XVII. Tu cùng không tu
Giảng về việc tu hành hay không tu
hành, đều là lời trống không. Chúng ta nếu hiểu rõ thấu triệt chính mình có một
phần tâm quang, ngay khi ấy biết rõ việc vô sự, thì sao lại bàn về tu cùng
chẳng tu. Phật Thích Ca xuất gia tầm đạo, sáu năm tu khổ hạnh, bốn mươi chín
ngày đêm ngồi dưới cội Bồ Đề, đến đêm cuối cùng ngắm vì sao chớp, liền ngộ đạo,
nói kệ:
- Lạ lùng thay! Lạ lùng thay! Chúng
sanh trên cõi đất đều có đầy đủ đức tướng trí huệ của Như Lai. Chỉ vì vọng
tưởng chấp trước, nên không thể chứng đạo. Nếu rời vọng tưởng thì trí huệ thanh
tịnh, trí huệ tự nhiên, trí huệ vô sư đều tự nhiên hiện ra.
Sau khi thuyết pháp trong bốn mươi
chín năm, đức Phật lại bảo:
- Ta chưa từng nói một lời nào!
Từ đó, chư vị Tổ Sư trải qua bao
đời y theo một pháp mà truyền thừa liên tục; các ngài đều nhận rõ: "Tâm,
Phật, chúng sanh, tuy ba nhưng thật không sai khác" nên "Chỉ thẳng
chân tâm, thấy tánh thành Phật".
Chư vị Tổ Sư giảng rộng giảng dài,
hoặc đánh hoặc mắng, dùng mọi phương pháp đều để đoạn trừ vọng tưởng phân biệt
của hành giả, và muốn họ nhìn thẳng vào: "Tự nhận bổn tâm. Tự thấy bổn
tánh" mà không hề giả lập một chút phương tiện rắc rối, bảo tu bảo chứng
nào. Yếu chỉ của Phật Tổ như thế, chúng ta phải nên biết rõ.
Tâm niệm của chúng ta vốn đã thanh
tịnh, vốn tự đầy đủ, viên mãn, biến khắp mọi nơi, diệu dụng hằng sa, cùng ba
đời chư Phật, thật không khác biệt.
Nếu tâm chẳng dính mắc thiện ác và
xả bỏ được tất cả, thì có thể lập địa thành Phật; ngồi thiền đến lúc thiên hạ
hưởng thái bình. Nếu được như thế thì có hạnh gì để tu? Câu tu hành có phải là
rỗng tuếch không? Tuy nhiên, trong mỗi tâm niệm, chúng ta luôn hướng ngoại tầm
cầu và có biết bao vọng tưởng chấp trước, nên không thể thoát ly sanh tử. Từ
đời vô thủy cho đến nay, luân hồi trong vòng sanh tử, bị vô minh phiền não
nhiễm ô thâm trọng, nên mới không biết tự tâm mình chính là Phật. Tuy nhiên,
khi đã biết rồi lại không dám thừa nhận, nên không thể làm chủ được; nghĩa là
không có dũng khí của người tráng sĩ, dám đoạn chặt hết vọng tưởng. Vì vậy,
ngày ngày luôn sống trong vọng tưởng chấp trước.
Người trên thì cả ngày làm này làm
nọ, cầu thiền cầu đạo, không rời khỏi tâm chấp có. Kẻ dưới thì không thể phá vỡ
ngục tù tham lam, sân hận, si mê, nên bỏ đạo tìm cầu bên ngoài. Hai loại người
này, luân chuyển trong sanh tử, không biết ngày nào thoát khỏi. Giảng về việc
tu hành, đó cũng là lời nói trống không.
Bên trên đã nói đến việc là chẳng
kể lên hay xuống, thăng hay trầm, đều vẫn bị trói buộc. Người có mắt sáng nhìn
thấy, nhận rõ đó chỉ là: "Kéo bùn mang nước".
Thế nên, đại trượng phu phải trực
nhận hiểu rõ, biết rằng từ quá khứ cho đến tương lai, sự sự vật vật đều như
mộng huyễn như bong bóng nước, chẳng có tự tánh; người và pháp chợt không, thì
muôn duyên đều ngừng, khiến một niệm bằng cả vạn năm, đạt thẳng đến vô sanh.
Nhìn bên ngoài, thấy người tu hành
ăn cơm mặc áo, đi đứng nằm ngồi, như người bình thường, nhưng nào biết họ đã tự
thanh tịnh, ngồi thiền an tọa trong nhà, hưởng thọ châu báu vô tận tạng. Vô tâm
vô vi, tự do tự tại, động tịnh nhất như, nóng lạnh tự biết. Không những ba cõi
sáu loài trời người quỶ thần không thể phá hoại, mà chư Phật chư Bồ Tát cũng
chẳng giúp gì được. Nếu như thế, nói gì là tu hay chẳng tu? Phải nên phát khởi
chí hướng, phát tâm niệm nhớ thống khổ vì sanh tử, phát khởi tâm xấu hổ, phát khởi
hạnh tinh tấn, và tham phương tầm đạo, tìm cầu chư thiện tri thức chỉ dạy lộ
trình tu đạo cùng phân biệt chánh tà: "Như rèn như đúc, như giũa như
mài", "nước sông Giang trơ trọi, ánh nắng mùa thu gay gắt".
Từ từ tâm niệm tinh thuần sáng
trong. Khi ấy, không thể nói rằng chẳng tu hành được.
Vì Tổ đình trơ trọi, người người
ngày càng xa các bậc thánh hiền, và vì ứng theo căn cơ quần chúng, nên bất đắc
dĩ tôi mới nói ra những lời này. Thật ra, nói đến lẽ cùng tột thì giảng tu
hành, hay giảng không tu hành, vẫn là lời nói trống không. Xả bỏ hết liền vô
sự. Tâm nào dính một vật, thì cần gì mở miệng nói. Chư
Bồ Tát! Quý ngài có hội chăng?
XVIII. Khai thị trong pháp hội Thủy
Lục Không tại Thượng Hải
Pháp hội cầu nguyện thế giới hòa
bình đã được cử hành qua vài ngày. Thật là một pháp duyên hy hữu. Hôm nay là
ngày đầu tiên khai mở đàn tràng niệm Phật. Đúng ra là phải do hòa thượng Diệu
Chân đến giảng, nhưng Ngài lại cùng với pháp sư Vi Phảng, cư sĩ Triệu Nghiệp
Sơ, Lý Tư Hoạt, Phương Tử Phiên v.v..., đồng thỉnh tôi ra thuyết pháp.
Sẵn dịp này, tôi muốn nói về sự
quan hệ giữa Thiền tông và Tịnh Độ tông để cho những vị mới phát tâm học Phật
pháp tiện việc hiểu rõ.
Chúng ta sống trong thế giới Ta Bà,
tức đang bơi trong biển khổ. Thế nên, không một ai lại chẳng muốn thoát khỏi
biển khổ này. Tuy nhiên, muốn thoát ra được thì chúng ta phải nương theo Phật
pháp. Bàn về chân đế của Phật pháp, nói nghiêm túc thì không pháp nào có thể
thuyết được, vì chỉ là hình tướng trên lời nói, ngôn ngữ. Kinh Lăng Nghiêm nói:
"Nếu còn dùng lời mà nói thì không phải là pháp chân thật".
Tuy nhiên, vì chúng sanh căn tánh
không đồng, nên muốn tiếp dẫn thì phải dùng vô số pháp môn. Phật pháp tại Trung
Quốc có phân rõ ra năm tông phái như Thiền tông, Mật tông, Tịnh Độ tông, Giáo
tông, và Luật tông. đối với người đã từng nghiên cứu học hỏi tu tập thì đã quá đủ rồi, vì họ biết rằng chân
lý Phật pháp vốn không sai biệt. Người mới học Phật pháp, lại phát sanh ra
nhiều ý kiến, mỗi mỗi phân rõ tông này phái nọ v.v..., rồi khen mình chê người,
làm tổn hại giá trị giáo hóa vi diệu của Phật pháp. Phải biết rằng một câu
thoại đầu hay một câu niệm Phật chỉ là phương tiện, chứ chẳng phải là cứu cánh.
đối với người chân thật dụng công thì những phương tiện này thật không cần
thiết. Tại sao? Vì động tịnh vốn nhất như; bóng trăng soi khắp ngàn sông, nơi
nơi đều rõ ràng, không bị chướng ngại. Người bị chướng ngại như mây che trời
xanh hay nước trong bị vẫn đục. Nếu có chướng ngại, tuy có trăng mà ánh sáng
không hiển bày. Nước tuy trong mà trăng không hiện rõ. Chúng ta, những người tu
hành, nếu muốn hiểu rõ lý đạo, phải biết tự tâm như trăng rằm mùa thu, không
nên hướng ngoại tìm cầu mà phải xoay lại ánh sáng trong tâm mình (hồi quang
phản chiếu). Một niệm nếu không sanh thì hiểu rõ nơi không chỗ chứng đắc. Khi
ấy, làm gì lại có danh tướng sai biệt?
Nhân vì chúng ta từ vô lượng kiếp
đến nay, vọng tưởng chấp trước, tập khí nặng nề nên đấng Thế Tôn trong bốn mươi
chín năm trường, thuyết pháp giảng kinh hơn ba trăm hội. Tuy nhiên, mục đích
quan trọng nhất trong việc thuyết giảng kinh điển hay dạy những pháp môn tu
hành của đức Thế Tôn là không ngoài việc chữa trị các bịnh tật tham lam, sân
hận, si mê, ngã mạn, ác kiến của chúng sanh. Nếu chúng ta xa rời tất cả bịnh
tật đó thì liền thành Phật. Chúng ta và chư Phật, cùng chúng sanh nào có khác
biệt chi đâu! Người xưa nói:
- Dùng phương tiện thì có nhiều
pháp môn, nhưng khi trở về cội nguồn thì đồng nhau không khác.
Lý đạo là thế. Hiện tại, trong Phật pháp có hai tông phái rất thịnh hành là
Thiền tông và Tịnh Độ tông. Tuy nhiên, có một số tăng chúng lại coi thường giới
luật; điều này thật không hợp lý đạo. Yếu nghĩa căn bản của Phật pháp là dựa
trên ba chữ: Giới, Định, Huệ. Giống như tòa trầm hương có ba chân, nếu thiếu
mất một chân thì không thể đứng được. Vì vậy, chúng ta người học Phật pháp, mỗi
người phải đặc biệt chú ý điều này!
Thiền tông khởi nguồn từ lúc đức
Thế Tôn tại hội Linh Sơn, đưa cành hoa lên dạy đại chúng, chỉ có tôn giả Ma Ha
Ca Diếp là mỉm cười chúm chím, còn mọi người đều không hiểu gì. Đó là tâm tâm
tương ấn, truyền ngoài giáo lý, tức mạch nguồn của Phật pháp. đối với câu niệm
Phật của pháp môn Tịnh Độ cùng các pháp môn khác, như đọc kinh trì chú v.v...,
đều là các pháp cắt đứt dòng sanh tử. Có người nói, Thiền tông là pháp đốn ngộ
nhanh chóng, còn tông Tịnh Độ chỉ là pháp tiệm thứ chậm chạp. Vâng, bất quá chỉ
là sự sai biệt trên danh tướng. Thực tế thì không sai khác. Lục Tổ Huệ Năng
nói:
- Pháp không có đốn ngộ hay tiệm
thứ, nhưng người kiến đạo thì có nhanh có chậm.
Chúng ta nên biết rằng mỗi mỗi pháp
môn trong Phật pháp đều có thể tu trì được cả. Quý vị nếu hợp với pháp môn nào
thì nên tu pháp môn đó, chứ đừng khen mình chê người, sanh khởi vọng tưởng chấp
trước. Tuy nhiên, việc quan trọng nhất là phải tôn trọng giữ gìn giới luật. Người
xuất gia gần đây, không tự giữ giới luật nghiêm ngặt, lại còn nói bao lời cao
ngạo rằng giữ gìn giới luật cẩn mật là chấp trước. Thật rất nguy hiểm cho Phật
pháp!
Thiền tông chính là pháp môn tâm
địa. Sau Tổ Ma Ha Ca Diếp, Thiền tông được triển chuyển, truyền từ Ấn Độ qua
Trung Quốc. Đến đại sư Huệ Năng, là tổ thứ sáu ở Đông Độ, được trao y bát, lưu
truyền chánh pháp, một thời hưng thịnh.
Luật tông có tôn giả Ưu Ba Ly, là
vị đứng đầu. Tôn Giả thừa thọ lời phó chúc của đức Thế Tôn mà tuyên thuyết lại giới
luật cho chúng sanh trong đời mạt pháp, khiến họ nương vào đó mà tu hành, tức
là lấy giới luật làm thầy chỉ đạo. Sau đến đời tôn giả Ưu Ba Cúc Đa, tổ thứ tư
của Thiền tông, phân giới ra làm năm bộ luật. Nước ta có lão nhân Nam Sơn là
luật sư Đạo Tuyên, y theo bộ Đàm Vô Đức, viết sớ sao mà phụng hành, được xưng
là Trung Hưng Luật Tổ.
Lão nhân Bắc Tề ở núi Thiên Thai,
xem bộ Trung Quán Luận của ngài Long Thọ, liền phát minh tâm địa. Lão nhân Đỗ
Thuận lấy kinh Hoa Nghiêm làm chủ, kiến lập tông Hiền Thủ.
Ngài Huệ Viễn đề xướng tông Tịnh
Độ. Chín tổ sư kế tục nhau tương truyền. Sau ngài Vĩnh Minh, chư tổ sư bao thời
đại đều dùng Thiền tông mà hoằng dương tông Tịnh Độ, như dung hòa nước với sữa.
Tuy tông phái có phân khác, nhưng cốt yếu không ngoài ý nghĩa của cành hoa mà
đức Phật đưa lên. Thật vậy, Thiền tông cùng Tịnh Độ tông xưa nay vốn có mối
quan hệ mật thiết. Thế nên, chúng ta phải biết sự uyển chuyển của người xưa
trong việc hoằng dương Phật pháp.
Mật tông do tôn giả Bất Không, Kim
Cang Trí v.v..., truyền vào Trung Quốc. Đến đời thiền sư Nhất Hạnh, do công nỗ
lực của Ngài, Mật tông được phát dương rộng rãi. Tông này cùng các tông phái
khác hỗ tương hoằng dương Phật pháp.
Vì vậy, không nên phân biệt cửa ngõ
môn đình, bằng ngược lại thì tự làm tổn thương đạo pháp. Nếu cứ công kích, húc
đá lẫn nhau mãi, thì thật không hiểu rõ được tâm ý của Phật Tổ. Người xưa
thuyết pháp như lấy lá vàng vỗ con nít khóc. Lão nhân Triệu Châu nói:
- Chữ Phật tôi không muốn nghe.
Niệm một chữ Phật, phải xúc miệng cả ba lần.
Vì thế, có một số người không hiểu
được sự khổ tâm của người xưa mà cho rằng niệm Phật chỉ là việc của các ông già
bà cả, hoặc nói tham thiền là vọng không như ngoại đạo.
Tổng quát, nếu tôi nói đúng như
vầy, kẻ nọ có lỗi kia, rồi cứ thế tranh luận mãi mà không chịu tu, thì thật là
bội bạc bổn hoài của Phật Tổ, khiến cho người ngoài có cơ hội công kích, hủy
phá tiền đồ Phật giáo. Kết quả thật rất tai hại. Do đó, Hư Vân tôi đặc biệt nêu
lên vấn đề này. Hy vọng quý vị lão tham học cùng các vị mới phát tâm học Phật
pháp, đừng nên phạm vào lỗi này. Nếu cứ làm mãi như thế thì đưa Phật giáo vào
con đường cùng, mà phải biết tất cả đại lộ đều thông "Trường An".
Người học Phật phải nên đọc qua
nhiều lần bài Tông Cảnh Lục và tập Muôn Thiện Đồng Quy của lão nhân Vĩnh Minh. Người
niệm Phật, phải hiểu rõ chương Bồ Tát Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông, và cũng
phải hiểu rõ Tịnh Độ là xuất phát từ tự tánh; xả bỏ vọng tưởng, quay về nguồn
chân, chớ hướng ngoại tìm cầu. Nếu chúng ta hiểu rõ được những chân lý này, thì
tùy theo ý thích của người mà bàn về Thiền cũng được, nói về Tịnh Độ cũng hay;
hoặc muốn vãng sanh về cõi Đông Phương hay cõi Tây Phương cũng tốt, cho đến nói
có, nói không đều đúng cả.
Thực sự, mỗi sắc mỗi hương đều không ngoài sự liễu nghĩa của trung đạo; tự tánh
là Di Đà, duy tâm tức Tịnh Độ; xả bỏ liền đến bờ giác. Tại sao có nhiều dây nhợ
trói buộc chúng ta? Kinh Lăng Nghiêm nói: "Nếu dẹp hết tâm phàm thì thật
không có sự giải thoát của chư thánh".
Hiểu rõ được như thế thì sẽ đoạn
trừ được vọng tưởng, kiến chấp, tập khí, tức làm Bồ Tát, và làm Phật Tổ. Ngược lại,
sẽ mãi mãi làm chúng sanh.
Người niệm Phật cũng đừng nên có
kiến chấp thái quá. Nếu không, sẽ như uống thuốc độc. Vì tập khí sâu dầy từ đời
vô thủy, nên khó dẹp trừ vọng tưởng. Thế nên, dùng một câu niệm Phật như cầm
chổi, quét sạch vọng tưởng. Niệm mãi không quên, khiến vọng niệm tự tiêu trừ,
cõi tịnh liền hiện, thì tìm cầu bên ngoài chỉ nhọc sức.
XIX. Bài "Phải Hiểu Rõ Sự Niệm
Phật" nhân ngày giỗ thứ mười hai của tổ Ấn Quang, năm 1952
Hôm nay là ngày giỗ kỶ niệm lão
pháp sư Ấn Quang vãng sanh về cõi Tây Phương lần thứ mười hai. Quý vị đều là đệ
tử của Ngài. Uống nước phải nhớ nguồn, nên quý vị tụ hội tại giảng đường này,
làm lễ giỗ truy niệm thầy mình. Trong đạo lý nhà Phật, thầy tức là cha mẹ pháp
thân của mình. KỶ niệm thầy, tức là nhắc lại bổn phận hiếu thảo của mình đối với
cha mẹ pháp thân. So sánh về sự hiếu thảo nhỏ nhặt ở thế gian thì việc này có
rất nhiều ý nghĩa thâm trầm hơn.
Nhớ thuở xưa, lần đầu tôi gặp lão
pháp sư Ấn Quang tại núi Phổ Đà vào năm Quang Tự thứ hai mươi. Lúc đó, lão hòa
thượng Hóa Văn thỉnh Ngài lên tòa giảng kinh A Di Đà tại chùa Quảng Tế. Giảng
xong, Ngài ở lại chùa, đọc hết ba tạng kinh điển. Qua hơn hai mươi năm, Ngài
chưa từng rời núi một bước mà đóng cửa ẩn tu. Tuy Ngài hiểu rõ giáo nghĩa rất
thâm sâu, nhưng chỉ lấy một câu A Di Đà Phật làm sự tu trì hằng ngày. Tuyệt đối
không cho mình thông hiểu kinh giáo thâm sâu mà coi nhẹ pháp môn niệm Phật. Lời
dạy của Phật là thuốc dùng để trị bịnh khổ cho chúng sanh. Pháp môn niệm Phật,
được gọi là thuốc A Già Đà, trị hết tất cả bịnh.
Thật vậy, vô luận tu pháp môn nào,
cần phải có niềm tin kiên cố, giữ gìn mãi mãi, thực hành ngày một thâm sâu, thì
mới mong đạt được lợi ích đầy đủ. Nếu có niềm tin kiên cố thì trì chú, tham
thiền, niệm Phật đều thành tựu. Nếu tín căn không thâm sâu mà chỉ cậy nhờ chút
ít thiện căn, học thức cạn cợt, hoặc nhớ được vài ba danh tướng công án, rồi đi
nói chuyện vô ích tạp nhạp hay bàn việc đúng sai thì chỉ tăng trưởng nghiệp
chướng và tập khí xấu xa. Dẫu có bàn về việc sống chết, cũng vẫn bị nghiệp thức
dẫn dắt. Có thật đáng thương lắm không!
Quý vị là đệ tử của pháp sư Ấn
Quang. Hôm nay làm giỗ lễ kỶ niệm, thì cũng phải kỶ niệm sự hành trì chân thật
của Ngài. Ngài là một vị chân tu thực thụ vì bước trên đường các bậc cổ đức đã
đi. Ngài hiểu rõ thâm ý của chương Bồ Tát Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông. Y
theo đó mà khởi tu, nên đạt được niệm Phật Tam Muội. Từ đó, Ngài hoằng dương
tông Tịnh Độ, làm lợi ích cho chúng sanh, trải qua bao thập niên mà cũng vẫn
như một ngày, chưa từng từ nan thối bước, dẫu có bịnh tật ốm đau. Hiện tại,
thật hiếm có ai như Ngài, chân thật tu hành không khởi kiến chấp phân biệt mình
người, chỉ nghe một danh hiệu Phật rồi y theo đó mà tu trì. Sáng niệm Phật. Tối
niệm Phật. Đi đứng nằm ngồi, trong mười hai thời niệm niệm không quên mất. Thầm
thầm lặng lặng, công phu thuần thục chín mùi, cảnh tịnh Tây Phương Cực Lạc hiện
trước mặt, được lợi ích vô biên, tự mình quán thấy.
Điều quan trọng nhất là tín tâm phải
kiên cố. Tín tâm nếu không kiên cố, thì muôn sự không thể thành. Hôm nay tăng,
ngày mai giảm; nghe người nói tham thiền hay thì bỏ ngay công phu niệm Phật,
chạy qua tu thiền. Nghe người nói học kinh điển rất tốt thì lại bỏ thiền, qua
học kinh giáo. Học kinh giáo không thành lại chạy đến trì chú, nhưng chẳng hiểu
chi hết. Tâm bị chướng ngại vì không thanh tịnh. Không tự trách mình tín tâm
không định, lại cho rằng Phật Tổ dối gạt chúng sanh. Chửi Phật báng Pháp, tạo
nghiệp vô gián. Vì thế, tôi khuyên đại chúng rằng phải nên tin tưởng kiên cố sự
lợi ích của pháp môn niệm Phật, học theo hạnh "Chân Thật Niệm Phật"
của lão pháp sư Ấn Quang, rồi lập chí vững chắc, phát tâm dũng mãnh, lấy việc
vãng sanh cõi Tây Phương làm việc lớn trong đời.
Tham thiền cùng niệm Phật, đối với người
mới phát tâm tu học thì thấy có khác, nhưng đối với người tu hành lâu năm thì
chỉ là một. Tham thiền đề cử thoại đầu, chặt đứt dòng sanh tử, cũng từ tín tâm
kiên cố mà được. Nếu thoại đầu giữ mãi không được thì tham thiền không thể
thành tựu. Nếu tín tâm kiên cố thì đến chết cũng phải tham khán câu thoại đầu.
Uống trà không biết đang uống trà. Ăn cơm không biết đang ăn cơm. Như thế, công
phu mới thuần thục, thoát khỏi căn trần, đại dụng hiện tiền, cùng cảnh tịnh của
công phu niệm Phật, giống nhau không khác. Đạt đến cảnh giới đó, sự lý viên
dung, tâm cùng Phật không hai. Phật như như bất động. Chúng sanh cũng như như
bất động. Một như như bất động mà không có hai như như bất động, thì sai biệt
chỗ nào? Quý vị là những người tu pháp môn niệm Phật. Tôi hy vọng tất cả hãy
lấy một câu niệm Phật làm chỗ y tựa cho đời mình. Hãy chân thật mà niệm!
XX. Thiền thất khai thị lần thứ
nhất tại chùa Ngọc Phật, thành phố Thượng Hải, năm 1953
1/ Ngày thứ nhất (22/2)
Đại hòa thượng Vi Phảng thật rất từ
bi. Chư vị ban thủ cũng có tâm tha thiết muốn hoằng dương Phật pháp, cùng các
vị đại cư sĩ có đạo tình, đồng phát tâm đả thiền thất, lại yêu cầu Hư Vân tôi
ra làm chủ thất. Thật tình mà nói, đây là một nhân duyên thù thắng vô vàn. Ngặt
vì tuổi già sức yếu, lại thêm bịnh hoạn, nên tôi không thể giảng nhiều được.
Đấng Thế Tôn thuyết pháp hơn bốn
mươi năm, lời hiển lời mật, ngôn giáo tràn đầy trong ba tạng mười hai bộ. Hôm
nay đại chúng yêu cầu tôi ra thuyết pháp, thì chỉ bất quá lập lại lời dư thừa
của Phật Tổ. Bàn về tông môn, lúc còn tại thế, vào một lần nọ đang ngồi trên
pháp tòa, đức Phật được vua trời Đại Phạm cúng dường cành hoa Kim Đàn. Ngài bèn
đưa cành hoa Kim Đàn lên để dạy đại chúng. Lúc ấy, dưới tòa đại chúng trời người
đều không hiểu chi hết, duy chỉ có tôn giả Ma Ha Ca Diếp là túm tím mỉm cười.
Đức Thế Tôn bảo:
- Ta có chánh pháp nhãn tạng, niết
bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, nay đem phó chúc cho ông Ca Diếp.
Đó là truyền ngoài giáo lý, không
lập văn tự, đi thẳng đến pháp môn vô thượng. Người sau mù mờ, cho đó là thiền.
Nên biết rằng trong kinh Đại Bát Nhã, có kể đến hơn hai mươi loại thiền, mà tất
cả đều không phải là cứu cánh. Duy thiền trong tông môn là không lập giai cấp,
chỉ thẳng vào tâm địa, thấy tánh thành Phật. Do đó, không có quan hệ với việc
đả thất hay không đả thất. Chỉ vì căn tánh chúng sanh ngày càng ngu mê, vọng
tưởng đầy dẫy, nên chư tổ mới đặt ra phương tiện để nhiếp thọ. Tông môn này, kể
từ tổ Ma Ha Ca Diếp truyền cho đến ngày nay, trải qua sáu bảy mươi đời. Triều
đại Đường và Tống (619-1278), gió thiền lan khắp thiên hạ, hưng thịnh một thời.
Hiện tại, thiền tông đến thời kỳ suy vi tột bậc, chỉ có vài nơi như Kim Sơn,
Cao Mân, Bảo Quang còn giữ được chút tông phong. Thế nên, nhân tài trong tông
môn thật hiếm hoi. Cũng đả thất tham thiền, nhưng đa số chỉ vì danh, mà không
có thực thể. Khi xưa, thất tổ Hành Tư hỏi Lục Tổ Huệ Năng:
- Làm thế nào để khỏi lạc vào giai
cấp?
Lục Tổ hỏi lại:
- Ông đã từng làm những gì?
- Thánh đế còn chẳng làm, thì có gì
là giai cấp?
Lục Tổ thầm chấp nhận, hứa khả.
Hiện tại, căn khí chúng ta rất cứng cỏi, nên chư đại Tổ Sư mới giả lập phương
tiện, dạy tham quán câu thoại đầu. Sau đời Tống, người niệm Phật rất nhiều, nên
chư đại Tổ Sư lại dạy tham quán câu "Ai là người đang niệm Phật?"
Ngày nay, mọi nơi đều theo pháp này
mà dụng công, nhưng có rất nhiều người không hiểu rõ ràng, cứ để câu "Ai
là người đang niệm Phật" nơi cổ họng, rồi niệm đến niệm lui không dừng,
thành ra tụng niệm, chứ không phải tham quán câu thoại đầu. Tham thoại đầu tức
là tham khán. Thế nên, trong mọi thiền đường đều có treo bốn chữ "Chiếu Cố
Thoại Đầu". Chiếu tức là phản chiếu. Cố tức là xoay trở lại. Nghĩa là phải
tự phản chiếu, nhìn vào tự tâm. Gọi đó là quán thoại đầu.
"Ai là người niệm Phật",
khi chưa khởi lên thì gọi là thoại đầu, còn đã khởi lên rồi thì gọi là thoại
đuôi. Chúng ta tham khán thoại đầu thì phải nên xem khán chữ "Ai".
Lúc tâm chưa khởi lên chữ "Ai" thì như thế nào? Giống như lúc đang
niệm Phật, có người đến hỏi:
- Bạch Thầy! "Ai" đang
niệm Phật?
Nếu đáp:
- Tôi là người đang niệm Phật.
Người đó lại hỏi:
- Thầy là người niệm Phật. Vậy
miệng niệm hay ý niệm? Nếu nói miệng niệm thì lúc ngủ, sao không niệm? Nếu nói
tâm niệm thì lúc thân này chết mất, sao không tiếp tục niệm?
Do đó, chúng ta có một nghi vấn, phải
nên truy cứu: "Câu thoại đầu đây từ đâu mà đề khởi? Tôi là ai?"
Vi vi tế tế, phản chiếu xoay lại,
xem xét kỸ càng, đó gọi là nghe lại tự tánh của mình.
Lúc đi bộ hành hương phải ngưỡng
đầu lên, và cái gáy chạm đến cổ áo. Phải bước theo nhịp chân người trước. Tâm phải
bình bình tịnh tịnh. Không nên ngó sang đông qua tây, chỉ nhất tâm xoay lại,
phản chiếu câu thoại đầu. Lúc ngồi, không nên ưỡn ngực về phía trước. Đừng đề
hơi thở quá cao hay quá thấp, chỉ để tự nhiên tùy theo hơi thở. Lại nữa, phải
thu nhiếp sáu căn, mắt tay mũi lưỡi thân ý. Phải buông bỏ muôn niệm. Luôn luôn
xoay chiếu lại thoại đầu, chớ bỏ quên mất. Đừng xem khán quá vi tế, nếu quá vi
tế thì bị hôn trầm (tức buồn ngủ) lạc vào không vọng, không thể thọ dụng chi
được. Đừng xem khán quá thô; nếu quá thô thì phù trầm (tức vọng tưởng) nổi lên,
không thể khởi thoại đầu được. Nếu xem khán được thoại đầu thì công phu tự
nhiên từ từ thuần thục, tập khí dần dần giảm bớt. Người mới bắt đầu dụng công
thì khó lòng mà xem khán được thoại đầu. Tuy vậy, quý vị đừng lo sợ, lại cũng
đừng có vọng tưởng là muốn khai ngộ, hay cầu được trí huệ v.v... Nên biết rằng,
đả thất tức là vì việc khai ngộ tâm tánh, và vì cầu trí huệ. Nếu lại khởi tâm
cầu nữa thì ví như lấy đầu đặt lên đầu. Hôm nay, chúng ta đã hiểu rõ rồi thì
chỉ lo đề khởi câu thoại đầu. Nếu trong lúc dụng công, chưa có thể đề khởi
thoại đầu lên được, thì chớ có gấp rút, chỉ việc xả bỏ muôn niệm để không còn
tình tưởng, liên tục thầm lặng, xoay chiếu trở lại. Khi vọng tưởng khởi lên,
nếu không màng đến, thì chúng sẽ tự nhiên lặng mất. Vì vậy bảo:
- Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác
chậm.
Vọng niệm khởi lên, chỉ dùng định
lực xoay lại xem khán thoại đầu. Nếu mất thoại đầu, phải mau đề khởi lại. Mới
ngồi thiền thì dường như là chỉ lo dẹp vọng tưởng, nhưng lâu dần thì thoại đầu
từ từ khởi lên được. Khi ấy, quý vị có thể ngồi hết cả một cây nhang. Nếu không
để mất thoại đầu thì kết quả sẽ rất tốt.
Ngôn ngữ chỉ là lời nói suông. Quý
vị hãy nên chân thật dụng công.
2/ Ngày thứ hai, (23/2)
Đả thất là pháp khắc kỳ thủ chứng. Người
xưa vì căn tánh lanh lợi nên không thường dùng pháp này, nhưng qua đời Tống
(960-1278) thì từ từ được áp dụng. Đến đời Thanh (1662-1912), vào triều vua Ung
Chánh, pháp này lan rộng khắp nơi. Vua Ung Chánh rất tôn trọng Thiền tông, nên
tại hoàng cung cũng thường đả thất. Đồng thời, công phu thiền định của ông ta
rất phi thường. dưới tay ông có hơn mười người ngộ đạo. Tổ Thiên Huệ Triệt ở
chùa Cao Mân tỉnh Dương Châu cũng ngộ đạo dưới pháp hội của ông ta. Tất cả quy
củ pháp chế thiền môn đều do ông chấn chỉnh. Do đó, tông phong được chấn hưng
mạnh mẽ, và nhân tài xuất hiện rất nhiều.
Vì vậy, quy củ tông phong rất thiết
yếu và hệ trọng. Pháp thức khắc kỳ thủ chứng tựa như thí sinh nhà nho lúc vào
trường khảo hạch, theo đề mục mà làm thơ, theo thơ mà được khảo thí trong một
thời gian hạn định. Đề mục đả thất của chúng ta gọi là "Tham Thiền",
nên điện đường đều gọi là "Thiền Đường". Chữ Thiền vốn là tiếng Phạn,
dịch là thiền na, nghĩa là tĩnh lự. Trong thiền lại có thiền Đại Thừa, thiền
Tiểu Thừa, thiền cõi hữu sắc, thiền cõi vô sắc, thiền Thanh Văn, thiền ngoại
đạo v.v...
Thiền trong tông môn, gọi là
"Vô Thượng Thiền". Nếu như trong thiền đường có người tham thấu nghi
tình, ngồi tọa thiền cắt đứt mệnh căn, tức đồng Như Lai không khác. Thế nên,
thiền đường cũng gọi là "Tuyển Phật Trường", tức là trường tuyển làm
Phật, hay "Bát Nhã Đường". Sở học nơi các thiền đường đều là pháp vô
vi. Vô vi tức là không có hành động tạo tác, không pháp để chứng đắc, không
pháp để làm. Nếu là hữu vi thì đều nằm trong sanh diệt. Nếu có chứng đắc thì
cũng có mất mát. Kinh nói: "Nếu còn lời nói đều là không thật nghĩa".
Ví như, tụng kinh, lễ sám v.v...,
tất cả đều là pháp hữu vi của ngôn giáo phương tiện quyền xảo, còn tông môn dạy
quý vị trực nhận thẳng vào nguồn tâm, không có chỗ để dùng ngôn ngữ. Xưa kia,
có một học nhân, tham vấn lão nhân Nam Tuyền:
- Bạch Hòa Thượng! Đạo là gì?
Ngài Nam Tuyền đáp:
- Tâm bình thường là đạo.
Thường ngày, ăn cơm mặc áo, ra vào
làm lụng nghỉ ngơi, đều không hợp với đạo, do vì chúng ta tùy theo cảnh mà đắm
nhiễm chấp trước, không nhận ra tự tâm mình vốn là Phật. Thuở trước, thiền sư
Pháp Đường ở núi Đại Mai lúc mới gặp Mã Tổ bèn hỏi:
- Bạch Hòa Thượng! Phật là gì?
Mã Tổ đáp:
- Tâm tức là Phật.
Ngài liền đại ngộ, rồi lễ bái từ
biệt Mã Tổ, đến núi Mai Tử ở huyện Tứ Minh, kết am ẩn tu. Đời Đường, niên hiệu
Trinh Quán (785-804) dưới hội của thiền sư Giám Quan, có một vị tăng nhân đi
vào rừng lượm cây làm tích trượng mà bị lạc đường, nên đến am Ngài, bèn hỏi:
- Bạch Hòa Thượng! Ngài ẩn tu nơi
đây đã bao lâu rồi?
Ngài đáp:
- Chỉ thấy núi bên phía tây xanh
rồi lại vàng.
- Bạch Hòa Thượng! Vậy đường nào
dẫn ra khỏi núi nầy?
- Ông cứ men theo con suối này mà ra.
Vị tăng trở về thuật lại cho thiền
sư Giám Quan nghe. Giám Quan bảo:
- Tại Giang Tây, Thầy từng gặp một
vị tăng, nhưng bấy lâu nay không nghe tin tức, vậy chắc là Ngài đó rồi.
Sau đó thiền sư Giám Quan liền bảo
tăng đi thỉnh ngài Pháp Đường về chùa. Ngài Pháp Đường làm kệ:
"Cây khô cằn trong rừng lạnh
lẽo,
Mấy độ xuân về tâm nào chuyển,
Lão tiều phu chẳng màng nhìn đến,
Dinh nhân truy tìm chi nhọc mệt,
Trong hồ sen nở vô số y,
Hoa tùng ăn mãi vẫn còn dư
Nay bị thế nhân biết nơi ở
Phải dời am vào tận núi sâu!"
Mã Tổ nghe Ngài đang trú trong núi,
nên bảo tăng đến chỗ đó mà hỏi:
- Bạch Hòa Thượng! Ngài gặp Mã Đại
Sư, được sở đắc gì mà trụ nơi đây?
Ngài đáp:
- Mã Đại Sư dạy rằng tức tâm tức
Phật, nên tôi mới đến đây.
- Gần đây Mã Đại Sư giảng thuyết
Phật Pháp có khác.
- Khác như thế nào?
- Mã Đại Sư dạy rằng phi tâm phi
Phật.
- Lão già làm mê loạn người chưa có
ngày nào thôi. Mặc lão phi tâm phi Phật, còn tôi chỉ biết tức tâm tức Phật.
Vị tăng trở về, thuật lại sự việc
này cho Mã Tổ nghe. Mã Tổ bèn bảo:
- Trái mai đã chín.
Qua câu chuyện này, chúng ta thấy
rõ tín tâm của người xưa thật là kiên cố. Vì căn cơ chúng ta quá kém cỏi, và
vọng tưởng quá nhiều, nên chư đại tổ sư mới dạy tham quán câu thoại đầu. Thật
là một việc làm miễn cưỡng. Tổ Vĩnh Gia nói:
"Chứng thật tướng,
Không người không pháp,
Sát na diệt,
Hết nghiệp nơi ngục A Tỳ
Nếu lấy lời giả, dối chúng sanh,
Tự chiêu địa ngục cắt lưỡi hằng sa
kiếp!"
Tổ Cao Phong bảo:
- Người học đạo, như lấy một viên
đá, liệng thẳng xuống tận đáy hồ. Chúng ta tham khán thoại đầu, tức là phải
khán xem nó đến tận cùng, cho tới khi thấy vỡ nó ra mới thôi.
Tổ Cao Phong lại phát nguyện:
- Nếu người học đạo, khi khởi câu
thoại đầu, mà không có hai niệm, thì trong bảy ngày, nếu không ngộ đạo, tôi
nguyện sẽ mãi bị đọa trong địa ngục cắt lưỡi!
Vì lòng tin của chúng ta không kiên
cố, và tu hành không chân thật, nên vọng tưởng không thể xả bỏ. Nếu có tâm
thiết tha vì sự sanh tử, thì một câu thoại đầu quyết không để quên mất. Tổ Quy
Sơn bảo:
- Đời đời nếu không thối chuyển,
quả vị Phật quyết định sẽ đạt được.
Người mới phát tâm học đạo, nói
chung vọng tưởng rất nhiều. Chân cẳng thường bị đau nhức, và không biết phải
dụng công như thế nào. Thật ra, chỉ quan trọng nơi tâm tha thiết vì sự sanh tử,
cứ bám chặt vào câu thoại đầu, mà không phân biệt đi đứng nằm ngồi. Từ sáng đến
tối, xoay chiếu lại nó mãi như ánh trăng thu vằng vặc, rõ rõ ràng ràng không
lạc vào hôn trầm, không mê trong trạo cử, thì quả vị Phật sao lo không có phần!
Nếu hôn trầm nổi lên, quý vị phải mở mắt thật to, và nới rộng dây lưng, thì
tinh thần sẽ tự phấn chấn trở lại. Khi ấy, đừng khởi câu thoại đầu quá vi tế,
vì dễ lạc vào hôn trầm và không vọng. Nếu để tâm tự nhiên thì chỉ còn một mảnh
thanh tịnh tràn đầy, thân tâm sảng khoái. Lúc đó, chớ để mất câu thoại đầu thì
mới tiến bộ. Song, nếu lạc vào không vọng tức chẳng phải là cứu cánh. Nếu khởi
thoại đầu quá thô thiển, thì vọng tưởng dễ dàng sinh lên. Lúc đó, khó mà điều
phục được trạo cử. Thế nên, khi ấy phải dung hòa là trong thô thiển có vi tế,
trong vi tế có thô thiển, thì công phu mới đắc lực, khiến đạt đến cảnh giới
động tịnh nhất như.
Xưa kia, những khi chạy hương ở
chùa Kim Sơn và các chùa khác, thầy Duy Na dâng hương xong, liền cùng đại chúng
chạy như bay. Khi nghe tiếng mõ đánh, bèn đứng khựng lại như người chết. Như
thế thì còn đâu vọng tưởng hôn trầm? Nào phải như ngày nay chúng ta chạy hương
đâu?
Khi ngồi thiền, quý vị đừng đề câu
thoại đầu quá cao, vì dễ bị phù trầm. Lại nữa, không nên giữ câu thoại đầu
trước ngực vì sẽ sanh bịnh. Ngoài ra, đừng đè nén xuống. Nếu đè nén xuống đan
điền, bụng sẽ phình to, dễ lạc vào cảnh năm mươi ấm ma, phát sanh nhiều bịnh
tật. Chỉ thiết yếu là tâm bình khí tĩnh, tham khán chữ "Ai" mãi như
gà ấp trứng, mèo rình chuột. Lúc xoay lại phản chiếu được rồi, mạng căn tự
nhiên cắt đứt.
Đương nhiên, người mới học pháp
này, làm sao sánh bằng với những vị đã từng tham học lâu năm, nhưng quý vị cũng
nên cố gắng dụng công trong mọi thời khắc.
Tu hành giống như mài đá lấy lửa, phải
có phương pháp rõ ràng, bằng không thì cho dầu đập nát đá ra vẫn không có lửa.
Cách thức là phải có một thanh sắt và mồi lửa. Để mồi lửa ngay dưới cục đá, rồi
lấy thanh sắt cọ vào đá. Khi lửa từ viên đá cháy nháng lên, mồi lửa liền bắt
được ngọn lửa. Đó là phương pháp lấy lửa duy nhất. Hiện tại, chúng ta biết rằng
tự tâm là Phật, nhưng lại không chịu thừa nhận, nên phải dùng câu thoại đầu làm
mồi lửa. Lý dùng mồi lửa là như thế. Hiện tại đối với cách lấy lửa, chúng ta
chưa biết đến, nên không thể nhận ra tự tánh. Tự tánh của chúng ta đồng với chư
Phật không khác. Song, vì vọng tưởng chấp trước, nên không thể giải thoát. Do
đó, Phật vẫn là Phật, và mình vẫn là mình. Chúng ta hôm nay đã biết mình là con
của bậc Pháp Vương, thì hãy nên tự tham cứu, vậy có hay lắm không! Hy vọng mọi người
hãy cố gắng nỗ lực. Trên đỉnh trụ cây trăm thước, hãy tiến thêm một bước, để
được trúng tuyển tại đạo tràng này, mới mong rằng trên đáp đền ơn chư Phật,
dưới làm lợi ích cho loài hũu tình. Trong Phật pháp, không có nhân tài xuất
hiện vì mọi người không dám nỗ lực tinh tấn tu hành. Nói ra thật đau lòng! Giá
như tin sâu vào lời dạy của tổ Vĩnh Gia và Cao Phong, thì quyết chắc rằng ai ai
cũng sẽ ngộ đạo. Mọi người hãy nên dụng công tham thiền!
3/ Ngày thứ ba, (24/2)
Thời gian trôi qua mau chóng. Vừa
nói đả thiền thất thì đã qua ba ngày rồi. Người biết dụng công, xoay lại tham
chiếu câu thoại đầu được, thì tất cả trần lao vọng niệm đều từ từ lắng đọng,
rồi thỏng tay đi thẳng về nhà. Vì vậy, người xưa nói:
- Tu hành không cách chi hết, thiết
yếu phải biết đường về. Lộ trình nếu rõ, sanh tử liền ngưng.
Lộ trình của chúng ta, trọng yếu là xả bỏ thân tâm thì trong gang tấc sẽ về đến
nhà. Lục tổ Huệ Năng bảo:
- Niệm trước không sanh là tâm,
niệm sau không diệt là Phật.
Bốn đại vốn không. Năm ấm không
thật có. Chỉ vì vọng tưởng chấp trước, nên đắm đuối mến yêu huyễn pháp ràng rịt
ở thế gian, mà không nhận ra bốn đại vốn không, nên sanh tử không thể dứt. Nếu
trong một niệm chẳng khởi sanh diệt thì không cần học Phật pháp. Khi ấy lo gì
sanh tử không dứt được! Vì vậy, pháp trong tông môn giống như ánh sáng mặt
trời, chiếu soi khắp cả mười phương thế giới.
Xưa kia, tổ Đức Sơn, người Giản
Châu tỉnh Tứ Xuyên, tên tục là Chu. Năm hai
mươi tuổi, xả tục xuất gia thọ giới cụ túc. Ngài tinh tấn nghiên cứu tạng luật,
cùng các kinh bàn về chân tánh hay thể tướng, nên quán thông được tông chỉ thú
hướng. Ngài thường giảng kinh Kim Cang Bát Nhã. Người thời đó thường gọi Ngài
là Chu Kim Cang. Ngài thường nói với quý vị đồng môn:
- Một cọng lông hớp cạn nước biển.
Tánh như biển cả, rộng vô cùng. Dệt nơi đầu ngọn kim, nhưng kim nhọn không
động. Học đồng vô học, chỉ mình ta biết.
Sau này, nghe Thiền tông thịnh hành
ở phương Nam,
Ngài rất bực tức, bảo:
- Người xuất gia, ngàn kiếp học oai
nghi Phật, muôn kiếp tu tế hạnh Phật, vậy mà vẫn chưa có thể thành Phật. Bọn
quỶ ở phương Nam dám nói trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật. Ta phải quét
sạch hang ổ, diệt hết những loài này, hầu mong báo đền ơn Phật!
Ngài liền quảy theo bộ Thanh Long
Sớ Sao, đi từ Tây Xuyên đến Phong Dương. Giữa đường, gặp một bà lão bán bánh
điểm tâm. Ngài ghé lại định mua bánh điểm tâm. Bà lão điềm nhiên chỉ tay vào
gánh đồ, hỏi:
- Bạch Hòa Thượng! Đó là kinh sách
gì vậy?
Ngài đáp:
- Là bộ Thanh Long Sớ Sao.
- Bạch Hòa Thượng! Vậy sớ sao đó
giảng về kinh gì vậy?
- Giảng kinh Kim Cang.
- Con có câu hỏi, nếu Ngài trả lời
được thì xin cúng dường bánh điểm tâm, còn nếu không trả lời được thì xin Ngài
hãy đi nơi khác. Kinh Kim Cang nói: "Quá khứ, tâm không thể được. Hiện
tại, tâm không thể được. Vị lai, tâm không thể được." Vậy theo Ngài, kinh
chỉ vào tâm nào?
Ngài không lời đối đáp, bèn bỏ đi
đến Long Đàm. Khi vào pháp đường, Ngài hỏi:
- Đã lâu nghe danh Long Đàm. Nay đến đây, sao chẳng thấy Đàm (ao đầm), cùng
không thấy Long (rồng) đâu cả!
Nghe thế, ngài Long Đàm bước ra,
nói:
- Ông đã đến Long Đàm rồi!
Ngài Đức Sơn không trả lời được,
nên ở lại chùa. Đêm nọ, lúc Đức Sơn đang đứng hầu, ngài Long Đàm bảo:
- Đã khuya rồi, sao ông không về
phòng nghỉ?
Đức Sơn bèn trịnh trọng bước ra
ngoài, nhưng lại trở vào, nói:
- Bên ngoài trời tối om!
Long Đàm mồi một ngọn đèn rồi đưa
cho Đức Sơn. Đức Sơn định lấy ngọn đèn, nhưng Long Đàm bèn thổi tắt. Ngay khi
đó, Đức Sơn lập tức đại ngộ, vội quỳ xuống lễ lạy. Long Đàm bảo:
- Ông thấy đạo lý gì mà lễ lạy ta?
Đức Sơn thưa:
- Từ nay không còn dám nghi đầu
lưỡi của các lão hòa thượng trong thiên hạ nữa.
Hôm sau, Long Đàm lên tòa bảo đại
chúng:
- Trong đây có một người, răng bén
như lưỡi kiếm, miệng như bồn máu, bị ăn gậy mà không xoay đầu. Sau này một mình
lên núi, lập đạo của ta.
Đức Sơn liền lấy bộ Thanh Long Sớ
Sao ra trước pháp đường, nổi lửa mà đốt, nói:
- Các lời huyền biện như lông mi
trong hư không. Tận hết căn cơ thế nhân, như một giọt nước ném vào biển cả.
Đốt xong, Ngài lễ bái rồi mang hành
lý, bỏ đi thẳng đến núi Qui Sơn, lên tận pháp đường, tiến từ hướng tây qua
hướng đông, lại từ hướng đông qua hướng tây, rồi xoay lại nói với ngài
Phương Trượng (tức tổ Quy Sơn Linh
Hựu):
- Có chi không! Có chi không!
Tổ Quy Sơn ngồi trên tòa, chẳng
màng trả lời. Đức Sơn nói tiếp:
- Không, không!
Nói xong, Đức Sơn bèn bỏ đi ra. Ra
đến ngoài cửa, Đức Sơn tự bảo:
- Tuy là thế, nhưng phải nên cẩn
thận!
Đức Sơn liền chấn chỉnh oai nghi,
trở vào pháp đường, trải tọa cụ, thưa:
- Bạch Hòa Thượng!
Tổ Quy Sơn định lấy chổi đánh, Đức
Sơn liền la lên, rồi cuốn gói đi ra. Tối đến, tổ Quy Sơn hỏi thầy thủ tọa:
- Người mới đến hôm nay, còn ở lại
không?
Thủ tọa thưa:
- Bạch Hòa Thượng! Khi mang đôi dép
cỏ ra khỏi pháp đường thì ông ta bỏ đi mất.
- Kẻ này, mai đây một mình sẽ lên
tận đỉnh núi, kết am khô, mạ Phật báng Tổ!
Ngài Đức Sơn qua Lễ Dương trú ba
mươi năm. Gặp lúc vua Đường Võ Tông (841-846) đang phá diệt Phật giáo, Ngài
lánh nạn ẩn tu trong hang núi Độc Phù. Đầu niên hiệu Đại Trung, thái thú Tiết
Đình Vọng, sửa lại tịnh xá Đức Sơn, hiệu thiền viện Cổ Đức, định tìm cầu một vị
tài đức về trụ trì. Nghe đạo hạnh Đức Sơn, ông bèn đến thỉnh mời, nhưng Ngài
không màng xuống núi. Tiết Đình Vọng bày mưu là phao du Ngài giữ trà muối trái
phép, phạm luật pháp triều đình, nên sai lính bắt Ngài về huyện đường. Khi đến
nơi, ông bèn lễ bái, cầu thỉnh Ngài ở lại xiển dương tông phong. Người đời sau
thường bảo:
- Đức Sơn la. Lâm Tế đánh.
Nếu theo gương hai ngài, Đức Sơn và
Lâm Tế, chúng ta lo gì không ngưng được sanh tử.
Sau ngài Đức Sơn là Nham Đầu. Sau
Nham Đầu là Tuyết Phong. Sau Tuyết Phong là Vân Môn, Pháp Nhãn, lại đến quốc sư
Đức Thiều, tổ Vĩnh Minh, v.v... Tất cả đều từ gậy ngài Đức Sơn mà ra. Phật pháp
từ các triều đại quân chủ cho đến nay, đều do chư đại Tổ Sư trong tông môn
chống giữ. Quý vị đả thất nơi đây, đều hiểu rõ đạo lý cao siêu, thì việc đi
thẳng vào đất tâm, giải thoát vòng sanh tử, sẽ không khó cho lắm. Nhưng nếu đùa
cợt không dụng công chân thật, và từ sáng đến tối cứ mang mãi bóng hình quỶ ma,
hay đào sâu hố văn tự, thì đừng trách tại sao không cắt được sanh tử. Mọi người
hãy nên nỗ lực tinh tấn dụng công.
4/ Ngày thứ tư, (25/2)
Bốn ngày thiền thất đã trôi qua.
Quý vị đều tinh tấn dụng công, lại trình kệ lên, cầu tôi ấn chứng. Việc này
thật rất khó làm. Song, quý vị dụng công như thế này, chắc vì đã quên lời của
tôi giảng giải trong hai ngày trước. Tối hôm qua tôi có nói:
- Tu hành không đường nào khác, cần
thiết là phải biết đường về.
Hiện tại, tham khán thoại đầu là
việc mà chúng ta phải theo sát. Mục đích tu hành của chúng ta là thành Phật,
cắt đứt dòng sanh tử. Muốn cắt đứt sanh tử, phải dùng câu thoại đầu như bảo
kiếm vương Kim Cang. Ma đến chém ma. Phật đến chém Phật. Không chút tình lưu
luyến. Không pháp để lập. Nếu như thế, thì còn đâu vọng tưởng để làm thơ làm
kệ, diễn đạt thấy hư không ánh sáng, thấy cảnh giới này cảnh giới nọ ư? Dụng
công như thế, tôi không biết thoại đầu của quý vị đi đâu rồi!
Người tu hành lâu năm, chính yếu
chuyên cần tham khán chứ không phải dùng lời. Người mới phát tâm tu đạo hãy chú
ý điểm này!
Vì sợ quý vị không biết cách dụng
công, nên tôi mới giảng rõ duyên khởi của thiền thất, và giá trị tu hành trong
tông môn, cùng cách thức dụng công, trải qua hai ngày liền. Pháp dụng công của
chúng ta, đơn giản là chỉ đề cử câu thoại đầu. Trong sáu thời, từ sáng đến tối,
như dòng nước chảy đừng để gián đoạn. Tâm phải minh mẫn, nhận biết rõ ràng, chớ
để mê muội. Tất cả tình cảm phàm phu hay pháp giải thoát của chư Thánh, hãy
vung đao chặt hết.
Người xưa bảo:
"Học đạo như giữ cấm thành
Giữ chặt dầu trả giá cao
Không chịu trời lạnh thấu xương
Hương thơm hoa mai sao tỏa!"
Đó là kệ của thiền sư Hoàng Bá. Bốn
câu kệ này có hai ý nghĩa. Hai câu đầu nói rằng học đạo như giữ cấm thành, tức
là giữ thành trì nghiêm mật chặt chẽ, không khiêng nể ai, luôn cấm ngặt ra vào.
Trong mỗi chúng ta đều có một tâm vương, lại có thức thứ bảy, thứ sáu, thứ năm
v.v.... Tâm vương tức là thức thứ tám. Năm thức trước là mắt tai mũi lưỡi thân
ý. Thức thứ sáu tức là thằng giặc ý thức. Thức thứ bảy là mạt na thức. Từ sáng
đến tối, thức thứ bảy nhận lấy kiến phần của thức thứ tám làm bản ngã, rồi dẫn khởi
thức thứ sáu, khiến thức này thống lãnh năm thức trước tham đắm vào các trần
cảnh của sắc thanh hương vị xúc pháp. Nếu không đoạn được triền phược của mê
hoặc thì tâm vương, tức thức thứ tám, bị trói chặt đến chết. Thế nên, hôm nay
chúng ta bắt buộc phải dùng câu thoại đầu, tức bảo kiếm Kim Cang, để giết những
tên giặc này, hòng giúp thức thứ tám chuyển thành "Đại Viên Cảnh
Trí", thức thứ bảy thành "Bình Đẳng Tánh Trí", thức thứ sáu
thành "Diệu Quang Sắc Trí", năm thức trước chuyển thành "Thành
Sở Tác Trí". Nhưng điều khẩn thiết là phải chuyển thức thứ sáu và thứ bảy,
vì chúng nắm vai trò lãnh đạo. Ngày nay, chúng ta phải dùng câu thoại đầu để
chuyển thức "Phân Biệt" thành "Diệu Quang Sắc Trí", và
chuyển tâm so đo phân biệt mình người thành "Bình Đẳng Tánh Trí". Đó gọi
là chuyển thức thành trí, chuyển phàm thành Thánh, mà chẳng để cho sáu tên
giặc, sắc thanh hương vị xúc pháp, xâm phạm "Cấm Thành".
Hai câu sau, "không chịu trời
lạnh thấu xương, hương thơm hoa mai sao tỏa", cũng là ví dụ. Chúng sanh
đang lặn hụp trong biển sanh tử luân hồi ở ba cõi, bị năm món dục lạc trói
buộc, và bị trần lao làm mê mờ, nên không thể giải thoát. Nơi đây, chúng ta lấy
hoa mai làm ví dụ. Hoa mai là loại hoa nở vào mùa đông giá lạnh. Muôn vật trên
thế gian đều sinh sản trong mùa xuân, trưởng dưỡng trong mùa hạ, tàn rụi trong
mùa thu, khô chết trong mùa đông. Vào mùa đông, hầu hết cây cỏ côn trùng đều bị
khí lạnh làm khô kiệt chết rụi. Tuyết đóng trên đất nên bụi không bay được. Côn
trùng, cây cỏ, tro bụi được ví như vọng tưởng phân biệt, vô minh, phiền não,
ghen ghét v.v... Chúng ta nếu quét sạch hết chúng ra thì tâm vương tức bổn tánh
tự nhiên hiển hiện, như hoa mai nở bông rộn rã trong mùa đông giá lạnh. Thật
vậy, quý vị phải biết rằng, hoa mai nở bông vào mùa đông lạnh giá chớ không nở
trong tiết xuân ấm áp, tràn đầy ánh nắng hồng. Hoa tâm khai nở không phải ở nơi
vui buồn, thương ghét, hay đúng sai giữa mình và người. Nếu chúng ta mê muội vì
những tâm thức triền phược thì tâm tánh sẽ thành vô ký. Nếu tạo nghiệp xấu thì
thành tánh xấu. Nếu tạo nghiệp lành thì thành tánh lành.
Có hai loại vô ký là vô ký trong
mộng và vô ký không vọng. Vô ký trong mộng tức là lúc hôn trầm mê mộng, chúng
ta mơ thấy những cảnh hảo huyền, không liên hệ gì với những hoạt động hằng
ngày. Đây là cảnh giới của ý thức đơn độc, cũng là loại vô ký đơn độc. Chúng ta
đang ngồi tọa hương mà bỏ mất câu thoại đầu, rồi lạc vào trống không, mê mê mờ
mờ, mà chẳng biết chi hết, hay chỉ tham đắm cảnh giới tịch tĩnh, tức là dụng
công lầm lạc, sanh khởi thiền bịnh trầm trọng. Đó gọi là vô ký không vọng. Việc
cần thiết là trong mười hai thời, luôn khởi câu thoại đầu, linh linh bất muội
(sáng suốt, không mê), liễu liễu thường tri (rõ ràng thường biết). Đi cũng như
thế, và ngồi thiền cũng như thế. Cổ nhân nói:
- Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền,
dứt hết ngôn từ lời nói, thể động và tịnh đều an nhiên!
Tổ Hám Sơn bảo:
"Trên đỉnh núi cao,
Bốn bề mênh mông
Tĩnh tọa ai biết
Ánh trăng lặng lẽ,
Chiếu thấu suối ngàn
Suối trong không trăng
Trăng nơi trời xanh
Ngâm nga thơ kệ
Thơ chẳng phải thiền".
Vì có duyên lành với nhau, nên tôi
mới nói ra những điều này. Hy vọng mọi người nỗ lực tinh tấn, không nên dụng
tâm tán loạn. Tôi sẽ kể thêm một câu chuyện nữa.
Xưa kia, tổ khai sơn lập chùa Tất
Đàn tại núi Kê Túc, sau khi xuất gia, Ngài đi đó đây tham thiền học đạo, rất
mực tinh tấn dụng công. Ngày nọ, Ngài ghé qua một quán trọ, nghe cô gái trong
quán bán đậu hủ ngâm thơ:
- Trương đậu hủ, Lý đậu hủ! Đầu
trên gối, nghĩ muôn ngàn chuyện. Sáng mai cũng vẫn bán đậu hủ.
Ngay trong lúc đang ngồi thiền tĩnh
tọa, nghe cô bán đậu hủ ca ngâm như thế, Ngài liền ngộ đạo. Vì vậy, thấy rõ người
xưa, không phải là ở thiền đường mới dụng công, khai ngộ được. Dụng công tu
hành quý tại nhất tâm. Quý vị chớ phân tâm tán loạn, khiến thời gian trôi qua
vô ích, và ngày mai vẫn phải bán đậu hủ.
5/ Ngày thứ năm, (26/2)
Phương pháp tu hành nói dễ thì cũng
rất dễ, còn nói khó thì cũng rất khó. Nói dễ nghĩa là quý vị chỉ cần xả bỏ tất
cả, có lòng tin chắc thật, phát tâm kiên cố lâu dài, thì mới thành công được.
Nói khó tức là vì chúng ta sợ khổ, muốn hưởng sung sướng an lạc. Nên nhớ rằng
muốn thành công trong bất cứ nghề nghiệp nào trên thế gian, thì phải trải qua
quá trình học tập rèn luyện, huống hồ chi nói đến việc học pháp thánh hiền để
mong thành Phật thành Tổ! Cứ dễ duôi làm biếng mãi thì làm sao thành công được?
Thế nên, điều thứ nhất là phải có tâm kiên cố, vì người tu hành học đạo, không
thể tránh khỏi ma chướng. Ma chướng là cảnh nghiệp trần lao như màu sắc, âm
thanh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm, pháp trần, mà tôi đã nói đến tối hôm qua.
Nghiệp cảnh này là oan gia sinh tử của chúng ta. Đó là nguyên nhân mà nhiều vị
pháp sư giảng kinh, vì không nắm vững điểm này, nên đạo tâm không kiên cố.
Kế đến, phải phát tâm tu hành dài
lâu. Trên thế gian, chúng ta tạo nghiệp vô số. Vừa mới tu hành, cầu mong thoát khỏi
vòng sanh tử luân hồi, thì làm sao xả bỏ hết tập khí xấu xa trong một lần được?
Chư Tổ Sư xưa nay, tu hành bao kiếp
mới thành tựu. Điển hình là tổ Trường Khánh, ngồi rách cả bảy chiếc bồ đoàn. Tổ
Triệu Châu, năm tám mươi tuổi ra ngoài hành cước học đạo. Bốn mươi năm tham
khán một chữ vô, dụng tâm không tán loạn, sau đó mới đại triệt đại ngộ. Yên
Vương cùng Triệu Vương rất sùng bái Ngài, nên thường đến cúng dường. Đến đời
Thanh, hoàng đế Ung Chánh (1723-35), khi xem duyệt lại ngữ lục cao siêu của
Ngài, bèn ban hiệu "Cổ Phật". Đấy là do cả đời tu hành khổ nhọc, mới
thành công được. Ngay đây, chúng ta nếu xả bỏ hết mọi tập khí xấu xa, lắng đọng
thân tâm, liền bằng Phật Tổ không khác.
Kinh Lăng Nghiêm thuyết:
"Như lọc lấy nước
Giữ nước trong lành
Nước tịnh không động
Cát đá tự chìm
Nước trong liền hiện
Là vừa hàng phục
Khách trần phiền não
Lọc cát đá ra
Chỉ còn nước trong
Đó là đoạn hẳn
Căn bản vô minh".
Phiền não tập khí ví như cát đá, vì
vậy mới dùng thoại đầu. Thoại đầu như lưới lọc cát, khiến nước trong sạch. Người
dụng công, nếu đạt đến chỗ thân tâm nhất như, tức cảnh tịnh xuất hiện, thì phải
chú ý, chớ dừng lại mà không tiến bước. Nên hiểu rằng đó chỉ là cảnh giới thô
thiển, phiền não vô minh chưa đoạn hết. Lúc ấy, tâm phiền não đã chuyển thành
tâm thanh tịnh, như cát bụi lóng thì nước trong. Tuy vậy, dưới đáy nước cát bụi
vẫn còn, chưa được lọc ra, nên cần phải gia công thêm nữa. Cổ nhân nói:
"Ngồi trên đỉnh cột trăm thước,
Tuy thấy mà không thật thấy,
Nếu tiến thêm một bước nữa,
Mười phương thế giới liền hiện!"
Nếu không tiến thêm một bước nữa,
thì chỉ nhận "Hóa Thành" làm nhà, và phiền não vẫn còn cơ hội nổi
lên. Nếu như thế, muốn tự mình giác ngộ, cũng rất khó lắm. Vì vậy, phải lọc cát
bụi, rồi giữ nước trong, thì mới mong đoạn hẳn cội gốc vô minh mà thành Phật
Tổ. Sau khi cắt đứt gốc rễ vô minh, tùy thời mà hiện thân thuyết pháp khắp mười
phương. Ví như Bồ Tát Quán Âm, Ngài thường hiện ba mươi hai ứng thân. Nếu người
nào muốn hiện thân gì để được độ thoát, Ngài sẽ vì họ mà hiện ra thân đó để
thuyết pháp. Tự do tự tại, qua lại nơi thanh lâu tửu điếm, thai trâu thai bò,
thiên đường địa ngục, không bị trói buộc. Ngược lại, một niệm phân biệt khởi
lên, thì luân hồi mãi trong sáu đường.
Thuở xưa, đời trước của Tần Tăng
thường cúng dường tượng Địa Tạng bằng hương hoa đèn nến, nên mới được quả báo
thiện lành. Nhưng vì không phát tâm tu hành dài lâu, lại phiền não vô minh chưa
đoạn hết, nên đời nay mới bị tâm sân tổn hại, khiến đọa lạc. (Ông làm đến chức
Tể tướng trong đời Tống, nhưng vì muốn soán ngôi vua, nên bị xử trảm.)
Nếu tín tâm kiên cố, không thối
thất, bền bỉ tu hành, dầu quý vị là ai đi nữa, thì chắc chắn sẽ thành Phật.
Xưa kia, có một người nghèo nọ xuất
gia tại một ngôi chùa thuộc tỉnh Chương Châu, rất thật tâm tu hành, nhưng không
biết hỏi đạo cùng ai, chỉ ngày ngày lo
khổ công làm lụng công quả. Hôm nọ, có một vị tăng hành cước, ghé lại tạm trú
nơi chùa. Vị khách tăng thấy Thầy làm lụng vất vả, bận rộn sáng tối, nên hỏi việc dụng công tu đạo hằng ngày như thế nào.
Thầy đáp:
- Mỗi ngày con đều làm việc khổ nhọc. Xin thỉnh Ngài dạy phương pháp tu hành.
- Hãy tham khán công án "Ai là
người đang niệm Phật".
Thể theo lời dạy của vị khách tăng,
mỗi ngày trong lúc làm việc, Thầy luôn xoay lại, nhìn vào chữ "Ai".
Sau này, Thầy vào núi thẳm rừng sâu, ăn đọt tùng uống nước suối, mặc áo rơm mà
dụng công tu hành. Bấy giờ, gia đình ở nhà, biết việc Thầy tu hành khổ hạnh nơi
núi sâu rừng thẳm, nên người mẹ liền bảo cô chị đem một cuộn vải cùng thức ăn
đến đó. Cô chị vào hang núi, thấy Thầy đang ngồi thiền trong vách sâu, bèn đến
lắc vai, nhưng thân Thầy không lay động. Cô kêu to lên, nhưng Thầy vẫn không
đáp lời. Tức giận, cô để lại tất cả đồ đạc, rồi trở về nhà. Thầy không một lời
hỏi thăm gia đình, cứ mãi ngồi thiền
trong hang. Mười ba năm sau, người chị lại đến thăm, thấy cuộn vải khi trước,
cũng để ngay tại chỗ xưa, mà chưa hề bị động đến. Lần nọ, có người bị đói khát,
chạy lánh nạn ngang qua đó, thấy Thầy đang ngồi thiền, bèn tiến vào hang để xin
đồ ăn. Thầy liền đi vào trong hang sâu, lấy ra vài tHỏi đá bỏ vào nồi nấu, rồi
mang ra cùng ăn với người khách lạc đường, như ăn khoai vậy. Ăn xong, trước khi
khách đi, Thầy dặn:
- Xin đừng kể về buổi ăn này cho người
ngoài biết.
Thời gian sau, vì nghĩ rằng trụ
trong núi đã lâu, Thầy muốn ra ngoài để kết duyên pháp. Do đó, Thầy đến Hạ Môn,
cất lều tranh ngay bên vệ đường để bán trà bánh cho khách qua lại. Bấy giờ là
đời vua Vạn Lịch (1573-1620). Hoàng Thái Hậu (tức mẹ vua), vừa mới qua đời, nên
nhà vua thỉnh mời chư cao tăng đến hoàng cung, làm lễ cầu nguyện cho mẹ ông.
Mới đầu, nhà vua định thỉnh tăng chúng ở kinh đô, nhưng nơi đó vào đương thời
không có vị cao tăng nào cả. Lại nữa, Hoàng Thái Hậu báo mộng cho biết là tại
Chương Châu, tỉnh Phước Kiến, có một vị cao tăng. Vì vậy, nhà vua phái quan
quân đến Chương Châu, cung thỉnh tất cả chư tăng về kinh đô, lập đàn tràng cầu
siêu. Thế nên, tăng chúng Chương Châu đều chuẩn bị hành lý, rồi lục đục kéo
nhau lên kinh đô. Khi chư tăng đi ngang qua quán trà, Thầy liền hỏi thăm nguyên do. Chư tăng đáp:
- Hiện tại, chúng tôi phụng theo
chiếu chỉ nhà vua, lên kinh đô lập đàn tràng cầu siêu độ cho Hoàng Thái Hậu.
Thầy thưa:
- Bạch chư Hòa Thượng! Vậy con có
thể cùng đi với quý ngài được không?
- Điệu bộ ông lôi thôi xốc xếch,
làm sao theo chúng tôi được.
- Con không biết tụng kinh, nhưng
có thể giúp quý ngài mang hành lý.
Chư tăng nhận lời, đưa hành lý cho
Thầy mang, rồi cùng nhau lên kinh đô. Khi ấy, Hoàng Đế biết chư tăng tại Chương
Châu đang trên đường đến, nên bảo người chôn giấu một bộ kinh Kim Cang dưới cổng
kinh thành. Các vị tăng Chương Châu không hay biết. Người người đều bước qua
cổng thành, duy chỉ trừ Thầy. Thầy quỳ xuống chấp tay, mà không dám bước qua.
Mặc dầu quân lính giữ cổng thành kêu réo, nhưng Thầy vẫn không đi. Nghe quan
quân tấu trình sự việc, Hoàng Đế rất vui mừng, biết thánh tăng đã đến. Ông lại
sai người ra hỏi:
- Hòa Thượng đã đến, sao không vào
kinh thành?
Thầy đáp:
- dưới đất có kinh Kim Cang, nên
tôi không dám bước qua.
- Tại sao Hòa Thượng không lộn
ngược thân mà vào thành?
Nghe thế, Thầy liền chống hai tay
xuống đất, đưa hai chân lên trời, rồi đi vào thành. Hoàng Đế cung kính tột bực.
Lúc được hỏi cách lập đàn tràng cầu
siêu, Thầy đáp:
- Canh năm sáng mai, kiến lập một
đài cao, cắm một cây phướn, sắp một bàn trái cây cùng đốt đèn nến để cúng dường
chư Phật là đủ.
Hoàng Đế nghe vậy lòng không vui,
vì đàn lễ không long trọng. Ông lại sợ Thầy không có đạo đức, nên cho hai cung
nữ đến hầu hạ, tắm rửa. Thân tâm Thầy vẫn không động khi được hai cung nữ đến
tắm cho mình. Nghe lời cung nữ tấu trình việc đó, Hoàng Đế lại tăng thêm sự
cung kính, và nhận biết Thầy thật là một vị thánh tăng, nên y theo lời dạy mà
kiến lập đàn tràng. Hôm sau, Thầy lên tòa thuyết pháp, đăng đàn làm lễ; tay
phất cây phướn trước quan tài Hoàng Thái Hậu, Thầy nói kệ:
"Cái ta vốn không đến,
Bà chớ có đắm đuối,
Một niệm không sanh,
Siêu thăng cõi trời!"
Làm Phật sự xong, Thầy bảo Hoàng
Đế:
- Xin chúc mừng! Hoàng Thái Hậu đã
được siêu thăng!
Hoàng Đế rất đỗi nghi ngờ, vì sợ
làm đàn tràng quá đơn sơ như thế thì công đức chưa đủ. Đang khởi tâm nghi như
thế, thì trên hư không có tiếng của Hoàng Thái Hậu:
- Hoàng Đế! Hãy cám ơn Thánh tăng.
Mẹ đã được siêu thăng rồi!
Nghe vậy, Hoàng Đế vừa sợ vừa mừng,
cúi mình lễ bái tạ ơn, rồi thiết lễ trai tăng cúng dường.
Thầy thấy Hoàng Đế mặc quần thêu
hoa gấm, nên mắt chăm chăm nhìn. Thấy vậy, Hoàng Đế thưa:
- Bạch Đại Đức! Ngài muốn vật này à?
Nói xong, Hoàng Đế liền tặng cho
Thầy quần gấm đó. Thầy nói:
- Đa tạ Hoàng Thượng!
Do việc này, Hoàng Đế bèn ban hiệu
cho Thầy là "Quốc Sư Long Khố".
Thọ trai xong, Hoàng Đế dẫn Thầy
đến vườn thượng uyển du ngoạn. Trong vườn có một bảo tháp. Thầy vừa thấy thì
tâm rất vui mừng, nên mắt nhìn chằm chặp. Hoàng Đế thưa:
- Bạch Quốc Sư! Ngài muốn tháp này
ư?
Thầy bảo:
- Tháp này tuyệt đẹp!
- Bạch Quốc Sư! Con có thể cúng
dường Ngài ngôi bảo tháp này.
Nói xong, Hoàng Đế liền sai người
mang bảo tháp về Chương Châu. Thầy bèn bảo:
- Không cần nhờ người mang. Tự tôi
đem về được.
Nói xong, Thầy liền bỏ tháp vào
trong tay áo, rồi bay lên hư không biến mất. Hoàng Đế kinh hãi run sợ, nhưng lại
vui mừng tán thán việc chưa từng có.
Quý vị! Hãy nhìn lại câu chuyện
này. Kể từ khi xuất gia, Thầy chưa từng dụng công tán loạn, đạo tâm luôn kiên
cố. Người chị đến thăm, Thầy vẫn không màng. Y phục rách nát, Thầy vẫn không
quản. Cuộn vải để trong hang mười ba năm mà không động đến. Chúng ta hãy tự hỏi
chính mình, công phu có được như thế
không? Chỉ nói trong một ngày một đêm, giả như có chị mình đến thăm, thì tâm có
động chăng? Lại nữa, trong lúc chỉ tịnh, thấy thầy giám hương đi đốt hương, hay
người khác đang động đang tịnh, liền giương đôi mắt mà nhìn. Dụng công như vầy,
đến khi nào mới thành thục! Quý vị chỉ thiết yếu lọc bỏ bùn cát, thì nước trong
tự nhiên hiện ra. Quý vị hãy đề khởi thoại đầu lên!
6/ Ngày thứ sáu, (27/2)
Cổ nhân nói:
- Ngày tháng qua mau như thoi đưa,
thời gian vùn vụt trôi nhanh như tên bắn.
Đả thiền thất đến ngày mai là xong.
Theo quy củ, sáng mai sẽ có tra khảo, vì đả thất là cách thức khắc kỳ thủ
chứng. Chứng nghĩa là chứng ngộ, tức thấy tận bổn địa phong quang, hay ngộ đến
Như Lai diệu tánh. Vì muốn biết trình độ công phu của quý vị trong bảy ngày,
nên mới tra khảo xem xét. Quý vị phải đối trước đại chúng mà thưa bạch rõ ràng
những điều mình chứng biết. Khi đó, gọi là thâu nhặt tiền vé của tất cả mọi người.
Nói cách khác, chúng ta tham gia đả thiền thất, nghĩa là ai ai cũng có thể khai
ngộ, hầu mong hoằng dương Phật pháp, cứu độ chúng sanh. Hiện tại, không nhất
thiết ai ai cũng phải khai ngộ; nếu chỉ có một người liễu đạo, thì cũng thâu
được tiền vé. Nghĩa là một người trả tiền ăn cho mọi người. Nếu mọi người đồng
phát khởi đạo tâm tinh tấn, thì ai ai cũng đều khai ngộ. Cổ nhân nói:
- Phàm phu thành Phật rất dễ dàng.
Dẹp trừ vọng tưởng lại rất khó.
Từ vô thủy đến nay, chúng ta tham
lam ái nhiễm, chấp trước nặng nề, nên mới bị lưu chuyển trong vòng sanh tử. Tám
muôn bốn ngàn trần lao, cùng bao loại tập khí xả bỏ không nổi, khiến chẳng được
ngộ đạo, nên khác hẳn với chư Phật chư Bồ Tát, những bậc thường giác không mê.
Do đó đại sư Liên Trì nói:
"Nhiễm duyên rất dễ,
Đạo nghiệp khó thành,
Mê việc trước mắt
Muôn duyên sai biệt
Cảnh như gió thổi
Hoại rừng công đức
Lửa tâm cháy phừng,
Đốt hạt Bồ Đề,
Đạo đồng tình tâm
Thành Phật dễ dàng
Đối người như mình,
Đồng được tùy hỷ,
Chẳng thấy thị phi
Trên cung dưới kính
Phật pháp thường hiện
Chặt đứt trần lao!"
Những câu kệ trên nói rõ đạo lý
chân thật! Nhiễm, tức nhiễm ô. Phàm phu đều tham nhiễm tiền tài, sắc đẹp, danh
vọng, lợi lộc, cùng khởi tâm sân hận gây chiến tranh. đối với hai chữ 'Đạo
Đức', như chân bị đá buộc. Từ sáng đến tối, cứ mãi sống trong vui buồn giận
tức, thương mến, ghen ghét, tham lam, và ái nhiễm phú quý vinh hoa, nên chưa hề
cắt đoạn bao loại thế tình, cũng không nghĩ gì về đạo. Thế nên, rừng công đức
bị phá hoại và hạt Bồ Đề bị đốt rụi. Nếu lạnh nhạt với thế tình, đối xử bình
đẳng với tất cả bè bạn, oan gia, cùng mọi chúng sanh, và xem người nghèo như
mình nghèo, xem kẻ khác yếu như mình yếu, cũng không giết hại, không trộm cắp,
không tà dâm, không nói láo, không uống rượu, lại thường phát tâm Bồ Đề, thì
đạo nghiệp mới tương ưng, chóng lập địa thành Phật. Vì vậy bảo:
- Đạo tâm nếu đồng tình tâm, thì
thành Phật mau chóng.
Chư Phật thánh hiền ứng hóa thế
gian, và trong mọi việc làm đều vì lợi ích chúng sanh. Vì thế nói rằng cứu khổ
ban an vui, khởi tâm từ tế độ muôn vật. Nếu chúng ta tự kiềm chế, nhã nhặn
khiêm tốn trong mọi trường hợp, cùng nơi các việc làm đều không nhằm vì mục
đích hưởng thụ cá nhân, thì làm việc gì cũng thành công, và người người chẳng
hề thọ khổ. Đồng thời, quả báo chơn thật thù thắng cũng được viên mãn tròn đầy,
như thuyền nhấp nhô lên xuống đồng với mực nước. Nếu dùng tâm từ bi cung kính
để đối đãi người, mà chẳng tự cao tự đại, cùng chẳng kiêu xa giả dối, thì khi
gặp gỡ, người khác nhất định sẽ có tâm cung kính tôn trọng mình. Ngược lại, nếu
chỉ cậy vào tài năng, nộ khí tung hoành ngang dọc, hoặc miệng trái với tâm,
luôn vì âm thanh sắc tướng danh lợi, lại lập chước tính toán hầu mong người
khác cung kính mình thì không thể được. Cho dầu họ có kính nể mình đi nữa, thì
e rằng cũng là ngụy tạo giả dối. Khổng Tử nói:
- Cung kính người, người hằng cung
kính mình. Thương mến người, người hằng thương mến mình.
Lục Tổ Huệ Năng bảo:
- Người lỗi ta không lỗi, tức lỗi
ta phân biệt người.
Thế nên, chúng ta chớ khởi tâm thị
phi, mình người khác biệt. Ví như chư Phật Bồ Tát, các ngài làm mọi việc luôn
vì lợi ích chúng sanh, nên thời thời thường gặt hái quả báo thiện lành. Nếu
chúng ta làm được như thế, thì phiền não không thể trói buộc.
Đức Thế Tôn thuyết ba tạng kinh
điển mười hai phần giáo, chỉ vì muốn cứu giúp chúng ta cắt đứt ba độc tham lam
sân hận si mê, cùng dạy tu hành giới định huệ, khiến phát khởi tâm từ bi hỶ xả,
và thực hành lục độ vạn hạnh, ngõ hầu viên mãn đức tướng trí huệ trang nghiêm
pháp thân công đức. Nếu nương theo trên mà hành, thì nơi nơi đều biến thành thế
giới Hoa Tạng.
Hôm nay tham gia đả thất, đa số là
các vị tại gia đức độ. Chúng ta nên cố gắng hàng phục tâm mình, mau chóng rời
xa triền phược. Tôi sẽ kể thêm một câu chuyện nữa. Mong rằng những ai đã phát
tín tâm tu hành, sẽ đạt được bảo vật. Ngược lại, quý vị tự cô phụ tín tâm của
mình, đi về tay không. Hy vọng mọi người hãy lắng nghe.
Xưa kia, vào đời Đường có cư sĩ họ
Bàng tên Uẩn tự Đạo Huyền, người Hàng Dương tỉnh Hồ Nam, vốn theo nghiệp nhà
Nho sau lại liễu ngộ trần lao khốn khổ, chí cầu đạo chân đế. Năm Trinh Quán
nguyên niên, nghe đạo phong của hòa thượng Thạch Đầu, nên ông đến bái kiến.
Ông hỏi:
- Người không cùng muôn pháp làm
bạn là ai?
Hòa thượng Thạch Đầu bèn lấy tay
che miệng ông. Ông liền hoát nhiên nhận ra yếu chỉ. Ngày nọ, ngài Thạch Đầu hỏi
ông:
- Từ khi gặp lão tăng cho đến nay,
hằng ngày con làm những gì?
Ông thưa:
- Nếu hỏi việc hằng ngày, tức môi miệng không có chỗ mở.
Nói xong, ông liền trình kệ:
"Hằng ngày làm không khác
Chỉ mình hòa với chúng
Nơi nơi không chấp xả
Chốn chốn chẳng tiếp thừa
Sao phân chia đỏ tím
Núi xanh chẳng chút bụi
Thần thông và diệu dụng
Gánh nước cùng hái củi".
Ngài Thạch Đầu chấp nhận, nói:
- Con muốn làm tăng hay tục?
Ông thưa:
- Bạch Hòa Thượng! Con muốn làm
những gì con thích!
Ông không xuống tóc xuất gia. Sau
này, ông đến tham vấn Mã Tổ:
- Bạch Hòa Thượng! Người không cùng
muôn pháp làm bạn là ai?
Mã Tổ bảo:
- Đợi ông hớp cạn nước ngàn sông,
Ta sẽ chỉ bày.
Nghe thế, ông liền lãnh hội yếu
chỉ, nên ở lại học hỏi về ngôn giáo. Từ
khi hiểu rõ nguồn tâm, ông không màng việc thế gian, chỉ đan giỏ tre sống qua
ngày. Trong nhà có mười ngàn lượng vàng bạc, ông liệng hết xuống sông Trường
Giang. Hôm nọ, đang cùng bà vợ bàn về lý vô sanh, ông bảo:
- Khó! Khó! Khó! Đem hạt mè để trên
đỉnh cây thật khó!
Bà vợ nói:
- Dễ! Dễ! Dễ! Ý Tổ Sư trên trăm đầu
ngọn cỏ.
Con ông là cô Linh Chiếu nghe thế
liền đáp:
- Hai ông bà già, sao lại nói như
thế!
Ông hỏi:
- Vậy con nói như thế nào?
Cô Linh Chiếu bảo:
- Không khó cũng không dễ. Đói thì
ăn. Mệt ngủ khò!
Ông liền vỗ tay, nói:
- Con trai không lấy vợ. Con gái
không lấy chồng. Cả nhà thuyết vô sanh!
Từ đó, danh tiếng của ông vang dội
khắp nơi. Lần nọ, thăm viếng chùa xong, vào lúc ông vừa từ biệt đại chúng để
trở về nhà, ngài Lạc Sơn bảo mười vị thiền khách tiễn ông ra cổng. Đến cổng,
ông lấy tay chỉ tuyết rơi trên không trung, nói:
- Từng mảnh tuyết trắng, không bay
lạc nơi khác.
Có thiền khách họ Toàn đáp:
- Bay lạc nơi nào?
Ông liền tát vị thiền khách này một
bạt tay. Thiền khách họ Toàn nói:
- Không được cẩu thả.
Ông bảo:
- Sao dám xưng là thiền khách. Vua
Diêm La không cho Ngài thoát đâu.
- Cư sĩ thường làm gì?
- Mắt thấy như mù, miệng nói như
câm.
Ông thường đến các giảng đường nghe
thuyết pháp. Ngày nọ, nghe vị giảng sư thuyết kinh Kim Cang đến đoạn vô ngã vô
nhân, ông bèn hỏi:
- Bạch Tọa Chủ! Nếu nói vô ngã vô
nhân, vậy ai đang giảng kinh, ai đang nghe kinh?
Vị Tọa Chủ không lời đối đáp.
Ông nói:
- Tuy là người thế tục, con hiểu
yếu chỉ thô thiển đôi chút.
Tọa Chủ hỏi:
- Theo ý cư sĩ thì như thế nào?
Ông đáp kệ:
"Không mình cũng không người.
Sao có kẻ thân sơ!
Khuyên Ngài ngồi nghỉ ngơi,
Chớ cầu thêm chân lý.
Tánh Kim Cang Bát Nhã,
Ngoài không chút trần lao.
Nghe cùng tin hay nhận,
Chỉ là trần cảnh giả".
Nghe thế, vị Tọa Chủ vui mừng khen
ngợi ông đáo để. Một hôm, ông hỏi cô
Linh Chiếu:
- Cổ nhân nói rằng trên trăm đầu
ngọn cỏ, rõ ý Tổ Sư. Vậy, con hiểu như thế nào?
Cô Linh Chiếu nói:
- Ông già! Sao nói như thế được?
- Vậy con nói làm sao?
- Trên trăm đầu ngọn cỏ, rõ ý Tổ
Sư.
Ông cười to. Lúc sắp mất, ông bảo
cô Linh Chiếu:
- Con ra ngoài xem coi mặt trời mọc
đúng ngọ chưa.
Cô Linh Chiếu bước ra ngoài, chốc
lát rồi trở vào, nói:
- Mặt trời ở giữa không trung, bị
nguyệt thực. Cha bước ra xem.
Ông tưởng thật, nên bước xuống tòa,
đi ra ngoài cửa xem. Khi ấy, cô Linh Chiếu liền leo lên tòa ngồi của cha mình,
xếp bằng chắp tay, rồi thị tịch. Trở vào, thấy con mình đã tịch, ông bèn cười
nói:
- Con gái ta lanh lợi quá. Nó đi
trước ta!
Sau đó, ông đình lại bảy ngày để lo
đám tang con mình. Khi quan Vu Công đến thăm bịnh, ông làm kệ, bảo:
"Chỉ mong dẹp sạch cái có,
Coi chừng những cái không,
Cuộc sống trên thế gian,
Như ảnh tượng và bóng".
Nói xong, ông đặt đầu lên gối của
quan Vu Công mà tịch. Theo di chúc, thi thể ông được hỏa táng thành tro, rồi bỏ
xuống sông. Bà vợ nghe tin, liền báo cho con trai biết. Cậu trai nghe xong,
ngừng làm việc, đứng chống tay trên cán cuốc mà thị tịch ngay tại đồng ruộng.
Bà mẹ thấy thế, cũng tự ẩn mình biệt dạng.
Quý vị hãy xem, bốn người trong gia
đình, đều có thần thông diệu dụng như thế. Họ cũng là cư sĩ, nhưng dụng công
rất thâm cao. Hiện tại, từ trong cư sĩ cho đến các tỳ kheo và tỳ kheo ny, những
vị đồng như Hư Vân tôi, khó lòng mà tìm được những bậc nhân tài như thế. Thật
là xấu hổ. Quý vị hãy cố gắng nỗ lực tinh tấn!
7/ Ngày thứ bảy, (28/2)
Chúc mừng quý vị! Công đức tu hành
đến nay đã hoàn mãn. Chiếu theo quy củ của nhà thiền, những vị đã chứng ngộ, phải
bước vào thiền đường để được khảo hạch, như những cuộc khảo thí ở kinh đô. Hôm
nay là ngày tuyên bố thí sinh trúng tuyển. Chúng ta phải nên chúc mừng. Hòa
Thượng trụ trì thật là từ bi, quyết định rằng ngày mai sẽ tiếp tục đả thiền
thất, để cho quý vị có thể gia công tu hành được mau tăng tiến. Những vị tu
hành lâu năm, chắc đều biết rằng đây là nhân duyên thù thắng. Vì vậy, đừng để
thời gian trôi qua vô ích. Người phát tâm tu hành, phải biết thân người khó
được, sống chết là việc lớn. Phải nên biết rằng thân người khó được, Phật pháp
khó nghe, thiện tri thức khó gặp. Hôm nay, đích thân quý vị đã đến núi châu
báu, thì phải nên ra sức nỗ lực dụng công. Chớ trở về tay không.
Pháp trong tông môn, tôi đã giảng
qua. Từ lúc Thế Tôn cầm cành hoa dạy đại chúng, cho đến trải qua bao đời, đường
hướng tông môn, vẫn được truyền mãi đến ngày nay. Tôn giả A Nan tuy là em Phật
và làm thị giả hầu cận đức Thế Tôn, nhưng vẫn chưa đại triệt đại ngộ. Sau khi
Phật nhập niết bàn, chư thánh tăng A La Hán không cho ngài A Nan tham gia hội
kết tập đại tạng kinh điển. Tôn giả Ca Diếp bảo:
- Ngài chưa đắc được tâm ấn của đức
Thế tôn. Thỉnh Ngài ra ngoài xô ngã cột trụ.
Nghe thế, tôn giả A Nan liền đại
ngộ. Ngài Ca Diếp phó chúc, truyền tâm ấn Như Lai cho ngài A Nan. Như thế, ngài
A Nan là vị tổ thứ hai ở Ấn Độ. Đời đời tương truyền y bát. Sau đời các tổ Mã
Minh, Long Thọ, có lão nhân Huệ Văn ở Thiên Thai vào thời Bắc Tề (550-78), nhân
xem luận Trung Quán, phát minh tâm địa, nên lập ra tông Thiên Thai. Khi đó,
tông môn được hưng thịnh khắp nơi. Sau này, khi tông Thiên Thai bị suy vi, có
quốc sư Đức Thiều qua Cao Ly sao chép luận giải của ngài Trí Giả, rồi trở về
xiển hưng chấn chỉnh lại tông phong. Ngài Đạt Ma là vị tổ Ấn Độ thứ hai mươi
tám truyền pháp sang Đông Độ, tức là sơ tổ Trung Hoa. Từ ngài Đạt Ma truyền đến
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn thì đuốc tâm khai sáng khắp nơi. dưới Lục Tổ Huệ Năng có bốn
mươi ba người khai ngộ như tổ Hành Tư và tổ Hoài Nhượng. Đến đời Mã Tổ, lại có
thêm tám mươi ba vị thiện tri thức. Lúc đó chánh pháp hưng thịnh mạnh mẽ. Quốc
vương, đại quan đều cung kính tôn trọng.
Tuy đức Như Lai thuyết pháp rất
nhiều, mà giáo chỉ tông môn thù thắng hơn hết. Pháp môn niệm Phật cũng do tổ Mã
Minh và tổ Long Thọ tán dương. Kế ngài Huệ Viễn, có thiền sư Vĩnh Minh làm tổ
thứ sáu của tông Tịnh Độ. Sau này, có rất nhiều vị thiền sư trong tông môn
hoằng dương tông Tịnh Độ.
Pháp Mật Tông phát triển từ đời
thiền sư Nhất Hạnh. Sau đó truyền sang Nhật Bổn. Ở Trung Hoa, từ đó trở đi
không người thừa kế.
Tông Duy Thức do ngài Huyền Trang
đề xướng, chẳng bao lâu cũng diệt mất.
Đơn độc, chỉ có tông môn là được
truyền thừa lâu dài nhất. Thiên thần quy y, rồng hổ bái phục.
Trong chúng hội tiên nhân có Lữ Động Tân, biệu hiệu Thống Dương, người Kinh
Châu. Vào đời Đường, ông lên kinh đô thi rớt ba lần, nên không muốn về nhà. Lúc
đi ngang qua một quán rượu ở Trường An, gặp Chung Ly Quyền, dạy cho phép trường
sanh bất tử. Lữ Đồng Tân y theo đó tu hành. Sau này, phi hành tự tại, đi khắp
thiên hạ. Ngày nọ, ông đến chùa Hải Hội ở Lô Sơn, bay lên lầu chuông, đề bốn
câu thơ:
"Một ngày an nhàn, thân tự tại
Sáu căn hòa hợp, báo bình an
Vật quý đơn điền, sao vấn đạo
Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền".
Khi đi ngang qua núi Hoàng Long,
lúc trông thấy tướng mây ngũ sắc như cái dù, ông nghi rằng trong chùa có bậc dị
nhân, nên bước vào, lại gặp lúc ngài Hoàng Long đang ngồi tòa giảng kinh đánh
trống pháp vi diệu. Ông theo đại chúng vào pháp đường nghe pháp. Ngài Hoàng
Long nói:
- Hôm nay có người đến trộm pháp.
Lão tăng sẽ không thuyết giảng.
Lữ Đồng Tân liền bước ra đảnh lễ,
thưa:
- Xin thỉnh Hòa Thượng giải thích
cho nghĩa của câu: "Trong một hạt gạo chứa đầy thế giới. Núi sông ngòi rạch
đều chảy vào chiếc nồi nhỏ".
Ngài Hoàng Long nạt:
- Con quỶ giữ tử thi.
Lữ Đồng Tân bảo:
- Nhưng trong bụng có chứa thuốc
trường sanh.
- Sống cho tới tám muôn bốn ngàn
kiếp, vẫn chỉ lạc vào không vọng vô ích.
Bấy giờ, vì quên mất công phu
"Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền", Lữ Đồng Tân tức giận dữ dội, vung
kiếm đâm thẳng vào ngài Hoàng Long. Ngài Hoàng Long chỉ tay vào kiếm, kiếm tự
rơi xuống đất, không thể nhặt lên. Lữ Đồng Tân bèn quỳ xuống xin sám hối, thỉnh
cầu Phật pháp. Ngài Hoàng Long nói:
- Để câu "núi sông ngòi rạch
chảy vào chiếc nồi nhỏ" qua một bên, hãy trả lời cho Ta câu "trong
hạt gạo, chứa đầy cả thế giới", là gì?
Lữ Đồng Tân nghe lời này, liền khế
hợp huyền chỉ, nên viết kệ sám hối:
"Quăng đi bụng rỗng đàn cầm
Nay chẳng giữ vàng trong ngân
Vừa khi gặp được Hoàng Long
Mới biết xưa lầm dụng tâm".
Đây là câu chuyện tiên nhân quy y
Tam Bảo, cầu mong làm hộ pháp ở chốn già lam. Đạo giáo trong tay của Lữ Đồng
Tân khi ấy rất hưng thạnh. Ông là tổ thứ năm của Đạo giáo ở miền Bắc. Chân nhân
Tử Dương cũng do xem Tổ Anh Tập mà rõ nguồn tâm, làm tổ thứ năm của Đạo giáo ở
miền Nam. Thế nên, nhờ Phật giáo mà Đạo giáo được hưng thịnh trở lại. Khổng Tử
truyền đạo đến Mạnh Tử thì thất truyền. Đến đời Tống, tiên sinh Châu Liêm Khê
do từ trong tông môn mà phát minh tâm địa. Trình Tử, Trang Tử, Chu Tử v.v...,
cũng từ Phật pháp mà ra. Thế nên, tông môn trợ lực cho Đạo Nho rất nhiều. Hiện
nay, có lắm kẻ khinh khi tông môn, thậm chí lại hủy báng. Đó là muốn gieo
nghiệp tội vô gián. Chúng ta hôm nay có duyên lành, gặp pháp hội thù thắng, phải
nên vui mừng, phátnguyện rộng lớn. Người người làm nơi nương tựa quy y cho trời
rồng, khiến chánh pháp mãi hưng thịnh. Vì vậy, tham thiền học đạo, không phải
là trò chơi trẻ con. Hãy nên tinh tấn dụng công!
XXI. Thiền thất khai thị lần thứ
hai
1/ Ngày thứ nhất, (29/2).
Hư Vân tôi đến chùa này chỉ làm rộn
thêm thôi. May nhờ quý hòa thượng cùng quý vị ban thủ ân cần ưu đãi; tôi thật
rất tri ân. Hôm nay, quý Ngài lại yêu cầu tôi ra làm pháp chủ nữa. Danh này tôi
thật không dám nhận. Nơi đây, lão pháp sư Ứng Từ là vị tuổi cao lạp lớn. Đáng
lẽ đại chúng phải theo sự chỉ dạy của Ngài mới thật hợp lý. Đồng thời, trong
chùa có rất nhiều vị pháp sư, đều là các bậc cao tăng thạc đức. Tôi chỉ là loài
bọt bèo trên nước, thật rất vô dụng. Ngày nay, tuổi tác càng cao, thì khách khí
càng nặng nề.
Pháp thế gian cũng không luận là
tuổi nhiều hay ít. Xưa kia, trong những lần thi khảo hạch tại kinh đô, không kể
tuổi tác lớn nhỏ, mọi người phải tôn kính và gọi vị chủ khảo là thầy. Trong đạo
Phật, lại càng không được tính toán tuổi tác. Điển hình, Bồ Tát Văn Thù đã
chứng quả vị Phật trong đời quá khứ, cũng từng dạy dỗ mười sáu vị thái tử. Phật
A Di Đà là vị thái tử thứ nhất. Phật Thích Ca cũng là đệ tử của Ngài. Đến khi
Phật Thích Ca thành Phật, Bồ Tát Văn Thù lại xuống phụ trợ. Thế nên, đạo Phật
rất bình đẳng, không có cao thấp. Qua việc này, tôi muốn nhắc nhở quý vị rằng
chớ nên hiểu lầm về tuổi tác.
Lúc bàn về việc tham thiền học đạo,
chúng ta phải tôn kính quy chế pháp thức. Hòa thượng trụ trì phát khởi đạo tâm,
giảng kinh đả thất, hoằng dương Phật pháp, thật là nhân duyên thù thắng hy hữu
khó được. Quý vị, ai ai cũng không quản mưa gió, hay sợ đường xa mệt nhọc, mà
tự nguyện đến đây, tham gia thiền thất. Điều này chứng minh rằng mọi người cùng
có đạo tâm, thích tịch tĩnh chán phiền não.
Tôi và quý vị xưa nay vốn đồng một
tâm. Chỉ vì mê ngộ cách ngăn, nên tất cả chúng sanh ngày đêm bận rộn, không
phút rảnh rang. Suy nghĩ cặn kẽ, thật là những việc vô ích. Ở thế gian, có người
ngày đêm bôn ba, nghĩ tưởng ngu si, thích ăn ngon mặc đẹp, ca múa hát xướng. Họ
lại mong con cháu được phú quý vinh hoa đời đời. Khi quỶ vô thường đến, họ vẫn
còn lo giữ vợ con tài sản. Những người như thế, thật quá si mê. Lại có người,
tuy biết chút ít về lý nhân quả thiện ác, thích tạo công lập đức, muốn cúng
dường trai tăng, đắp tô tượng Phật, sửa chữa chùa chiền, cùng tạo những nhân
hữu lậu, hầu mong cầu phước báo đời sau, nhưng lại không hiểu sự quý báo cao
siêu của công đức vô lậu, nên không chịu tu hành. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói:
"Nếu có người ngồi thiền trong một khoảnh khắc, thì công đức nhiều hơn xây
hằng sa bảo tháp".
Ngồi thiền khiến thân tâm an lạc,
đưa mình trở về tự tánh trong sáng tròn đầy, và có thể giúp mình thoát cảnh
trần lao khổ nhọc, cùng cắt đứt dòng sanh tử luân hồi. Trong một khoảnh khắc,
nếu luôn hồi quang phản chiếu khiến thân tâm được thanh tịnh, tuy chưa ngộ đạo
nhưng đã trồng nhân lành trở về Phật tánh, tức sẽ có ngày được thành tựu. Kế
đến, công phu nếu đắc lực, trong một sát na có thể thành Phật. Trong kinh Lăng
Nghiêm, tôn giả A Nan bạch Phật:
- Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân.
Tức là không cần phải trải qua ba A
Tăng Kỳ kiếp mà vẫn đắc được pháp thân.
Song, chúng ta trôi lăn trong trần
lao, chìm trong năm món dục lạc, cầu mong thọ dụng phước báo, lúc được lúc mất,
nên thường khởi tâm vui buồn giận tức. Nay đến thiền đường, cùng nhau sống
trong yên lặng tịch tĩnh, cùng được thấy những việc chưa từng thấy, được nghe
những việc chưa từng nghe, và sáu căn thu nhiếp vào trong, như các căn của rùa,
nên dẫu có cảnh giới thuận nghịch gì cũng không giao động. Đấy là tu pháp vô
vi, cũng là pháp vô lậu. Nếu lấy vàng bạc và bảy loại châu báu để xây cất bảo
tháp nhiều như số cát sông Hằng, thì vẫn không bằng công đức ngồi thiền tĩnh
tọa trong một giây phút.
Ngày nay, chúng ta phải y theo pháp
tối thượng thừa đã tu đã chứng của chư Phật và chư Bồ Tát. Pháp môn hiện tại là
phải hiểu rõ bổn tâm diệu giác, tức là thấy tánh thành Phật (kiến tánh thành
Phật). Nếu chẳng rõ tâm địa tu hành như thế nào thì không thể thành Phật được.
Nếu muốn hiểu rõ tâm địa thì đầu tiên phải hành theo thiện đạo, tức tu theo con
đường lành. Từ sáng đến tối, các việc ác chớ làm, phải phụng hành các việc
thiện, khiến phước đức được tăng trưởng.
Lại nữa, trong một khoảnh khắc, vừa
đề khởi câu thoại đầu, nếu một niệm không sanh, thì lập tức thành Phật. Quý vị phải
tận dụng thời gian. Chớ dụng tâm tán loạn. Cố gắng đề khởi thoại đầu cho hay.
3/ Ngày thứ ba, (3/2).
Hôm nay là ngày thứ ba của thiền
thất thứ hai. Người dụng công thuần thục, trong động và tịnh đều có phần đắc
dụng. Sao lại để tâm phân biệt thiền thất thứ nhất thứ hai hoặc hai ngày, ba
ngày!
Người sơ phát tâm phải cố gắng nỗ
lực tinh tấn, chớ nên để tâm ngu mê ám độn, làm uổng phí thời giờ. Tôi sẽ thêm
một ví dụ cho quý vị mới phát tâm Bồ Đề nghe. Hy vọng, quý vị hãy lắng lòng chú
tâm.
Trong thiền đường ở các nơi, thường
thờ một vị Bồ Tát Thánh Tăng, vốn là anh em họ với Phật Thích Ca, tức là tôn
giả Kiều Trần Như. Khi đấng Thế Tôn vừa xuất gia, vua Tịnh Phạn phái ba vị
thuộc hệ tộc bên cha và hai vị thuộc hệ tộc bên mẹ, đến núi Tuyết Sơn trợ giúp.
Tôn giả Kiều Trần Như là một trong hai người thuộc hệ tộc bên mẹ của Phật. Sau
khi thành đạo, đấng Thế Tôn bèn đến vườn Lộc Uyển, thuyết pháp Bốn Thánh Đế.
Tôn Giả là vị ngộ đạo đầu tiên hết. Đồng thời, Tôn Giả cũng là vị đệ tử xuất
gia đầu tiên trong các vị đại đệ tử của Phật. Do đó, chúng ta gọi Ngài là vị
Thánh Tăng, hay Tăng Thủ tức vị tăng đầu tiên trong giáo đoàn. Phương pháp tu
hành của Tôn Giả, kinh Lăng Nghiêm nói rất rõ ràng. Trong kinh này, Phật bảo:
- Khi Ta vừa thành đạo, nơi vườn Lộc Uyển, vì năm ông A Nhã Kiều Trần Như, cùng
bốn chúng, mà bảo rằng do khách trần phiền não làm mê mờ, nên chúng sanh không
thể chứng được quả Bồ Đề hay quả vị A La Hán. Lúc ấy, các ông do nhân duyên gì
mà được khai ngộ, chứng quả thánh?
Nơi đây, Phật nói rõ nguyên nhân
chúng sanh chưa đắc được đạo Bồ Đề cùng quả A La Hán. Ngài lại hỏi các vị đại đệ tử trong pháp hội Lăng Nghiêm,
nhờ dụng công, tu hành pháp môn gì mà chứng được quả vị Thánh? Đương thời, đơn
độc chỉ có tôn giả Kiều Trần Như là đã liễu giải được pháp tu đó, nên Tôn Giả
từ chỗ ngồi, đứng dậy bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Con nay là
trưởng lão trong đại chúng, độc đắc giải danh, tức nhân liễu ngộ được hai chữ
khách trần mà chứng quả.
Nói xong, Tôn Giả lại giải thích:
- Bạch đức Thế Tôn! Ví như hành
khách vào lúc ghé ngang quán trọ, hoặc ăn hoặc ngủ nghỉ qua đêm. Ăn ngủ xong,
liền mang hành lý đi tiếp, không màng dừng lại. Nếu thật là chủ nhân thì không
muốn đi. Vì vậy, con suy nghĩ như vầy: "Không ở là hành khách, mà ở lại là
chủ". Lại nữa, trên nền trời xanh, khi mặt trời hiện ra, ánh sáng chiếu
tỏa vào các lổ hổng trong nhà, thì thấy trong hư không có tướng của bụi trần.
Bụi trần bổn chất dao động, còn hư không thì an nhiên bất động. Con lại suy
nghĩ: "Vắng lặng gọi là hư không. Dao động gọi là khách trần, bụi bặm, và
cũng gọi là hành khách".
Tôn Giả giải thích rõ hai chữ khách
và chủ. Đấy là lấy ví dụ để dạy cho chúng ta phương pháp tu hành, tức bảo rằng
chân tâm của chúng ta là chủ nhân, vốn không dao động. Vọng tưởng vốn dao động,
tức là khách. Vọng tưởng ví như bụi bặm, rất vi tế nhỏ nhít. Bụi bặm bay trong
hư không. Khi có ánh nắng mặt trời chiếu qua cửa sổ hay lổ hổng thì mới thấy
được chúng. Bình thường, khi tâm động đậy vọng tưởng khởi lên, chúng ta rất khó
biết. Đến lúc ngồi tĩnh tọa tu hành dụng công thì mới thấy rõ mình có quá nhiều
tạp niệm, khó mà hàng phục đoạn trừ được chúng. Trong lúc vọng tưởng dấy lên,
nếu công phu của mình không đắc lực, thì không thể tự làm chủ, nên không thể
ngộ đạo, cứ mãi lăn lộn trong biển sanh tử. Đời nay tên Trương. Đời sau tên Lý.
Như hành khách ngủ tạm nơi quán trọ, chẳng thường dừng chân lâu dài. Song, chân
tâm của chúng ta không phải như thế. Nó vốn không đến không đi, không sanh
không diệt, thường trụ bất động, luôn làm chủ nhân. Ông chủ ví như hư không,
chứa bao bụi bặm bay nhảy dao động. Tựu chung, hư không là tịch nhiên bất động,
cũng như chủ nhân của quán trọ, mãi mãi ở lại, không đi nơi khác.
Giảng về danh tướng, trần nghĩa là
trần sa cát bụi, tức phiền não. Khi đạt đến quả vị thánh Bồ Tát, thì mới cắt
đứt được. Vọng tức là vọng hoặc. Hoặc có tám mươi tám loại kiến hoặc. Tư hoặc
có tám mươi mốt phẩm. Kiến hoặc do năm loại độn sử tạo ra. Người tu hành, đầu
tiên phải cắt đứt kiến hoặc thì mới chứng sơ quả Tu Đà Hoàn. Song, bước đường
công phu này rất là gian nan. Đoạn trừ kiến hoặc như lội ngược dòng bốn mươi
dặm. Vì vậy, chúng ta phải dụng công mạnh mẽ thâm sâu. Tư hoặc đoạn dứt thì mới
chứng quả A La Hán. Cách dụng công này, thuộc về tiệm thứ, tức tu từ từ.
Hiện tại, chúng ta chỉ cần khởi câu
thoại đầu linh linh bất muội (rõ ràng thường biết). Vừa vung đao lên, kiến hoặc
hay tư hoặc liền bị chặt đứt. Lúc ấy, trời xanh không dính chút mây hồng. Vầng
dương lơ lững trên hư không. Ánh sáng chân tâm tự nhiên hiển lộ.
Tôn giả Kiều Trần Như đã ngộ được
đạo lý, và nhận rõ ông chủ thật của mình.
Do đó, bước đầu tiên dụng công của
chúng ta là phải nhận rõ ra khách trần. Khách trần là động. Chủ nhân thì bất
động. Nếu không nhận ra khách chủ thì không thể biết chỗ dụng công, chỉ y theo
thói quen xưa mà khởi tâm ngu si, khiến uổng phí thời giờ.
Hy vọng mọi người lưu tâm tham
khán!
4/ Ngày thứ tư, (3/3).
"Phật pháp cao siêu rất nhiệm
mầu. Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu".
Trở lại chùa Ngọc Phật đả thiền
thất, thật là nhân duyên thù thắng. Các vị cư sĩ nam nữ khắp nơi đến tham gia,
trồng nhân chân chánh thành Phật. Thật là điều hy hữu khó được.
Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phật
nói:
- Nếu người tâm tán loạn, đang khi
ở trong tháp miếu, xưng 'Nam Mô Phật' một lần, thì đều thành Phật đạo.
Người người trên thế gian, sống
trong vài thập niên, không biết tỉnh giác, chỉ để ngày tháng trôi qua vô ích.
Lúc còn sống, nếu có tiền thì xài hoang phí trong rượu chè sắc dục. Kẻ không
tiền thì bị miếng cơm manh áo hành hạ, khiến phải bôn ba cực nhọc làm lụng khổ
sở vô ngần, hiếm khi được an nhàn tự tại. Song, những người này do nhờ đời quá
khứ đã trồng căn lành, nếu có một lần nào đến chùa lễ Phật, thấy cảnh trang
nghiêm thanh tịnh, khiến sanh tâm vui vẻ, hoặc thấy tượng Phật tượng Bồ Tát bèn
tùy hỶ xưng niệm danh hiệu Phật, hoặc do thấy cảnh chùa thanh tịnh liền khởi
tâm cảm kích, xưng tán hồng danh Như Lai kiết tường hy hữu, thì sẽ mau chóng
thành Phật đạo.
Bình thường, mắt chúng ta ngắm
trăng hoa gió tuyết, tai nghe ca ngâm hát xướng, miệng tham trân châu mỸ vị,
tức là tư tưởng bị nhiễm ô. Tư tưởng bị nhiễm ô tức là tâm tán loạn, tâm sanh
tử, tâm không vọng. Ngày nay, đến chùa chiền xưng một danh hiệu Phật, đó là tâm
giác ngộ và tâm thanh tịnh, cùng là gieo hạt giống Bồ Đề, và sẽ được rốt ráo
thành Phật.
Chữ Phật, tiếng Phạn gọi là Phật
Đà. Tiếng Tàu gọi là Giác giả. Giác giả tức là không ngu mê. Tự tánh thanh tịnh
tức là tâm giác ngộ.
Hôm nay, chúng ta không vì danh lợi
mà đến, chỉ do lực của tâm giác ngộ thúc đẩy. Song, có nhiều người khi nghe đến
danh từ đả thất thì sanh tâm sợ sệt mà chẳng hề biết ý nghĩa là gì, chỉ dùng
tâm tò mò để đến xem nơi nhộn nhịp, nên không phải là người phát tâm tu hành
bậc thượng.
Nay đã đến đây, như người leo lên núi châu báu, đừng mang tay không về. Phải
phát tâm vô thượng, ngồi cho được một cây hương, trồng nhân chân chánh thành
Phật, thì tương lai ai ai cũng đều thành Phật.
Xưa kia, đệ tử Phật là Tu Bạt Đà
La, vốn cô độc bần cùng, không nơi nương tựa, tâm tư thường ưu sầu phiền muộn,
nên muốn theo Phật xuất gia. Ngày nọ, ông đến nơi đấng Thế Tôn đang ở, gặp lúc
Ngài vừa mới ra ngoài. Các đại đệ tử A La Hán quán sát nhân duyên trong tám
mươi ngàn kiếp, thấy ông chưa từng gieo trồng căn lành, nên không dám thu nhận,
mà bảo hãy trở về nhà. Lúc đó, tâm tư ông lại thêm ưu sầu buồn bực cùng cực, tự
trách nghiệp chướng nặng nề, nên đi ra ngoài thành, định đập đầu vào vách thành
tự vẫn. Nào ngờ đâu, vào lúc ấy đức Thế Tôn tiến đến, hỏi rõ nguyên nhân. Ông thuật lại tường tận. Phật
liền thâu nhận ông làm đồ đệ. Trở về chùa, trong bảy ngày tu tập, ông chứng
được quả A La Hán. Các đại đệ tử không biết rõ chuyện, nên hỏi han. Phật đáp:
- Các ông chỉ biết việc trong vòng
tám mươi ngàn kiếp trở lại thôi. Hơn tám mươi ngàn kiếp thuở xưa, ông Tu Bạt Đà
La đã từng trồng căn lành. Bấy giờ, ông cũng rất nghèo khổ, thường vào rừng đốn
củi sinh sống. Ngày nọ, đang lúc lượm củi, ông gặp hổ trên núi, không biết chạy
trốn nơi đâu, bèn leo lên cây lánh nạn. Hổ thấy ông leo lên cây, liền đi vòng
quanh, nhặm cắn gốc cây. Khi cây gần ngã, ông run sợ vô cùng vì không ai tới
cứu. Lúc đó, ông chợt nghĩ đến chư Phật đại giác, đầy đủ tâm lực từ bi, luôn
cứu hộ chúng sanh khổ não, nên xưng: "Nam mô Phật! Xin Ngài thương xót,
mau đến cứu con!"
Hổ nghe tiếng "Nam Mô
Phật" nên liền bỏ đi, chưa hại gì được ông. Do trồng nhân lành thành Phật
chân chánh, nên nay đã thành thục, chứng được đạo quả.
Các đại đệ tử nghe xong liền hiểu
rõ, tâm rất vui mừng, tán thán việc chưa từng có.
Chúng ta hôm nay gặp được duyên
lành thù thắng, đến đây ngồi thiền tĩnh tọa vài cây nhang, tức vun bồi nghiệp
thiện nhiều hơn ông Tu Bạt Đà La rồi. Do đó, trăm vạn phần chớ cho là trò chơi
trẻ nít. Nếu vì nhộn nhịp mà đến thì thật phí uổng cơ duyên tu hành.
5/ Ngày thứ năm, (3/4).
Người có tín tâm thâm sâu đầy đủ,
nơi thiền đường luôn nỗ lực dụng công. Chư thượng tọa chuyên môn tham thiền thì
đương nhiên công phu thuần thục. Nhưng khi đã thuần thục rồi, phải biết dụng
công tương ưng, xoay về cội nguồn, cho đến cùng nguyên triệt để, sự lý viên
dung, động tịnh không ngại, chớ ngồi chết lì ra, để lạc vào trầm không thủ
tịch, hay đắm thích cảnh giới tịch tĩnh. Nếu tham đắm cảnh giới tịch tĩnh,
không biết trợ công hỗ tương, thì như cá bơi trong nước ứ đọng, không hy vọng
nhảy ra cửa của loài rồng, và là cá nằm trong băng giá, thật rất vô dụng.
Người sơ phát tâm dụng công tu hành
phải nhớ nỗi thống khổ của sanh tử, mà khởi tâm hổ thẹn và xả bỏ muôn duyên,
thì khi tu trì mới mong có chút định lực. Nếu không thể xả bỏ thân tâm thì sanh
tử quyết định không thể cắt đứt.
Từ vô thủy đến nay, chúng ta mê lầm
trong thất tình lục dục. Hiện tại, từ sáng đến tối chúng ta mãi lẫn quẩn trong
âm thanh sắc tướng, không biết chân tâm thường trụ, nên phải trầm luân lặn hụp
trong biển khổ. Ngày nay, chúng ta đều biết rõ mọi việc trên thế gian đều là
khổ não, nên phải tận tình xả bỏ hết tâm vọng tưởng, quyết định tu hành thành
Phật.
6/ Ngày thứ sáu, (3/5).
Lần tham gia đả thất này, theo tôi
nhận thấy thì nam nữ sơ phát tâm chiếm đa số, nên quy củ phép tắc đều không
thông hiểu. Vì vậy, mỗi động tác đi đứng nằm ngồi đều làm phiền người khác.
Song, Ngài trụ trì rất từ bi, giúp đỡ chúng ta mau thành tựu đạo nghiệp. Quý
thầy Ban Thủ cũng phát đạo tâm vô thượng, lãnh đạo dẫn dắt, khiến chúng ta tu
trì đúng như pháp. Đấy là cơ hội khó gặp trong muôn kiếp. Chúng ta phải dõng
mãnh tinh tấn tu hành, trong tâm lẫn ngoài thân.
Bên trong, phải luôn đề khởi câu
thoại đầu "Ai đang niệm Phật", hay thường niệm câu "A Di Đà
Phật", chớ khởi tâm tạp loạn, tham lam sân hận si mê, để pháp tánh chân
như được hiển lộ.
Bên ngoài, phải giữ giới không giết
hại, và cố gắng phóng sanh; đem mười việc ác chuyển thành mười việc lành. Chớ
ăn thịt uống rượu, say sưa từ sáng đến tối, tạo bao nghiệp tội. Nên nhớ rằng
hạt giống Phật chỉ khởi lên khi duyên lành đầy đủ. Nghiệp ác nếu tạo quá nhiều
thì nhất định sẽ đọa địa ngục. Nếu vun bồi nhiều nghiệp lành thì phước lợi sẽ
tự đến. Chư cổ đức thường dạy:
- Các việc ác chớ làm. Hãy làm tất
cả việc thiện.
Nếu xem lại nhân duyên vua Lưu Ly
giết hại dòng họ Thích Ca thuở xưa, thì quý vị sẽ hiểu rõ hơn.
Gần đây, trên thế giới, nhân loại luôn bị thiên tai hoạn nạn. Nghiệp sát hại
nặng nề đều do quả báo xấu đã tạo thuở xưa. Chúng ta phải luôn khuyên người thế
tục nên giữ giới không sát hại, và cố gắng phóng sanh, cùng ăn chay niệm Phật.
Đó chính là chúng ta tự giúp mình tránh quả báo xấu trong nẻo luân hồi. Quý vị
hãy nên tin tưởng thực hành, trồng nhân lành thì sẽ thành tựu quả vị Phật.
7/ Ngày thứ bảy, (3/6).
"Đời phù du như mộng
Huyễn chất không bền chắc
Nếu không nương Phật từ
Làm sao siêu thăng được?"
Trong cuộc sống như huyễn như mộng,
chúng ta điên điên đảo đảo, không biết sự cao siêu của đạo Phật, không nghĩ đến
việc thoát ra khỏi sanh tử, chỉ thăng trầm trong nghiệp lành nghiệp ác, nên tùy
theo nghiệp lực mà cảm thọ quả báo. Người thế gian làm lành thì ít, mà tạo
nghiệp ác lại nhiều. Người giàu sang thì ít, còn người nghèo hèn lại quá đông.
Chúng sanh cứ trôi lăn trong sáu đường, chịu khổ sở muôn trùng. Có người sáng
sanh chiều chết, hoặc sống vài tuổi rồi chết, hoặc chết vì tuổi cao. Người người
đều không thể tự chủ được. Ngày nay nương nhờ oai lực từ bi của chư Phật, mới
biết được cách thức tu hành.
Chư Phật, chư Bồ Tát thường phát
những đại hạnh nguyện từ bi hỶ xả, cứu độ chúng ta, xuất ra khỏi biển khổ sanh
tử, đạt đến bờ giác.
Từ bi nghĩa là thấy tất cả chúng
sanh bị bao thống khổ, nên khởi tâm thương xót cứu hộ, khiến họ xa rời khổ
nhọc, đạt được an lạc.
HỶ xả tức là thấy chúng sanh tạo
bao công đức, hoặc phát khởi những tâm niệm lành, đều khen ngợi vui theo. đối với
tất cả mọi cầu nguyện của chúng sanh, chư Phật đều tùy theo tâm thành mà gia
hộ.
Lúc đức Thế Tôn còn tu hành tại
nhân địa, Ngài hành hạnh Bồ Tát xả đầu não xương tủy. Vì vậy Ngài thường bảo:
- Trong ba ngàn đại thiên thế giới,
không có hạt bụi nào mà không phải là nơi thân thể xương tủy của Ta thí xả.
Ngày nay, quý vị nên nỗ lực, giữ
chặt câu thoại đầu, đừng để thời gian trôi qua uổng phí.
8/ Giải thất, (3/7).
Chúc mừng quý vị đã tham gia hai
tuần thiền thất được viên mãn, công đức đầy đủ. Như vậy, chúng ta hãy cùng nhau
giải thất. Người xưa bảo:
- Vốn không có kiết thất hay giải
thất, chỉ tham khán thoại đầu đến khi nào khai ngộ.
Hôm nay, dầu quý vị đã ngộ hay chưa
khai ngộ, phải luôn tuân theo quy củ. Trong nửa tháng dụng công, không phân
biệt ngày đêm sáng tối, mà chỉ nhắm mục đích khai ngộ, nhằm trở thành nhân tài
cho Phật giáo. Nếu bị hôn trầm mê muội, để thời gian trôi qua vô ích, thì thật
sự bỏ dịp hiếm có. Ngày nay, đại lão hòa thượng trụ trì cùng quý thầy Ban Thủ thể
theo quy củ, kiểm nghiệm công phu tu hành của quý vị. Hy vọng đừng nói lời tạp
nhạp, chỉ nên chân thật đối đáp rõ ràng công phu kiến địa (thấy đất tâm) của
mình cho chư hòa thượng chứng minh. Cổ đức bảo:
- Tu hành trong ba đại kiếp. Ngộ
đạo chỉ trong sát na.
Công phu nếu đắc lực thì trong khảy
móng tay liền giác ngộ. Xưa kia, thiền sư Huệ Giác tại núi Lang Gia, có một nữ
đệ tử thường theo Ngài tham thiền. Ngài dạy cô tham quán câu: "Bỏ nó
đi".
Cô ta y theo lời dạy, hành trì không thối chuyển. Ngày nọ, nhà bị cháy, cô bảo:
- Bỏ nó đi.
Lần khác, khi có người chạy đến nhà
báo tin người con bị chết đuối, cô ta cũng bảo:
- Bỏ nó đi.
Muôn duyên đều xả bỏ, y theo lời
dạy mà tu hành. Vào hôm nọ, khi ông chồng đang đốt lò chiên bánh, cô bèn đổ dầu
vào chảo khiến vang tiếng "Xèo". Nghe tiếng đó, cô ta liền liễu đạo,
rồi bưng chảo dầu ăn đổ xuống đất, vỗ tay cười to. Người chồng tưởng cô điên,
nên mắng:
- Sao bà làm thế? Điên rồi à!
Cô ta nói:
- Bỏ nó đi.
Nói xong, cô ta bèn đến gặp thiền
sư Huệ Giác cầu chứng minh. Thiền sư Huệ Giác ấn chứng cho cô ta đã đạt quả
thánh.
Hôm nay, quý vị nếu ngộ được điểm
nào, hãy nên bước ra trình kệ cú xem!
(Một hồi lâu, chẳng có ai bước ra.
Ngài đi ra thiền đường. Kế đến, lão pháp sư Ứng Từ cùng vài vị tăng ra khảo
nghiệm thiền khách. Sau khi chỉ tịnh, Ngài trở vào thiền đường, chỉ giáo đại
chúng.)
Trong cảnh hồng trần loạn lạc, phố xá náo rộn bao phiền hà, ai lại có công phu
và tâm tư đến đây tĩnh tọa, tham quán thoại đầu? Chỉ có quý vị, người Thượng
Hải căn lành thâm hậu, mới làm được thôi. Nhờ Phật pháp hưng thịnh cùng nhân
duyên thù thắng, chúng ta mới gặp đại sự nhân duyên này.
Từ xưa, Phật giáo Trung Quốc đã có
các tông phái như Luật tông, Tịnh Độ tông, Mật tông v.v... Nhưng nếu xem xét kỸ
càng thì pháp của tông môn vuợt hơn hết. Trước kia tôi đã nói rồi. Tiếc rằng
gần đây Phật pháp suy vi, hiếm thấy nhân tài xuất hiện. Thuở trước, tôi đã từng
đi tham bái các nơi, thấy rõ việc tu hành ngày nay khác xa lúc xưa. Nói đến
đây, tôi rất xấu hổ. Nay nhờ lòng từ bi của ngài Trụ Trì và quý thầy trong
chùa, mời tôi ra trước. Quý vị nên biết, lão pháp sư Ứng Từ có đủ tài đối đáp.
Ngài là vị thiện tri thức, kiêm thông tông giáo, và chân chánh là bậc tiền bối.
Tôi bất tất chỉ ra phụ giúp Ngài thôi. Hiện tại, tôi không làm được ích lợi gì
hết. Cầu mong quý vị hãy tinh tấn tiến bước, đừng khởi tâm thối lui.
Tổ Quy Sơn bảo:
- Hận cho mình sanh nhằm thời tượng
pháp, cách xa đời thánh giáo, Phật pháp giảm dần, nhiều người giải đãi, làm
biếng. Song, tôi không ngại đưa ra cái nhìn thô thiển của mình cho những kẻ hậu
lai.
Ngài Quy Sơn Linh Hựu (618-906), người
Phước Kiến, thân cận thiền sư Bá Trượng, phát minh được tâm địa. Tư Mã Đầu Đà
tại Hồ Nam, thấy địa thế núi Quy Sơn vốn là linh địa, nơi xuất sanh ra một ngàn
năm trăm vị thiện tri thức. Khi đó, dưới tòa Bá Trượng, ngài Linh Hựu làm điển
tọa. Vừa thấy ngài Linh Hựu, Tư Mã Đầu Đà liền biết đây là chủ nhân của núi Quy
Sơn, nên thỉnh ngài Bá Trượng cho vời Linh Hựu qua núi Quy Sơn khai sáng. Ngài
Quy Sơn sống trong đời Đường, mà Phật pháp trong thời đó thuộc về cành lá của
đời tượng pháp. Tuy thế, ngài Linh Hựu lại tự than trách là mình sanh không
nhằm thời, khó mà thông hiểu Phật pháp. Tín tâm của chúng sanh ngày càng lui
sụt, không dám chịu đựng khổ nhọc để tu đạo, nên không thể nào có cơ hội chứng
quả vị Phật. Ngày nay, chúng ta sống cách xa đời ngài Quy Sơn cả một ngàn năm.
Không những đời tượng pháp đã hết, mà đời mạt pháp đã trải qua hơn chín trăm
năm. Người có căn lành ngày càng ít ỏi. Tuy tin Phật thì đông, nhưng kẻ chân
thật tu hành ngộ đạo lại quá ít.
So sánh sơ lược, người học Phật
hiện tại, có rất nhiều phương tiện. Vào thời Hàm Phong (1851-62), các chùa
chiền tự viện đều bị phá hoại. dưới miền xuôi Tam Giang, chỉ còn có chùa Thiên
Đồng là được bảo toàn. Đến năm Thái Bình Thiên Quốc (1850-64), các vị trưởng
lão từ núi Chung Nam xuống trùng hưng lại các tự viện. Khi đó, các ngài chỉ có
một bình bát và giỏ tre, chứ không có những vật lăng nhăng khác. Sau này, Phật
pháp dần dần hưng thịnh trở lại. Chư tăng bắt đầu mang đầy hành lý. Ngày nay,
chư tăng còn mang theo cặp táp, rương cáp, đủ thứ cả. đối với sự chân chánh
hành trì Phật pháp, một điểm nhỏ cũng không bàn tới.
Xưa kia, thiền sinh muốn đi tham
phương cầu đạo, phải lội bộ nhọc nhằn. Ngày nay, có xe lửa, xe hơi, tàu bè, máy
bay. Vì thế, chỉ lo hưởng phước, không muốn chịu khổ. Đa số đều phóng dật làm
biếng. Tuy các Phật học viện cũng tùy thời mà huấn luyện dạy dỗ tăng chúng,
khiến đoàn thể chư tăng ngày càng đông, nhưng đối với sự tu hành căn bản thì lơ
là, ít ai chịu xoay đầu nhìn lại. Ngày ngày, từ sáng đến tối chỉ cầu tri giải,
không cầu tu chứng, mà không biết rằng pháp tu chứng là chìa khóa, giải quyết
mọi vấn đề. Trong Chứng Đạo Ca, ngài Vĩnh Gia Huyền Giác bảo:
"Hãy bám gốc, chớ giữ ngọn
Như hạt lưu ly thanh tịnh chứa bảo nguyệt
Ôi! Thời mạt pháp, cõi đời ác trược
Chúng sanh phước kém, khó điều phục
Xa rời thánh giáo, tà kiến thâm trọng
Ma cường pháp nhược, nhiều oán hận
Nghe môn đốn giáo của Như Lai
Hận không diệt trừ đập nát
Làm tại tâm, họa tại thân
Chẳng nên gieo oán hờn cho kẻ khác
Nếu muốn không chiêu nghiệp vô gián
Chớ phỉ báng chánh pháp luân Như Lai
Tôi sớm tích tụ nhiều học vấn
Cũng từng thảo sớ tầm kinh luận
Phân biệt danh tướng không biết ngừng
Bị vây trong tính toán cát biển khơi
Liền bị Như Lai quở trách
Đếm trân bảo của người, có ích lợi gì".
Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác đến tham
vấn với Lục Tổ Huệ Năng liền đại triệt đại ngộ. Vì vậy, Lục Tổ ban cho Ngài
Vĩnh Gia pháp hiệu: "Nhất Túc Giác".
Các bậc cổ đức thường bảo tầm kinh
thảo luận chỉ giống như vào biển đếm cát. Pháp trong tông môn như bảo kiếm Kim
Cang, chém đến vật nào thì đứt đoạn vật đó. Vật gì đụng đến lưỡi kiếm đều bị
mất mạng. Thật vậy, tông môn là pháp môn tối thượng, mau chóng đạt thành Phật
quả.
Thiền sư Thân Tán vào lúc trẻ, thường
đi hành cước, đến thân cận tổ sư Bá Trượng, được khai ngộ. Khi trở về chùa,
thầy bổn sư hỏi:
- Con xa Ta, ra ngoài được sự
nghiệp gì?
Ngài thưa:
- Bạch Thầy! Không được sự nghiệp
gì hết!
Thầy bổn sư liền bảo Ngài theo hầu.
Ngày nọ, thầy bổn sư đi tắm, và bảo Ngài kỳ thân giùm. Ngài liền vỗ lưng thầy
bổn sư và nói:
- Điện Phật rất đẹp, nhưng Phật
không phải là Thánh.
Thầy bổn sư vẫn chưa lãnh hội, chỉ
xoay đầu lại nhìn. Ngài nói thêm:
- Phật tuy không phải là Thánh mà
thường phóng quang.
Ngày khác, lúc thầy bổn sư đang
ngồi dưới cửa sổ xem kinh, một con ong bay thẳng, đâm đầu vào cửa sổ giấy để
tìm lối ra. Ngài thấy thế nên nói:
- Cả thế giới rộng rãi như thế mà
không muốn bay ra. Đâm thủng giấy liền thoát bao kiếp lừa.
Ngài lại nói kệ:
"Chỗ trống không muốn ra
Đâm vào cửa thật ngu
Trăm năm chui vào đó
Khi nào mới thoát ra!"
Thầy bổn sư nghe thế liền mắng:
- Con ra ngoài hành cước, gặp ai,
học được gì, thấy điều chi, mà nói nhiều quá vậy?
Ngài thưa:
- Bạch Thầy! Từ khi ra đi, con qua
dự dưới hội của tổ Bá Trượng, được Ngài chỉ dẫn đến chỗ nghỉ ngơi. Vì nhớ Thầy
tuổi cao, nên con trở về báo đáp từ ân.
Thầy bổn sư nghe thế, nên bảo đại
chúng thiết lễ trai tăng, cung thỉnh Ngài lên tòa thuyết pháp. Ngài liền lên
tòa, tuyên nói tông phong Bá Trượng:
"Linh quang chiếu sáng
Thoát xa căn trần
Thể lộ chân thường
Không chấp văn tự
Tâm tánh vô nhiễm
Gốc tự nhiên thành
Xa rời vọng duyên
Liền như chư Phật".
Thầy bổn sư nghe thế, vui mừng bảo:
- Ta không ngờ già đến từng tuổi
này mà được nghe những lời thâm thúy cùng cực như vầy.
Do đó, thầy bổn sư liền giao chùa
cho Thân Tán và lễ Ngài làm thầy. Xin hãy nghiệm xem câu chuyện này. Sao mà dễ
dàng, tự tại quá!
Trải qua vài mươi ngày tham thiền,
tại sao chúng ta vẫn chưa ngộ đạo? Lý do là vì không dùng tâm kiên cố, dụng
công đạp đất, hoặc cho là trò chơi trẻ nít, hoặc nghĩ rằng ngồi tĩnh tọa dụng
công tham thiền trong thiền đường là đủ rồi. Không phải như thế! Người chân
thật dụng công, không phân biệt động tĩnh, nên ở nơi thiền đường hay phố xá náo
nhiệt, đều tu được cả.
Xưa kia, hòa thượng Đồ Tử đang trên
đường tìm thầy học đạo, đi ngang qua một khu chợ, đến quầy bán thịt. Lúc ấy, có
nhiều người đến mua thịt. Họ đều yêu cầu phải được thịt tươi. Ông đồ tể nóng
giận, phát cáu, chém một nhát dao xuống thớt, mắng:
- Miếng thịt nào không phải là thịt
tươi?
Hòa thượng Đồ Tử nghe thế, đột
nhiên khai ngộ. Chứng minh rằng người xưa, không phải chỉ ngồi trong thiền
đường mới dụng công.
Hôm nay trong quý vị, không ai bước
ra cho biết nhân duyên ngộ đạo. Thật có phải uổng phí thời gian lắm không?
Cung thỉnh lão pháp sư Ứng Từ và
chư đại hòa thượng, tiếp tục kiểm nghiệm đại chúng.
9/ Pháp ngữ giải thất.
(Ngài bước ra khỏi thiền đường. Lão
pháp sư Ứng Từ kiểm vấn từng người. Xong, lão pháp sư Ứng Từ bảo mọi người ngồi
xuống. Lúc đó, Ngài bước vào thiền đường. Khi mọi người tĩnh tọa, Ngài lại ban
lời chỉ giáo. Sau đó, đại chúng dùng trà, rồi đồng đứng dậy. Trong thiền đường,
Ngài ngồi trước Phật điện, dùng cây trúc vẽ một vòng tròn và nói kệ:
"Vừa kết thất, lại liền giải thất
Quên mất ngày nào là giải kết?
Nhất niệm vọng duyên cảnh bèn ngừng
Ma ha bát nhã ba la mật
Tâm cảnh tịch, thể dụng đều quy
Gốc tự sáng tròn, không ngày đêm
Sao phân nam bắc cùng đông tây
Muôn sự tùy duyên, quán tự tại
Chim hót hoa cười, trăng soi đáy
Bảo câu giải thất như thế nào?
Đánh chuông bản, bình bát vụt lên
Đế quán bát nhã ba la mật.
Giải thất.