33.
Mồng hai tháng sáu
Sau khi Phật diệt độ, pháp trụ thế
gian có ba giai đoạn: Chánh pháp một ngàn năm. Tượng pháp một ngàn năm. Mạt
pháp mười ngàn năm. Luận Thiện Kiến nói: "Vì cho người nữ xuất gia, chánh pháp
chỉ còn năm trăm năm. Do Thế Tôn chế tỳ kheo ny hành tám pháp cung kính, nên
chánh pháp lại trụ được ngàn năm".
Hỏi: Ngàn năm đã qua. Vậy chánh
pháp đã bị diệt hết chưa?
Đáp: Chưa diệt hết. Trong một ngàn
năm, tu đắc được quả Tam Đạt Trí. Ngàn năm sau, đắc được quả A La Hán, tức Vô
Tam Đạt Trí, tận trừ ái dục. Ngàn năm kế, đắc được A Na Hàm. Ngàn năm nữa, đắc
được Tư Đà Hàm. Ngàn năm cuối, đắc được Tu Đà Hoàn. Năm ngàn năm đầu, đắc được
đạo. Năm ngàn năm sau, tuy học mà không thể đắc được đạo. Sau mười ngàn năm,
tất cả kinh thư văn tự đều bị diệt hết, nhưng vẫn còn người cạo tóc đắp y ca
sa.
Ngài Quy Sơn nói:
- Hận cho mình sanh nhằm thời tượng
pháp, cách thánh giáo quá xa.
Ngài Quy Sơn sanh vào đời Đường,
cách Phật hơn một ngàn năm, tức thuộc thời tượng pháp. Tất cả sự việc đều biến
chuyển. Nước để lâu ngày khiến có trùng. Pháp giữ lâu ngày khiến sanh tệ hại.
Kinh Phó Pháp Tạng ghi: "Những
chúng sanh có duyên lành, tỳ kheo A Nan đều giáo hóa cho họ được giải thoát.
Cuối cùng, Ngài đến giữa rừng trúc, nghe tiếng một tỳ kheo tụng kinh Pháp Cú
đến đoạn "Người sống trăm năm, nếu không thấy hạc thủy lạo, thì không bằng
sống một ngày, mà đắc được đạo".
Ngài A Nan nghe thế, bèn than thở
thảm thương, và đến bảo tỳ kheo kia:
- Mắt sáng thế gian, sao diệt quá
sớm! Các việc ác và phiền não, sao mau khởi vậy? Từ đây, bội phản thánh giáo,
tự sanh vọng tưởng. Đây chẳng phải là lời Phật dạy, nên chớ hành theo... Ông
hãy lắng nghe cho kỸ, Ta sẽ đọc lại bài kệ của Phật dạy: "Người sống trăm tuổi,
nếu không hiểu pháp sanh diệt, chẳng bằng sống một ngày, mà đắc được đạo".
Sau này, tỳ kheo kia thuật lại lời
của ngài A Nan cho thầy của ông ta nghe. Thầy ông liền bảo:
- Lão già A Nan trí huệ cạn cợt,
nhiều lời sai lầm, không thể tin được. Cứ tụng theo câu kệ vừa rồi của Ta.
Khi trở lại nơi đó, ngài A Nan vẫn
nghe tỳ kheo kia tụng câu kệ lúc trước... Do không thấy ai có thể lãnh hội ý
mình, Ngài liền nhập tam muội, bảo:
- Lạ thay! Vô thường quá gấp, kiếp
hoại nổi hừng hực. Vô lượng chúng sanh nơi thế gian thường lang thang, trú trong
đêm dài tăm tối, đi trong đường hãi hùng; tà kiến hừng thịnh, pháp bất thiện
tăng trưởng; phỉ báng Như Lai, đoạn tuyệt thánh giáo; mãi nhập bùn lầy sông lớn
sanh tử, khai mở cửa ác thú, đóng bít đường trời người; nơi vô lượng kiếp, thọ
muôn ngàn khổ não. Hôm nay, Ta muốn nhập Niết Bàn !
Kinh Lăng Nghiêm thuyết: "Trong
thời đại mạt pháp, tà sư thuyết pháp nhiều như số cát sông Hằng. A Nan ông nên biết, đây là mười loại ma. Nơi đời mạt thế,
chúng xuất gia tu đạo, nhập vào giáo pháp Ta. Hoặc tự phụ khiến người lễ bái,
hoặc tự hiện hình quái lạ, hoặc tự bảo rằng đã chứng chánh biến tri, rồi tán
thán dâm dục, phá hoại luật nghi. Đầu tiên, các ác ma sư cùng ma đệ tử, dâm dâm
tương truyền. Tà tinh như thế, mê mị lòng người, gần chín lần sanh, hơn trăm
thế hệ, khiến người tu hành chân thật, bị mê hoặc, làm quyến thuộc của chúng.
Sau khi mạng chung, tất làm dân ma, mất chánh biến tri, đọa địa ngục vô
gián".
Trong kinh nói đến chín lần sanh,
và một trăm đời. Một lần sanh là một trăm năm. Mỗi thế hệ là ba mươi năm. Hiện
nay, Phật lịch là 2982, cũng là lúc ma vương trăm đời xuất hiện.
Phật diệt độ chẳng lâu, tỳ kheo kia
tụng lầm kệ Hạc Thủy Lạo, mà cho đó là kinh Pháp Cú. Ngày nay, người học Phật
lại lầm lạc càng nhiều. Hạc thủy lạo tức con hạc trắng. Người xem thấy chúng,
có biết ý nghĩa gì! Hiểu rõ pháp sanh diệt, khiến rời xa biển khổ. Sống một
trăm năm mà chẳng liễu giải, không bằng sống chỉ một ngày mà được liễu giải. Thế
nên, người có trí huệ, không luận bàn tuổi tác cao thấp. Người không trí huệ,
sống lâu trăm năm cũng vô ích.
Tà sư đời mạt thế, mỗi mỗi tự bảo
mình là thiện tri thức. Người đang tham thiền, nếu không nhận ra vàng hay đá,
liền bị sóng tà nhận chìm. Thấy cảnh mênh mông, liền tàn hoại rừng công đức. Lửa
tâm cháy phừng phực, đốt rụi hạt giống Bồ Đề. Người cầu đạo chân thật trong đời
mạt thế rất hiếm có. Ngài Quy Sơn nói:
- Đi xa phải chọn bạn hiền. Mắt tai
phải thường thanh tịnh. Lúc dừng phải chọn lựa bạn lành, thời thời tuy nghe
nhưng vẫn như không nghe... Sanh ta ra là cha mẹ. Ta thành công là nhờ bạn hữu.
Gần gũi bạn lành, như đi trong sương, tuy không ướt y nhưng dần dần sẽ thấm.
Khổng Tử cũng nói:
- Ba người đồng hành, chắc sẽ có
người làm thầy Ta. Bạn lành nên theo. Bạn xấu nên lánh xa.
Bạn tốt thì theo họ học. Kẻ có
nhiều tật xấu, thường không đoái hoài lo gì đến ai; nếu gần gũi họ, lâu ngày sẽ
bị thúi lây. Gần màu đỏ thì lấm màu đỏ. Gần màu đen thì lấm màu đen. Gần hương
thơm thì nhiễm hương thơm. Gần mùi thúi thì nhiễm mùi thúi. Lời thô tế ngữ của
bạn lành, nếu quy về đệ nhất nghĩa, thì phải nên thân cận. Người tu hành trong
đời mạt pháp, như bản lãnh của chúng ta đây, không thể sánh bằng thiên ma ngoại
đạo.
Kinh Lăng Nghiêm thuyết: "Sắc
ấm diệt tận rồi, thì từ trong thân người kia, xuất hiện côn trùng, thân thể nhỏ
nhít, nhưng không tổn hại đến thân. Lúc đó, đột nhiên mười phương hư không biến
ra màu sắc bảy báu, hoặc màu sắc trăm báu, và đồng thời hiện ra khắp nơi, mà
không ngăn ngại nhau. Đột nhiên vào giữa đêm, ngay trong am thất u ám, thấy muôn
loại vật. Thọ ấm diệt hết rồi, thì quán đến cảnh giới của mười loại thiền na,
gọi là năm mươi loại ấm ma. Mê mà không nhận thức, tự xưng là chứng quả thánh,
tức tạo tội đại vọng ngữ, sẽ bị đọa địa ngục vô gián".
Lão Tử nói:
- Trong đó có tinh.
Khổng Tử cũng nói:
- Không không như thế.
Tức là họ đã thấy rõ thức ấm. Đối
với chư A La Hán, năm ấm đã trừ tận, nên vượt ra khỏi ba cõi. Đối với chúng ta,
sắc ấm chưa tận, nên rất cách xa đạo.
Tôi rất xấu hổ vì nhiều năm ngu si
hơn quý vị, và chỉ có hư danh. Quý vị cho rằng tôi có rất nhiều sở trường, nên
xem tôi như bậc tổ sư. Thật rất khổ sở! Tôi chẳng giống như yêu ma quỶ quái
trong kinh Lăng Nghiêm hay chư đại Tổ Sư.
Mỗi lần giảng dạy tham thiền học
đạo, tôi thường nhắc nhở quý vị là phải tham tầm bậc minh nhãn thiện tri thức,
lại cũng phải có đôi tai thính, để khi nghe pháp, phân biệt được chánh tà. Kế
đến, dùng cái thấy cái nghe mà bỏ vào bao tử, để lúc tu đạo không đi lạc đường,
và không hành như những kẻ đang sống trong thị phi được mất, hầu mong không
phản bội bổn hoài của các vị thiện tri thức.
Hiện tại vốn là đời mạt pháp. Làm
sao tìm cầu thiện tri thức? Chỉ cần học thuộc lòng kinh Lăng Nghiêm, thì tu
hành mới có phần tương ưng, tiêu diệt tà duyên, khiến thân tâm nhập Phật tri kiến.
Từ sự thành tựu này, khiến không đi lạc đường. Toàn bộ kinh, từ đầu đến cuối
đều thuyết quan trọng nhất tại một chữ "Dâm". Kinh nói: "Nơi các
thế giới, nếu chúng sanh trong sáu đường, tâm chẳng khởi dâm dục, thì sẽ không
bị sanh tử tương tục lôi cuốn. Ông tu tam muội, đó là cội gốc xuất khỏi trần
lao. Tâm dâm dục nếu chưa trừ diệt, thì không thể thoát khỏi trần lao. Nếu kẻ
nhiều trí huệ, lại có thiền định hiện tiền, mà không đoạn tâm dâm dục, tất sẽ
đọa lạc ma đạo".
Xem kinh Lăng Nghiêm, nếu không
quay về tông thiền, thì chỉ như cỡi ngựa ngắm hoa, thật không lợi ích. Phải nên
đọc tụng thuộc làu, rồi có thể dùng lời văn sau để giải lời văn trước, và dùng
lời văn trước mà quán thông lời văn sau. Lời văn trước và sau, tương hỗ ứng
chiếu, thì nghĩa lý của toàn bộ kinh, sẽ hiện rõ ràng trước mắt. Y theo lời kinh
mà quán tưởng, thì sẽ đắc được thọ dụng.
Các vị tu hành xưa nay ngộ đạo do
từ kinh này rất nhiều. Thiền sư Tiên Nham An ở Ôn Châu nhân xem qua đoạn "trong
tri kiến mà còn lập thêm tri kiến, tức là gốc của vô minh. Trong cái tri kiến
mà không có tri kiến, tức đây là niết bàn" tức nghĩa là tri kiến vừa lập, bèn
là gốc vô minh. Nếu không lập tri kiến thì cảnh giới đó là Niết Bàn. Ngay nơi
đó, Tiên Nham An liền ngộ đạo. Người sau bảo thiền sư:
- Ngài đã phá câu kệ tụng rồi.
Ngài đáp:
- Đây chính là chỗ ngộ đạo của tôi!
Người đời gọi Ngài là "An Lăng
Nghiêm".
Hy vọng quý vị đồng tham học, vô
luận là già hay trẻ, phải thường đọc tụng kinh Lăng Nghiêm. Bộ kinh này là vị
thiện tri thức tùy thân của quý vị. Đọc tụng thuộc lòng bộ kinh này, tức là quý
vị thường được nghe đức Thế Tôn thuyết pháp, và làm bạn đồng học với ngài A
Nan.
34.
Mồng ba tháng sáu
Người xưa bảo:
- Chớ đợi đến già mới học đạo. Mộ
phần đầy cả thiếu niên!
Lúc đến tuổi già, bị trăm thứ bịnh
khổ. Tai không nghe được. Mắt không thấy rõ. Bốn cơ chi không còn sức lực. Ăn
không được, ngủ không yên, đi không nổi. Những nỗi khổ này, người trẻ chưa nếm
qua. Lúc trẻ, tôi cũng giống như quý vị, thấy các người già đến, đều không
thích. Nói chuyện, họ không nghe rõ. Nước mắt nước mũi chảy lê thê, nhìn trông
gớm ghê, nên rất sợ sống chung với họ. Hiện tại, tôi đã già nên biết cái khổ
của người già. Đối với người già, ngày này luôn khác với ngày nọ.
Từ khi có biến cố tại Vân Môn, thân
tôi ngày ngày đều thay đổi; cứ mãi nằm trên giường bịnh, bị bao khổ não bức
bách. Sáng tối nghĩ suy, đường lộ hoang mang, đạo nghiệp chưa thành, sanh tử
chưa đoạn; mở miệng chẳng ra lời, chắc phải bị đầu thai. "Muôn thuyền đẩy
không nổi, chỉ theo nghiệp mà thọ sanh".
Lúc còn trẻ không thì chịu tu, để
hôm nay đợi đến già mới ra nông nỗi này. Hôm nay, chúng ta có dung mạo tăng
tướng đàng hoàng, đều do kiếp xưa đã trồng căn lành, nên mới được báo thân đoan
trang, chớ nên làm hư hạt giống lành.
Động Sơn hỏi tăng:
- Việc khổ nhất trên thế gian là
gì?
Tăng đáp:
- Địa ngục khổ nhất.
- Chẳng phải! Nơi y phục kim tuyến
này, chưa biết được nguồn mối việc lớn, mới là khổ nhất!
Nếu sáng việc lớn, tức không còn
nhân địa ngục. Địa ngục chưa hẳn là khổ, vì chưa hiểu rõ tự tâm mới là khổ nhất.
Muốn hiểu được việc lớn, phải thường nỗ lực tinh tấn, chớ sao lãng khinh xuất,
lo lắng bận bịu mãi, khiến phí mất thời giờ. Ban ngày, ứng duyên gặp cảnh, phải
luôn làm chủ. Ban ngày làm chủ được thì trong mộng cũng tự chủ được. Trong mộng
tự chủ được thì lúc bịnh hoạn, cho đến lúc sắp mất cũng tự làm chủ được. Làm
chủ được vì bình thường tự chủ được chính mình. Tự chủ chính mình tức là dễ dàng
ngộ đạo, cắt đứt sanh tử. Chưa ngộ đạo thì sanh tử khó cắt đứt. Ngộ đạo không
khó, chỉ quan trọng là luôn khởi tâm thống thiết vì sanh tử, luôn hướng về đạo,
và đầy đủ tâm dài lâu, cùng tâm kiên cố, cho đến chết cũng chẳng thối chuyển.
Tuy chưa ngộ đạo, nhưng đời nay không thối chuyển, và đời sau sẽ lại nỗ lực
tinh tấn, thì có lý do gì không ngộ đạo?
Trong kinh Lăng Nghiêm, hai mươi
lăm vị thánh chứng được viên thông. Mỗi vị thánh, trải qua bao kiếp dài lâu trường
kỳ tu tập, nên mới thành tựu. Chúng ta vì không có tâm thống thiết về sự sanh
tử, nên không phát tâm dài lâu. Lúc bịnh thì mới nghĩ đến sự sanh tử. Lúc lành
bịnh thì đạo tâm lui sụt. Thế nên, kinh Lăng Nghiêm nói: "Phàm phu tu hành
như bị bịnh sốt rét cách ngày".
Khi bịnh thì nhớ đến đạo. Lành bịnh
thì quên mất đạo. Khởi vô minh như bị bịnh sốt rét. Vì vậy, phải nên nỗ lực
tinh tấn, sanh tâm sám hối, khởi tâm kiên cố, chớ nên chỉ tu hành trong vài
ngày rồi nghỉ ngơi. Tu hành phải thâm nhập vào một pháp môn, tức dùng pháp môn
đó làm chính, còn các pháp môn khác làm phụ. Mỗi người tu mỗi pháp môn. Chớ cùng
nhau phỉ báng khinh chê, xem thường Phật pháp. Muốn hưng thịnh Phật pháp, phải
thường khuyên nhủ tán thán giúp đỡ lẫn nhau. Hỗ tương phỉ báng tức là điềm Phật
pháp sắp bị hoại diệt.
Phật tử nếu chuyên tâm hướng về
đạo, nhớ nỗi thống khổ của sanh tử, thì ăn không cần no, mặc không cần ấm, ngủ
không cần đủ.
Xưa kia thừa tướng Bùi Hưu cho con
đi xuất gia. Người con vốn là hàn lâm học sĩ. Ông ta lạy tổ Quy Sơn làm thầy,
và được pháp danh là Pháp Hải. Lời giáo huấn của ngài Quy Sơn trong quyển Cảnh
Sách Châm, viết: "Y phục và thức ăn không dễ dàng mà có. Sao lại cầu y
phục nhu nhuyến và đồ ăn béo bổ? Chỉ ăn rau xanh cơm trắng bình thường. Tùy
thời khắc, mặc vải bố thô tầm thường. Người khác ngủ rồi mình mới đi ngủ. Tối
canh ba đến đầu canh năm, luôn hướng tâm đến điện Phật Thích Ca".
Ngài Quy Sơn bảo Pháp Hải mỗi ngày
phải gánh nước phục vụ đại chúng. Ngày nọ, vì gánh nước quá mệt, Pháp Hải tự
nhủ thầm:
- Các ông hòa thượng xin nước của
hàn lâm học sĩ gánh. Những giọt nước này, uống khó mà tiêu.
Pháp Hải trở về chùa. Ngài Quy Sơn
biết tâm niệm của đệ tử mình, nên hỏi:
- Hôm nay con nói những lời gì?
Pháp Hải thưa:
- Con đâu có nói gì!
Lần khác, Ngài bảo Pháp Hải:
- Lão tăng ngồi một lần, có thể
tiêu muôn ngàn ký gạo.
Vì vậy, đối với hàng xuất gia,
không màng quý vị sanh nhà phú quý giàu sang, một khi đã bước vào cửa nhà Phật
thì phải xả bỏ tất cả; luôn chuyên tâm hướng đạo, thì mới thật là con cháu có
bổn sắc thiền tông.
35. Ngày mười sáu tháng sáu
Phật thuyết đại tạng kinh, không
ngoài giảng giải hai chữ nhân quả. Phân tích kỸ càng, lời lẽ nhiều vô cùng tận.
Các tỳ kheo thà tự ăn thịt mình, chẳng nên lấy vật dụng của Tam Bảo làm vật y
bát ẩm thực của mình. Lúc xưa, tôi đi hóa duyên, tùy theo sự hoan hỶ bố thí của
người khác; tôi thường trừ nhiều bổ thiếu, dùng của thường trụ điên đảo. Ngày
nay, vọng làm vọng tạo, kiến lập pháp đường, dựng am tranh, sửa nhà cầu, lợp
chuồng trâu v.v... Tiền chi phí từ đâu có? Tôi không dám phan duyên, viết thơ
ra ngoài hóa duyên cầu cạnh. Vừa rồi, có vài người đại diện chùa, ra ngoài hóa
duyên, thiếc đồng ngói gạch, nhưng vẫn chưa đủ. Do đó, ông giám công lấy những
vật liệu từ những điện đường kế bên để dùng, nhưng tôi không cho, vì sợ phải
chịu quả báo ứng. Ngói gạch đang nung trong lò, dùng để sửa chữa chánh điện.
Nếu dùng vào việc khác, thì e rằng sai
lầm nhân quả.
Kinh nói: "Vật ở trên mà dùng cho
phía dưới thì báo ứng nặng. Vật ở dưới mà
dùng cho ở trên thì báo ứng nhẹ".
Ví như đồ tô đắp tượng Phật mà dùng
làm mái chùa, hoặc đồ dùng làm mái chùa mà đem làm phòng tăng, đó là lấy vật ở
trên mà dùng phía dưới. Ngược lại, lấy vật ở dưới mà dùng cho việc phía trên.
Phải nên nhận chân phân rõ trên dưới.
Người trẻ tu hành chớ chỉ tu về trí
huệ thôi, mà phải nhận biết tầm quan trọng của nhân quả.
Trong quyển Vân Cư Sơn Chí viết:
"Trên núi, vốn có am của thiền sư Từ Giác, người nước Thục. Thuở xưa, Thầy
từ Tứ Xuyên hành cước, muốn đến tu hành tại núi Vân Cư. Lúc đến chân núi Vân
Cư, Thầy ngủ qua đêm tại Diêu điền trang, rồi tối mộng thấy thần hộ pháp Già
Lam mách bảo:
- Xưa kia, Thầy vốn là trụ trì của
núi này, nhưng nay chỉ còn chút ít duyên.
Giữa trưa hôm sau, Thầy leo lên
núi. Đến chiều tối thì dừng chân nghỉ ngơi, và xin nghỉ qua đêm. Song, tăng chúng
mới đến đều bị đuổi vì thường bị nghi là kẻ trộm. Vì vậy, tăng chúng trên núi
không cho phép Thầy ngủ qua đêm. Mười năm sau, Thầy đắc pháp nơi thiền sư Ngọa
Long. Thái thú vùng Nam Khang là Trương Công, và vốn là người xứ Thục. Ông rất
thích cảnh vắng vẻ thâm u tịch tĩnh của núi Vân Cư. Lại nữa, vì là bạn cũ, nên
ông thỉnh Thầy lên núi Vân Cư, khai đạo giảng pháp. Thầy rất hoan hỶ, nghĩ rằng
mộng năm xưa, chắc không còn linh nghiệm. Hôm sau, Thầy lên núi, ngủ qua đêm
tại Mạch Châu Trang, rồi bất chợt nhập tịch. Tháp thờ Thầy đến nay vẫn còn, nhưng
gần đây bị nước ngập xói mòn, chỉ còn lại một tảng đá".
Người sau xem sự tích của thiền sư
Từ Giác, thấy rõ nhân quả không sai chạy chút nào.
36. Ngày hai mươi ba tháng sáu
Pháp tu đạo, nói khó thì rất khó,
bảo dễ thì cũng rất dễ. Khó cùng dễ là hai pháp đối đãi. Người xưa chân thật
dụng tâm, nên không cảm thấy khó chút nào, vì việc này vốn đã hiện thành. Tại
sao khó? Lòng tin không đủ nên khó. Nếu chân chánh vì cầu thoát khỏi sanh tử,
xem thường thân mạng, biết nó là huyễn hóa, cùng thấu suốt tất cả sự tình, không
bị cảnh chuyển, thì tu đạo rất dễ. Không thích tu học siêng năng, lại muốn làm
thánh hiền, cùng sợ cảnh địa ngục. Song, muốn là một chuyện, còn làm là một chuyện.
Có nhiều người khi tu hành thì cảm thấy rất khó khăn. Vì sao? Do không xả chấp
nổi. Ví như người thế tục, đối với những lời hay ho tốt đẹp, như chúc tụng phát
tài, được vinh hoa phú quý, thì ai ai cũng đều thích nghe. Đối với những lời
không tốt như nhà tan người chết, thì mọi người đều không muốn nghe. Chứng minh
rằng mọi người đều thích những việc tốt lành, nhưng còn những việc không may,
xấu xa, hư hoại thì bỏ chạy hết sao! Tất cả đều do không thể phóng xả được.
Xưa nay, trong các thành phố thường
có các thành hoàng thổ địa. Bên dưới mái hiên của những thành hoàng thổ địa,
thường treo những tấm bảng viết về thiện ác của người đời. Có một tấm bảng viết:
"Quý vị lại đến".
Trên hai cây cột trụ có hai câu đối:
"Người ác, người
sợ, trời không sợ
Người hiền, người
dối, trời không dối".
Lại có câu:
"Thiên đường có
lối, người không đi
Địa ngục không cửa,
người cứ đến".
Phàm phu thường mưu mô xảo quyệt.
Làm việc gì đều tính toán xem coi có lợi hay không. Đối với kẻ ác, mọi người
đều không dám gần gũi vì sợ bị thọ tai họa. Nếu nhường nhịn họ, thì vẫn bị tổn
hại. Song, đối với nhân quả báo ứng, trời không sợ kẻ ác.
Chúng ta ngồi thiền niệm Phật, vì
muốn giải thoát sanh tử. Do vô minh, cống cao ngã mạn, nên không thể nhẫn nhục,
đoạn trừ tập khí. Tuy có tu nhân lành, nhưng chẳng tránh được quả khổ. Sanh tử
chưa cắt, thì theo nghiệp mà thọ quả báo, nên bảo:
- Quý vị lại đến.
Thọ khổ dưới địa ngục xong, Diêm
Vương răn nhắc rằng chớ trở lại. Nếu trở lại tức sẽ không gặp điều lành. Vì xả
chấp không nổi, nên cứ y theo thói quen tật xấu, gây phạm tội lỗi, rồi phải đọa
vào địa ngục lần nữa.
Người thế tục si mê, tạo bao nghiệp
ác mà không thường hành việc lành, nên phải chiêu vời quả khổ. Người xuất gia
có muốn thoát khỏi vòng khổ lụy không? Nếu không muốn, thì cần gì nhập vào cửa
Không? Nhập vào cửa Không tức là chẳng có một vật gì để chứng đắc, đều ngưng,
sao còn có thiên đường địa ngục? Song, nếu chưa nhận rõ bốn đại là không, năm
ấm chẳng có, thì vẫn chưa tính là nhập vào cửa Không. Muốn nhập vào cửa Không,
phải nghiên cứu đọc tụng tường tận về kinh Lăng Nghiêm. Lời lẽ trước sau trong
toàn bộ kinh, không bàn ngoài năm ấm. Trong đó, từ năm ấm lại thuyết đến sáu
nhập, mười hai xứ, mười tám giới. Bên trong thì là thân tâm, còn bên ngoài thì
thuộc về khí chất của thế giới; chúng không ngoài năm ấm, tức là sắc, thọ, tưởng,
hành, thức. Kinh thuyết phàm thuyết thánh, thuyết ngộ đạo, thuyết nhập đường
ma, đều muốn xiển minh năm ấm không thật có. Kinh dạy chúng ta hãy xem thấu rõ
năm ấm đều là không. Cuối cùng, kinh nói đến Niết Bàn, cùng ba cõi bất biến.
Kinh cũng nói rõ tường tận về tà ma năm ấm. Sắc dâm trong sắc ấm là căn bản
sanh tử. Giết hại, tà dâm, nói láo vốn là cội gốc của địa ngục. Nhìn thấu năm
ấm vốn không, thì thoát ly sanh tử, không còn bị luân hồi. Phải chiếu soi như
thế nào? Chiếu soi tức giác chiếu. Thời thời khắc khắc, y theo lời kinh, dùng
trí huệ quán chiếu năm ấm. Chiếu soi rõ ràng thì thấy năm ấm đều không. Lúc đầu
quán chiếu, đều là vọng tưởng, nhưng không quan hệ chi. Người xưa bảo:
- Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác
chậm.
Nếu vọng niệm khởi, phải nên giác
chiếu, chớ để vọng niệm chuyển. Nếu không thể giác chiếu, thì lúc ngồi thiền
lại sợ đau chân; lúc lễ Phật, sợ nhức lưng. Lười biếng nhút nhát, không thông
lộ trình lên thiên đàng, nên tự nhiên chạy xuống địa ngục.
Đại sĩ Hàn Sơn viết kệ:
"Nhân gian hỏi
đạo Hàn Sơn
Đường Hàn Sơn lộ
không thông
Ngày hè băng tuyết
chưa tan
Mặt trời hiện, sương
lóng lánh
Tựa như tôi, sao chờ
thời
So cùng bạn, tâm
chẳng đồng
Tâm bạn nếu tựa như
tôi
Lại được vào nơi
đó".
Hàn tức là hàn băng giá lạnh. Trong
mùa hè, băng tuyết vẫn chưa tan. Mặt trời hiện, sương lóng lánh; một phiến băng
trong tâm của tôi không đồng với bạn. Nếu bạn muốn làm tựa giống như tôi, thì
có thể vào tận núi Hàn Sơn, chứ chẳng phải đường Hàn Sơn chưa thông.
Người tu đạo phải thấy năm uẩn đều
không. Trước hết, phải khô tâm lạnh ý. Nếu lửa cháy rực trời mà chưa tan băng
tuyết giá lạnh tâm tràng, thì mới cùng đạo tương ưng.
Xưa kia, Lư Khâu Dận xuất quân tại
Mục Đan Khâu. Ngày lâm trận, chợt bị nhức đầu dữ dội, mà các thầy thuốc không
có cách nào chữa trị. May mắn thay, ông gặp một thiền sư, hiệu là Phong Can, tự
bảo rằng từ chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai, đặc biệt tìm đến đó. Lư Khâu Dận
bèn nhờ Thiền Sư chữa bịnh. Thiền Sư thong thả bảo:
- Thân trú nơi bốn đại. Bịnh từ
huyễn sanh. Nếu muốn trừ khử, hãy uống nước tịnh.
Khi đem nước tịnh lên, thiền sư
ngậm rồi phun nước, sắn tay áo lên, bảo:
- Chim biển Thai Châu rất độc. Từ
nay, phải nên bảo trọng.
Sau đó, Lư Khâu Dận hỏi:
- Nơi đây có bậc thánh hiền nào
đáng để cung kính thờ làm thầy chăng?
Thiền Sư đáp:
- Thấy mà không nhận ra. Nhận ra mà
không thấy. Nếu muốn thấy, chớ nên chấp tướng. Hàn Sơn vốn là ngài Văn Thù, ẩn
tích nơi chùa Quốc Thanh. Thập Đắc tức là ngài Phổ Hiền, dạng trạng như kẻ bần
cùng điên cuồng, hoặc đến hoặc đi, đang làm lụng trong bếp tại chùa Quốc Thanh.
Nói xong, Thiền Sư liền cáo từ. Sau
này Lư Khâu Dận làm quan, đến nhậm chức tại Thai Châu. Vì nhớ đến lời của thiền
sư Phong Can năm xưa, nên vừa nhậm chức ba ngày, ông tìm đến các tự viện, cung
kính vấn hỏi chư thiền đức. Quả nhiên hợp với những lời nói xưa kia của thiền
sư Phong Can. Ông đến chùa Quốc Thanh, hỏi tăng chúng rằng thiền sư Phong Can
cùng Hàn Sơn Thập Đắc, hiện đang trú nơi đâu. Khi ấy, có vài vị tăng cười ngây
ngất, bảo:
- Thiền sư Phong Can đang trú đằng
sau tàng kinh tạng. Nơi đó, không ai đến được vì có hổ dữ thường quanh quẩn.
Hai ông Hàn Sơn và Thập Đắc, hiện đang nấu nướng trong bếp.
Nói xong, tăng chúng dẫn Lư Khâu
Dận đến viện của thiền sư Phong Can. Mở cửa phòng ra, chỉ thấy dấu chân hổ. Khi
họ vào nhà bếp, thấy hai vị Hàn Sơn và Thập Đắc, chỉ tay về hướng họ mà cười to.
Lư Khâu Dận liền lễ bái. Hàn Sơn và Thập Đắc cầm tay nhau, cười ha hả, và la
to:
- Phong Can lắm lời. Di Đà không
nhận ra, sao lễ lạy chúng tôi?
Tăng chúng tụ hợp, kinh ngạc vì
thấy một vị thượng quan lại đi lễ lạy hai ông tăng điên khùng. Lúc đó, Hàn Sơn
và Thập Đắc nắm tay nhau, bước ra khỏi chùa, rồi chạy vào núi tuyết. Lư Khâu Dận
lại hỏi tăng chúng:
- Hai vị này thường trú ở chùa này
phải không?
Hỏi xong, ông cho người đi tìm,
thỉnh hai Ngài trở về chùa. Trở về dinh, ông mang hai bộ tịnh y ca sa, bày biện
hương dược đặc biệt, cùng bao loại thức ăn, rồi mang vào núi cúng dường. Lúc
đó, hai vị đại sĩ vẫn không chịu trở về chùa. Vừa thấy ông quan đến, hai ngài
bèn hô to:
- Giặc! Giặc!
Hô xong, hai ngài lại nắm tay nhau,
vừa chạy vào núi sâu, vừa bảo:
- Này quý vị! Mỗi người phải tự nỗ
lực tu hành.
Nói xong, hai ngài chạy mất vào
núi, không để dấu vết, khiến chẳng ai tìm được. Tăng chúng trong chùa, khi xem
xét lại hành trạng hằng ngày của hai vị thì thấy thơ kệ, được viết đầy dẫy trên
những vách đá nơi vườn trúc sau chùa, và trên các tường vách tại những nơi thờ
thần hoàng thổ địa, cùng hơn ba trăm bài kệ trên những bức tường nhà cửa dân làng.
Tăng chúng góp nhặt lại những bài thi kệ đó, rồi đóng thành một quyển, để lại
cho đến nay. Theo lời của ngài Hàn Sơn thì: "Năm lời năm trăm thiên; bảy chữ,
bảy mươi chín; ba chữ ba mươi mốt. Tất cả cộng thành sáu trăm bài kệ. Những lời
viết trên đá thạch, tự khoe chữ viết rất hay. Nếu lãnh hội thơ của Ta, chân chánh
là mẹ của Như Lai... Nhà có thơ Hàn Sơn, hơn cả kinh kệ. Thư để trên tấm bình
phong, thời thời nên xem một biến".
Ngài Thập Đắc viết:
"Có kệ có muôn
ngàn
Gấp gáp ứng đáp khó
Nếu muốn hiểu thấu rõ
Nên vào núi Thiên
Thai
Trong hang sâu ngồi
tọa
Thuyết lý và đàm huyền
Cùng Ta không thể gặp
Tựa đối diện ngàn
núi".
Thơ kệ của hai ngài Hàn Sơn và Thập
Đắc được lưu truyền cho đến ngày nay, mà người người đều tôn trọng. Nhà nho
cũng có nhiều người thích đọc tụng. Hai ngài xuất khẩu thành thơ, lời lời đều
đàm huyền thuyết lý. Song, hai ngài bảo rằng không nên chuyển văn làm thơ vận
để đọc tụng. Nếu làm thì tuy đối diện với hai ngài, nhưng vẫn như cách xa ngàn
núi.
37. Ngày hai mươi lăm tháng sáu
Bồ Tát Địa Tạng phát đại thệ nguyện:
"Chúng sanh độ hết tận, thì
mới chứng đạo Bồ Đề.
Địa ngục chưa trống không, thệ
không thành Phật".
Tất cả chư Bồ Tát cũng đều phát
nguyện như thế. Mỗi ngày, từ sáng đến tối, chúng ta lên chánh điện, cũng phát
nguyện:
"Chúng sanh vô
lượng, thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ
nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ
nguyện học
Phật đạo vô thượng
thệ nguyện thành".
Là đệ tử Phật, mọi người phải nên phát nguyện. Chứng quả
thâm sâu hay cạn cợt, đều do nguyện lực rộng hay hẹp. Y theo nguyện hành trì,
mới định đoạt quả vị lớn nhỏ.
Phật từ chúng sanh mà tu thành.
Chúng sanh nếu y theo nguyện mà hành trì, thì đạt được quả Bồ Đề, tức có khả
năng thành Phật.
Ai ai cũng có duyên phần thành
Phật. Sao chư Bồ Tát lại còn phát nguyện độ chúng sanh, độ đến độ lui, độ mãi
chẳng hết? Chữ chúng sanh, do ba chữ nhân hợp thành, tức ba người trở lên thì
thành chúng. Con số của chúng sanh, nhiều vô cùng vô tận. Trong mười pháp giới,
trừ pháp giới chư Phật, chín pháp giới kia đều là chúng sanh. Ba pháp giới như
pháp giới Bích Chi Phật, pháp giới Bồ Tát, pháp giới A La Hán, vốn là thánh hiền,
vì đã xuất ra khỏi biển khổ sanh tử, không còn luân hồi. Sáu pháp giới còn lại
như trời, người, A Tu La, địa ngục, ngạ quỶ, súc sanh, chưa thoát ra khỏi sanh
tử. Trong chín pháp giới, ba pháp giới thánh hiền vẫn còn tập khí vi tế cạn cợt,
chưa dứt trừ tận, nên thuộc về hàng chúng sanh. Sáu pháp giới bên dưới thì tập
khí thâm sâu nặng nề, nghiệp chướng đầy dẫy, nên gọi là chúng sanh khổ não. Những
chúng sanh này, chết rồi lại sanh, không khi nào ngừng. Số luợng chúng sanh
này, nhiều không thể tính hết.
Thiền sư Nguyên Khuê ở núi Sùng
Nhạc, bảo thần núi:
- Phật làm được bảy việc, nhưng
không thể làm được ba việc. Tại mọi tướng không, Phật chuyển được thành muôn
pháp trí, mà không thể diệt định nghiệp. Phật biết được tánh của quần sanh, cùng
các sự việc trong muôn ức kiếp, mà không thể hóa độ kẻ vô duyên. Phật độ được
hết vô lượng chúng hữu tình, mà không thể độ tận pháp giới chúng sanh. Đó là ba
điều mà Phật không thể làm được. Song, định nghiệp thật cũng không lâu. Kẻ vô
duyên cũng có kỳ được độ. Pháp giới chúng sanh vốn không tăng không giảm, lại không
có ai làm chủ tể. Có pháp mà vô chủ, tức gọi là vô pháp. Vô pháp vô chủ, tức
gọi là vô tâm. Hôm nay, Ta không dùng thần thông để hiểu Phật, nhưng lại dùng
vô tâm mà liễu đạt hết muôn pháp. Chúng sanh vốn không tăng không giảm, nên lúc
cứu độ họ, không thể gọi là tận hay bất tận.
Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ
giải thích bốn hoằng thệ nguyện: "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ... Tâm
tà, cuồn loạn, bất thiện, ganh ghét, ác độc, v.v... là tâm chúng sanh. Tự tánh
các ông tự độ, đó gọi là độ chân thật.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
tức dùng trí huệ của tự tánh bát nhã, để trừ khử tư tưởng hư vọng.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
tức thấy tự tánh, thường hành chánh pháp, đó gọi là học Phật chân chánh.
Phật đạo vô thượng thệ nguyện
thành, tức thường luôn hạ tâm, hành nơi chân chánh; rời mê rời giác, thường
sanh Bát Nhã, trừ chân trừ vọng, tức thấy Phật tánh, tức gọi là thành Phật
đạo".
Thiền sư Phật Quả nói:
- Bàn về cứu cánh, Phật cũng không
lập, sao còn có chúng sanh? Bồ Đề cũng không lập, sao gọi tạo phiền não?
Người xưa thuyết những lời như thế,
sao chúng ta không thể làm được? Chỉ vì không dám trừ phiền não, xả bỏ chấp
trước không nổi, làm chủ không được, chẳng có giác chiếu, nên nơi tự tánh chợt
khởi vọng niệm. Nếu quên mất động tĩnh, thì trong nước xanh, trăng sáng được
hiện tiền.
Tại Gia Châu, vào niên hiệu Chánh
Hòa thứ hai, một hôm sấm sét đánh, chặt đôi tàng cây cổ thụ. Trong đó, có một
vị tăng đang nhập định, râu tóc bao quấn chung quanh thân. Vị tăng này được triệu
về hoàng cung, để phiên dịch kinh điển. Quan Kim Tổng Trì phải dùng cây khánh
bằng vàng để đánh thức Ngài. Được hỏi tên tuổi, Ngài bảo:
- Tên tôi là Huệ Trì, vốn là sư đệ
của pháp sư Huệ Viễn tại núi Lô Sơn. Trên đường tới núi Nga Mi, ngừng nhập định
tại đây.
Được hỏi muốn trở lại nơi nào, Ngài
đáp:
- Tôi muốn trở lại nhập định trong
tàng cây xưa.
Vua ban chiếu, đem lễ vật biếu
tặng. Nhân đó, Ngài làm kệ:
"Bảy trăm năm
đến cổ thụ già
Trong định ngưng thở
ai biết được
Tranh như mang dép
trở về Tây
Sanh tử sao nhọc, cây
làm da".
Triều Lương Võ Đế, niên hiệu Phổ
Thông thứ bảy (526), Đạt Ma Tổ Sư đi thuyền từ Tây Thiên đến nước Tàu. Vì cơ duyên
vấn đáp của vua Lương Võ Đế không khế hợp, Tổ bèn vượt sông đến Lạc Dương, cư
trú tại chùa Thiếu Lâm. Sau chín năm ngồi thiền đối diện vách đá, Tổ đem chánh
pháp nhãn tạng truyền lại cho ngài Huệ Khả. Lúc hóa duyên xong, Tổ an nhiên thị
tịch. Đại chúng xây mộ phần của Tổ tại núi Nhĩ Sơn, và lập tháp thờ nơi chùa
Thiếu Lâm. Trong năm đó, quan ngự sử Tống Vân của nhà Ngụy trên đường đi sứ từ
Thiên Trúc trở về, ngang qua một sườn núi, thấy Tổ đang quảy một chiếc giày
trên vai, bước đi lẹ làng. Tống Vân hỏi Tổ đi đâu? Tổ đáp:
- Ta trở về Thiên Trúc.
Tống Vân trở về, thuật lại việc
này, rồi cùng môn nhân đào huyệt, nhưng thấy quan tài trống không, chỉ còn một
chiếc dép. Vua ban chiếu chỉ, đem chiếc dép đó về chùa Thiếu Lâm thờ phụng cúng
dường. Người sau vẽ tượng thờ Tổ, vai quảy một chiếc dép. Tổ Đạt Ma ngồi thiền
đối mặt vách tường. Huệ Trì nhập định. Công phu thâm sâu cạn cợt không đồng.
Công phu thiền định bảy trăm năm, không thể bảo là chẳng thâm sâu, nhưng sao
sánh bằng một chiếc dép trở về Tây Thiên của Tổ Đạt Ma! So với thiền định của
thiền sư Huệ Trì, chúng ta còn thua xa diệu vợi. Chẳng có chút công phu thiền
định, làm sao độ được chúng sanh? Hãy nỗ lực xả chấp trước, cố gắng dụng công
tu đạo.
38. Ngày hai mươi bảy tháng sáu
Tại Ấn Độ, lúc Phật chưa ra đời,
các tà sư ngoại đạo phân nhóm với nhau, thường được gọi là lục sư ngoại đạo.
Mỗi ngoại đạo có mười lăm đệ tử. Thầy trò tính chung, tổng cộng thành chín mươi
sáu, tức xưng là chín mươi sáu ngoại đạo. Trong đó, có một tông phái rất tương
đồng với Phật giáo, nên trừ ra chỉ còn chín mươi lăm tông. Trong chín mươi lăm
tông phái, tông chỉ cách thức tu hành của mỗi tông phái không đồng. Tuy nói tu
hành, nhưng lý lẽ đều không rõ ràng, chỉ nghị luận điên điên đảo đảo. Song, vẫn
có nhiều người theo học. Xưa kia, ở nước Tàu có hoàng đế Hiên Viên, nhân đi dạo
chơi nơi núi Không Động tại Quảng Thành, bảo rằng đến đó để tu hành. Vua Phục
Hy vẽ hình bát quái, cũng bảo là tu đạo. Lý Lão Quân vì nhà Chu
mà đóng cột trụ làm sự tích, cũng bảo là giảng đạo. Xưa nay, trong và ngoài
nước có rất nhiều vị tự xưng là giảng đạo tu hành, nhưng trình độ sâu cạn không
đồng, và cùng đạo Phật cách xa diệu vợi.
Luận bàn về nhân duyên khai sáng
Phật giáo: Giáo chủ Thích Ca Mâu Ni, dòng họ Sát Lợi. Cha tên Tịnh Phạn. Mẹ tên
Ma Da. Dòng họ Sát Lợi, từ lúc khai thiên lập địa, đời đời đều làm vua chúa tại
cõi Diêm Phù Đề. Bồ Tát trải qua bao kiếp tu hành, được Phật Nhiên Đăng thọ ký
thành Phật. Sau đó, trong đời Phật Ca Diếp, Bồ Tát thành đạo, sanh lên nội viện
cung trời Đâu Suất, hiệu đại sĩ Hộ Minh. Kế đến, ứng vận giáng thần vào thai
hoàng hậu Ma Da. Mồng tám tháng tư năm giáp dần, thái tử đản sanh tại bắc Ấn
Độ. Đương thời, tại nước Tàu chính là đời vua Chu Chiêu Vương, niên hiệu thứ hai
mươi bốn. Lúc hạ sanh từ lưng sườn bên phải của hoàng hậu Ma Da, Bồ Tát phóng
luồng hào quang sáng chói, chiếu khắp mười phương. Từ dưới đất vọt lên hoa sen
vàng đỡ chân Bồ Tát. Khi đó, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, đi bảy
bước, mắt nhìn bốn phương, Bồ Tát nói:
- Trên trời dưới đất, không ai sánh
bằng Ta!
Ngày mồng tám tháng hai năm mười
chín tuổi, Bồ Tát đi qua bốn cửa thành, thấy các việc sanh, già, bịnh, chết,
nên khởi tâm bi thương ai thán, muốn xuất gia thoát ly sanh tử, tự nghĩ: "Sanh
lão bệnh tử này thật rất chán chường".
Đến tối, trời Tịnh Cư, hiện xuống
bảo:
- Thời điểm xuất gia đã đến. Ngài
hãy nên đi!
Lúc đó, Bồ Tát cỡi ngựa vượt thành Ca Tỳ La. Được chư
thiên đỡ chân, ngựa bay lên hư không. Bồ Tát lại bảo:
- Nếu chưa đoạn tám khổ, chưa chứng
đạo Bồ Đề, chưa chuyển pháp luân, thề không bao giờ trở lại thành này.
Liền đó, Bồ Tát đến núi Đan Đặc tu
đạo. Đầu tiên, học bất dụng thiền định nơi ông A Lam Ca Lam ba năm, nhưng Bồ
Tát nhận biết thiền định này chưa có thể xả chấp được. Sau đó, Bồ Tát đến học thiền
định phi phi tưởng xứ, nơi ông Uất Đầu Lam Phất ba năm, nhưng cũng nhận biết
rằng thiền định này chưa phải là tối thắng. Bồ Tát lại đến núi Tượng Đầu, cùng
với các chúng ngoại đạo tu hành; trải qua sáu năm, tu hành khổ hạnh; ngày ngày
chỉ ăn một hạt mè. Kế đến, Bồ Tát đến cội Bồ Đề ngồi thiền. Đến đêm thứ bốn mươi
chín, thấy sao mai buổi sáng, Bồ Tát liền đại ngộ, thành bậc đẳng chánh giác,
hiệu là đấng Như Lai Thế Tôn. Mồng tám tháng hai, đức Thế Tôn đến thành Ba La
Nại, nơi vườn Lộc Uyển, thuyết pháp Bốn Thánh Đế, độ năm anh em ông Kiều Trần
Như:
- Các ông nên biết, đây là khổ,
nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ, con đường diệt khổ.
Lúc Phật chuyển pháp luân Bốn Thánh
Đế trong ba lần mười hai thời, năm anh em ông Kiều Trần Như liền đắc pháp nhãn
thanh tịnh. Lúc đó, năm ông đều cầu xin, theo Phật xuất gia. Đức Thế Tôn bảo:
- Thiện lai tỳ kheo.
Râu tóc của năm ông đều tự rơi, y
ca sa tự đắp trên thân, tức thành Sa Môn. Phật lại thuyết năm ấm vốn là vô
thường, khổ không vô ngã. Năm vị tỳ kheo đều diệt tận các lậu, liễu giải tâm ý
Phật, chứng quả A La Hán. Ngay nơi đó, thế gian có năm vị tỳ A La Hán đầu tiên.
Kế đến, Phật độ con ông trưởng giả Da Xá cùng năm mươi người bạn của ông. Ngài
Ưu Lâu Phả Loa Ca Diếp cùng năm trăm đệ tử, ngài Na Đề Ca Diếp cùng hai trăm
năm mươi đệ tử, ngài Già Na Ca Diếp cùng hai trăm năm mươi đệ tử, ngài Xá Lợi
Phất cùng một trăm đệ tử, ngài Mục Kiền Liên cùng một trăm đệ tử, tất cả đồng
quy y Phật, thọ giới xuất gia làm tỳ kheo. Tổng cộng là một ngàn hai trăm năm
mươi vị. Đầu tiên, các ngài tu theo ngoại đạo, nhưng sau lại được Phật hóa độ,
tu chứng quả thánh. Vì cảm kích thâm ân của Phật, nên một ngàn hai trăm năm mươi
vị tỳ kheo thường đi theo Phật giáo hóa. Trong những câu đầu của các bài kinh,
thường nói đến các ngài. Hôm nay, chúng ta xuất gia, theo Phật tu học. Song, có
bốn hạng người xuất gia: Thứ nhất, thân xuất gia mà tâm chẳng xuất gia, tức
thân tuy đi tìm cầu pháp mà tâm chẳng muốn thọ pháp. Thứ hai, thân tại gia mà
tâm lại xuất gia, tức tuy vui vầy với vợ con mà không đắm nhiễm. Thứ ba, thân tâm
đều xuất gia, tức nơi cảnh dục lạc, thân tâm không đắm nhiễm. Thứ tư, thân tâm
không xuất gia, tức vui vầy với vợ con, tâm tham đắm nhiễm trước.
Chúng ta hãy tự kiểm nghiệm xem
coi, trong bốn hạng trên, mình thuộc hạng nào. Tôi xấu hổ muôn phần, thân tuy
xuất gia, nhưng trải qua bao thập niên, lừa Phật ăn cơm. Tôi chỉ biểu diễn xuất
gia ở bên ngoài, nhưng trong tâm vẫn chưa nhập đạo, chưa chứng lý thể thật tướng,
chưa nhận thấy bốn đại là không, chưa đạt đến như như bất động, tức là tâm chưa
xuất gia trọn vẹn. Thân tâm xuất gia trọn vẹn là một điều rất khó. Xưa kia, tại
Ấn Độ các đại cư sĩ, tuy thân tại gia mà tâm lại xuất gia, như ông Duy Ma Cật,
cô Nguyệt Thượng, phu nhân Mạt Lợi, hoàng hậu Vi Đề Hi. Tại nước Tàu, có ông
Bàng Long Uẩn, vua Tống Nhân Tông, Trương Tương Dương, đều là những vị thâm thông
Phật pháp; thân tuy cư tại trần lao mà tâm chẳng nhiễm thế tục. Chư đại Tổ Sư,
thân tâm trọn vẹn xuất gia có hằng sa số. Các ngài là những bậc mô phạm trong
nhà Phật, khiến hàng hậu lai khâm phục ngưỡng mộ. Các ngài hoằng pháp lợi sanh,
làm Phật sự lớn, công đức vô lượng. Vua Thuận Trị đời Thanh sáu tuổi lên ngôi,
hai mươi bốn tuổi xuất gia. Thân tâm của ông xuất gia trọn vẹn. Đối với những
kẻ thân tâm không xuất gia trọn vẹn, tôi chẳng cần nhắc đến. Bậc chân chánh
xuất gia thật hiếm có, và trở thành bậc đại pháp khí cũng không dễ. Ngài Khấu
Băng Cổ Phật bảo:
- Xưa kia, chư thánh hiền tu hành
thành công, đều nhờ vào sự tiết chế khổ hạnh.
Ngài Hoàng Bá bảo:
- Nếu không chịu lạnh thấu xương
cốt, thì hoa mai sao tỏa mùi hương!
Người xuất gia làm được những điều
đó thật không phải dễ dàng. Có rất nhiều con đường để thoát ly sanh tử. Kinh
Lăng Nghiêm bàn đến hai mươi lăm pháp môn tu hành viên thông. Tuy có hai mươi
lăm pháp môn, nhưng không ngoài Thiền tông, Giáo lý, Luật, Tịnh Độ. Tông tức là
Thiền tông. Giáo tức là kinh giáo. Luật tức là giới luật. Tịnh tức là tịnh độ.
Bốn pháp môn này thậm thâm vi diệu. Thiền tông chỉ thẳng vào việc minh tâm kiến
tánh, động tĩnh nhất như, nơi nơi đều là đạo. Bàn về thiền, có rất nhiều loại
thiền, tà chánh đại tiểu không đồng. Giảng kinh cũng như thế, cứu cánh phải đạt
đến nơi đại khai viên giải; một niệm vượt ba ngàn cõi, tánh tướng dung thông,
sự lý vô ngại. Niệm Phật cũng phải niệm đến nhất tâm bất loạn, mới chứng duy
tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà, rồi nhập vào biển khổ Ta Bà, cứu độ chúng sanh. Tất
cả pháp môn, đều không xa rời việc trì giới. Kinh Lăng Nghiêm bảo: "Nhiếp
tâm là giới. Không đoạn tâm dâm dục, tất phải đọa vào đường ma. Không đoạn tâm
giết hại, tất đọa vào thần đạo. Không đoạn tâm ăn cắp, tất đọa vào tà đạo.
Không đoạn tâm đại vọng ngữ, nhân địa không chân chánh, thì chiêu quả quanh co.
Hôm nay, sơ khởi Ta thuyết về cách nhập tam ma địa, tu pháp môn vi diệu. Muốn
cầu đạo Bồ Tát, các ông trước tiên phải nghiêm trì bốn loại giới luật căn bản
trên, khiến sáng trong như băng tuyết, tự không sanh cành lá. Tâm phạm ba điều,
miệng phạm bốn lỗi, thân phạm ba việc, thì không thể sanh nhân Bồ Đề".
Giới luật nhà Phật định chế tỳ kheo
năm hạ đầu phải tinh chuyên giới luật. Sau năm hạ, đi tham tầm thiện tri thức
để nghe giáo kinh tham thiền. Tại sao? Vì việc tu hành, lấy giới luật làm thể.
Giới là bùa hộ thân, xuất ra khỏi sanh tử. Nếu không có giới, nơi biển sanh tử
mãi bị trầm luân khổ sở. Phật ví giới như chiếc phao vượt biển, không thể để hư
hoại chút nào. Nếu phao bị vỡ, nhất định sẽ chết chìm. Vì vậy, Thiền tông, Kinh
giáo, Tịnh độ, cùng tất cả pháp môn, đều lấy việc giữ giới làm đầu. Thế nên,
người tu hành không thể bỏ qua ba pháp giới, định, huệ. Ba pháp này, nếu được
viên dung thì sẽ đắc được vô ngại.
Trì giới nếu không rõ khai giới và
giá giới, không thông hiểu Đại Thừa và Tiểu Thừa, không biết nhân duyên Phật
chế giới, cùng bao diệu môn, chỉ giữ giới chết cứng, cố chấp chẳng tinh tường,
thì sẽ khiến đường tu học bị sai lệch. Ba học, tức giới định huệ, nếu viên dung
thì đắc được giới phẩm bậc thượng. Muôn pháp môn không ngoài một tâm. Thế nên,
thông đạt một pháp, tức thông đạt muôn pháp, đầu đầu vật vật tận viên dung. Một
pháp chẳng thông thì muôn pháp không thể thông, đầu đầu vật vật đều đen ngòm.
Không khởi một niệm, trong tâm đều đầy đủ muôn pháp. Phải hàng phục tâm như
thế. Phải tham thiền cho giỏi, niệm Phật cho hay. Giảng kinh thuyết pháp thế
gian cùng xuất thế gian, mọi việc đều là đạo, và tùy chỗ vô sanh, tùy nơi vô niệm.
Còn vọng niệm tức còn sanh tử.
Người tu hành, trước hết phải trừ
ngã tướng. Nếu không có ngã tướng, các vọng niệm đều tan. Trừ chấp ngã xong,
lại phải trừ chấp pháp. Chấp ngã thì thô kệch, còn chấp pháp rất vi tế. Bình
thường, vào lúc giảng thuyết, mở miệng thì bảo tôi như này như thế nọ. Nếu thật
vô ngã thì mọi việc đều như băng tan ngói vỡ, và muôn pháp đều vô ngại. Vì có
thể vô ngã vô nhân, nên thói quen tập khí đều không còn. Đã là Phật tử, chánh tín
xuất gia, cầu pháp xuất ly, phải quên mình mà nỗ lực tu hành, chớ để cảnh chuyển,
và chớ sống qua ngày trong phiền não. Người Phật tử, nếu không hàng phục tâm
kia, mà lầm lạc trong nhất niệm, tơ hào sơ xuất, thì cách xa trời đất; lỡ một
bước chân, ân hận ngàn đời. Phải tu hành như cứu lửa cháy đầu. Nghiêm thủ giới
luật như giữ gìn phao vượt biển, chẳng để bị thủng chút nào.
39.
Mồng tám tháng bảy
Tôi là người rất nhàn rỗi. Những
chuyện lớn nhỏ trong chùa, chẳng can hệ gì với tôi. Hôm nay cùng đại chúng có
duyên, nơi thiền đường nhàn rỗi, giải bày tâm sự. Thiền tông truyền từ Thiếu Thất
đến Tào Khê, tới tận ngày nay, định lập rất nhiều quy củ. Điển hình là tổ Bá
Trượng, do thấy rất nhiều vị trụ trì đăng đàn thuyết pháp không hợp chánh pháp,
nên Ngài định lập thanh quy thiền môn.
Người xưa khổ tâm, muốn đào tạo bồi
dưỡng nhân tài nên định đặt quy củ, lập thứ tự. Ngày nay, có người cho là lạc
hậu áp chế nhân tài, nên muốn chống báng dẹp bỏ. Họ cho rằng vẫn còn lưu luyến
với quy luật cũ xưa, tức tâm cố chấp. Hai pháp tân cựu, xung đột lẫn nhau; cổ
kim không thể tương dung. Lúc Phật còn tại thế, Ngài chế giới luật vì muốn diệt
trừ tập khí cho chúng sanh. Pháp truyền đến Đông Độ, nhân theo thời mà thay đổi.
Bá Trượng sáng lập thanh quy, vì muốn hộ trợ giới pháp. Có quy củ thì dễ dàng
thành tựu tròn đầy. Mọi cử chỉ hành động, không ngoài một tâm niệm. Tất cả oai
nghi thứ lớp, nhân tình lễ tiết, hành vi động tịnh, đều phải chuyên cần diệt trừ
tập khí. Thanh quy Bá Trượng đã hơn ngàn năm. Nước đọng lâu ngày khiến sanh trùng.
Pháp trụ lâu ngày khiến phát tệ. Người đời nay khác người xưa, mượn thanh quy
mà làm việc tệ bạc. Thế nên, có người xông xáo phản đối, sáng lập quy củ khác.
Quy củ không tốt hay người không tốt? Nếu người không tốt, có quy củ vẫn vô
dụng. Nếu người tốt, sao cần lập ra quy củ mới nữa? Thật ra quy củ không có tốt
xấu, chỉ do người tốt xấu mà bày biện.
Người tham Thiền nên biết, thiền
nghĩa là tĩnh lự, tức nơi trong tịch tĩnh mà quán chiếu, chọn pháp lành thiện
để theo. Tất cả đều do mình; nếu mình tốt thì pháp pháp đều vi diệu. Nếu mình
không tốt, muôn pháp đều trở thành tệ xấu. Pháp thế gian cũng như thế. Pháp vốn
không hư hoại, chỉ do tâm người bại hoại. Tập khí nặng nề, thì pháp hay biến thành
pháp hoại. Trước khi làm việc gì, phải suy nghĩ ba lần, chớ làm những việc hàm
hồ ngu muội. Pháp được lập, không thể là pháp chết cứng. Ví như thầy thuốc, tùy
theo bịnh mà cho thuốc. Nếu thuốc không hợp với bịnh, uống vào sẽ hại đến thân.
Vì vậy, thầy thuốc trị bịnh, không thể cố chấp cứng nhắc vào phương thuốc xưa.
Người xưa bảo:
- Thuốc quý hay không quý, miễn sao
bịnh được lành.
Tiên thánh kiến tạo tùng lâm, dựng
lập thanh quy, định ước thứ tự, an bài chức vị, như lập pháp quốc gia, rất tinh
tường chu đáo cẩn mật.
Hôm nay, mồng tám tháng bảy, quý vị
chức sự lãnh đạo, chiếu theo quy củ tùng lâm, đến phòng phương trượng, khách
khí cầu hòa thượng trụ trì cho phép từ chức. Nơi đây không phải là chốn tùng
lâm, lại không có chuông trống hương bản, sao quá khách sáo?
Tôi vốn là người ở chốn hoang dã,
chẳng có liên hệ với việc gì, sao lại làm phiền lụy quý vị? Quý vị nói có lý,
chiếu theo quy củ xưa, phải nhậm chức, và phải thối chức. Mỗi năm, mồng tám
tháng giêng và mồng tám tháng bảy đều là ngày từ chức. Mồng mười là ngày cầu chức;
ngày mười hai là phục chức; ngày mười ba là nhậm chức; ngày mười sáu là xuất
đường. Lúc đang nhậm chức vụ, thật rất cực nhọc. Lúc từ chức, được nghỉ ngơi
dưỡng sức. Nhậm chức vụ lớn nhỏ trong tùng lâm, quy củ rõ ràng. Người sơ phát
tâm phải nên tham học. Chức vụ có thứ tự trước sau, tức có tự chức và liệt chức,
lại có nhậm chức và thối chức. Đôi khi cũng có nhậm chức mà không thối chức.
Người phát tâm tu đạo không nên để ý đến làm gì.
Quý vị trụ trì các tùng lâm xưa
nay, phần nhiều do vua quan tống cử. Tự công cử trong chùa cũng có, nhưng rất
ít. Ngày nay khác với đời xưa. Một khi làm trụ trì thì không chịu từ chức. Tại
phương trượng, giữ chức để dưỡng lão. Làm tri sự cũng giữ chức cả vài thập niên.
Tại chùa Thiên Ninh, hòa thượng Định Lão truyền pháp cho đồ đệ là thầy Cao Lãng;
Thầy làm tri sự cho đến chết. Hòa thượng Trị Khai làm giám tự rất lâu; đến năm
Quang Tự thứ hai mươi mốt, Hòa Thượng lại được lên chức phương trượng, rồi giữ
chức này cho đến chết. Hoà thượng Anh Dữ làm phương trượng từ năm Quang Tự thứ
mười hai cho đến chết. Hòa thượng Sương Đình thọ giới vào năm Quang Tự thứ hai
mươi hai, rồi làm phương trượng cả vài thập niên mà vẫn chưa từ chức, lại chẳng
muốn phát tâm từ chức. Hòa thượng Diệu Trạm nhậm chức Ty Thủy cả hai mươi mốt
năm, và làm duy na cả mười tám năm, kế đến thăng chức thượng tọa, rồi không hề
thối chức. Ở Hồ Nam,
vùng Siêu Thắng tại chùa Giang Thiên, có thầy trụ trì giữ chức mười ba năm.
Người khác từ chức mà thầy vẫn giữ chức. Đại chúng trong chùa, thường gọi Thầy
là Bồ Tát sống.
Nơi tùng lâm, biết dụng công tu
hành thì rất hay, bằng ngược lại thì biến thành pháp chết. Đại chúng đều có duyên
tụ hội nơi đây, nên có cháo ăn cháo, có cơm ăn cơm, và cùng nhau ra đồng làm
ruộng. Nếu tự chấp chặt, chỉ muốn giữ ngôi chùa nhỏ, thì làm sao nhận chức ban
thủ ban cước, hay từ chức được? Hãy xả chấp trước, chớ đùa giỡn cợt. Danh phương
trượng hay thiên trượng đều là lời nói trống rỗng. Tôi cũng giống như quý vị,
chỉ dùng bát cơm không, chẳng có chức vụ gì, vậy từ chức nào?
Xưa kia, có vị tôn túc nuôi một
đồng tử trong chùa. Chú này chẳng biết phép tắc. Ngày nọ, có một vị lão tăng hành
cước đến chùa, dạy chú đồng tử lễ nghĩa. Tối đến, lão tôn túc từ ngoài trở về,
nghi ngờ hỏi han sự tình:
- Ai dạy con vậy?
Đồng tử đáp:
- Một vị khách tăng.
Lão tôn túc bèn gọi vị khách tăng
ra, hỏi:
- Thượng Tọa từ nơi khác hành cước
đến đây, có tâm ý gì? Đồng tử này, tôi nuôi dưỡng cả hai mươi năm, khổ nhọc một
đời. Ai bảo Thượng Tọa dạy bậy bạ cho y? Mời Thượng Tọa mau xách hành trang rời
khỏi nơi đây!
Mưa chiều hoàng hôn dầm dề, vị
khách tăng phải xách gói mà đi.
Ngài Pháp Nhãn bảo:
- Người xưa nương vào đâu mà hiển
lộ những gia phong kỳ quái, và ý đạo nơi nào? Trong mọi động tác oai nghi, chẳng
phải là bản lai diện mục sao? Chư thánh còn
không thể chứng được, hà huống phàm phu! Thong dong tự tại, động tĩnh vô tâm,
phàm và thánh năng và sở, trí huệ ngu si, phiền não Bồ Đề, đều là đạo nhất như.
Đại chúng có hiểu không? Chấp trước
tức tự cột tay.
40. Mồng mười tháng bảy
Hôm nay, quý vị cư sĩ từ Quảng Đông
vào núi lễ Phật, cúng dường kết duyên, lại thỉnh tôi thượng đường, thuyết vài
ba câu. Nay trân trọng lược bày về kinh Bốn Mươi Hai Chương, để kết duyên với
quý vị. Phật nói:
- Con người có hai mươi việc khó:
Bần cùng mà bố thí là khó. Giàu sang mà học đạo là khó. Vứt bỏ thân mạng là khó.
Đọc tụng kinh Phật là khó. Sanh vào thời Phật là khó. Nhẫn sắc rời dục là khó.
Thấy việc tốt mà không mong cầu là khó. Bị nhục mà không sân hận là khó. Có quyền
thế mà không Ỷ cậy là khó. Gặp cảnh mà vô tâm là khó. Học rộng chuyên nghiên
cứu là khó. Trừ diệt ngã mạn là khó. Không khinh miệt người chưa học là khó.
Tâm thường hành bình đẳng là khó. Không nói lời thị phi là khó. Gặp thiện tri
thức là khó. Thấy tánh học Phật là khó. Tùy duyên hóa độ người là khó. Đối cảnh
không động tâm là khó. Thiện giải phương tiện là khó.
Ai vượt qua được những cửa ải này
thì mới thoát khỏi sanh tử. Sanh nhằm thời Phật, sao bảo là khó? Nếu không có
thiện căn phước đức nhân duyên, gặp được Bồ Tát, A La Hán cũng rất khó, còn nói
chi đến việc gặp được Phật. Luận Trí Độ nói: "Thành Xá Vệ có chín ức gia đình,
chỉ có ba ức gia đình biết đến và được gặp Phật. Ba ức gia đình tuy tin mà không
được gặp Phật. Ba ức gia đình không tin không gặp không nghe được Phật".
Hai mươi lăm năm Phật trú tại thành
đó, nếu có ai phát khởi lòng tin thì đạt được lợi ích vô biên. Trong thành Xá
Vệ, có ba ức gia đình không gặp không nghe đến danh hiệu Phật vì họ không có
thiện căn phước đức nhân duyên. Tuy sanh cùng thời Phật, mà không gặp, không
nghe thấy được Ngài. Đương thời, có rất nhiều người trên thế giới, vì không đủ
phước đức căn lành, nên không gặp, không nghe không thấy Phật, nên không đạt
được ích lợi gì. Lại nữa, những đệ tử kề cận Phật, nếu không y giáo tu hành,
vẫn bị đọa lạc. Đề Bà Đạt Đa vốn là huynh đệ của Phật; tỳ kheo Thiện Tinh làm
thị giả, hầu Phật trong hai mươi năm. Họ vì không chịu tu hành chân chánh, nên
phải đọa địa ngục. Bà lão nơi phía đông thành Xá Vệ, sanh cùng ngày, tháng, năm
như Phật, nhưng chẳng có duyên với Ngài, nên không muốn gặp. Thế nên, gặp Phật
nghe pháp là việc rất khó.
Ngày nay, tuy Phật không còn ở thế
gian, nhưng có chư thiện tri thức thay Ngài hoằng pháp; nếu thường thân cận họ,
thì cũng được giải thoát sanh tử. Nếu thiện căn kém cỏi, gặp được thiện tri
thức cũng là việc khó. Tuy có duyên gặp mặt, nhưng không hiểu rõ lời giảng dạy,
thì cũng vô ích. Hòa thượng Đỗ Thuận sơ tổ tông Hoa Nghiêm, vốn là hóa thân của
Bồ Tát Văn Thù. Ngài có một đệ tử thân tín, kề cận đã lâu, nhưng chẳng hề biết
hành trạng vĩ đại của Ngài. Ngày nọ, vị tăng này xin cáo từ Ngài, vì muốn lên
núi Ngũ Đài lễ bái Bồ Tát Văn Thù. Ngài bèn tặng cho một bài kệ;
"Kẻ bôn ba du
hành
Đài Sơn lễ đất đá
Văn Thù chỉ là thế
Chỗ nào tìm Di
Đà?"
Vị tăng này không hiểu ý, vẫn từ
biệt đi đến núi Ngũ Đài. Đến đó, Thầy được một ông lão cho biết:
- Hôm nay, Văn Thù đang ở núi Chung
Nam, tức hòa thượng Đỗ Thuận đó.
Thầy vội vàng trở về, nhưng ngài Đỗ
Thuận đã ngồi xếp bằng mà viên tịch vào ngày mười lăm tháng mười một. Ngày nay,
tại Quan Trung có viết ngày nhập Niết Bàn của Bồ Tát Văn Thù, tức ngày mười lăm
tháng mười một. Người nhãn thức kém cỏi, tuy gần bậc thiện tri thức mà không
thể nhận ra. Đệ tử của thiền sư Thái Dương Cảnh Huyền, tức thị giả họ Bình, do
tâm địa bất hảo, kết quả phản thầy, hủy báng đạo, đi trên đường bị hổ vồ bắt.
Gặp được các bậc thiện tri thức cũng có thể là không khó, nhưng nếu không y
theo lời dạy bảo của các ngài mà phụng hành, thì vẫn vô ích.
Bần cùng bố thí là khó. Người nghèo
khổ, tuy tâm muốn bố thí, nhưng chẳng có tiền tài. Nếu miễn cưỡng bố thí thì sẽ
ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày, nên đó là việc khó. Người giàu sang học đạo
là khó. Tuy có thể bố thí tiền tài dễ dàng, nhưng khó mà xả bỏ thân tâm để học
đạo. Khó dễ là pháp đối đãi. Tinh tấn dũng mãnh, có đại nguyện lực, thì khó sẽ
biến thành dễ. Lười biếng giải đãi, ý chí nhu nhược, thì dễ biến thành khó. Khó
dễ do người, chẳng phải do pháp; quý nơi dung thông muôn việc, không chướng
không ngại. Nghèo do tiền kiếp không hành bố thí, nay mới cảm quả báo khổ, nên
phải tận lực bố thí. Giàu sang phú quý, quyền thế danh vọng, thì làm việc bố
thí không khó, nhưng phải học đạo.
Đệ tử Phật là ngài A Na Luật, được
gọi là Vô Bần và Như Ý. Trong đời quá khứ, Ngài vốn là một nông dân bần cùng.
Bà vợ của người nông phu kia thường đem bát cơm ra đồng cho chồng. Ngày nọ,
đang lúc làm ruộng, gặp một vị Bích Chi Phật đi hành khất, vị nông phu định
cúng dường phần cơm trưa của mình, bèn thưa:
- Bạch Đại Đức! Phần cơm trưa của
con đây rất đạm bạc, chắc không thể cúng dường cho Ngài được. Vậy thì kính
thỉnh Ngài về nhà, con sẽ dâng cúng thức ăn ngon hơn.
Vị Bích Chi Phật bảo:
- Hiện tại là giờ ngọ. Nếu đến nhà
ông thì sẽ qua giờ ngọ. Nếu quá giờ, Ta không thể dùng cơm được. Nay ông bố thí
cho Ta bát cơm đó là tốt lắm rồi.
Nghe thế, người nông phu thành tâm
dâng cúng phần cơm của mình cho vị Bích Chi Phật. Nhờ công đức đó, nên cảm được
quả báo sanh làm thiên vương trong chín mươi mốt kiếp. Đời đời không nghèo hèn,
sự sự đều như ý. Làm vua loài trời, vua loài người, không phải là chuyện lạ
lùng. Do trồng căn lành, cúng dường bát cơm cho vị Bích Chi Phật, nên ngài A Na
Luật lại được làm đệ tử Phật Thích Ca, rồi nghe pháp ngộ đạo, chứng quả A La
Hán, trở thành vị có thiên nhãn bậc nhất. Chỉ nhờ duyên bố thí một bát cơm, mà
đạt được quả báo tốt lành như thế. Nghèo hèn bố thí, công đức nhiều hơn người
giàu sang bố thí. Điều này chứng minh rằng, nếu phá được cửa ải này thì tuy
nghèo mà vẫn bố thí không khó.
Khi tu lục độ Ba La Mật, Bồ Tát lấy
bố thí làm đầu. Nghĩa của bố thí rất thâm sâu, lược thuyết có ba. Thứ nhất là
tài thí, tức bố thí tiền tài vật chất cho người nghèo. Thứ hai là pháp thí, tức
thuyết pháp độ người. Thứ ba là vô úy thí, tức cứu người bị hiểm nạn. Lại có bố
thí thanh tịnh, tức khi bố thí, không cầu phước báo, danh tiếng, lợi lộc ở thế
gian, mà chỉ vì muốn tương trợ thiện căn xuất thế cùng nhân niết bàn, nên dùng
tâm thanh tịnh mà bố thí. Bố thí không thanh tịnh, tức dùng vọng tâm, cầu phước
báo mà hành bố thí. Thân còn phải xả, huống hồ là những vật bên ngoài.
Bốn vị cư sĩ từ Quảng Đông vượt
ngàn núi vạn sông, đến Vân Cư lễ Phật, bố thí kết duyên, thật là việc khó làm.
Lại vì cầu pháp xuất ly mà đến, nên phải phát tâm dài lâu, tiến mãi không thối
bước, và phải cung kính Tam Bảo. Không nên chấp vào hình tướng; thấy việc hay
thì kính tín; thấy việc dở chớ nên khởi tâm oán ghét. Có tâm thương ghét, thì
có phiền não, tức không thể giải thoát sanh tử. Một khi khởi tâm thương ghét,
thì đạo tâm sẽ lui sụt. Phải nên cẩn trọng.
41. Ngày mười một tháng bảy
Hôm qua, tôi nói đến hai muơi điều
khó làm trong kinh Bốn Mươi Hai Chương. Nếu hiểu rõ thì khó biến thành dễ. Khó
dễ là pháp đối đãi. Trong khó có dễ, và trong dễ có khó. Cách dụng khó dễ, mỗi
người hành khác nhau. Không giảng gì cao xa, chỉ bàn đến việc nghèo cùng mà bố
thí, thì là việc khó lắm rồi. Đệ tử Phật hành đạo Bồ Tát, bố thí đứng đầu trong
lục độ. Bố thí tức xả bỏ. Hạnh xả trong bốn tâm vô lượng, (từ bi hỶ xả), tức là
hạnh bố thí. Xả chấp được tức là giải thoát. Muôn vật ngoài thân, chẳng có gì
là của mình. Nếu xả hết trong ngoài, thì tự nhiên sẽ được giải thoát. Bố thí
tại sao khó?
Lúc Phật tại thế, có một cặp vợ
chồng nghèo, bần cùng không thể tả. Họ sống trong một am tranh xơ xác, chỉ miễn
cưỡng trú ẩn tránh mưa gió. Hai vợ chồng cùng mặc chung một chiếc khố rách, còn
thân phần trên thì không có y phục che đắp. Khi ra ngoài, chỉ được một người,
còn người nọ thì lõa thể ở trong nhà. Vì vậy, mỗi ngày hai vợ chồng luân phiên
mặc chiếc khố rách, ra ngoài xin ăn. Nếu xin được nhiều thức ăn thì vui vẻ cùng
nhau ăn. Đôi khi chỉ xin được chút ít, hay không được chi hết, thì cả hai đều
phải nhịn đói. Có một vị tỳ kheo đã chứng quả A La Hán, biết hai vợ chồng này,
nghèo hèn vì bao đời bao kiếp, chưa từng trồng căn lành, nên ngày nay mới ra
nông nỗi này. Ngài khởi tâm từ bi, đặc biệt đến hóa độ, bằng cách hóa duyên, khiến
họ gieo trồng phước đức. Thấy vị tỳ kheo đứng ngoài cửa hóa duyên, người chồng
thỉnh Ngài đứng đợi nơi đó, rồi bèn chạy vào nhà, thương lượng với vợ:
- Chúng ta vì tiền kiếp không tu,
nên bây giờ mới nghèo hèn khốn khổ. Đời nay nếu không chịu tu thì đời sau cũng
vẫn bị khổ nữa. Song, bàn đến việc bố thí gieo trồng phước đức căn lành, thì
chúng ta không có vật chi để cúng dường. Chúng ta chỉ có một chiếc khố rách che
thân. Nếu cúng dường đi thì không thể ra ngoài xin ăn được, chắc phải chết đói.
Ngược lại, nếu không bố thí, thì sống cũng vô dụng. Sao bằng đem chiếc khố này,
thành tâm cúng dường chư tăng, để gieo căn lành, thì chết cũng không hối tiếc!
Cô vợ đồng ý. Người chồng bèn bước
ra, ló đầu ngoài cửa sổ, thưa với vị tỳ kheo:
- Bạch Đại Đức! Cúi xin Ngài từ bi
thương xót. Chúng con nay muốn dâng chiếc khố này để cúng dường đức Phật.
Vị tỳ kheo khởi tâm từ bi, thương
tình tiếp nhận, đem về cúng dường cho đức Thế Tôn. Bấy giờ, Phật đang thuyết
pháp cho vua Tần Bà Sa La, nhưng vẫn thọ nhận chiếc khố của hai vợ chồng nghèo.
Đang giảng kinh trước đại chúng, Phật lại kể nhân duyên tiền kiếp của hai vợ
chồng đó. Tuy họ chưa bao giờ trồng căn lành, nhưng nay chỉ do nhất niệm tâm thành,
đem hết vật sở hữu, bố thí cúng dường chiếc khố, nên phước đức thật vô lượng.
Vua nghe việc này, đến gặp hai vợ chồng kia, thấy họ đang nằm trên đất, lõa thể
đói khát, nên phát tâm cứu hộ, cấp cho y phục thức ăn, rồi dẫn họ đến nơi Phật.
Họ được nghe pháp, liền chứng quả thánh. Hai vợ chồng kia, nghèo cùng tột bực,
nhưng phá được cửa ải tham luyến. Tuy nghèo nàn nhưng vẫn bố thí, nên mới được
lợi ích như thế. Điều này chứng minh, việc khó hay dễ, đều do tâm niệm, không
có nhất định.
Xưa kia, vào đời Minh, La Diện có
soạn quyển Thơ Tỉnh Thế:
"Mau mau gấp
gấp, cầu khổ khổ
Lạnh lạnh nóng nóng,
độ xuân thu
Sáng sáng tối tối,
mưu việc nhà
Hôn hôn muội muội,
đầu tóc trắng
Thị thị phi phi, cả
ngày ngày
Phiền phiền não não,
lúc nào ngưng.
Rõ rõ ràng ràng,
đường lộ cái.
Muôn muôn ngàn ngàn,
chẳng chịu tu".
Tuy lời văn mộc mạc, nhưng ý nghĩa
thâm sâu, vì bàn về nghiệp chướng hành vi ma quỶ của chúng ta trong một đời. Ai
có thể vượt qua những việc trên thì người đó thật là bậc đại giải thoát.
XXIII. Khai thị trong kỳ truyền giới, núi Vân Cư, tháng
10-1955
1. Duyên khởi của kỳ truyền giới
Lần này, núi chúng ta làm kinh động
các tỉnh các xứ cùng quý Phật tử khắp nơi. Mọi người đều không quản khổ nhọc,
đường xa vạn dặm mà đến đây. Hoặc vì cầu giới, hoặc vì muốn trợ đạo thành tựu
mà tới. Song, nơi đây chỉ toàn là lều tranh mái lá, không giống như những tùng
lâm tự viện, chẳng có thể lo lắng sắp đặt mọi việc chu toàn, nên không thể
tránh việc khiến quý vị sanh tâm động niệm. Truyền giới lần này, có rất nhiều
người chưa hiểu giới pháp tường tận. Hôm nay do thỉnh mời, tôi ra giảng cho quý
vị nghe vài điều, xin chớ sanh phiền não và ngộ nhận.
Nơi đây, vốn là chốn đạo tràng của
Tổ đình, cũng là danh lam thắng cảnh nổi tiếng, lại có những di tích hoằng
dương chánh pháp của vài mươi vị tổ sư thuở xưa. Từ đời Tống, Nguyên, Minh,
Thanh đến nay, chốn Tổ Đình này đã trải qua bao lần hưng thịnh suy đồi. Thời
kháng chiến Nhật, vì binh đao hỏa hoạn, cả trăm điện đường phòng ốc bị tàn phá
đốt cháy, không còn một ngôi. Năm ngoái, Hư Vân tôi tham dự pháp hội hòa bình
cùng đại hội thành lập liên hội Phật Giáo Trung Quốc xong, liền trở vào Nam,
đến vùng Khuông Phụ dưỡng bịnh. Xét thấy Vân Cư vốn là một đạo tràng thắng pháp,
nhưng đã bị bỏ hoang phế và chìm trong quên lãng lâu ngày, khiến tôi không thể
nhẫn tâm mà nhìn núi này bị mai một, nên phát tâm chấn chỉnh trùng hưng. Vì thế,
tôi xin chánh phủ phê chuẩn, cho phép tu sửa. Vừa được chấp thuận, tôi liền lên
núi phát hoang cỏ dại. Khi đó, mục kích tận mắt, thấy di tích nền móng chùa chiền
cùng hai tôn tượng Phật đồng, tượng Bồ Tát Quán Âm nằm trong những bụi cỏ dại
um tùm, khiến lệ bi thương tự nhiên tuôn trào. Tôi lập tức bắt tay vào việc dọn
dẹp cỏ lau, sửa chữa chuồng trâu đơn sơ, để làm nơi trú ngụ. Lại nữa, tôi có ý
muốn bảo tồn các thánh tích, nhưng chưa tính toán phải xây dựng lại như thế nào.
Dọn dẹp chưa xong phân nửa, thì quý vị từ các phương xa, mang y bát đến, trú
không đủ chỗ, nên nơi ăn chốn ở trở thành vấn đề khó khăn. Song, tình người thật
khó khước từ. Nếu tiếp nhận thì khó lòng lo lắng nơi ăn chốn ở được chu toàn.
Bất đắc dĩ, phải cùng nhau đồng kham cộng khổ, không quản khổ nhọc, chuyên cần
lao động, khai khẩn ruộng hoang, để lo việc ăn mặc chỗ ở. Lại nữa, có những vị
chưa thọ giới, khẩn cầu tôi thuyết giới và truyền giới. Vì vậy, tôi miễn cưỡng
bảo:
- Muốn truyền giới, trước tiên phải
được chánh phủ phê chuẩn.
May mắn thay, sau này chánh phủ cho
phép lập đàn truyền giới. Được phê chuẩn, tôi bèn công bố trước đại chúng:
- Hiện tại, chánh phủ đã hứa khả
cho phép lập đàn truyền giới. Chúng ta sẽ khai mở phương tiện giới đàn trong một
thời gian ngắn, nhưng chỉ truyền giới cho các vị tân giới tử trên núi. Chớ làm
náo động, thông tin này ra ngoài, bảo là nơi đây có truyền giới. Nếu bên ngoài
biết được, tăng chúng kéo đến ùn ùn, thì thức ăn chỗ ở không đủ, tiếp đãi không
tròn. Tôi vốn vì dưỡng bịnh, nên mới lên đây kết am tranh, chứ chẳng phải muốn
đến đây khai mở đạo tràng, pháp hội truyền giới.
Song, có vài vị tự ý thông tin ra ngoài.
Lại có những vị từ các nơi xa xôi, trôi nổi tới đây, rồi lại truyền tin ra
ngoài, khiến cho khắp bốn phương, viết hàng trăm lá thư hỏi han. Do không thể
vọng ngữ, tôi hồi đáp bảo rằng vì nơi ăn chốn ở tại đây rất khó khăn, chỉ khai
mở phương tiện giới đàn trong một thời gian ngắn cho các vị tân giới tử trên
núi, nên chưa thông báo ra ngoài. Chùa Cao Mân cũng có vài vị gởi thơ đến khẩn
cầu thọ giới. Tình người khó quá, nên tôi chỉ viết vài chữ hồi đáp rằng nếu
muốn đến đây, phải có giấy chứng nhận của chánh phủ, bằng ngược lại chớ nên đến.
2. Nguyên nhân những vị bên ngoài đến không thể thọ giới
Hôm nay, quý vị đường xa vạn dặm mà
đến đây. Nếu không nói rõ nguyên do, e rằng quý vị sẽ hiểu lầm. Chánh phủ vốn
thực hành chính sách tự do tôn giáo. Đối với những việc truyền giới, đả thất,
giảng kinh thuyết pháp, họ đều cho phép. Truyền giới lần này, chánh phủ Trần
Minh cùng tôn giáo sự vụ và liên hội Phật giáo đã phê chuẩn. Sao quý vị từ xa
đến không được tham gia? Trước mắt là việc ăn uống nghỉ ngơi rất khó khăn. Vã lại,
ở Thượng Hải, hội Thiên Chúa giáo đang bị rắc rối. Đây là việc của ngoại đạo,
nên không cần nói đến. Hội Thanh Niên Phật giáo tại Thượng Hải thường lấy việc
hoằng pháp lợi sanh, mà cũng bị rắc rối với chính quyền cộng sản. Đây là việc
của cư sĩ, cũng không bàn tới. Tại các đạo tràng Kim Cang của người xuất gia,
lại liên tục phát sanh bao sự tình rối rắm. Tận mắt chứng kiến những sự việc
này, quý vị có đau lòng hay không? Lại nữa, chính quyền ở tỉnh Cam Túc đánh điện
cho chánh quyền tỉnh Giang Tây, bảo rằng nơi đây có ngoại đạo, ẩn mình trong
giới Phật giáo mà đến Vân Cư. Sự việc trắng đen chưa rõ. Một người làm hại biết
bao nhiêu người. Việc này rất hệ trọng, nên không thể chẳng phòng ngừa.
3. Khai thị phương tiện tự thệ thọ giới
Quý vị vì không biết nguyên nhân
truyền giới của bổn tự mà đến đây. Lại nữa, hiện nay tại Thượng Hải đã phát sanh
rất nhiều việc rắc rối. Do đó, xin quý vị ở bên ngoài đến, sau khi thọ giới xong
hãy mau mắn trở về. Nghe qua lời này, chắc chắn quý vị sẽ bị phiền muộn. Song,
tôi không nhẫn tâm nhìn thấy quý vị bị tai họa.
Những năm về trước, tôi truyền giới
mất cả năm mươi ba ngày. Năm nay, vì việc sinh sống khó khăn bề bộn, nên thời
gian truyền giới phải giảm xuống. Tôi định là rằm tháng mười nhập đàn truyền
giới, cho đến ngày mười tám tháng mười một thì kết thúc. Tổng cộng là ba mươi
hai ngày. Hiện tại, nhân duyên cũng không đủ, lại hoãn kỳ truyền giới trong nửa
tháng; định đến mồng một tháng chạp mới nhập đàn truyền giới, rồi đến ngày mười
tám là viên mãn.
Hôm nay, đặc biệt vì có rất nhiều
quý vị tân giới tử từ các nơi khác đến, nên khai phương tiện tự phát nguyện thọ
giới. Hy vọng quý vị từ bên ngoài tới, hoan hỶ y chiếu hành theo. Đời của tôi
vốn rất bất mãn người lạm thiết giới đàn, và lạm truyền giới pháp. Thật vậy,
tôi thấy có vài nơi truyền giới, chỉ giống như chỗ buôn bán, mà không cần hỏi
han hòa thượng giới sư cùng hòa thượng A Xà Lê, có làm đúng như giới pháp không.
Tam đàn đại giới chỉ tổ chức trong ba ngày hoặc một ngày. Bán giới điệp khắp
nơi, rồi gọi tên đẹp đẽ là Ký Giới, mà chẳng biết quy thức giới luật như thế
nào. Tâm tôi thống khổ đau nhức muôn vàn khi nghĩ đến những kẻ manh tâm buôn bán
đức Như Lai, hủy hoại Phật pháp. Song, tại sao tôi lại khai phương tiện tự phát
nguyện thọ giới?
Bàn về việc thọ giới, có hai loại
khác nhau, tức là thọ Phật giới và thọ tăng giới. Năm chúng xuất gia, nơi chánh
điện quỳ trước tượng chư Phật chư Bồ Tát. Giới sư khải thỉnh ba lần, khiến giới
tử lãnh thọ Bồ Tát mười giới trọng vô tận, bốn mươi tám giới khinh. Hai chúng
tại gia thọ sáu giới trọng, hai mươi tám giới khinh. Đấy là Phật giới. Đối với
giới Bồ Tát, vì đã quên bản ngã, nên trước tượng chư Phật chư Bồ Tát, phát nguyện
lãnh thọ giới pháp. Song, đối với người cầu thọ giới Bồ Tát, hãy tự xem xét
rằng mình đã quên bản ngã chưa!
Trong tăng chúng, chư sa di lễ
thỉnh mười hòa thượng, bạch bốn pháp Yết Ma, lãnh thọ hai trăm năm mươi giới, tức
trở thành tỳ kheo. Sa di ny thọ ba trăm bốn mươi tám giới, trở thành tỳ kheo ny.
Đây là tăng giới; vì chư Thanh Văn, chưa quên bản ngã, nên phải cần mười vị hòa
thượng giới sư chứng minh truyền giới.
Bồ Tát giới bổn viết: "Nếu trong
vòng ngàn dặm, không có thầy truyền giới, thì có thể quỳ trước hình tượng Phật
Bồ Tát mà tự thệ thọ giới, nhưng phải thấy điềm lành tướng tốt".
Kinh Hoa Nghiêm nói: "Tất cả nghiệp
chướng, đều từ vọng tưởng sanh ra. Nếu cầu sám hối, phải ngồi niệm thật tướng.
Nghiệp tội như sương mai, mặt trời trí huệ có khả năng diệt trừ. Nếu thanh tịnh
được sáu căn thì thành tựu giới tướng".
Vì vậy, nếu trong vòng ngàn dặm mà
không có vị truyền giới sư thì có thể phương tiện tự thọ giới Bồ Tát, nhưng
phải thấy tướng hảo. Nếu trong vòng ngàn dặm có vị giới sư thì không thể tự thệ
thọ giới. Ngày nay, quý vị đến đây, không xa ngàn dặm, tức là đã phát tín tâm.
Hư Vân tôi chẳng phải trốn tránh việc thuyết giới và truyền giới, mà do nghịch
duyên chướng ngại, nên nơi đây đành phải khai mở phương tiện tự thọ giới Bồ Tát.
Đối với tăng giới, mắt phải quán
thấy nghi thức giới đàn, và tai nghe thuyết giới Yết Ma, thì mới đắc giới thể.
Tăng giới tức thọ giới từ chư tăng, không thể tự thệ thọ giới. Song, lần này
quý vị đến đây, ân cần khẩn cầu thọ giới. Giới đàn quý vị đã thấy; mười vị giới
sư đã nhận ra. Mỗi ngày quý vị đã nghe tôi giảng phép tắc thọ giới; tuy chưa
chính thức đăng đàn, nhưng quý vị có thể trở về quê quán tự thệ thọ giới. Tôi
tác pháp nơi đây, sẽ hồi hướng đến quý vị. Tuy chưa được tính là làm đúng như
pháp, nhưng cũng không vượt ngoài giới pháp.
Kinh Tăng Nhất A Hàm nói: "Pháp
chân thường của chư Phật, nếu xưng 'lành thay, tỳ kheo đến đây', liền thành sa
môn".
Hư Vân tôi đức kém, sao sánh bằng
Phật, nhưng vì gặp nhân duyên chướng ngại, nên vạn phần bất đắc dĩ mới quyền
thiết phương tiện. Hào quang chư Phật thường tịch tĩnh, chắc sẽ thầm mật hứa
khả. Song, quý vị nên biết, nếu không có nhân duyên đặc thù nào, thì chẳng có
thể khai mở phương tiện thọ giới như vầy được.
Hư Vân tôi nghiệp chướng thâm
trọng. Vì được quý vị thỉnh mời, nên tôi phải miễn cưỡng ra thuyết giới. Do nhân
duyên tiền kiếp kém cỏi, ngày nay chúng ta mới thọ những nghịch duyên không như
ý. Khi trở về bổn xứ, nơi chùa chiền, am miếu, tịnh thất, phải chí thành lễ Phật,
khất cầu sám hối. Phải an bài, định nhật kỳ, ngày giờ. Mồng một khai đàn, mồng
tám thọ giới Sa Di. Ngày mười lăm thọ giới Tỳ Kheo. Ngày mười sáu dâng hương
cúng Phật. Ngày mười bảy thọ giới Bồ Tát. Ngày mười tám thì viên mãn công đức.
Lễ sám chân thành khẩn thiết, nếu thấy hảo tướng tức là đắc giới. Sau đó, thỉnh
chư trưởng lão thượng nhân chứng minh, hứa khả cho giới tử đàn tràng, chiếu
phát giới điệp. Phải nên tự học tập hành trì quy củ phép tắc, oai nghi tế hạnh
trong luật Tỳ Ni. Hôm nay, vì quý vị khai mở phương tiện truyền giới, chỉ vì
bất đắc dĩ mới hành.
Người xưa bảo:
- Thà thân đọa xuống địa ngục, chớ
đem Phật pháp hành theo tình người ở thế gian.
Hôm nay, Hư Vân tôi làm những việc
như vầy, chắc phải đọa địa ngục. Song, tôi muốn nhắn nhủ rằng nếu quý vị không
lưu tâm, không hành trì đúng giới pháp, lạm dụng ăn cắp hình tướng oai nghi
Phật, vọng xưng Thích Tử, chỉ có tấm giấy giới điệp, chỉ đeo quảy hư danh trống
rỗng, thì đến ngày cuối gặt quả báo, cực khổ không lường. Hãy lưu tâm cẩn trọng.
4. Y bát
Y bát là chánh duyên thọ giới. Nay
lược thuyết danh tướng của y bát cho quý vị nghe. Bảy chúng xuất gia, thọ y bát
không đồng. Tổng quát, có mạn y và ba loại y của tăng chúng. Mạn y, tiếng Phạn
gọi là Bát Tra. Mạn tức là tản mạn, thông mạn, tức y tướng không có sọc điều.
Đây là y lễ sám, tức y của Sa Di, Sa Di Ni. Nếu là ưu bà tắc, ưu bà di, đã thọ
tam quy ngũ giới hay Bồ Tát giới, thì có thể đắp y này khi làm Phật sự, lễ bái
tụng kinh tại am tranh, chùa chiền. Nếu ở nhà, ra vào tới lui, đều không được
đắp, mà phải để y nơi thanh tịnh.
Ba y, tức là y năm điều, bảy điều,
và đại y. Luật chế tỳ kheo, tỳ kheo ny, phải có đủ ba y hoại sắc, may cắt dài
ngắn tùy theo kích thước để thúc liễm thân tâm, như đắp bờ ruộng, giữ nước trưởng
dưỡng lúa mạ. Ruộng y biểu hiện pháp, thấm nhuần bốn loại nước lợi ích, tăng
trưởng ba loại lúa mạ lành thiện, nuôi dưõng pháp thân, tích tụ huệ mạng. Thế
nên, chư tăng được gọi là phước điền tăng. Y cũng được gọi là y phước điền. Y
năm điều, tiếng Phạn gọi là y An Đà Hội, hạ y, y nhiễm tác, tức y để làm việc chấp
tác.
Y năm điều, một dài một ngắn, cắt
nối làm thành. Đây là y mà tỳ kheo, tỳ kheo ny, thường mặc để chấp tác lao
động, ra vào đến đi.
Y bảy điều, tiếng Phạn gọi là Huất
Đa La Tăng, tức y nhập chúng, hay thượng y. Bảy điều, tức hai mảnh dài, một
mảnh ngắn, may cắt thành. Đây là y mà tỳ kheo, tỳ kheo ny thường đắp lúc lễ Phật,
sám hối tụng kinh, tọa thiền, thọ trai, nghe giảng kinh, kiết hạ an cư, tác tụ
tứ, cùng họp tăng, nhóm chúng.
Đại y, tiếng Phạn gọi là Tăng Già
Lê, và tiếng Tàu gọi là y Tán Toái, tức dùng các miếng vải nhỏ mà may kết
thành. Đây là y có nhiều điều và lớn nhất của chư tỳ kheo, nên gọi là đại y. Lúc
đăng đàn thuyết pháp, nửa tháng tụng giới Bố Tát, thường đắp y này. Đại y có nhiều
loại, như thượng trung hạ phẩm. Hạ phẩm có ba loại. Hạ hạ phẩm là y chín điều.
Hạ trung phẩm là y mười một điều. Hạ thượng phẩm là y mười ba điều. Ba phẩm y
này có hai miếng dài, một miếng ngắn, may cắt lại thành. Trung có ba phẩm.
Trung hạ phẩm có mười lăm điều. Trung trung phẩm có mười bảy điều. Trung thượng
phẩm có mười chín điều. Ba phẩm y này có ba miếng dài một miếng ngắn, cắt may
lại thành. Thượng phẩm có ba loại. Thượng hạ phẩm có hai mươi mốt điều. Thượng
trung phẩm có hai mươi ba điều. Thượng thượng phẩm có hai mươi lăm điều. Ba
phẩm y này có bốn miếng dài, một miếng ngắn, cắt may hợp thành. Những loại y này
phải dùng vải bố thô may thành, chứ không thể may bằng vải tơ lụa mỏng thưa. Lại
nữa, không thể thêu may tượng ngàn vị Phật lên trên y. Có người thêu may hình
Phật lên trên y, rồi gọi đó là y ngàn vị Phật. Là đệ tử Phật, phải nên tôn kính
đảnh lễ hình tượng Phật. Sao lại điên đảo thêu may hình tượng Phật lên thân?
Thậm chí có người lại may hình Phật bên dưới bắp đùi.
Thiên Phật y là chỉ cho ba loại y
bên trên. Chư Như Lai đạo đồng, ngàn Phật tương truyền, đều giống như nhau, chứ
chẳng phải thêu ngàn Phật trên y mà gọi là Thiên Phật y.
Lại nữa, do khí hậu ở Ấn Độ rất
nóng, nên tỳ kheo chỉ đắp ba y và mặc một cái khố, chứ không có y phục nào khác.
Thế nên, ba y này thường không rời thân. Ngủ cũng mặc, và chết cũng không rời
bỏ. Khí hậu ở Tàu rất lạnh, nên trong mình chư tỳ kheo còn đắp thêm những đồ ấm
khác. Lúc làm Phật sự, mới đắp y ca sa. Vì vậy, những y ca sa này không thường
được đắp. Nếu ra ngoài hành cước, phải mang theo, vì rời ba y này tức phạm giới.
Bàn đến y phục của Sa Di, Sa Di Ni,
quyển Án Tát Bà Da, tức luận Tỳ Bà Sa, viết: "Sa Di được mặc thượng y và hạ
y, tức là y An Đà Hội và y Huất Đa La Tăng, khiến được thanh tịnh nhập chúng, và
đi đứng được thuận tiện".
Bộ luận Căn Bổn bảo: "Sa Di thọ
y Mạn Điều. Nếu đủ hai mươi tuổi, có thể thọ giới Cụ Túc, cầu ba y, bình bát tọa
cụ".
Lời bàn của luận Tỳ Bà Sa về y Sa
Di ở trên, không đồng với y năm điều của tỳ kheo. Năm điều tức một dài một ngắn.
Bảy điều tức hai dài một ngắn. Cắt may thành hình thửa ruộng. Mượn tên năm điều
hay bảy điều, nhưng lúc cắt may thì không dùng tướng y năm điều hay bảy điều. Y
không có điều tức gọi là mạn y.
Mạn y không có điều. Gần đến khi
thọ giới cụ túc, thì mới may cắt thành tướng y có điều. Trong thời gian đó, có
thể lập phương tiện. Theo giới luật, Sa Di có ba loại: Thứ nhất, từ bảy tuổi đến
mười ba tuổi, gọi là Sa Di đuổi quạ. Nhỏ tuổi cầu xuất gia, ngài A Nan không dám
độ. Phật bảo rằng nếu đuổi được quạ thì cho phép xuất gia. Thứ hai, từ mười bốn
tuổi đến mười chín tuổi, gọi là Sa Di Ứng Pháp, tức chân chánh hợp với địa vị
của Sa Di. Hạng này phải theo thầy học năm năm, để được huấn luyện thuần thục.
Nếu kham khổ nổi, thì tiến thêm một bước, thọ giới cụ túc, nên gọi là Sa Di Ứng
Pháp. Thứ ba, từ hai mươi tuổi đến bảy mươi tuổi, gọi là Sa Di Danh Tự. Người
này vốn hợp địa vị tăng sĩ, nhưng vì nhân duyên chưa đủ, nên chỉ làm Sa Di trên
danh tự. Sa Di đuổi quạ, Sa Di Ứng Pháp, chỉ được đắp y không có điều, vì chưa
thuộc địa vị tăng sĩ. Đối với Sa Di Danh Tự, nếu đã hơn hai mươi tuổi, mà quyết
chí sẽ đăng đàn thọ giới cụ túc, thì không chỉ hạn cuộc hành trì pháp thức Sa
Di, mà có thể dần dần thăng tiến, nhưng không thể nhảy cấp bậc được. Hạng Sa Di
này, được hứa khả y tướng phước điền tức y năm điều, nhưng không thể mặc y Tăng
Già Lê.
Bàn luận thêm đôi chút, muốn thọ
giới tỳ kheo phải đủ hai mươi tuổi. Nhưng nếu chưa đủ tuổi, Phật chế rằng từ ngày
ra đời cho đến hiện tại, dùng năm nhuận, lấy ra một tháng nhiều ngày nhất, rồi
trong tháng đó, rút ra một ngày, bổ túc vào. Nếu tính đủ tuổi thì có thể thọ giới
cụ túc. Song, mọi việc đều phải tính vào nhân cách, chớ quá câu chấp. Chư đại
tổ sư xưa kia, xuất gia thọ giới tỳ kheo, chưa đủ tuổi tác, cũng không ít.
Tọa cụ, tiếng Phạn gọi là Ni Sư
Đàn, tức y tùy tọa, y phu tọa, y sấn túc. Y này giống như nền tháp. Thân người
thọ giới tức là tháp của năm phần pháp thân. Do từ năm phần pháp thân mà giới
thể phát sanh. Tọa cụ này, bảy chúng xuất gia đều có thể thọ trì.
Bình bát, tiếng Phạn gọi là Bát Đa
La, nghĩa là Ứng Lượng Khí, tức đầy đủ ba pháp: Thể, Sắc, Lượng. Thể tức là thể
thức phép tắc, chỉ được dùng hai vật thiếc sắt, ngói vôi, mà không được dùng
đồng hay gỗ chế tạo thành. Sắc tức là dùng hột Ma Tử Hanh, dầm nhuyễn rồi bôi
trong ngoài. Dùng tre hun khói thành màu đen. Vẽ hình chim Cưu Linh Khổng Tước
ngoài bình. Nung thành màu đen vì vào mùa hè, trong bình bát nếu chứa nhiều thức
ăn thì không bị lên men, và cặn cáu không đóng. Bàn về lượng, thượng bát có thể
chứa một đấu rưởi. Trung bát chứa một đấu. Hạ bát chứa năm thặng. Theo tiêu chuẩn,
thượng bát chứa một đấu. Trung bát chứa bảy thặng rưởi. Hạ bát chứa năm thặng.
Những loại bình bát này, chỉ có hai chúng xuất gia mới được dùng.
Ba y, một tọa cụ, một bình bát là
chánh duyên thọ giới của hai chúng xuất gia. Phải luôn giữ gìn bên thân. Nếu
vay mượn hoặc không có, tức là phi pháp. Y chuẩn theo giới luật thì không thể
đắc pháp.