn hạnh phô bày trọn vẹn”.
Bậc trí hiểu rõ Lý sẽ tự chẳng thiên chấp. Nếu không vậy, thà chấp Có còn hơn
là chấp Không! Bởi lẽ, nếu chấp Có dẫu chưa viên ngộ Phật tánh vẫn còn có công
tu trì; chứ chấp Không sẽ bác không nhân quả, thành ra kiến chấp Ðoạn Diệt, hoại
loạn Phật pháp, lầm lạc chúng sanh, họa ấy rất lớn, chẳng thể ví dụ nổi!
Chúng ta niệm Phật trước hết phải từ hữu niệm mà khởi.
Niệm đến lúc niệm lặng, tình vong ắt không những đã không có Ta là người niệm,
mà cũng không có đức Phật để mình niệm, nhưng từng câu, từng chữ vẫn rành rẽ,
phân minh, chẳng lầm, chẳng loạn, tức là như thường nói: “Niệm mà vô niệm, vô
niệm mà niệm” vậy.
“Niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm” nghĩa là ngay trong lúc
đang niệm Phật, trọn chẳng có ý niệm khởi tâm niệm Phật, tuy không có ý niệm
khởi tâm niệm Phật nhưng lại niệm rành rẽ, phân minh, liên tục. Nhưng công phu
này chẳng phải là điều hạng sơ tâm mong gấp đạt được nổi! Nếu chưa đạt đến mức
“vô niệm mà niệm” thì chẳng thể coi chuyện hữu niệm là Sự được, khác nào phá
nhà để tìm lấy chỗ trống không! Cái Không ấy quyết chẳng phải là chỗ để an thân
lập mạng được!
Các bậc cổ Thiền đức, có nhiều vị lễ bái, trì tụng chẳng
tiếc thân mạng, như cứu đầu cháy. Vì thế, Vĩnh Minh Diên Thọ thiền sư ngày làm
108 Phật sự, đêm đi qua ngọn núi khác, đi kinh hành niệm Phật; huống hồ là kẻ
hậu học chẳng trọng Sự Tu, mà lại hòng thành tựu được đạo nghiệp hay sao? Muốn
triệt ngộ được lý thể “một pháp chẳng lập” thì phải tận lực tu hành công năng
“vạn pháp viên tu”; có thế mới là Trung Ðạo Không Hữu viên dung!
Kẻ chấp vào Không Giải Thoát, cứ cho chẳng tu một pháp nào
hết mới là “một pháp chẳng lập” chính là hạng người chư Phật gọi là “đáng
thương xót”. Liên Trì Ðại Sư dạy: “Chấp sự mà niệm, giữ cho liên tục thì sẽ chẳng
luống uổng công, được nhập vào phẩm vị [vãng sanh]. Chấp lý nhưng tâm chưa thật
sự thông đạt, khó tránh nổi cái họa đọa lạc. Bởi lẽ, Sự có công năng dẫn nhập
Lý, Lý chẳng thể tồn tại độc lập”.
Vì thế, chúng ta học Phật phải do chính ngay nơi Sự để thành
Lý, do chính ngay nơi Lý để thành Sự. Lý - Sự viên dung, Có - Không bất nhị thì
mới có thể viên thành tam muội, liễu thoát sanh tử. Nếu tự cho mình chính là
Phật, chấp Lý, phế Sự sẽ sai lầm rất nặng. Vì thế hãy nên tận lực dụng công tu
trì, nhất tâm niệm Phật, từ Sự hiển Lý, dẫu hiển Lý vẫn chú trọng nơi Sự mới có
sở đắc được.
Ngay như hàng Ðẳng Giác Bồ Tát vẫn còn phải dùng mười Đại nguyện
vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới hầu mong viên thành Phật
Quả. Nay đã là phàm phu chẳng biết tự lượng, lầm coi niệm Phật là Tiểu Thừa,
chẳng đáng để tu trì, tương lai có khỏi phải vào A Tỳ được chăng?
Vả nữa, người niệm Phật cần phải tận hết bổn phận mình,
chẳng trái nghịch luân lý thế gian, dốc sức gìn giữ nhân luân, tận hết bổn
phận, ngăn cấm điều tà, gìn giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các
điều lành. Nếu chẳng hiếu với cha mẹ, chẳng dạy dỗ con cái thì đúng là tội nhân
trong Phật pháp. Như vậy mà muốn được Phật cảm ứng gia bị trọn chẳng có lẽ nào!
Vì thế, người học Phật phải là cha lành, con hiếu, anh hiền, em kính, tự lập
mình, lại chu toàn cho người, tự lợi, lợi tha. Ai nấy tận hết bổn phận mình,
dùng chính thân mình đốc suất người khác, rộng tu Lục Ðộ, vạn hạnh, để làm
gương mẫu nhân từ. Phải biết rằng hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ
cũng thuộc vào Lục Ðộ vạn hạnh.
Người chẳng tin Phật trong thế gian giống như người mang
cặp kính màu xem xét vạn vật, thấy là xanh hoặc đỏ là do kính khác màu mà ra,
chẳng thấy được bản sắc của sự vật. Vì thế, người học Phật chúng ta chớ có chấp
vào kiến giải của chính mình. Nếu chấp vào kiến giải chính mình, ngồi đáy giếng
nhìn trời, một mai Diêm La đòi mạng mới hay trước đây mình đã sai lầm, có hối cũng
chẳng kịp.
Hiện tại, cõi thế rối bời, xã hội loạn lạc, thiên tai,
nhân họa sanh khởi trùng trùng. Muốn tính chuyện cứu vãn, ai nấy phải tận lực
gìn giữ nhân luân, tận hết bổn phận, hiếu dưỡng cha mẹ, thương yêu trẻ nhỏ, Đại
công vô tư, yêu người như yêu chính mình thì mới hòng cứu vãn nổi. Nếu nhân tâm
thật có thể bình hòa thì thế giới sẽ tự an, quốc nạn sẽ tự dứt.
Hiện tại, mối họa hoạn lớn nhất là con người ôm lòng riêng
tư. Lòng riêng tư đến cùng cực thì sẽ chỉ còn biết đến mình, chẳng đoái hoài tới
ai khác. Tư ngụy, dối trá, âm độc, hiểm ác, mặc lòng tàn khốc, xâu xé, áp bức,
không gì là chẳng làm đến mức kịch liệt; thế giới này trở thành cõi đời La Sát.
Rốt cuộc cũng đến nỗi trời giận, người oán, thân nát, nhà tan mà thôi.
Thế nhân ham thích cảnh thịnh trị rạng ngời, rực rỡ, thiên
hạ thái bình thời Ðường Ngu, cứ than thở thói đời hiện tại suy đồi, nhân tâm
hiểm ác, nhưng xét đến cùng cực tại sao nên nỗi thì thật sự chẳng ngoài hai chữ
Công và Tư mà thôi! Công đến cùng cực ắt thế giới Đại đồng, tư đến cùng cực ắt
sẽ giết cha, hãm vợ. Nếu phá trừ được tư tâm thì sẽ chẳng tàn hại lẫn nhau, thì
sẽ chẳng khó gì lại được thấy cảnh đời Ðường Ngu Tam Ðại trong ngày nay!
Xưa kia, tại Phổ Ðà có một vị lão Tăng đi đường, chợt va phải
cái ghế rêm cả chân, liền cáu tiết, đạp đổ cái ghế xong, còn co chân đạp liên
tiếp mấy đạp nữa. Có tri kiến như vậy là do mặc tình ngã mạn, tuyệt chẳng phản
tỉnh vì sao xảy ra cớ sự. Nếu cứ để tri kiến như vậy lừng lẫy thì nếu nó đạt
đến mức cùng cực, sẽ chẳng khó gì làm chuyện giết người, phóng hỏa mà cũng
chẳng coi đó là lỗi, trái lại còn coi đó là chuyện nên làm nữa! Hiện tại sát cơ
càng thạnh, dụng cụ giết người càng thêm xảo diệu, Đại kiếp đang chờ trước mắt,
ai sẽ may mắn thoát khỏi? Chỉ mong Đại chúng nhất tâm tu thiện, kiền thành niệm
Phật, ai cầu Phật lực gia bị mới nên.
Trong khi chiến cuộc xảy ra ở Thượng Hải, những nhà cửa ở vùng Áp Bắc cháy tan
ra tro, chỉ còn khu nhà của một đệ tử quy y là ông Hạ Hinh Bồi chưa bị họa
hoạn. Ngay trong lúc chiến sự kịch liệt, toàn gia cùng niệm thánh hiệu Quán Thế
Âm Bồ Tát cảm ứng. Ðiều kỳ lạ nhất là bảy ngày sau khi cuộc chiến nổ ra, người trong
nhà mới được Thập Cửu Lộ Quân cứu ra; lúc tàn cuộc chiến trở về nhà, chẳng mất
một vật gì. Nếu Bồ Tát chẳng gia hộ thì sao mà được như vậy? Ðó là do từ khi ông
ta làm việc cho một tòa soạn nhật báo đã mấy mươi năm, vợ chồng đều ăn chay,
niệm Phật thật chí thành.
Cứ vậy thì biết Quán Thế Âm Bồ Tát Đại từ, Đại bi, nếu gặp
tai nạn, một phen xưng niệm thánh hiệu, cả nhà đã được cứu giúp. Hoặc có kẻ
bảo: “Người đời ngàn vạn, tai nạn phát sanh dồn dập, Quán Thế Âm Bồ Tát chỉ có
một mình làm sao cùng lúc đến cứu từng người được? Dù có cứu giúp cũng khó
tránh khỏi mệt nhọc”. Kẻ ấy nào biết Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng phải thật sự đến
từng chỗ cứu giúp, mà chính là Quán Âm trong tự tâm mình tự cứu giúp đó thôi!
Quán Âm vốn vô tâm, lấy tâm chúng sanh làm tâm, nên ngài có thể xem thấy nên
dùng thân nào để cứu độ thì sẽ hiện ngay thân đó để thuyết pháp.
Như vầng trăng vằng vặc trên không, bất cứ chỗ nào có nước
đều hiện bóng trăng, ngàn dòng sông có ngàn vầng trăng in bóng. Thử hỏi trăng
ấy là một hay là nhiều? Chẳng thể nói là một, vì trăng hiện bóng trong muôn
dòng nước. Cũng chẳng thể nói là nhiều vì vầng trăng trên không luôn chỉ có
một.
Chư Phật, Bồ Tát cứu độ hữu tình cũng giống như thế. Chẳng
được cảm ứng là do chúng sanh còn chưa kiền thành, hoặc là vì nghiệp nặng,
chướng sâu quá mức, chứ chẳng phải Bồ Tát không cứu giúp. Như cái ao nước dơ
bẩn quá, bóng trăng có muốn hiện trong ấy cũng chẳng được. Hiểu lẽ này rồi thì
tôi chẳng tin là Đại chúng chúng ta dẫu niệm Phật mà vẫn chẳng chánh tâm, thành
ý, khẩn thiết, kính ngưỡng.
Một đệ tử ở huyện Văn Hỷ, tỉnh Sơn Tây là ông Diệp Tư Sơ,
cưỡi lừa đi trong vùng núi thẳm, một bên núi cao chót vót, một bên là khe sâu
thăm thẳm. Tuyết đông thành băng, con lừa trượt chân, liền rơi xuống khe. Ngang
lưng vách núi có một cây to, ông Diệp rớt đúng ngay trên chạc cây ấy, không hề
hấn gì, chẳng bị tan thân, nát xương. Sao lại có cái cây mọc ở đó? Ta cũng có
thể bảo là Quán Âm Bồ Tát thị hiện vậy!
Lại nữa, năm Dân Quốc mười bảy (1928), ông Thái Nhân Sơ người
huyện Ninh Ba mở cửa hàng Ngũ Kim Lưu Ly ở Thượng Hải. Ông là người cực thuần
hậu, chơi thân với ông Nhiếp Vân Ðài. Vân Ðài dạy ông Thái thường niệm Quán Thế
Âm, cốt ý để khỏi bị bắt cóc, tống tiền. Nhân Sơ tin theo. Ngày nọ, ông sắp về,
có chiếc xe hơi đậu ngoài cửa, bọn cướp cầm súng buộc phải lên xe, ngồi xổm
trên đó. Ông Nhân Sơ vừa bước ra, lên xe, xe đã rồ máy chạy. Ông vừa biết là
mình bị bắt cóc, liền thầm niệm Quán Âm, mong cho xe chết máy hòng thoát nạn.
Quả thật, xe bị bể bánh, xe lăn bánh khặc khừ, nhưng vẫn cứ chạy tiếp. Bình
xăng lại bùng cháy khiến xe bắt lửa, bọn cướp phải xuống xe. Chúng cáu kỉnh
hướng về phía ông Thái nã liền ba phát súng, nhưng ông Thái chạy né khỏi được,
liền ngồi xe kéo trở về. Tháng Sáu năm đó, ông cùng vợ cùng đến Phổ Ðà quy y
Tam Bảo.
Lại nữa, ông Trương Thiếu Liêm vì việc hàng hải đi kinh
lý, ông này trọn chẳng tin Phật. Một ngày kia, ngồi xe hơi lái đến chỗ nghỉ
mát, hai tên cướp cầm súng trèo lên xe, buộc ông Trương phải mau lái xe đến chỗ
nọ. Mỗi tên đều cầm súng đe nẹt ông. Ông Trương thầm niệm Quán Âm, xe lái đến
chỗ nhiệt náo, chợt có hai người đánh lộn, tuần bộ thổi còi, hai tên cướp liền
trèo xuống xe, lủi mất. Ðấy là vì ông Trương thầm niệm Quán Âm nên hai tên cướp
mới lầm tưởng là tuần bộ toan đến bắt chúng. Cậu ông ta là cụ Chu Vị Thạch đã
quy y từ trước, một hôm thỉnh tôi đến nhà cụ. Họ Trương cũng đến quy y.
Lại nữa, con ông Lý Cận Châu ở Trấn Hải lo việc buôn bán
trên đường biển, bị bịnh thổ huyết đã hai năm. Có lúc thổ huyết thình lình, lúc
không thổ huyết thì trong đàm thường lẫn máu. Một ngày, ông bị bọn cướp bắt. Cả
nhà ông Cẩn Châu sợ hãi dị thường, cùng niệm cầu Quán Âm cứu ông. Lại thỉnh chư
Tăng chùa Pháp Tạng trợ niệm. Sau đấy, bọn cướp đòi năm mươi vạn đồng tiền
chuộc. Nhà họ Lý chỉ có năm vạn. Tên đầu sỏ bọn cướp bảo không đủ năm mươi vạn
là không xong; nhưng mỗi khi hắn đề cập đến năm mươi vạn, đầu liền bị nhức
buốt, sau đành chấp thuận năm vạn tiền chuộc. Từ khi ông Cẩn Châu được bọn cướp
thả về, chẳng những không bị thổ huyết, mà có khạc đàm cũng chẳng thấy lẫn máu
nữa! Suốt hơn hai năm vương bệnh tật, sau khi bị cướp bắt, bệnh được khỏi hẳn.
Trên đây tôi vừa thuật những sự tích cảm ứng, quý vị nên
tin tưởng sâu xa, tận lực hành trì thì mới chẳng uổng công nghe giảng ngày hôm
nay vậy. Hiện tại, người học Phật rất nhiều, nhưng người hiểu biết Phật pháp
sâu sắc lại quá ít, trái lại , đa số tin vào những lời lẽ của ngoại đạo. Miền
Giang Triết có lời ngoa truyền rằng: “Người niệm Phật chẳng được vào phòng đàn
bà sanh nở vì mỗi khi bị chất máu tanh hôi của bà đẻ suông nhằm, bao nhiêu công
đức niệm Phật từ trước tiêu mất hết”. Vì thế, ai nấy coi đó là cấm địa, dù là
phòng sanh của con gái, con dâu mình cũng chẳng dám bước vào. Thậm chí, có người
còn tìm chỗ để ẩn mặt sẵn từ trước. Ðầy tháng xong mới dám trở về nhà. Lời đồn
thổi này mới quái dị làm sao? Chẳng hề biết đó chính là tà thuyết của ngoại đạo
làm lầm lạc, điên đảo nhân tâm, sao lại đành tin nhảm vậy?
Tôi nhớ vào năm Dân Quốc thứ mười hai (1923), con dâu thứ
của ông Viên Hải Quán, tuổi gần mười sáu, có chút học vấn, có hai trai, hai gái.
Lúc con dâu trưởng sắp sanh, có một vị cư sĩ bảo: “Con dâu ông sắp sanh, trong
vòng một tháng, ông không được cúng Phật trong nhà, cũng chẳng được niệm Phật”.
Ông ta nghe xong, hồ nghi, vừa may tôi đến đất Hỗ, ông bèn hỏi ý việc ấy.
Tôi nói: “Ðừng tin lời nói xằng. Về bảo con dâu ông niệm
Quán Âm cho nhiều, lúc sanh cần niệm Phật ra tiếng. Ông cùng những người săn
sóc sản phụ ai nấy đều nên niệm lớn tiếng thì nhất định chẳng đến nỗi bị sanh
khó, không bị những nạn đau đớn, băng huyết v.v… Mà sau khi đẻ xong cũng chẳng
bị các điều nguy hiểm”. Ông ta nghe nói, rất mừng. Qua mấy ngày sau, cháu bé
sanh ra, thân rất to, lẽ ra phải là người Hồ Nam mới sanh con lớn cỡ đó. Ðứa bé
nặng đến chín cân rưỡi, nhưng người mẹ chẳng đau đớn gì. Vậy mới biết sức Đại từ,
Đại bi của Quán Âm Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn.
Bình thường niệm Phật, niệm Bồ Tát, phàm lúc sắp ngủ, lúc
rửa chân, tắm gội đều nên niệm thầm. Nhưng lúc sanh nở chẳng được niệm thầm vì
lúc sanh phải dùng sức, niệm thầm ắt sẽ bị tức khí thành bệnh. Phải nên rất chú
ý điểm này. Phải biết là Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, Pháp lực chẳng thể nghĩ
bàn, chúng sanh tâm lực cũng chẳng thể nghĩ bàn, có điều là con người có kiền
thành hay không mà thôi!
Vị cao tăng đời Minh là ngài Thọ Xương Huệ Kinh thiền sư
lúc sắp sanh, mẹ bị sanh khó. Ông của ngài đứng ngoài phòng sanh, vì con cháu
niệm kinh Kim Cang để được dễ sanh. Cụ vừa mới mở miệng niệm xong hai chữ Kim
Cang, cháu đã được sanh. Nhân đó, ông cụ bèn bảo đặt tên cho cháu là Huệ Kinh.
Lớn lên, quy y và xuất gia đều chẳng lấy tên nào khác. Trong thời Vạn Lịch
(Minh Thần Tông 1573-1620), ngài là vị cao tăng lỗi lạc. Do đấy, gẫm xem thì
biết là Phật pháp lợi lạc thế gian rất lớn. Niệm Quán Âm Bồ Tát vào lúc sanh
sản có lợi ích như thế đó, chớ để tà thuyết mê hoặc mà chẳng tín phụng
Ngài!
Thế nhân ăn thịt thành thói quen. Chỉ cần biết là bất cứ
loại thịt nào đi nữa đều có chất độc, vì lúc sanh vật bị giết, hận tâm, oán khí
ngùn ngụt. Người ăn vào tuy chẳng đến nỗi táng mạng ngay lập tức, nhưng tích
tập lâu ngày sẽ phát thành ghẻ chốc, tật bệnh. Những phụ nữ trẻ tuổi nổi nóng
xong cho con bú sữa mẹ, đứa bé có thể bị chết; ấy là vì sự nóng giận khiến cho
sữa bị nhiễm độc. Sự nóng giận của con người vào lúc chưa phải bị đau khổ trí
mạng còn độc đến thế, huống là cái đau mất mạng của những loài heo, dê, gà,
vịt, cá, tôm v.v… Cứ suy ra thì biết thịt chúng độc đến đâu!
Hơn mười năm về trước, tôi có thấy một cuốn sách nói: “Một
phụ nữ Âu Tây tánh tình nóng nảy quá mức, ngày nọ vừa nổi nóng xong, cho con
bú, đứa bé chết ngay, chẳng biết vì nguyên do gì. Sau lại sanh đứa khác, lại nhân
lúc nóng giận cho con bú, nó bị chết luôn; bèn đem sữa đi xét nghiệm thì thấy
sữa có chất độc. Lúc đó mới biết cả hai đứa con đều chết vì sữa bị hóa độc”.
Gần đây, có một bà cụ đến quy y. Tôi khuyên cụ ăn chay, nại cớ thịt có chất độc
và kể chuyện người phụ nữ Âu Tây có hai đứa con chết nói trên làm chứng. Cụ ta
bảo mình cũng có hai đứa con bị chết cùng nguyên nhân bởi lẽ chồng cụ tánh khí
ngang ngược, man rợ, cứ hễ trái ý liền đánh đập vợ. Con nhỏ trông thấy khóc òa
lên, mẹ liền cho bú. Ðứa bé chết tốt. Lúc ấy, cụ chẳng biết là sữa bị hóa độc.
Con dâu cụ cũng vì cho con bú mà chết mất một đứa. Ðủ thấy con nít trong đời bị
trúng sữa độc chết chẳng biết là bao nhiêu.
Do người phụ nữ Tây Phương phát giác trước tiên và cụ bà
kia xác nhận, ta mới thấy thật minh bạch. Vì thế, người mẹ cho con bú sữa mẹ
chớ nên nổi nóng. Nếu như đang giận dữ quá mức thì đừng có cho con bú, cần phải
đợi đến lúc tâm trạng lắng dịu, hết còn giận hờn chờ vài tiếng sau mới cho con
bú không ngại gì. Nếu ngay lúc đó, chưa bao lâu sau đã cho bú thì không đến nỗi
làm chết con, nhưng cũng tạo thành bệnh mà chẳng biết nguyên nhân.
Cùng một lẽ đó, các loài trâu, dê v.v… lúc bị giết tuy
chẳng nói được, nhưng oán độc uẩn kết trong máu thịt không biết là bao nhiêu!
Chẳng những chỉ tăng thêm sát nghiệp mà còn chiêu lấy tội báo trong tương lai,
hiện đời cũng bị lắm bệnh nghiệt, đoản mạng, thật là đáng thương, đáng xót vậy.
Ít người biết được điều này nên tôi phải nêu rõ ra, ngưỡng mong Đại chúng đều
nên lưu ý. Lấy đó mà suy thì thấy: khi người ta nóng giận, chẳng những sữa có
chất độc mà nước mắt, nước miếng cũng đều có chất độc. Nếu những thứ này rơi rớt
vào miệng, mắt trẻ nhỏ cũng gây hại chẳng ít. Có một vị bác sĩ đến quy y tôi,
tôi hỏi ông ta: “Trong sách thuốc có nói đến điều này hay không?” Ông đáp:
“Chưa từng thấy”.
Trong thế gian có lắm chuyện vượt ngoài thường tình, chẳng
thể vin vào lý do chúng không hợp khoa học mà bác bỏ được. Chẳng hạn như cách
trị bệnh ngược (2) thì dùng một tấm giấy trắng rộng hai tấc, bọc hai trái ô
mai, hai trái hồng táo, vài hạt hồ đậu (số lượng hồng đậu nhiều ít tùy theo tuổi
bệnh nhân, bao nhiêu tuổi bấy nhiêu hạt) xếp thành gói. Trước lúc cơn bệnh phát
ra khoảng một tiếng đồng hồ, quấn trên bắp tay, nam tả nữ hữu, thì bệnh sẽ
chẳng phát nữa. Cách này rất công hiệu. Dù bệnh đã hai ba năm chẳng lành, cũng
chữa lành được. Chẳng phải thuốc, chẳng phải bùa, chẳng phải chú lại có công
hiệu lạ kỳ như thế, há có thể vận dụng thường lý để giải thích chăng? Bởi đó,
ta biết rằng vạn sự trong thế gian, điều nào cũng khó thể nghĩ bàn cả!
Chẳng hạn như mắt thấy, tai nghe là chuyện cực bình
thường, ai ai cũng biết cả, nhưng nếu hỏi vì sao mắt thấy được, tai làm sao
nghe được, những nhà khoa học sẽ đáp là do tác dụng của thần kinh. Nếu lại hỏi nữa:
Vì sao thần kinh lại có tác dụng như thế? Và tại sao lại có thần kinh? Thì e
rằng chỉ một ít người đáp nổi. Trong Phật pháp cũng có những sự chẳng thể nghĩ
bàn nhưng lại nghĩ bàn được, có những sự có thể nghĩ bàn nhưng lại chẳng thể
nghĩ bàn được. Thần diệu nhưng minh bạch, tồn tại ngay trong con người, chẳng
thể vội dùng lẽ thường tình để suy lường được!
Ngày thứ bảy: Giảng về tội vọng ngữ và những sự như: Đại hiếu trong nhà
Phật, trí tri cách vật, già giặn, chắc thật niệm Phật v.v…
Ngày hôm nay, pháp hội viên mãn. Trong chớp mắt đã qua bảy
ngày. Dù pháp hội đã mãn, nhưng đối với trách nhiệm hộ quốc tức tai, cho đến khi
chấm dứt báo thân này, chúng ta nên xả thân thực hiện. Hễ còn một ai chưa ăn
chay, niệm Phật, vãng sanh Tây Phương thì vẫn chưa thể coi là viên mãn rốt ráo
được.
Người học Phật hiện tại lắm kẻ tự thị ta đã khai ngộ, ta
là Bồ Tát, ta đã đắc thần thông đến nỗi làm lắm kẻ khác bị lầm theo. Một mai Diêm
lão réo mạng, lúc lâm chung, cầu sống chẳng được, đau khổ mà chết, khó tránh khỏi
địa ngục A Tỳ. Chớ nên nhiễm đắm cái thói ham cao, ưa thắng, dối mình, lừa người
ấy; nếu trót dính vào thì phải sửa ngay. Còn ai không vướng phải thói ấy thì
càng phải cố tránh. Thật rất mong mỏi vậy.
Sát, trộm, dâm… đều là trọng tội; nhưng vẫn còn có người biết
những hành vi ấy chẳng tốt, không phải ai cũng mắc phải nên những tội ấy còn
ít. Nếu chẳng tự lượng, phạm tội Đại vọng ngữ, chưa đắc đã bảo đắc, chưa chứng
đã nói chứng để lãnh đạo những hạng vô tri thì tội ấy càng nặng nề lắm. Hoại loạn
Phật pháp, khiến chúng sanh ngờ vực, mê lầm, tội ấy chẳng thể hình dung được
nổi!
Người tu hành cần phải giấu tài, ẩn đức, phơi bày tội lỗi.
Nếu chuộng hư trương thanh thế, bôi mặt, bày trò thì dù có tu hành cũng bị cái tâm
kiêu hư ấy phá hoại quá nửa. Vì thế, Phật đặc biệt coi tội vọng ngữ là Căn Bản Giới,
nhằm để ngăn ngừa tâm hư ngụy, ngõ hầu chơn tu, thực chứng. Thế nên, người tu
hành chẳng được hướng về người khác khoe khoang công phu của chính mình. Nếu
như vì chẳng hiểu rành rẽ, muốn cầu thiện tri khai thị, ấn chứng thì có thể tự
trần thuật đúng ngay sự thực, chứ chẳng thể tự kiêu nói quá lên, cũng bất tất phải
tự khiêm nói giảm đi, cứ nói đúng theo tình huống chân thật thì mới là đệ tử
Phật chơn chánh, mới có thể ngày một tiến hơn.
Lục Tổ Huệ Năng thiền sư nói:
Phật pháp tại thế gian,
Chẳng rời thế gian giác
Lìa đời tìm Bồ Ðề
Khác nào tìm sừng thỏ.
Nên ta biết rằng hết thảy sự vật trong thế gian đều là
Phật pháp. Chúng ta khởi tâm động niệm đều phải rành rẽ, minh bạch, chẳng được
để vọng niệm làm mê. Từ những hạng người cực ác, bại hoại cùng cực trong thế
gian cho đến những đứa trẻ non nớt nếu có ai nhắc đến những điều bất thiện cũng
giận, nghe điều lành thì vui.
Sự giận dữ đối với điều bất thiện, vui vẻ đối với điều
thiện chính là do Bản Giác từ Chơn Tâm phát hiện. Chỉ tiếc là chẳng biết xoay lại
để mở rộng điều thiện, vẫn cứ suốt ngày làm chuyện chẳng lành, đến nỗi hữu danh
vô thực, lọt vào hạng tiểu nhân. Giả sử họ có thể tự phản tỉnh: “Mình đã vui với
điều thiện thì hãy nên tận lực làm việc lành, tận lực ngăn ngừa điều ác thì dù
kém cỏi nhất cũng may ra thành hiền, thành thánh; còn cao tột thì liễu sanh
thoát tử, thành tựu Phật đạo vậy!”
Ðiều trọng yếu là tự giác. Hễ giác thì sẽ chẳng chạy theo
mê tình, cuối cùng đạt đến chỗ giác vĩnh viễn chẳng mê. Nếu chẳng giác sẽ suốt
ngày muốn người khác xưng tụng mình là lành, nhưng vẫn suốt ngày làm các điều
ác, chẳng đáng thương xót lắm ư? Bởi vậy, [sự kiện] con người ai cũng có ý niệm
muốn được người khác khen là lành đủ chứng tỏ chúng sanh ai cũng đều có Phật
tánh, nhưng hành vi thuận theo tánh hay trái nghịch tánh một phần là do mình tự
cố gắng hay tự buông lung, một phần là do thiện hay ác tri thức chỉ bày, dẫn
dụ.
Hiện nay, tai nạn phát sanh dồn dập, quá nửa là do con người
chẳng chú trọng thực tế, uổng công chạy theo hư danh, ham danh ghét thật, trái nghịch
bản tâm mà nên nỗi! Nếu có thể hồi quang phản chiếu, phát huy Phật tánh vốn đã
sẵn có, chẳng khinh mình, khinh người, hiểu rõ lễ nghĩa, biết liêm sỉ thì cái căn
bản đã lập, chẳng còn có hạnh nghịch lý bội đức, ắt tai hoạn sẽ tự dứt vậy! Người
học Phật cần nhất là phải trọn hết bổn phận. Tròn bổn phận thì sẽ có liêm, có
sỉ. Những hạnh như cha từ, con hiếu, anh mến, em kính đều nên nỗ lực thực hành.
Sách Ðại Học có câu: “Ðại học chi đạo, tại minh minh đức”
(Ðạo Đại học cốt ở chỗ làm sáng tỏ cái đức sáng). Chữ “minh” thứ nhất là tu
tỉnh, khắc kỷ, tuân theo lễ nghĩa. Hai chữ “minh đức” tiếp đó chỉ đức hạnh gồm:
ý chơn thành, tâm chơn chánh, sửa trị thân mình, giữ yên gia đình… Muốn làm
sáng tỏ minh đức đó, không bắt đầu từ ý chơn thành, khắc kỷ thì không
xong!
Tiến lên nữa, mới có thể nói: “Tại thân dân, tại chỉ vu chí thiện”. Chữ “thân
dân” ở đây hàm nghĩa ta - người nhất thể, xem người như mình, ai nấy tận hết
bổn phận. “Chỉ vu chí thiện” nghĩa là động, tịnh đều theo lễ, chẳng buông lung
khi ở nơi nhà tối, tự thực hành, dạy người thực hành, thuận theo thiên lý, tình
người, là Trung Ðạo chẳng lệch, chẳng khuất khúc. Ðược như vậy sẽ là thánh, là
hiền, dễ được mấy ai?
Vả nữa, Phật pháp nhằm dạy người đối trị phiền não, tập
khí nên có Tam Học: Giới, Ðịnh, Huệ làm căn bản. Bởi lẽ, hễ đã răn dè, ràng
buộc cái thân, sẽ chẳng dám làm điều trái đức, phi lễ, chẳng dám thốt lời gây
tổn hại. Do Giới sanh Ðịnh nên những tạp niệm vọng loạn rối bời trong tâm sẽ
dần tiêu, những điều hồ đồ, hôn muội, đáng thẹn sẽ tự ngưng. Do Ðịnh phát Huệ
nên Chánh Trí khai phát, phiền hoặc tiêu diệt. [Ðược vậy thì] khi thực hiện các
thiện pháp thế gian hay xuất thế gian sẽ không có pháp nào là chẳng phù hợp với
Trung Ðạo cả!
Ba thứ Giới, Ðịnh, Huệ đều là Tu Ðức, đều là những điều do
chính Chánh Trí thể hội tâm thể. Ðấy chính là Minh Ðức. Sách Trung Dung gọi Minh
Ðức này là “thành”. Thành tức là thuần chơn vô vọng. Minh Ðức tức là “ly niệm
linh tri”. Thành và Minh Ðức đều thuộc về Tánh Ðức do phải khắc kỷ, tu tỉnh tu
trì thì tánh đức mới hiển lộ. Bởi thế, Nho gia chú trọng vào chữ “minh” thứ
nhất vì hễ đã minh Minh Ðức thì sẽ thấy thấu suốt, sẽ minh vĩnh viễn. Phật pháp
và thế pháp vốn chẳng hai.
Có kẻ cho rằng nhà Phật “từ thân cát ái” là bất hiếu thì
đó là cái nhìn hạn cuộc trong đời này, là cái nhìn nông cạn chưa biết được quá
khứ, vị lai. Chữ hiếu đối với cha mẹ trong nhà Phật thông suốt cả ba đời. Vì
thế kinh Phạm Võng dạy: “Nếu là Phật tử thì do từ tâm sẽ hành nghiệp phóng
sanh, coi hết thảy đàn ông là cha mình, coi hết thảy nữ nhân là mẹ mình. Trong
đời đời, không lúc nào ta không do họ sanh ra. Bởi vậy, lục đạo chúng sanh đều
là cha mẹ ta. Giết họ để ăn thì khác gì giết cha mẹ để ăn thịt đâu?”
Ðối với hết thảy chúng sanh, nhà Phật đều có thể thương
xót, nghĩ mong độ thoát nên sự Hiếu ấy lớn lao thay! Huống hồ, lại còn độ cho
cha mẹ vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, há có sự hiếu thế gian nào sánh bằng nổi ư?
Thế nhân cứ nghĩ: cha mẹ còn sống thì chăm chút, phụng dưỡng, cha mẹ đã mất thì
đến ngày mất bày thức ăn cúng tế mới là tận dạ làm con. Giả như cha mẹ tạo
trọng tội, phải đọa trong dị loại, nào ai dám chắc là trong đám sinh vật mình
giết hại để cúng tế ấy hoàn toàn chẳng có cha mẹ mình trong số đó ư?
Mê muội lý tam thế vô tận nên mới vin vào sự hiếu nhỏ nhoi
ấy mươi năm mà trách Phật. Sự thấy biết nhỏ nhoi, nông cạn ấy cũng đáng nực cười
thay! Vì thế, Phật dạy người ta tránh giết, phóng sanh, ăn chay, niệm Phật,
thực có thể nói là lòng hiếu từ vô tận vậy.
Hoặc lại có kẻ bảo: “Heo, dê, cá, tôm… vốn do trời sanh để
nuôi dưỡng con người, ăn chúng nào có mắc tội gì?” Ðây là do chưa trải qua cảnh
đó nên nói xằng như thế. Nếu đích thân gánh chịu nỗi khổ của chúng liền sẽ mong
được cứu không ngơi, chứ còn rảnh đâu để biện bác.
Sách Khuyến Giới Lục Loại Biên có chép: Ông họ Triệu nọ ở
Bồ Thành, tỉnh Phước Kiến kiêng sát sanh đã lâu, vợ ông tàn nhẫn, ham ăn thịt.
Ngày hôm trước hôm sinh nhật, bà mua khá nhiều sanh vật để giết đãi khách. Họ
Triệu bảo: “Bà muốn chúc thọ lại khiến chúng bị chết mà yên lòng sao?” Vợ bảo:
“Toàn là lời nhảm cả! Nếu theo như Phật pháp, nam nữ chẳng được ngủ chung,
chẳng giết sanh mạng thì hóa ra mấy mươi năm sau, cả thế gian chỉ còn toàn là
súc sanh sao?” Ông Triệu biết không cách nào khuyên giải được, đành phải chịu
phép.
Ðến đêm, người vợ mơ thấy đi vào nhà bếp, thấy giết heo mà
chính mình bị biến thành heo, bị giết rồi vẫn còn biết đau. Lúc bị cạo lông,
phanh bụng, móc ruột, lóc chân càng đau khổ không chịu nổi. Và khi giết gà, vịt
v.v… đều thấy chính mình biến thành những con vật bị giết. Ðau đến nỗi tỉnh cả
ngủ, tâm run, thịt giựt. Từ đấy phát tâm thả hết những loài vật mình đã mua, ăn
chay trường. Người này đời trước có Đại thiện căn nên mới cảm được Phật từ gia
bị, khiến được đích thân chịu khổ để dứt ác nghiệp. Chứ nếu không sẽ đời đời,
kiếp kiếp nộp thân cho người ăn nuốt để đền nợ.
Những kẻ giết sanh vật ăn thịt trong đời này nếu có thể
đặt mình vào hoàn cảnh của loài vật thì khó gì mà chẳng lập địa hồi đầu. Nếu
như nói: “Trời sanh các loài heo, dê… để nuôi dưỡng con người” thì thử hỏi phải
chăng trời sanh ra con người để nuôi dưỡng những loài hổ, sói, muỗi, rệp… ư?
Chẳng đáng bõ cười thay!
Lại có một hạng người nói: “Ta ăn thịt trâu, dê, gà, vịt… là
muốn độ thoát chúng nó!” Trong Hiển Giáo chẳng có thuyết này, trong Mật Giáo
cũng chẳng hề có. Nếu quả thật có thần thông như Tế Ðiên Hòa Thượng cũng còn
tạm được. Chứ nếu không, đó chỉ là tà thuyết khiến người lầm lạc, tự chuốc lấy tội.
Chỉ hạng cực vô liêm sỉ mới dám nói thế! Nếu đã có thể giết chúng để độ thì cha
mẹ tối tôn trọng, vợ con tối thân ái sao chẳng giết sạch đi để ăn thịt hòng độ
họ? Những kẻ hoang đường, quái đản ấy còn biết nói gì nữa!
Thời Nam Lương, tại núi Thanh Thành ở đất Thục (nay là Tứ
Xuyên), có vị Tăng tên là Ðạo Hương, có Đại thần lực, nhưng giấu kín chẳng tiết
lộ. Núi ấy có lệ hằng năm mở hội, trong ngày hội mọi người ăn uống no say, giết
hại sanh vật vô số. Ngài Ðạo Hương khuyên can nhiều lần, họ chẳng nghe. Năm ấy,
ngài đào một cái hố to ở ngoài cửa núi, bảo mọi người: “Các ông đã ăn no, xin
chia cho tôi một bát canh, có được không?” Mọi người ưng thuận. Khi đó, ngài Ðạo
Hương cũng ăn uống no say, nhờ người dìu đến trước hang ọe hết ra. Những con
vật ngài đã ăn vào: Con nào bay được thì bay lên, con nào chạy thì chạy đi,
tôm, cá, thủy tộc ói ra ngập cả hố. Mọi người kinh sợ, liền vĩnh viễn kiêng sát
sanh. Về sau, ngài Ðạo Hương nghe lời Chí Công liền hóa (Có người đất Thục đến
kinh đô yết kiến ngài Chí Công. Chí Công hỏi: “Người xứ nào?” Ðáp: “Tứ Xuyên”.
Chí Công bảo: “Ông Hương ở Tứ Xuyên được kính trọng hay coi thường?” Ðáp: “Coi rất
thường”. Chí Công bảo: “Bị người coi thường sao chẳng hóa đi”. Người đó trở về
núi Thanh Thành, thuật cho Ðạo Hương nghe lời ngài Chí Công. Ngài Ðạo Hương
nghe lời ấy xong liền hóa).
Nên biết rằng những người ẩn kín trong đời, một khi hiển
thị thần thông xong sẽ lìa đời tịch diệt để khỏi bị phiền não. Còn không thì phải
như ngài Tế Ðiên làm ra vẻ si cuồng, điên dại khiến không ai dò biết được ngài ảo
diệu đến đâu, mới yên.
Người học Phật cần phải bỏ cái thấy ta - người, tự lập,
lập người. Có vậy mới có thể nói là nhập đạo. Tức là như sách Ðại Học chép: “Cổ
chi dục minh minh đức vu thiên hạ giả, tiên trị kỳ quốc. Dục trị kỳ quốc giả,
tiên tề kỳ gia. Dục tề kỳ gia, tiên tu kỳ thân. Dục tu kỳ thân giả, tiên chánh
kỳ tâm. Dục chánh kỳ tâm, tiên thành kỳ ý. Dục thành kỳ ý giả, tiên trí kỳ tri.
Trí tri tại cách vật” (Người xưa muốn làm sáng tỏ đức sáng trong thiên hạ thì
trước hết phải giữ yên đất nước. Muốn giữ yên đất nước thì trước hết phải yên
định gia đình. Muốn yên định gia đình thì trước hết phải sửa đổi thân mình.
Muốn sửa đổi thân mình thì trước hết phải ngay chánh tâm mình. Muốn ngay chánh
tâm mình thì trước hết phải giữ cho ý mình chơn thành. Muốn chơn thành ý mình
thì trước hết phải đạt đến chỗ hiểu biết. Ðạt đến chỗ hiểu biết nằm ở chỗ trừ
khử vật dục).
Chữ “vật” ở đây chỉ vật dục chẳng phù hợp với thiên lý và
tình người. Hễ đã có tư dục ắt tri kiến sẽ thiên tà, chẳng còn công chánh nữa.
Lệ như đã yêu vợ, thương con thì dù vợ con có hư đốn cũng chẳng cần biết đến.
Do đắm chìm, mê mệt với tư dục nên lương tri sẵn có bị khuất lấp, đến nỗi sự
hiểu biết trở thành sai quấy thiên tà, bất chánh.
Nếu có thể trừ khử (cách trừ) sạch được tư dục thì vợ con
đúng hay sai sẽ thấy ngay lập tức. Bởi thế, một chuyện “cách vật” (trừ khử vật
dục) ở đây cần phải giảng thống thiết, chớ có lầm hiểu “cách vật” nghĩa là
thông suốt cùng tột lý của mọi sự vật trong thiên hạ. Trừ khử tư dục trong tự
tâm mới chính là căn bản của việc “minh Minh Ðức”. Thông đạt tận cùng lý tánh
của sự vật trong cõi đời chỉ là chuyện cành phụ, đầu nhánh. Lấy chuyện cành
phụ, đầu nhánh làm căn bản trọng yếu thì lạ gì thiên hạ chẳng loạn lạc hết
thuốc chữa nổi!
Phật pháp trừ khử tham, sân, si cũng là “cách vật”. Tu Giới
- Ðịnh - Huệ chính là “trí tri”. Vật Tham Sân Si chất chứa trong tự tâm thì
cũng như đeo cặp kính màu nhìn mọi vật sẽ chẳng thể thấy được sắc thật của từng
vật. Họa hại của vật dục chẳng đáng sợ sao?
Người niệm Phật cũng đừng nên tự cậy thông minh, trí huệ,
mà cần phải vứt bỏ những điều ấy ra tận ngoài biển Ðông. Nếu chẳng vậy sẽ luôn
bị chúng làm lầm lạc, tự bị liên lụy. Bởi lẽ, sẽ bị tri kiến ngăn che chẳng thể
nhất tâm được, chẳng bằng hạng ngu phu, ngu phụ niệm Phật. Chánh tâm, thành ý
được hưởng ích lợi rất lớn. Vì thế, một pháp Niệm Phật tốt nhất là phải học
theo những kẻ quê mùa, ngu độn, lấy việc già giặn, chắc thật hành trì làm
trọng.
Tục ngữ bảo: “Thông minh rốt cục bị lầm vì thông minh”,
chẳng đáng sợ sao? Như bà vợ của ông Trịnh Bá Thuần, một đệ tử quy y của tôi ở
huyện Bảo Sơn, tỉnh Vân Nam. Bà trường trai niệm Phật nhiều năm. Người con
trưởng tên Huệ Hồng đã chết hai năm trước. Bà vợ do thương con quá nên uống
thuốc độc. Bà trọn không có tướng trạng khổ sở, đoan tọa niệm Phật qua đời. Ðã
chết rồi sắc mặt càng sáng nhuận, kinh động cả một phương. Ông Bá Thuần là bậc
lão nho đề xướng niệm Phật, ít có người tin, nhưng do cái chết của vợ con ông,
mà mười người đã hết tám, chín người tin theo. Phàm đoan tọa niệm Phật qua đời,
nếu không bịnh mà thác đã chẳng dễ gì, nhưng do uống thuốc độc mà chết còn hiện
được tướng đó, nếu chẳng phải là đã đắc Tam Muội nên chất độc chẳng làm hại được
thì làm sao đạt được như vậy? Nhưng uống thuốc độc tự sát là điều Phật pháp cấm
đoán, đừng tưởng vậy là hay, cũng đừng khinh thường làm thử, những vị nghe
giảng phải dè chừng.
Ông Tống Dương Kiệt, tự là Thứ Công, hiệu Vô Vi Tử, tham
học với Thiên Y Nghĩa Hoài thiền sư, Đại ngộ. Sau nhân cư tang mẹ, duyệt Ðại Tạng,
hiểu sâu xa sự thù thắng của pháp môn Tịnh Ðộ nên tự hành, dạy người hành. Lâm
chung nói kệ rằng:
Sanh diệc vô khả luyến
Tử diệc vô khả xả,
Thái hư không trung chi hồ giả dã,
Tương thác tựu thác:
Tây Phương Cực Lạc
(Sanh thì cũng chẳng tiếc gì,
Chết rồi cũng chẳng bỏ đi đâu nào,
Hư không hư huyễn sá chi,
em lầm bù lẫn để về Tây Phương)
Ông Dương Kiệt sau khi Đại ngộ, quy tâm Tịnh Ðộ, cực lực
đề xướng; đến lúc lâm chung nhận biết: Trong chơn tánh thì sanh tử như hoa đốm
trong hư không, nhưng do chưa chứng được chơn tánh thì chẳng thể không cầu vãng
sanh Tây Phương để chứng được. “Ðem lầm bù lẫn” nghĩa là nếu đã triệt chứng
chơn tánh thì bất tất phải cầu sanh Tây Phương chi nữa. Cầu được vãng sanh vẫn
còn là lầm lạc, nhưng nếu chưa chứng ngộ chơn tánh thì chẳng thể không cầu vãng
sanh Tây Phương cho nên mới nói: “Ðem lầm bù lẫn để về Tây Phương”. Trong tác
phẩm Vãng Sanh Tập, cuối truyện ông Tống Dương Kiệt, Liên Trì Ðại Sư đã tán như
sau: “Tôi mong những kẻ thông minh tài trí trong thiên hạ đều có thể thành tựu
loại lầm lạc này. Ðấy có thể bảo là thực sự Đại thông minh mà chẳng bị thông
minh làm lầm lạc vậy”.
Như ông Tô Ðông Pha đời Tống, tuy là hậu thân của Ngũ Tổ Giới
Diễn thiền sư, luôn mang một bức tranh Phật A Di Ðà theo bên mình, bảo: “Ðây là
công cứ Tây Phương của cả đời ta”. Nhưng đến lúc lâm chung, trưởng lão Duy Lam
ở Kính Sơn khuyên nhủ đừng quên Tây Phương, Ðông Pha nói: “Tây Phương tự có,
nhưng chẳng thể dốc sức vào đấy được!” Môn nhân Tiền Thế Hùng bảo: “Ðấy chính
là chỗ tiên sinh thường hành trì, hãy nên dốc sức”. Ðông Pha đáp: “Hễ dốc sức
vào thì đã là sai rồi!” Nói xong liền mất. Ðấy chính là bằng chứng hùng hồn của
chuyện bị thông minh gây tự lầm lạc vậy. Mong quý vị tránh khỏi được điều
này.
Pháp môn Tịnh Ðộ khế lý, khế cơ, dùng sức ít mà thành công
dễ, như đã căng buồm lại còn thuận nước vì nhờ vào Phật lực. Các tông khác dùng
sức nhiều mà thành công khó như con kiến bò lên núi cao vì toàn cậy vào tự lực.
Ðẳng Giác Bồ Tát muốn cầu viên mãn Phật Quả còn cần phải cầu sanh Tây Phương,
huống hồ là bọn phàm phu chúng ta nghiệp căn thâm trọng, sao còn chẳng chịu dốc
sức vào pháp này? Ðấy là bỏ dễ cầu khó, lầm lạc cùng cực thay!
Nay những dụng cụ giết người trong thế gian mỗi ngày mỗi mới
mẻ, mỗi tháng mỗi khác biệt, nào là phi cơ, Đại bác, độc khí, tia sáng giết người
v.v… Núi, sông chẳng ngăn trở nổi, vật cứng còn chẳng chống chọi được thì cái thân
huyết nhục của bọn chúng ta làm sao đương cự nổi? Mạng người như giọt sương buổi
sớm, vô thường một khi xảy đến, vạn sự đều thôi. Bởi thế, muốn cầu lìa khổ được
vui thì phải nên gấp gáp nỗ lực niệm Phật, cầu Phật gia bị. Lâm chung vãng
sanh, một phen đạt lên cõi kia, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, hoa nở thấy Phật,
chứng được Vô Sanh, mới chẳng cô phụ chuyện được nghe pháp này mà tin nhận vậy.
Kính mong Đại chúng hành trì, đấy là điều tôi rất mong mỏi.
Ngày thứ tám: Pháp hội viên mãn, giảng Tam Quy, Ngũ Giới và các nghĩa lý
trọng yếu dành cho người niệm Phật
Hôm nay là ngày các vị quy y Tam Bảo. Các vị đã quy y thì
nên hiểu rõ đạo lý Tam Quy, Ngũ Giới, tôi sẽ trình bày cho quý vị rõ.
Vì sao quý vị phải quy y Tam Bảo? Tôi thiết nghĩ nói chung
là chẳng ngoài việc muốn cầu sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử. Làm thế nào
để đạt được mục đích ấy? Tức là phải bắt đầu từ việc quy y, tức là quy y Phật,
quy y Pháp, quy y Tăng. Có quy y Tam Bảo, chơn thật tu trì thì mới có thể liễu
thoát sanh tử, vãng sanh Tây Phương. Vả Tam Bảo vừa nói đó có hai loại: Tự Tánh
Tam Bảo và Trụ Trì Tam Bảo.
* Phật nghĩa là Giác Ngộ. Tự Tánh Phật có sẵn trong tự
tâm, nó chính là Chơn Như Phật Tánh ly niệm linh tri vậy.
* Pháp nghĩa là quỹ phạm (khuôn phép). Tự tâm sẵn có Tự
Tánh Pháp, nó chính là khuôn mẫu cao quý: đạo đức, nhân nghĩa vậy.
* Tăng nghĩa là Thanh Tịnh, Tự Tánh Tăng tự tâm ta sẵn có,
chính là tịnh hạnh thanh tịnh vô nhiễm.
Ðấy chính là Tự Tánh Tam Bảo.
Trụ Trì Tam Bảo: Ðức Phật Thích Ca lúc còn tại thế thì ngài
là Phật Bảo, sau khi diệt độ, phàm tất cả các tượng bằng vàng đúc, đất nặn, gỗ
chạm, tranh vẽ đều phải nên tôn kính như Phật Bảo.
Các pháp ly dục thanh tịnh đã giảng, phàm các kinh điển
trong Tam Tạng, mười hai bộ đều là Pháp Bảo.
Người xuất gia thọ Cụ Túc Giới, tu trì hạnh thanh tịnh đều
là Tăng Bảo.
Quy là quay về, gieo vào, như nước đổ vào biển, như lữ
khách trở về nhà. Y là nương gởi, như con nương vào mẹ, như vượt biển phải nương
nhờ thuyền. Con người giữa biển cả sanh tử nếu chẳng quay về nương nhờ Tự Tánh
Tam Bảo và Trụ Trì Tam Bảo thì không cách gì ra khỏi được sự Đại khổ ấy cả. Nếu
chịu phát tâm chí thành quy y Tam Bảo, tu hành đúng như pháp thì mới ra khỏi biển
khổ sanh tử, liễu sanh thoát tử được.
Ví như người lỡ chân rớt xuống biển, sóng dữ cuồn cuộn, sợ
bị chìm ngập mất đầu. Giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, sanh tử tồn vong ấy, chợt
có con thuyền đi đến, liền gắng đuổi theo, trèo lên. Ðấy là nghĩa “quay về,
gieo vào” vậy. Do đã biết Tự Tánh Tam Bảo, từ đấy khắc kỷ, tu tỉnh, phấn đấu
kịch liệt [với ác nghiệp] thì lại càng phải cầu nơi Trụ Trì Tam Bảo và mười phương
tam thế hết thảy Tam Bảo thì mới có thể tiêu trừ ác nghiệp, tăng trưởng thiện
căn, thành tựu được đạo nghiệp ngay trong đời này, vĩnh viễn thoát khỏi sanh
tử, luân hồi.
Ðiều này cũng giống như được cứu, leo lên thuyền, ngồi yên
đến bờ. Ðã thoát hiểm lúc ấy, hiện tại lại mừng được sống sót, bởi đó được vô
hạn lợi ích. Ðấy chính là ý nghĩa “nương, gởi” vậy. Ở trong biển cả sanh tử,
việc đời rối ren, phiền não muôn mối, chúng sanh cần phải nên lấy Tam Bảo làm
thuyền. Ðã được quy y sẽ thúc trống, giương buồm, chẳng lười, chẳng sụt, tự sẽ
có thể mau lên bờ kia, vĩnh viễn hưởng an lạc.
Ðã quy y Phật nên thờ Phật làm thầy; bắt đầu từ nay cho
đến hết đời, kiền thành lễ kính, chẳng chịu lười nhác dẫu chỉ trong một hơi thở,
chẳng được quy y thiên ma, ngoại đạo, tà thần.
Ðã quy y Pháp, nên lấy Pháp làm thầy, bắt đầu từ nay cho đến hết đời, chẳng quy
y kinh điển ngoại đạo nữa.
Quy y Tăng nên lấy Tăng làm thầy, bắt đầu từ nay cho đến
hết đời, chẳng còn quy y đồ chúng ngoại đạo nữa.
Nếu đã quy y Tam Bảo mà còn tín ngưỡng ngoại đạo, tôn
phụng tà ma, quỷ thần thì tuy hằng ngày niệm Phật, tu trì, cũng khó lòng được
lợi ích chơn thật vì tà chánh chẳng phân, quyết chẳng có hy vọng liễu thoát
sanh tử. Ðành rành như thế. Lại cần phải biết rằng: “Quy y” vừa nói đó chính là
quy y hết thảy Phật - Pháp - Tăng Tam Bảo, chứ chẳng phải là quy y một cá nhân
nào. Chẳng hạn như hôm nay các vị đến quy y, chẳng qua tôi thay mặt cho Tam Bảo
truyền chứng Tam Quy, chứ chẳng phải quy y một mình tôi. Tôi thấy Tăng tục vẫn
có kẻ hiểu lầm ý nghĩa quy y, người tại gia thì nói tôi quy y vị pháp sư đó, người
xuất gia bảo kẻ nọ là đệ tử quy y của tôi. Bỏ cái lớn, lấy cái nhỏ, phế công
chọn tư, đáng buồn, đáng than thay! Vì thế tôi bèn nói rõ để quý vị khỏi bị lầm
lạc nữa, xin ai nấy chú ý.
Ðã giảng về ý nghĩa Tam Quy rồi, tôi lại nói đến Ngũ Giới.
Ngũ Giới vừa được nói đó, chính là: một là chẳng sát sanh, hai là chẳng trộm
cắp, ba là chẳng tà dâm, bốn là chẳng nói dối, năm là chẳng uống rượu.
* Chẳng sát sanh là vì ta cùng loài vật đều ham sống, sợ
chết hệt như nhau. Ta đã ham sống, sao lại giết chúng? Nói, nghĩ thấu suốt đến
đó thì lẽ nào lại nỡ lòng giết hại? Bởi lẽ, hết thảy chúng sanh đều cùng ngang
hàng, luân hồi trong lục đạo, ai nấy tùy theo nghiệp thiện, ác của chính mình
mà hình thể khác xa nhau, thăng, giáng, nổi, chìm, trọn chẳng lúc nào hết. Ta
cùng bọn chúng trong nhiều kiếp cũng từng xoay vần làm cha, mẹ, anh,em, con
cái, quyến thuộc. Nghĩ đến đấy lẽ nào còn chịu sát sanh?
Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, thực chẳng hai,
chẳng khác với tam thế chư Phật. Trong đời vị lai, chúng đều có thể thành Phật,
chỉ vì sức ác nghiệp túc thế nên Phật Tánh diệu minh bị ngăn chướng, chẳng hiển
hiện được, đến nỗi chìm đắm trong dị loại. Lẽ ra, chúng ta phải nên đem lòng
thương xót, lòng từ bi, cứu độ chúng, có đâu lại dám tàn hại thân thể chúng để
cốt no bụng mình?
Ðời này, chúng ta được làm người chính là do thiện quả đời
trước, phải nên vĩnh viễn giữ gìn thiện quả này khiến nó được phát dương quang Đại,
duy trì vĩnh cửu, chẳng được sát sanh! Nếu như rộng tạo sát nghiệp ắt sẽ đọa ác
đạo, đền trả nợ cũ, xoay vần giết hại nhau, đây chìm, kia khởi, chẳng có khi hết.
Muốn tránh khỏi nỗi khổ luân hồi, cầu sanh Tây Phương, sao còn dám tạo đôi chút
sát nghiệp? Vì thế, điều đầu tiên phải chú trọng là kiêng giết.
* Chẳng trộm cắp là thấy của riêng của người khác, nếu
chẳng cho thì chẳng dám lấy. Việc này những ai biết chút liêm sỉ sẽ đều chẳng
phạm, nhưng mấy ai chưa phải là bậc Thánh Hiền không phạm qua? Bởi lẽ, một phen
tư dục nổi lên sẽ dễ bị lung lạc. Nếu thấy mối lợi lớn ở ngay trước mắt mà có
thể né tránh như thể gấp tránh rắn, rết, kẻ điên cuồng thì hạng người ấy đã là
chẳng dễ thấy rồi.
Nói “trộm cắp” đó chẳng phải chỉ có nghĩa là trộm cắp tài vật
của người mà là ngay trong lúc để tâm làm việc, nếu có những lúc giống như trộm
cắp thì cũng chính là trộm cắp vậy. Chẳng hạn, mượn công giúp tư, tổn người lợi
mình, cậy thế lấy của, dùng mưu đoạt vật, ganh tỵ sự phú quý của người khác,
mong người nghèo cùng đi v.v… đều là trộm cắp cả.
Lại như làm lành để cầu danh, ngay cả như lúc gặp các
thiện sự, tâm chẳng chơn thành khiến cho lắm chuyện lôi thôi. Chẳng hạn như lập
trường nghĩa học, nhưng chẳng chọn thầy nghiêm khắc khiến cho con em người khác
bị lầm lạc; thí thuốc men mà chẳng phân biệt giả, thật, khiến tính mạng người khác
bị hại. Gặp người mắc nạn gấp, dụ dự chẳng gấp cứu, lần chần, dùng dằng đến nỗi
lỡ việc. Với hết thảy việc, luôn lằng nhằng, tắc trách, chẳng quan tâm đến lợi hại
của người khác, xài phí của công, tổn hại công ích thì thật đều giống như trộm
cắp vậy.
Nếu ai nấy đều có lòng trộm cắp, hay làm việc trộm cắp thì xã hội sẽ hủ bại,
loạn lạc, thiên hạ chẳng thể thái bình.Vì vậy, cần phải chú trọng răn dè trộm
cắp.
* Chẳng tà dâm: Âm dương tương cảm, chúng sanh nhờ đó mà
sanh. Vợ chồng kết hôn là mối nhân luân lớn lao. Sanh con đẻ cái, dạy dỗ nên người,
trên quan hệ quốc gia, dưới tiếp nối dòng dõi; cho nên chẳng cấm. Nếu chẳng phải
chánh phối lại cẩu hợp tư thông liền thành tà dâm. Ðấy là trái nghịch chánh
nghĩa, rối loạn nhân luân, sống làm cầm thú đội mũ mặc áo, chết đọa tam đồ ác
đạo. Vừa ra khỏi địa ngục, lại làm những loài vật dâm như chim sẻ, bồ câu v.v…
Nếu được làm người, hay bị chết yểu, hèn mạt, vợ con dâm tà. Quả báo ấy thật
tàn khốc, thật hiển nhiên. Nhưng con người lúc dâm dục phát sanh thường chẳng
thể tự chế; vì thế, đức Phật ta coi tội dâm dục là nặng.
Nếu thực hành Bất Tịnh Quán, quán lâu ngày sẽ thấy sắc đâm
chán. Thêm nữa, nếu có thể tưởng hết thảy nữ nhân mình trông thấy đều là mẹ,
con gái, chị, em, sanh tâm hiếu thuận, tâm cung kính thì ác niệm dâm dục cũng
không do đâu phát sanh được! Ðấy chính là cách đoạn trừ căn bản của luân hồi,
sanh tử, là thang bậc để siêu phàm nhập thánh, phải thường kiêng dè.
Còn như vợ chồng ân ái cùng nhau vốn chẳng bị cấm đoán,
nhưng cũng cần phải “tương kính như tân” (kính trọng nhau như khách), tiết dục,
giữ gìn thân thể, ít dục sẽ có nhiều con trai, chẳng được phóng túng vô độ đến
nỗi táng thân, không con nối dõi. Hơn nữa, dẫu là vợ chồng với nhau, nếu hoang
dâm cũng là phạm giới, chẳng qua nhẹ hơn tội tà dâm một chút thôi! Vì thế, cần phải
đặt nặng chuyện giới dâm.
* Chẳng nói dối là lời lẽ phải đáng tin, chẳng dối trá
thốt ra. Nếu thấy nói chẳng thấy, chẳng thấy nói thấy, lấy hư làm thật, lấy có
làm không. Phàm hết thảy những chuyện dối trá, quyến rũ, ẩn giấu, bịp bợm, thêu
dệt, tâm miệng chẳng xứng nhau, muốn lừa dối người thì đều là “nói dối” cả.
Lại nếu mình chưa đoạn hoặc mà bảo đã đoạn hoặc, chưa
chứng đạo mà bảo đã chứng đạo thì là Đại vọng ngữ. Tội ấy rất nặng vì hoại loạn
Phật pháp, khiến chúng sanh ngờ vực, lầm lạc, chết đi chắc chắn vào địa ngục,
vĩnh viễn không có ngày ra. Vì cần phải chú trọng giới vọng ngữ.
Bốn điều kể trên gọi là Tánh Giới vì do thể tánh của chúng mà thành. Chẳng luận
là xuất gia hay tại gia, thọ giới hay không, hễ phạm phải đều có tội lỗi. Kẻ
chưa thọ giới, căn cứ trên sự mà luận tội. Người đã thọ giới, ngoài việc căn cứ
trên sự luận tội ra, còn phàm thêm tội phạm giới. Vì thế, bốn điều sát sanh,
trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ này, hết thảy ai cũng chẳng được phạm. Ðã thọ giới mà
còn phạm sẽ mắc cả hai trọng tội.
* Chẳng uống rượu là vì rượu có thể làm mê loạn nhân tánh,
hoại giống trí huệ. Uống vào, rượu làm cho con người điên đảo, hôn cuồng, làm
càn những chuyện trái lẽ. Vì thế, hễ là người tu hành tuyệt chẳng cho phép
uống. Cần biết rằng: hết thảy vọng niệm, tà hạnh phần nhiều là do uống rượu mà
nên nỗi. Vì thế, cần phải chú trọng thêm chuyện giới tửu. Ðây là Già Giới (giới
ngăn ngừa). Ðã thọ giới mà uống rượu thì phạm, chưa thọ thì không tội.
Nhưng nói chung, cứ không uống là tốt. Bởi lẽ, có tội hay
không tội là do có thọ giới hay không thọ giới mà thành sai khác, nhưng nó là
một trong những cội rễ của các tội lỗi. Còn như uống rượu tạo thành tai họa,
đến nỗi bệnh tật, rút ngắn tuổi thọ, chết yểu, không con chẳng cần phải nói nữa!
Còn về Thập Thiện cũng phải nên giữ gìn cẩn thận. Thập
Thiện là chẳng sát sanh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm; đấy là ba nghiệp của
thân. Chẳng nói dối, chẳng nói thêu dệt, chẳng nói đôi chiều, chẳng ác khẩu là
bốn nghiệp của miệng. Chẳng keo tham, chẳng nóng giận, chẳng tà kiến là ba
nghiệp của ý. Nếu giữ được chẳng phạm thì gọi là Thập Thiện. Nếu phạm chẳng giữ
thì gọi là Thập Ác.
Thập Ác chia ra làm thượng, trung, hạ, chiêu cảm thân
trong ba ác đạo: địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Thập Thiện cũng chia thành
thượng, trung, hạ, chiêu cảm thân trong ba đường lành: trời, người, a tu la.
Nhân lành cảm quả lành, nhân ác cảm quả ác. Tự làm tự chịu, lý đã tất nhiên,
quyết chẳng sai sót mảy may.
Thập Thiện bao gồm hết thảy thiện pháp. Nếu có thể tuân
hành thì không điều ác nào chẳng đoạn, không điều thiện nào chẳng tu. Các vị đã
quy y, thọ giới, hãy nên tận lực tuân hành, lại còn phải nhất tâm niệm Phật,
cầu sanh Tây Phương, chẳng được coi thường. Nếu chẳng tận lực hành trì, kịp đến
khi lâm chung mới biết là trọng yếu thì nghiệp phong đã thổi, chẳng thể tự chủ,
dẫu hối cũng chẳng kịp nữa!
Người học Phật đã hiểu rõ ý nghĩa Tam Quy, Ngũ Giới, Thập
Thiện rồi thì hãy hết sức ngăn tà, giữ lòng thành, gìn giữ nhân luân, trọn hết
bổn phận, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành. Ðiều cần phải chú ý
nhất là làm bất cứ việc gì, đều phải dựa vào thiên lý lương tâm. Chẳng hạn như
làm nghề y mà có thiên lương, cứu người nguy cấp sẽ tích lũy âm công lớn lao.
Kẻ không thiên lương thì hoặc là khiến người bệnh nhẹ thành nặng, thừa nước đục
thả câu, táng tận lương tâm, quyết định lãnh ác quả.
Hiếu liêm Tào Cẩm Ðào ở Tô Châu đời Thanh giỏi y thuật,
bất cứ bệnh ngặt nghèo nào, gặp tay ông đều khỏi. Một bữa, ngay lúc ông sắp ra
khỏi cửa, có một người đàn bà nghèo quỳ ngoài cửa, khóc lóc xin ông chữa bệnh
cho mẹ chồng, than: “Gia đạo bần hàn, khó lòng mời thầy thuốc khác được, nghe
ngài sẵn lòng từ bi, nhất định sẽ đoái hoài đến trị”. Ông Tào liền đến
trị.
Ðến lúc ông ra về, dưới gối mẹ chồng người đàn bà nghèo có
năm lạng bạc trắng, chẳng biết đi đâu mất, tưởng ông Tào lấy đi, bèn đến nhà hỏi.
Ông Tào bèn cứ đúng số trao cho. Ðến khi bà về đến nhà, mẹ chồng đã tìm lại được
bạc. Người đàn bà thẹn hổ vô cùng, lại đem bạc đến trả lại , tạ tội, hỏi ông:
“Sao ngài lại tự vu mình có trộm bạc?” Ông Tào bảo: “Tôi chỉ muốn mẹ chồng bà
chóng khỏi thôi! Nếu tôi chẳng nhận, mẹ chồng bà sẽ lo buồn bịnh thêm hoặc khó
trị hơn! Vì thế, tôi chỉ muốn mẹ chồng bà lành bịnh, chẳng sợ người ta bảo tôi trộm
bạc”. Tấm lòng ông trung hậu, có thể nói là không ai hơn nổi.
Bởi thế, ông sanh được ba người con: Con trưởng làm ngự y,
thọ hơn tám mươi tuổi, cửa nhà Đại phú; con thứ bổ chức Hàn Lâm, làm quan đến
chức Phiên Ðài; con thứ ba cũng làm Hàn Lâm, bác thông kinh sử, chuyên chí trứ
thuật. Cháu chắt đông đảo, nhiều người hiển đạt. Còn những kẻ chỉ mưu kiếm lợi bằng
nghề y, tôi chẳng cần phải nói đến, ai có mắt đều thấy cả.
Kinh Dịch chép: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh.
Tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương” (Nhà tích thiện, niềm vui có thừa; nhà
tích ác, ương họa có thừa), ý nói: dư khánh, dư ương báo ứng vào con cháu. Còn
bổn khánh, bổn ương vận vào chính thân mình. Dư khánh, dư ương người khác thấy
được, còn bổn khánh, bổn ương sẽ hoặc là phải chịu ngay trong đời này hay phải lãnh
thọ trong thân sau, người đời chẳng thấy hết được. Thiên, địa, quỷ thần, Phật,
Bồ Tát đều thấy hay từng sự rõ ràng. Phải biết là bổn khánh, bổn ương so với dư
khánh, dư ương lớn gấp cả mười, trăm, ngàn, vạn lần. Vì thế, xin người đời hãy
nỗ lực tu trì, để được sự vui, trừ ương họa vậy.
Ông Tào cam chịu tiếng “trộm cắp” để cứu tánh mạng người khác,
thiện báo ứng vào con cháu. Nếu ông có thể niệm Phật, cầu thoát tam giới, lại dạy
con cháu ăn chay, niệm Phật thì thiện báo sẽ là Tây Phương, phước lại càng
lớn.
Các vị đã quy y thì phải nên cung kính thọ Tam Quy, lấy
việc liễu thoát sanh tử làm gốc, trì Ngũ Giới cẩn thận để làm nền tảng cho việc
đoạn ác, tu thiện. Phụng hành Thập Thiện để làm gốc cho việc thanh tịnh ba
nghiệp Thân, Khẩu, Ý. Bởi đó, các ác đều trừ, tận lực làm các điều lành, tam
nghiệp đã tịnh, lại còn tuân tu đạo phẩm, liễu sanh thoát tử, được dự vào Liên
Trì thắng hội.
Cần biết rằng: Thiện - ác nhân - quả như bóng theo hình,
chẳng lầm một mảy. Thật sự làm vậy sẽ được lợi ích thật sự. Nếu mua danh hám
tiếng, thích nói điêu ngoa, lừa mình, dối người, tự bảo đã đắc Phật đạo thì là Đại
vọng ngữ, ắt sẽ thọ ác báo. Nói chung, người tu hành tâm địa cần phải quang
minh, ba nghiệp thanh tịnh, công đức tự được vô lượng. Quán kinh dạy: “Hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp là chánh
nhân tịnh nghiệp của tam thế chư Phật” thật là thiết yếu chớ quên. Buông dao đồ
tể, lập địa thành Phật, đã có người làm được như thế. Xin ai nấy hãy gắng
lên.
(Bửu Quang tự đệ tử
Liên Hương dịch xong ngày 29 tháng 04 năm 2003)
Lời bạt
Trên đây là Ngữ Lục ghi chép lời khai thị của Ấn Quang Đại
sư giảng trong pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tổ chức tại Thượng Hải vào tháng 11 năm
Dân Quốc thứ 25 (1936). Ngài giảng suốt bảy ngày, thính chúng luôn đông đến mấy
ngàn người. Công đức thù thắng, thật là hy hữu. Ký giả nhật báo Phật Giáo đã ghi
lại Đại ý, trình Đại sư thẩm chánh. Sư duyệt đính, tăng bổ từ ngữ tạo thành bản
cố định.
Xoay đi, xoay lại , lời Ngài giảng chỉ nhằm xiển minh lý
nhân quả cảm ứng để phá trừ vọng kiến, khải thị đạo tu thân tề gia, hòng lập
thành khuôn mẫu chân chánh, rốt cuộc dẫn về pháp môn Tịnh Ðộ làm pháp tắc rốt
ráo để hộ quốc an dân. Lời ngài tầm thường nhưng thiết thực, giản dị nhưng hàm
súc, chẳng giống với những ngôn luận ham bàn chuyện cao xa. Thế nhưng những
ngôn luận được coi là cao xa ấy cũng chẳng vượt nổi những khuôn mẫu này. Kẻ ngu
phu, ngu phụ cũng làm được, chuyện siêu phàm nhập thánh chẳng ra khỏi những lời
dạy này. Bản hoài tiếp dẫn của Ðại Sư trong mấy mươi năm đã tỏ bày rành mạch
không chút giấu diếm trong pháp hội này.
Nếu ai có thể tuân theo những lời dạy này dốc thân, tận
lực hành trì thì những việc đứng, ngồi, ăn uống, nghe nhìn, nói năng, không
việc gì là chẳng gom về tự thân tịnh độ, mỗi mỗi đều là pháp sự Hộ Quốc Tức
Tai, mà pháp hội Hộ Quốc Tức Tai cũng nghiễm nhiên như Tịnh Ðộ chẳng hủy thường
trụ trong từng tâm niệm của chúng ta. Ðấy chính là bổn nguyện của những người phát
khởi pháp hội này.
Ngày mồng Sáu tháng
Ba năm Ðinh Sửu (1937),
Bồ Ðề Học Hội Giới Ánh
Quang kính đề
(1) Nghĩa là: đã có giải ngộ, chứng nhập, nhưng sự chứng
nhập ấy chưa viên mãn, nên chỉ gọi là “tương tự” (gần giống chứ chưa thực sự đã
giải ngộ trọn vẹn).
(2) Bệnh ngược: một chứng bệnh gần giống như sốt rét, bệnh
nhân phát sốt, phát lạnh liên tục.
(hoakhaikienphat.com)