23/ Ngày hai mươi chín tháng tư
Giảng về việc tu đạo, chư Phật chư
Bồ Tát chỉ bảo dẹp trừ tập khí. Còn tập khí tức còn làm chúng sanh. Hết tập khí
tức làm thánh hiền. Diệu dụng của chư thánh hiền, biết rõ phiền não tức Bồ Đề.
Nếu không nhận thức rõ, thì Bồ Đề tức là phiền não. Hoán chuyển phiền não và Bồ
Đề như xoay trở bàn tay. Tuy vậy, nói thì dễ nhưng làm lại rất khó. Thiền sư
Điểu Khòa nói:
- Không làm các việc ác. Luôn hành
những điều lành. Đứa nhỏ ba tuổi có thể hiểu lý này, nhưng lão già tám mươi
hành chẳng được.
Hư Vân tôi hổ thẹn muôn phần, vì
tập khí thâm trọng, không thể xoay đầu nhìn lại chính mình, cùng không thể xả
bỏ chấp trước. Lúc đến am tranh này, tôi muốn lang thang ngang dọc; không đoái
hoài đến người, chỉ thích đi lên ngàn đỉnh núi. Việc của thường trụ, không cần
đến tôi. Nếu lo lắng nhiều việc, tức làm người bận rộn. Tôi đã từng quản lý hai
ngàn nhà, tập khí chấp trước khó trừ khó xả. Nhìn sự việc mà chẳng thấu suốt
thì thiên lệch vào ái trước.
Sáng nay, thầy tri sự bảo mọi người
không cần ra đồng làm việc, mà tôi lại bảo phải làm. Có người nói rằng tôi rất
quan liêu phong kiến. Dĩ nhiên, thầy tri sự có lý lẽ riêng; thầy bảo rằng đại
chúng làm lụng quá cực nhọc, nên cần nghỉ ngơi đôi chút. Song, chánh phủ hiệu
triệu, kêu gọi chúng ta phải tự nỗ lực làm ăn. Chúng ta đã vay mượn chánh phủ
hàng trăm ký lúa. Sao không cố gắng hưởng ứng lời kêu gọi, tự cố gắng trồng
trọt? Nhận biết mọi người đều ăn uống thiếu thốn khổ cực, và sợ giữa năm không
mua đủ lúa thóc, nên tôi phải tìm cách xoay sở. Nhân vì mỗi ngày, mỗi người
đáng lý ra phải được mua một ký rưởi gạo. Song, hiện tại mỗi người bị giảm bớt
ba lạng. Tôi nhận thấy rằng lương thực của chúng ta chóng bị giảm bớt. Gạo ít
mà không tăng gia sản xuất thì làm sao đủ ăn! Hôm nay nghỉ ngơi. Ngày mai lại
nghỉ ngơi. Ngày kế, nếu trời mưa, cũng lại nghỉ ngơi. Ba ngày liên tiếp, nghỉ
ngơi không làm ruộng, thì sao trồng trọt sản xuất được? Vì vậy, quý vị có bảo
tôi phong kiến thì tôi là phong kiến. Song, trong phong kiến tôi chẳng có phong
kiến, và trong chuyên chế chẳng có chuyên chế, nên so với cường quyền vô công
lý thì không đồng. Hiện nay, mùa xuân mưa xuống khắp đồng. Nếu không thừa dịp
này mà chịu cực khổ chút ít, xin hỏi giữa năm lấy gì mà ăn? Tuy nói là khổ, nhưng
so với dân làng dưới núi, chúng ta làm việc rất nhẹ nhàng thảnh thơi. Dân làng
mỗi ngày phụ giúp chúng ta cấy lúa để có gạo ăn. Ngày ngày, họ dầm mưa dãi
nắng, không dám biếng nhác. Nếu làm biếng một chút thì sợ chúng ta không nhờ
đến. Thế nên, họ chịu đựng cực khổ rất nhiều, lại cán đán làm việc rất thông
thạo. Chúng ta không cực khổ bằng họ, sao nay lại than van!
24/ Khai thị trong ngày tết giữa
năm
Hôm nay, tết giữa năm vốn là ngày
vui của người thế tục. Là người xuất gia, chớ nên đắm trước. Khi xưa, Hư Vân
tôi cũng tùy thuận thế tình, sống gần thành phố, được người cúng dường bánh
chưng. Chùa chiền cũng hưởng tết như thế tục. Hiện tại, núi Vân Cư không có ai
cúng dường bánh chưng. Bánh chưng vốn để cúng cho quỶ thần, sao chúng ta lại đi
gói bánh này? Nấu nướng bánh chưng thật uổng phí công sức, thời gian, mà chỉ
nên nấu cơm nếp để ăn tết thôi.
Người người sống trên thế gian, phải
nên lưu tiếng tốt lại thiên cổ, chớ để vết nhơ ngàn năm. Quốc gia trọng nhất là
trung, nghĩa, tiết, lễ. Đệ tử Phật một niệm không sanh liền nhận ra bổn lai
diện mục của mình, còn hơi sức đâu để ý đến điềm lành họa phúc. Song, nếu chưa
đạt đến lý vô sanh thì chưa có thể tránh khỏi điềm lành dữ họa phúc.
Vài ngày qua, có nhiều cơn bão lụt.
Năm ngoái, bão lụt xảy ra cũng trong những ngày này. E rằng bão lụt năm nay phá
hoại mùa màng nghiêm trọng hơn những năm trước. Vì xả chấp trước không nổi, tôi
đi ra ngoài cửa núi, thấy dưới chân núi nước chảy lan tràn như biển cả. Lúa mạ
trên đồng bị tổn hoại rất nhiều so với năm rồi. Lương thực của dân chúng không
biết ra sao! Tài chánh và việc mua thực phẩm của chúng ta cũng trở thành vấn đề
rắc rối. Thế nên, đại chúng hãy cố gắng chịu cực khổ để qua cửa ải này.
Những lần ngoài chợ không có bán
gạo, may mắn nhờ ơn chính phủ chiếu cố, nên mua được lúa thóc. Lúc trước, mỗi người
mua được một ký rưởi gạo. Hiện nay, bị giảm bớt bốn lượng, chỉ còn hai mươi
lượng. Một trăm cân lúa, xay ra chỉ còn bảy mươi cân gạo. Mua nhiều lúa thì
không được. Một trăm ký lúa tốn hai mươi đồng. Một trăm ký bột gạo tốn bốn mươi
đồng. Tốn hao rất nhiều, nhưng chẳng mua thì không thể được. Đại chúng hãy
lượng ước mà ăn. Từ đây về sau, không thể ăn cơm, mà chỉ ăn cháo. Mua lúa thì
sợ rằng mua không được, mà lúa trồng thì chưa chín. Chúng ta hãy nhổ khoai tây,
nấu chung với cháo mà ăn. Mỗi cân khoai tây, mắc một đồng hai mươi xu. Giá
khoai mắc hơn giá gạo. Song, khoai do chúng ta tự trồng, nên không tốn hao
tiền. Ăn khoai độn với cháo, hãy cố gắng vượt qua cửa ải gian nan này.
25/ Rằm tháng năm
Lễ Bố Tát ở tùng lâm được tổ chức
hai lần trong mỗi tháng, tức là ngày rằm và cuối tháng. Chiếu theo kinh Phạm
Võng và Tứ Phần giới bổn, nửa tháng tụng giới một lần. Nay tôi đơn lược giải
thích. Giới, tiếng Phạn gọi là Thi La. Tàu dịch là Tịnh Trụ, Thiện Trụ, Trưởng
Dưỡng. Mỗi nửa tháng, tập hợp đại chúng để thuyết giới, khiến tỳ kheo trụ trong
tịnh giới, và có khả năng trưởng dưỡng pháp lành. Phật quán thấy tất cả chúng
sanh bị khổ não trong vòng luân hồi, vì bỏ giác hợp với trần lao, tập khí nặng
nề. Do đó, Ngài phải phương tiện chế ra giới luật, để khiến họ đoạn trừ tập
khí, bỏ trần lao mà hợp với tánh giác.
Luật tức bàn về giới luật. Tiếng
Phạn gọi là Tỳ Nại Da. Tàu gọi là Diệt hay Luật; tân dịch là điều phục. Giới
luật diệt các điều xấu ác, nên gọi là diệt. Luật pháp ở thế gian phán xét tội
nặng nhẹ, cũng gọi là luật. Điều hòa các nghiệp thân miệng ý, cùng chế phục các
hạnh ác, nên gọi là điều phục. Quy thức của giới luật rất nhiều. Sợ quý vị quên
mất nên Phật dạy rằng mỗi tháng phải tụng giới hai lần. Giới Bồ Tát là thể. Giới
tỳ kheo là dụng. Trong ngoài nếu nhất như, thì thân tâm được tự tại. Tụng giới
chẳng phải chỉ dùng miệng lưỡi đọc văn từ, mà tụng được thì phải hành được.
Giảng đến việc trì giới thật rất khó khăn. Lệch một chút, liền phạm giới. Trì giới
như đầu đội chảo dầu sôi; nếu không cẩn thận, để nghiêng lệch chút ít, thì dầu
liền đổ ra, tức là phạm giới. Mỗi nửa tháng tụng giới xong, phải nhớ phải hành.
Miệng tụng, tâm tư duy, để khi gặp cảnh đối duyên thì không phạm giới, và không
khởi mười điều ác. Vì những lý do đó, Phật bảo chư tỳ kheo phải tụng giới hai
lần trong một tháng.
Người sơ phát tâm tu đạo, cung cách
bên ngoài phải nên cẩn thận. Rất nhiều vị lão tăng, cung cách diện mạo cũng
chưa hợp với đạo cho lắm. Nếu một đời chất trực, tinh tấn chuyển hóa, hun đúc
thân tâm, mọi nơi mọi thời đều không để phạm giới, thì mới được xem là tỳ kheo
thanh tịnh. Trong giới luật, tuy có phân tánh giới, giá giới, nặng nhẹ, nhưng
chớ phạm giới nào. Trì giới thanh tịnh như trăng sáng mùa thu, thật không dễ
dàng, phải nên chú ý. Lúc tỳ kheo tụng giới, người chưa thọ giới không thể lắng
nghe. Các Sa Di phải đến trai đường tụng giới, rồi nghe hòa thượng phó chúc dạy
bảo.
Quý vị chớ quên bổn phận xuất gia.
Biểu hiện tướng xuất gia không khó, chỉ việc cạo tóc đắp y ca sa liền được gọi
là tăng sĩ. Hiện tại, có nhiều cư sĩ thường cạo đầu. Thế thì ai là tăng sĩ chân
thật? Như người uống nước, tự biết lạnh nóng. Hy vọng mọi người hãy nên tinh
tấn.
26/ Ngày mười sáu tháng năm
Đêm qua tôi đã nói về việc tụng giới
pháp hai lần trong một tháng, tức ngày rằm và đầu tháng. Đây là lời giáo huấn
phát xuất từ kim khẩu của đức Thế Tôn. Khi Phật sắp nhập Niết Bàn, tôn giả A
Nan hỏi:
- Bạch đức Thế Tôn! Chư tỳ kheo đời vị lai phải tôn ai làm thầy?
Phật bảo:
- Tỳ kheo các ông, sau khi Ta diệt
độ, phải nên tôn kính Ba La Đề Mộc Xoa, như mờ tối được sáng, như người nghèo
được châu báu. Nên biết, giới pháp chính là bậc đạo sư của các ông, không khác
gì như Ta còn tại thế.
Ba La Đề Mộc Xoa tiếng Tàu gọi là
biệt giải thoát, tức bảy phi năm thiên giới cấm của thân miệng. Nếu không phạm
thì mới được giải thoát. Tôn Ba La Đề Mộc Xoa làm thầy, tức kính giới là bậc
đạo sư.
Giới pháp có rất nhiều loại. Do đó,
sợ rằng dễ dàng quên mất và phạm đến, nên mỗi nửa tháng phải tụng giới một lần
để trì giữ. Đã thọ giới nào thì phải thường tụng, và nghe giới đó. Chưa thọ thì
không được tụng hay nghe giới. Chưa thọ giới mà lại tụng giới, thì bất hợp
pháp. Vì vậy, trước khi thọ giới, thầy tụng giới hỏi:
- Người chưa thọ giới Bồ Tát, trong
đây có ra khỏi chưa?
Thầy Duy Na đáp:
- Trong đây không có ai chưa thọ giới
Bồ Tát.
Lúc tụng giới tỳ kheo, cũng phải
hỏi như thế. Đệ tử Phật có bảy hạng: Một
là Tỳ Kheo. Hai là Tỳ Kheo Ny; đây là nam nữ thọ giới Cụ Túc. Ba là Thức Xoa Ma
Na, tức người nữ tập học sáu giới pháp. Bốn là Sa Di. Năm là Sa Di Ni; đây là
nam nữ thọ mười giới. Sáu là Ưu Bà Tắc. Bảy là Ưu Bà Di; đây là nam nữ thọ năm giới
căn bản. Sa Di không được nghe chư Tỳ Kheo tụng giới, vì sợ rằng nếu Sa Di thấy
Tỳ Kheo phạm giới liền sanh tâm cống cao ngã mạn, khinh bỉ chư tăng. Thế nên,
trước khi tụng giới, Sa Di đến trai đường, đảnh lễ quỳ xuống. Vị Thượng Tọa
liền vỗ ấn, bảo:
- Các Sa Di hãy lắng nghe! Thân người
khó được, giới pháp khó nghe. Thời giờ qua mau, đạo nghiệp khó thành. Mỗi người
phải tự thanh tịnh thân miệng ý, chuyên cần học tập kinh luật luận, cẩn trọng
chớ nên làm biếng.
Chúng Sa Di thưa:
- Chúng con y giáo phụng hành.
- Các ông có khả năng tín thọ phụng
hành. Vậy hãy đứng dậy, lễ bái rồi lui ra.
Sau khi Sa Di lễ bái và lui ra, chư
Tỳ Kheo mới bắt đầu tụng giới. Đã thọ giới Phật chế, liền đắc giới thể thanh
tịnh, tức được giải thoát, nhập quả vị Phật, đồng như đấng đại giác, mới là
Phật tử chân chánh. Thọ giới pháp của chư Phật là một việc rất hy hữu. Vì vậy,
sau khi thọ giới, phải nên cẩn trọng hộ trì giới pháp. Thà chết mà vẫn giữ giới,
còn hơn sống mà mất giới.
Luật Tăng Kỳ viết: "Nước Ba La
Chi có hai vị tỳ kheo cùng nhau đến thành Xá Vệ, định vấn pháp nơi đức Thế Tôn.
Giữa đường, miệng khát mà không có nước uống. Khi đến một giếng nước, vị Tỳ
Kheo thứ nhất liền lấy tay vớt nước uống. Vị Tỳ Kheo thứ hai thấy nước có
trùng, nên không dám uống. Thấy vậy, vị Tỳ Kheo thứ nhất hỏi:
- Sao Thầy không uống nước?
Vị Tỳ Kheo thứ hai bảo:
- Đức Thế Tôn chế giới, không được
uống nước có trùng.
- Nếu không chịu uống, chắc Thầy phải
chết khát, thì làm sao gặp được đức Thế Tôn?
- Thà thân này chết, chớ không dám
phạm giới Phật chế.
Chẳng bao lâu, vị thầy thứ hai bị
chết vì khát, nhưng thần hồn lại vãng sanh lên cung trời Đao Lợi, được thân
trời đầy đủ phước báo. Tối hôm đó, vị trời này liền bay đến nơi Phật trú, đảnh
lễ chân Phật, rồi ngồi nghe pháp yếu, đắc được pháp nhãn thanh tịnh. Hôm sau,
vị tỳ kheo uống nước có trùng, đi đến nơi Phật trú.
Phật biết duyên cớ, nhưng vẫn cố ý
hỏi:
- Ông từ đâu đến, đi có bạn không?
Vị tỳ kheo kia liền thuật lại sự
tình. Nghe xong, Phật quở:
- Ông là kẻ ngu si, không xứng đáng
đến đây gặp Ta. Người gặp Ta đầu tiên, chính là tỳ kheo chết khát. Nếu có tỳ
kheo, phóng dật giải đãi, không nhiếp các căn, tuy cùng sống chung với Ta một
nơi, mà thật rất xa Ta. Tuy gặp nơi đây, nhưng Ta thực chẳng thấy ông. Nếu các
tỳ kheo ở nơi bờ bể, không phóng dật giãi đãi, thường luôn tinh tấn, thúc liễm
các căn, tuy ở xa nhưng Ta thường thấy và thường gần gũi người này".
Từ sáng đến tối, so với vị tỳ kheo
giữ giới, chúng ta giống như trư bát giới, chim thiêu khí chướng, vậy có phải
là Phật tử chân chánh không? Phật chế giới cho chư tỳ kheo là trước khi uống
nước, phải dùng đãy lọc nước. Lọc xong rồi mới được dùng. Hiện nay ở trong
nước, ai thường dùng đãy lọc nước? Phật cũng chế giới phương tiện là khi uống
chỉ dùng mắt thường mà nhìn xem nước có trùng hay không, chứ không nên dùng
thiên nhãn. Nếu nhìn bằng thiên nhãn, thì sẽ thấy trong nước có rất nhiều côn
trùng, nên không thể uống được. Nếu miễn cưỡng mà uống, thì phạm giới cấm.
Chiếu theo quy định của quyển Tỳ Ni Nhật Dụng, trước khi uống nước, dầu có thấy
trùng hay không, đều phải tụng kệ chú. Kệ viết: "Phật quán thấy trong một
cốc nước, có tám muôn bốn ngàn côn trùng. Nếu không trì chú này, như ăn thịt
của chúng sanh".Chú viết: "Án bạt tất ba la ma ni sa ha".
Thời gian qua mau, mỗi ngày mười
hai thời: Sáng sáu thời, và chiều sáu thời. Mỗi ngày có hai mươi bốn tiếng. Mỗi
tiếng có bốn khắc. Mỗi khắc có mười lăm phút. Mỗi phút có sáu mươi giây. Thời
giờ trôi qua mau trong từng sát na; bỗng chốc lại vụt đến già. Các vị sa di, từ
lúc lọt lòng cho đến nay, chớp mắt đã được hai ba mươi tuổi. Quý vị có thấy
thời gian trôi qua mau, mà đạo nghiệp khó thành chăng? Người vừa xuất gia, đạo
tâm rất chân thành, nhưng vì đạo nghiệp chưa thành, nên ngày lại qua ngày, trở
thành lười biếng. Vì thế bảo:
- Năm đầu xuất gia, thấy Phật trước
mắt. Năm sau, thấy Phật ở Tây Thiên. Năm thứ ba, hỏi Phật cho tiền.
Nếu đạo tâm không bền vững dài lâu,
thì đạo nghiệp khó thành. Đạo tâm như sương mai buổi sáng, thì làm sao cắt đứt
sanh tử? Do đó, lời phó chúc cuối cùng của tôi:
- Mỗi người phải thanh tịnh thân
miệng ý, chuyên cần tu học kinh luật luận, cẩn trọng chớ phóng dật lười biếng.
Tôi xin khuyên quý vị hãy tinh tấn,
chớ để thối tâm. Khổng Tử bảo:
- Phải thường hành những điều đã
học.
Chớ phân biệt ngày đêm sáng tối, đi
đứng nằm ngồi, mà phải giặt giũ rèn luyện thân tâm, khiến ba nghiệp thanh tịnh.
Kinh là đường lộ, tức con đường
thoát khỏi sanh tử. Luật tức là giới luật, bao gồm năm giới, mười giới, cụ túc giới,
Bồ Tát giới. Luận tức là những lời trước tác của các vị đại đệ tử Phật về việc
phát dương diệu nghĩa trong kinh và luật. Các vị sa di phải nên phát tâm vì
đạo, thường chuyên cần tu học kinh luật luận, chớ để phí uổng thời giờ.
27/ Ngày mười bảy tháng năm
Xưa kia, Triệu Châu hỏi Nam Tuyền:
- Thế nào là đạo?
Nam Tuyền đáp:
- Tâm bình thường là đạo.
- Có thể hướng đến được không?
- Nếu vừa nghĩ hướng đến tức có
giai cấp.
- Nếu không suy nghĩ thì làm sao
biết đó là đạo?
- Đạo không bám chấp vào cái biết
hay cái không biết. Biết tức là vọng giác. Không biết tức là vô ký. Nếu thật sự
đạt đến chỗ không còn nghi ngờ gì về đạo, giống như hư không, rộng rãi thênh
thang, sao còn bám vào thị phi nhân ngã?
Triệu Châu nghe lời này bèn ngộ
đạo.
Chúng ta bắt chước người xưa, nói
lời trống rỗng, bảo để tâm bình thường, mà tâm này ai ai cũng có, nhưng thấy
được đạo gì? Điều trọng yếu là nếu nhận ra tâm bình thường, thì nơi nơi đều là
đạo. Không nhận biết tâm bình thường thì điên đảo suốt ngày. Tại sao? Chúng ta
không chịu xoay đầu, nhìn lại chính mình, chỉ lo hướng ngoại truy cầu, bỏ tánh
giác, hợp với trần lao. Từ sáng đến tối, lưu chuyển theo ngoại cảnh, bỏ đạo
rong đuổi bên ngoài, tìm sờ không được gương mặt của mình. Sao gọi là tâm bình
thường? Tâm bình thường tức là tâm dài lâu. Từ đầu năm đến cuối năm, từ sanh
đến tử, thường thường như thế, mới gọi là tâm bình thường. Ví như người thế
tục, nếu tiếp đãi khách quen thuộc, thì chỉ dùng cơm nước bình thường, mà không
bày biện món ngon vật lạ. Tiếp đãi như thế, có thể làm dài lâu, tức là bình
thường. Nếu khách quý đến, phải bày biện món ngon vật lạ, nhưng chỉ có thể
thiết đãi trong vài ngày, nên nào phải là bình thường. Nhà nhà không thể thường
có lễ lộc, vì chiêu đãi khách khứa bất bình thường thì không thể làm dài lâu. Người
tu đạo, nếu dụng tâm không tạo tác, không an bài, không cải biến, không có lời
hoa ngôn xảo ngữ, tức là hợp với đạo, tức là tâm bình thường, và tức là khởi
trực tâm. Lục Tổ bảo thiền sư Trí Hoàng:
- Nếu tâm ông như hư không, chẳng
chấp không kiến, ứng dụng vô ngại, động tĩnh vô tâm, tình ái phàm thánh đều
quên, năng sở đều câu thông diệt mất, thì tánh tướng như như, không thời bất
định.
Những lời này, bàn về tâm bình
thường. Nếu không thể tu hành tương ưng với những lời dạy đó thì luôn sống
trong hang động quỶ ma, tức tâm không bình thường.
Đêm qua, tôi có nói đến giới luật. Người
vừa phát khởi tín tâm, liền quy y Tam Bảo, cầu thọ năm giới. Tiến lên một bước,
biết đời người là khổ, nên xả tục xuất gia, vào núi tu đạo. Nhận biết tỳ kheo
là tôn quý, nên phát tâm thọ giới cụ túc. Lại phát tâm rộng lớn, cầu thọ giới
Bồ Tát. Tại giới đường, nghe thầy dẫn lễ bảo:
- Phải luôn khởi tâm sám hối, hổ
thẹn.
Khi ấy, vì sợ khổ đau trong sáu
đường luân hồi mà phát tâm tu hành. Nghe pháp mà rơi lệ.
Tiếp đến, hòa thượng giới sư bảo:
- Quý vị có thể trì giới được
không?
Các tân giới tử liền đáp:
- Chúng con có thể phụng trì.
Như thế, liền thọ xong giới. Song,
vừa thọ giới xong các thói quen tật xấu lại phát sanh, khiến thối thất đạo tâm,
tức tâm không bình thường. Nghĩa là cứ mãi dùng tham sân si làm tâm bình
thường.
Người hiểu đạo, động tĩnh vô tâm, không nghĩ thiện ác. Tánh không tức vô tâm.
Vô tâm tức là đạo. Người vừa xuất gia, không biết như thế nào là Phật pháp, quy
củ, tu hành. Nếu muốn cắt đứt sanh tử, phải hành theo quy củ. Khổng Tử chế lễ
nhạc chẳng ngoài việc dạy quy củ cho người. Thân chấp trì giới pháp tức là trừ
khử tập khí. Thân được tự do, thì tâm có chỗ để nương y.
Người xưa có viết kệ về bốn oai
nghi, đi đứng nằm ngồi:
"Cử tiếng niệm Phật, nước chảy chậm
Tụng kinh hành đạo, nhạn du hành
Chắp tay trước ngực, như bưng nước
Thân thẳng trên đầu, tựa chén dầu
Xem trước nhìn sau, nhẹ nhàng bước
Phải trái xoay thân, khép nửa mắt
Oai nghi động tĩnh, thường như thế
Chẳng uổng cửa không, làm tỳ kheo".
Âm thanh ngọc ngà trong trẻo thanh
khiết, xưng niệm thánh hiệu chư Phật, tức là hành pháp môn niệm Phật. Tiến lên
một bước, tự hỏi mình rằng ai đang niệm
Phật, tức tham thiền. Không chịu xoay đầu nhìn lại chính mình, miệng chỉ niệm
Phật mà tâm lại khởi vọng tưởng, lưu chuyển theo vọng tình. Nếu như thế, niệm
Phật thật vô dụng. Khi niệm Phật, miệng niệm tâm phải tư duy, và dùng trí quán
chiếu; âm thanh không nhanh không chậm, như nước chảy từ từ. Miệng niệm, tai
lắng nghe, không khởi vọng tưởng, thì niệm niệm lưu nhập vào biển khổ Ta Bà.
Nghe một danh hiệu Phật, được vô lượng công đức. Chỉ dùng một danh hiệu Phật,
mà có thể độ vô lượng chúng sanh. Khi tụng kinh, hoặc nhìn thẳng mà đọc, hoặc
ngồi mà đọc, hoặc quỳ mà đọc, hoặc mặc niệm mà đọc, hoặc học thuộc lòng,
v.v..., mọi cách thức đều được cả. Tùy theo kinh văn mà quán tưởng, và xem
trong kinh bàn luận về đạo lý gì. Hành đạo tức đi kinh hành. Đi từng bước chân
chậm rãi, không loạn động, không nghiêng bên đông, ngả bên tây, mà đi như nhạn
bay trật tự trên nền trời. Từng bước đi không khẩn cấp, không chậm chạp. Mọi cử
chỉ hành động đều dụng công. Chấp hai bàn tay lại mà chẳng để vô tâm. Mười ngón
tay khắn khít với nhau, không chênh lệch, không co giản, dạng trạng như bưng
cốc nước. Nếu nghiêng lệch, thì nước liền đổ ra. Thân đứng thẳng như cây tùng.
Hai bàn chân hợp lại thành chữ bát. Hai ngón chân cái cách nhau khoảng tám
phân. Hai gót chân cách nhau khoảng hai phân. Gáy cổ phải chạm cổ áo. Đầu thẳng
thừng, không nghiêng ngửa, như đang đội chén dầu, nếu không chú ý thì sẽ đổ
xuống. Đi như gió, phải xem xét trước sau. Bước đi nhẹ nhàng, không kéo lê giày
dép. Đi trên cầu thang, chớ làm vang tiếng động lớn. Cỏ xanh chớ dẫm, phải
thương mến hộ trì sanh vật. Mắt chỉ nên mở phân nửa, nhìn không quá năm bảy
thước. Đi đứng nằm ngồi, oai nghi nếu trang trọng nghiêm túc, sẽ khiến người
nhìn, sanh tâm cung kính. Lúc đầu, nếu không tự khiển trách, thì tương lai làm
sao giáo hóa chúng sanh được! Tự thúc thủ hành vi chân chánh, không bị đọa lạc,
thì mới nhiếp hóa chúng sanh. Có tu đạo hay không, cử chỉ hành động như thế
nào, người khác nhìn vào liền biết rõ. Tâm bình thường tức là tâm trước sau như
một. Trải qua bao phong ba hiểm nạn, tâm này vẫn như như bất động.
Ví như Hám Sơn lão nhân, Ngài là
bậc mô phạm cho chúng ta. Ngài sanh vào đời nhà Minh, ngày mười hai tháng mười
năm Gia Tĩnh thứ hai mươi lăm (1546). Năm mười hai tuổi, xin cha mẹ cho xuất
gia, rồi lễ hòa thượng Tây Lâm tại chùa Báo Ân, ở Nam Kinh, làm thầy thế độ.
Sau đó, Ngài thọ giới cụ túc nơi hòa thượng Vô Cực. Sau khi hòa thượng Tây Lâm
viên tịch, dầu chỉ mới được hai mươi tuổi, mọi việc lớn nhỏ trong chùa, đại
chúng đều nghe theo sự quyết định của Ngài. Sau này, Ngài theo đại sư Vô Cốc
ngồi thiền tại chùa Thiên Giới. Năm hai mươi tám tuổi, nhân du hành đến núi Ngũ
Đài, thấy cảnh núi Hám Sơn thâm sâu hùng vĩ, nên Ngài tự lấy tên núi mà đặt
danh hiệu cho mình. Năm hai mươi chín tuổi, Ngài duyệt xem "Triệu
Luận", bèn liễu ngộ mà không bám văn nghĩa. Thiền sư Cao Phong, pháp lữ
của Ngài, bảo:
- Xin chúc mừng! Thầy có vốn trụ núi rồi!
Năm ba mươi tuổi, Ngài đốn ngộ, bèn
viết kệ:
"Chớp mắt tâm niệm cuồng dừng
Căn trần nội ngoại đều thấu suốt
Thân bay độc phá thái hư không
Vạn tượng xum la từ khởi diệt".
Từ lúc cắt tóc xuất gia, đến năm
bảy mươi mốt tuổi, đôi chân Ngài đi du hành khắp nơi. Mỗi lần Ngài lên tòa
thuyết pháp, nói một hơi cả ngàn lời. Việc này được thị giả ghi lại đầy đủ
trong quyển tiểu sử niên giám của Ngài. Sự tích về cuộc đời Ngài, kể rõ rằng
trong bao thập niên, dầu hoàn cảnh thiên biến vạn hóa, chịu muôn ngàn khổ đau,
nhưng đạo tâm thủy chung bất biến. Đó là tâm bình thường, dài lâu. Lúc bị đày
đến Lôi Dương, Ngài có viết bài Quân Trung Ngâm:
"Cởi áo tu liền đổi dạng
Vốn tin tùy duyên là đạo tràng
Chịu đựng nắng gắt như lửa cháy
Nan tiêu băng tuyết lạnh
tâm tràng".
Tâm Ngài kiên cố bất biến, mới thổ
lộ ra những lời này. Ngài chính là bậc mô phạm cho chúng ta.
Ngày nay, Phật pháp bị suy vi quá mức, vì trải qua bao phong ba bão táp. Trước
ngày giải phóng, tăng ni toàn quốc có khoảng tám trăm ngàn vị. Năm ngoái, chỉ
còn bảy mươi ngàn vị. Trong mười người thì có tới chín người hoàn tục. Đó là vì
tâm không dài lâu, và không kiên cố. Bị lửa đốt một chút là chân đứng không
yên. Nếu là Phật tử chân chính, phải nên lập chí nguyện, có đầy đủ tâm tràng
sắt đá. Đầu tiên phải học oai nghi, tuân theo quy củ, mà không sợ kẻ khác bảo
mình là người cứng đầu. Phải giữ tâm đến chết, mãi mãi tôn kính giáo giới của
Phật. Do bao kiếp trồng căn lành, nên đời này mới được vào cửa Phật. Phải nỗ
lực cầu đạo, trừ khử tập khí. Làm được những việc này rồi, thì từ từ sẽ trở
thành những bậc đại tu hành, sớm đắc nhập lý thể. Chớ chạy vào chợ búa danh
lợi, làm tay sai cho quốc vương. Tâm phải kiên cố, vĩnh cửu không đổi. Tâm bình
thường động tĩnh nhất như.
28/ Ngày mười tám tháng năm
Trong quyển Thiền Môn Nhật Tụng có
bài Phí Nhàn Ca của đại sư Hám Sơn. Mười câu đầu nói về mười việc khó. Mười
việc khó đó, nếu bàn thì chỉ phí sức, mất thời gian, vô dụng, nên gọi là Phí
Nhàn Ca. Nếu làm được mười việc này thì liễu thoát khỏi sanh tử. Mười việc này
gồm có: Thể hội đại đạo khó; giữ quy củ khó; gặp thầy hiền khó; vượt khỏi trần
lụy khó; tâm chân thật khó; ngộ đạo khó; giữ cửa ải khó; có tín tâm khó; có tâm
cung kính khó; hiểu rõ lời kinh khó.
So với người xưa, tôi cảm thấy rất xấu hổ, không dám ra vẻ đạo mạo. Người khác
xem tôi là kẻ lỗi thời, nhưng cũng có kẻ cho rằng tôi có đạo đức. Việc này tôi
chẳng dám nhận. Lại nữa, có kẻ khác nhận ra tánh xấu của tôi. Những việc này,
như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Đây không phải là lời khách sáo. Người
xưa bảo:
- Vẽ hổ vẽ da, khó lường cốt. Biết người
biết mặt, chẳng biết tâm.
Tôi rất xấu hổ, ai nào biết đến?
Trải qua bao năm, tôi chỉ lừa Phật ăn cơm. Quý vị chắc không tin điều này, cũng
không hiểu nỗi khổ tâm của tôi. Khổ não vì nghiệp chướng, nói ra chẳng được.
Hiện tại, chỉ ăn không ngồi rồi; muốn giảng giải mà thuyết chẳng hay. Thật ra
những lời tôi nói ra, đều là điển chương của người xưa, hoặc là nước miếng của người
khác. Tất cả đều là mắt thấy tai nghe, mà trong bao tử lại trống không. Chư
Phật cùng thánh hiền, chỉ truyền một tâm ấn, không nói lời nào. Phật Tổ tương
truyền, không ngoài việc đó. Người xưa nói được thì làm được. Riêng tôi thì nói
được mà làm lại không được. Kẻ sáng mắt hiểu lời này, và nhắc nhở rằng tại sao tôi
không tự giảng giải cho mình!
Ngày trước, tại Hàng Châu có người
gởi thơ ẩn danh, chỉ trích tôi: "Có người tự nghĩ rằng mình là bậc tổ sư
của thiền tông. Tự tôn tự đại, nhưng phần nhiều lại thầm lặng chấp không. Tuy
tri giải đầy cả bụng, nhưng đối với bổn phận thì chẳng tương ưng chút nào. Chỉ
a dua chạy theo quyền thế, thâu nhận lắm môn đồ. Tuy danh huyên náo một đời mà lại
trống không... Vì thế, không thể lạm truyền giới pháp cho những người bất thánh
bất hiền (tức những người xấu). Gặp những ai phải nên truyền mà lại không
truyền, thì phải chịu phần trách nhiệm. Nếu truyền giới cho những người không
nên truyền thì cũng phải chịu trách nhiệm. Không biết Đại Sư đã từng gặp người
nên truyền mà lại không truyền, người không nên truyền mà lại đi truyền chưa?...
Thứ nhất, hòa thượng mà để tóc dài, tức loại Sa Môn tệ hại, khiến mở cửa cho
ngàn đời sau, phá gia phong giới pháp, lưu vết nhơ muôn thuở, kẻ hậu học chê
cười. Thứ hai, biến cố tại Vân Môn, chẳng rõ cớ sự, chỉ tự an ủi rằng việc này
do quả báo túc nghiệp, khiến cho ba tăng bị mất tích, một vị tăng bị vong mạng.
Hai việc này, chứng minh công đức Đại Sư thâm sâu quá nhỉ? Khổng Tử bảo:
- Tôi rất may mắn vì cẩu thả tạo
tội, mà người người đều biết.
Thơ chỉ trích này, chính là bậc
thiện tri thức của tôi, thật rất tri ân. Tiếc thay, thơ không đề tên, lại không
có địa chỉ hồi đáp. Người đó bảo:
- Nhờ thần minh của Đại Sư, có thể
biết được. Nếu có duyên với nhau, thỉnh cầu Đại Sư hồi đáp.
Vì thế, tôi viết một lá thơ, gởi đến Hàng Châu, nhờ pháp sư Tâm Văn, kiểm xem
lá thơ đó do ai viết, để hồi đáp thơ từ. Người đó bảo tôi rằng "tự xưng là
bậc tổ sư; làm thầy tri thức của các học nhân; hạnh giải được tương ưng; làm
bậc long tượng trong tông môn. Không hổ thẹn làm con mắt của trời người. Ngoài
Đại Sư ra, còn có ai đảm đương nổi!"
Việc chỉ trích đầu tiên của người
đó là tôi "tự xưng là bậc tổ sư của thiền tông". Tôi nào dám tự xưng
là bậc tổ sư như thế đâu. Song, người này lại tán thán "ngoài Đại Sư ra,
còn có ai đương đảm nổi!"
Lời này tôi thật không dám thừa
nhận. hỏi về việc truyền giới pháp,
chính tôi không biết mình có đắc giới hay không, sao lại dám bảo truyền được
hay không truyền được? Luận về việc hòa thượng để tóc dài, người khác thật
không hiểu cho tôi. Lúc vừa xuất gia, vì chưa hiểu đạo lý, nên tôi lầm ngộ học
hạnh đầu đà, quấn tóc kim cô. Sau này, bị thiện tri thức mắng chửi, nên mới cắt
tóc. Từ đó, mỗi năm đến đêm trừ tịch, cắt tóc một lần. Bình thường, tôi không
cắt tóc và cạo râu. Tôi vốn không có ý muốn để râu tóc dài. Chiếu theo giới
pháp, phải nên cắt bỏ râu tóc. Phong tục ở Trung Thổ là dùng râu tóc làm tướng
đại trượng phu. Thân thể, râu tóc, thọ từ cha mẹ, nên rất nhiều chư Tổ Sư ở
Trung Thổ, vì hiếu thuận như người thế tục, mà lưu râu tóc lại.
Bàn về sự biến ở Vân Môn, người này
lại trách tôi không rõ việc. Thật ra, việc này chẳng can hệ gì với tôi. Ai mất
tích, ai vong mạng, tôi nào biết đến! Chư Tổ Sư xưa nay gặp nạn do quả báo túc
nghiệp rất nhiều. Những lời này, vì tôi vẫn còn chấp, nên mới đối đáp. Vào lúc
bình thường, dùng lời người xưa để khuyên nhủ người khác, nhưng khi chính tự
gặp nghịch cảnh, thì tự mình giải mở không nổi. Tin những lời chân thật của người
xưa, nhưng hành không được, thật uổng công phí sức. Đàm luận thuyết không không
cũng vô ích. Hận cho mình chỉ lo nói suông chữ Không tầm xào. Tuổi già bịnh
hoạn, không sức hành trì; khác với người xưa, muốn sống thì sống, muốn chết thì
chết, đến đi tự tại.
Quý vị sơ phát tâm, đồng môn tham
học, chớ đề cao hư danh, chớ nghe những lời rỗng tuếch của tôi. Nếu không tự nỗ
lực tu hành, chỉ lo hướng ngoại truy cầu, thì không thể trụ tâm được. Hành trì
không hạn cuộc tại gia hay xuất gia. Cả hai đều giống nhau.
Hôm nay, kể cho quý vị nghe một
điển tích. Đời Minh, ở tỉnh Vân Nam,
có một vị họ Thái, sống ngoài thành Tiểu Đông tại Côn Minh. Cha mẹ qua đời, để lại
tài sản điền viên, nên cuộc sống sung túc. Song, ông vẫn cần mẫn lao động, tự
trồng rau, đem ra chợ bán để sinh sống. Vợ trẻ đẹp, nhưng háu ăn làm biếng,
thường cùng Dã Hán Tử tư thông. Ông tuy biết, nhưng không nói năng gì. Lâu sau,
cô vợ không e ngại, nên ngày ngày tư thông với Dã Hán Tử, chẳng thèm đoái hoài
đến chồng. Ngày nọ, ông đem rau ra chợ bán, rồi mua rượu thịt, trở về nhà thật
sớm. Lúc đó, Dã Hán Tử đang tư thông cùng cô vợ, chưa kịp ra khỏi nhà, nên phải
ẩn núp dưới sàng giưòng. Vào nhà, ông xuống bếp làm cơm. Cô vợ tuy biết có việc
chi không hay, nhưng làm bộ rửa mặt, rồi vào nhà bếp, phụ ông chồng nấu nướng.
Nấu nướng xong, ông bảo cô vợ bày biện chén đũa. Lúc cô vợ đặt để hai chén cơm,
ông lại bảo:
- Hãy đặt thêm một chén cơm. Hôm
nay tôi đãi khách.
Vừa đặt chén bát xong, ông bảo cô
vợ mời khách ra ăn cơm uống rượu. Cô vợ ra vẻ kinh ngạc:
- Khách ở đâu?
Ông bảo:
- Ở trong phòng.
Cô vợ run rẩy nói:
- Chàng chớ nói bậy. Trong phòng
làm gì có khách!
- Chớ sợ sệt, không có chuyện gì
đâu! Hãy mời hắn ra. Nếu không chịu ra, tôi sẽ cho hắn một đao.
Cô vợ bất đắc dĩ phải vào kêu Dã Hán Tử ra. Ông mời Dã Hán Tử ngồi trên ghế
cao, rồi cung kính, đưa rượu cho uống. Thấy Dã Hán Tử ngập ngừng, vì sợ trong
rượu có chất độc, ông cầm ly rượu lên uống. Lúc đó, Dã Hán Tử mới an tâm. Ăn
uống no nê xong, ông đứng dậy, lễ Dã Hán Tử ba lạy, bảo:
- Hôm nay thật là duyên lành! Vợ
tôi trẻ đẹp, không ai ngó đến, nhưng nay được ông chiếu cố, thật là may mắn.
Gia tài và vợ của tôi đây, nay giao cho ông hết. Xin hãy tiếp nhận!
Dã Hán Tử và cô vợ đều không dám
nói năng chi. Ông liền cầm đao, bảo:
- Nếu không đáp ứng, tôi sẽ lấy
mạng các người!
Hai người không biết làm gì, chỉ
vâng dạ. Từ đó, một mình tay không, ông rời nhà đi đến núi Trường Tùng am Tây
Lâm để xuất gia. Nơi đó, ông vừa tu hành vừa trồng rau để sinh sống. Sau này,
công phu có phần tương đắc.
Bàn về Dã Hán Tử, sau khi thọ nhận
tài sản và sắc đẹp, chỉ lo ăn uống chơi bời biếng nhác. Ngày ngày mắng chửi
đánh đập cô vợ. Ăn ở không yên, cô vợ rất hối hận, chạy đến am Tây Lâm, thỉnh
cầu ông chồng cũ trở về. Tưởng đâu ông sẽ vui mừng, nhưng ông lại chẳng thèm
đếm xỉa đến cô ta. Sau này, Dã Hán Tử phá sạch cả gia tài, khiến cô vợ không
còn nơi nương tựa. Nhớ đến ân tình của chồng cũ, cô ta định báo đáp. Lúc trước,
ông thường thích ăn cá tươi đuôi vàng ở Côn Dương. Cô vợ liền đi mua vài con,
đem về nướng, rồi mang đến am Tây Lâm. Ông cầm và bảo:
- Tôi tiếp nhận ân tình của cô,
nhưng sẽ phóng sanh những con cá này.
Cô vợ bảo:
- Chúng đã bị nướng, không thể
phóng sanh!
Ông liền bỏ cá xuống nước. Đàn cá
đều sống lại. Hiện nay, trong những truyện cổ tích tại Hắc Long Đàm ở Côn Minh,
có nhắc đến loại cá đó. Ông Thái tuy là người thế tục, nhưng đối với tài sản vợ
con, đều xả bỏ được hết, nên tu đạo được thành công. Nay khuyên quý vị, hãy xả
bỏ muôn duyên, nỗ lực tu hành, thì quả thánh sẽ có kỳ!
29/ Ngày hai mươi tháng năm
Pháp của Phật thuyết ra, có thiên
kinh vạn luận. Tựu chung, thiết yếu chỉ dạy chúng sanh tự hiểu rõ tâm tánh. Nếu
ai nhận ra được tâm, thì đại địa chẳng có một tấc đất. Chúng sanh từ vô lượng
kiếp đến nay bị vật xoay chuyển, do vì cầu pháp ngoài tâm mà không nhận ra tự
tánh. Bổn gốc vốn không một vật, thì làm sao nắm bắt được muôn pháp. Vừa vọng
chấp ngoài tâm có pháp, thì trở thành tà tri tà kiến. Song, bảo rằng nhận ra
được tâm thì đại địa chẳng có một tấc đất, đó cũng còn tính toán. Thật ra, Phật
thuyết tam Quy Y, năm giới cấm, ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, cùng muôn
ngàn pháp môn, đều vì để đối trị tâm chúng sanh.
Tập khí xấu xa của chúng sanh có
tám mươi bốn ngàn loại phiền não. Vì thế, Phật thuyết ra tám mươi bốn ngàn pháp
môn để đối trị. Đó là phương tiện thiện xảo của Phật. Quý vị có bịnh gì thì
Phật cho thuốc đó. Phật thuyết ra tất cả pháp, vì để độ tất cả tâm. Nếu không
có tất cả tâm, cần dùng chi tất cả pháp? Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay,
bị vô minh phiền não làm ô nhiễm chân tâm, nên nhận lầm bốn đại làm thân tướng
của mình, mà không biết nó vốn không có thật thể, chỉ do đất nước gió lửa hợp
thành, đồng như huyễn hóa. Nay muốn xoay về cội nguồn, đầu tiên phải điều phục
thân tâm, đoạn trừ tập khí, chuyển tâm thô thành tâm vi tế. Từ hữu vi tiến đến
vô vi, khởi dụng công từ tự tánh thanh tịnh của pháp thân. Từ sáng đến tối, đi
đứng nằm ngồi, như mài như giũa, cẩn thận chú ý, đoạn trừ tập khí. Mật phải
lớn, và tâm phải vi tế. Mật lớn bao trùm thân tâm, không để cảnh chuyển. Tâm vi
tế, tức khí lực phải vi tế, chớ khởi tâm thô khí phù. Những việc này, tự mình
có thể kiểm nghiệm. Người nguời đều sống vội vàng hấp tấp, nên khí suyễn hơi
thô. Người có công phu định lực, tuy bận rộn nhưng không có khí suyễn. Từ sáng
đến tối, tâm bình khí hòa. Chú tâm mà chẳng loạn, tức là định. Vọng tưởng vốn
không có thật thể. Có định tức không vọng tưởng, nên tự tìm lại được nguồn tâm.
Vừa khởi công phu, phải bàn về oai nghi giáo tướng. Đi đứng nằm ngồi đều có oai
nghi. Chớ bảo rằng vì bận rộn mà quên đi oai nghi giới hạnh cùng việc sanh tử.
Làm đệ tử Như Lai, tức là thân quyến của tiên thánh, ra vào nơi cửa vàng, hành
tạng nơi bảo điện. Phải ung dung tự tại đến những nơi sóng khởi ba đào, để
truyển chuyển tích trượng, thăng lên hư không. Giả sử mười đại ma quân, nghe
danh mà đến quy y chánh đạo, có nên vì đó mà quên giảng oai nghi không?
Xưa kia, ngài Viễn Lục tại núi Phù
Sơn, bảo một vị tọa chủ:
- Nhờ trị tâm, nên mới cầu diệu
ngộ. Ngộ đạo được thì thần hòa khí tĩnh, vọng tưởng tình ngưng, dung mạo trang
nghiêm khả kính, phù hợp nơi chân tâm. Nhờ điều phục nên tâm tự linh diệu, rồi
sau này mới chỉ dạy muôn loài.
Thế nên, người có mắt sáng, thấy
mọi hành động cử chỉ oai nghi ra sao, thì biết quý vị tu hành như thế nào. Thuở
xưa, khi còn làm Bà La Môn, ngài Xá Lợi Phất gặp tôn giả Mã Thắng. Do thấy oai
nghi uy nghiêm của tôn giả Mã Thắng, ngài Xá Lợi Phất bèn khởi tâm cung kính,
và đi theo hỏi pháp. Tôn giả Mã Thắng
bảo:
"Các pháp từ duyên sanh
Các pháp từ duyên diệt
Thầy tôi đại sa môn
Thường thuyết lời như thế".
Nghe bài kệ này, ngài Xá Lợi Phất
liền đắc pháp nhãn thanh tịnh. Trở về, Ngài đọc lại bài kệ này cho Mục Kiền
Liên nghe. Nghe xong, ngài Mục Kiền Liên cũng đắc được pháp nhãn thanh tịnh.
Tức thời, cả hai ngài liền dẫn một trăm đệ tử, đến vườn Trúc Lâm, cầu xin xuất
gia. Khi đó, Phật bảo:
- Lành thay! Này tỳ kheo!
Phật vừa nói xong, bất chợt râu tóc
của hai ngài đều tự rụng xuống, y ca sa tự quấn thân, tức thành sa môn.
Quý vị thấy đó, tôn giả Mã Thắng đi
trên đường lộ, oai nghi nghiêm túc, khiến thành tựu được công đức như thế. Đấy
là dùng oai nghi mà dạy người.
Quý vị sơ phát tâm, đồng tham học! Phải
nên hướng theo người xưa mà học tập, cùng nhất tâm quán chiếu chính mình; đi
đứng nằm ngồi, trong mười hai thời, đều để vô tâm không bị cảnh chuyển. Nếu
không giữ bổn phận như thế, bị lưu chuyển mãi theo vọng tình, thì có khác gì người
thế tục? Tuy nói xuất gia tu đạo, nhưng đều là lời trống không vô ích. Quý vị
hãy lưu tâm.
30/ Ngày hai mươi mốt tháng năm
Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo:
- Như khi Ta chỉ ngón tay, hải ấn
phát quang. Ngược lại, ông vừa khởi tâm, thì trần lao liền nổi lên.
Kinh Lăng Nghiêm, do ngài A Nan phát khởi, thị hiện làm mô phạm cho chúng ta.
Toàn bộ kinh, chú trọng chữ dâm dục. Do từ chữ dâm dục mà Phật thuyết ra rất
nhiều ngôn từ. Đầu tiên, ngài A Nan thị hiện, đi khất thực, qua nhà dâm nữ, bị
Ma Đăng Già nữ dùng thần chú Tiên Phạm Thiên Bà Tỳ Ca La, nhiếp dẫn vào phòng
dâm. Nơi dâm cung phủ ma, sắp đoạn giới thể. Như Lai biết ngài A Nan bị ma
thuật mê hoặc, nên thọ trai xong, liền trở về tịnh xá. Vua quan đại thần trưởng
giả cư sĩ, đồng đi theo Phật, vì nguyện muốn nghe pháp yếu. Bấy giờ Thế Tôn,
đảnh phóng trăm luồng ánh sáng bảo quý vô úy. Trong các luồng ánh sáng, xuất
hiện các hoa sen báu ngàn cánh; trong đó có hóa thân Phật, ngồi xếp bằng đoan
tọa, tuyên thuyết thần chú, rồi sai ngài Văn Thù, đem thần chú đến, cứu hộ ngài
A Nan. Khi ấy, ác chú liền tiêu mất. Bồ Tát Văn Thù dẫn ngài A Nan cùng dâm nữ Ma Đăng Già, trở về nơi Phật trú. A Nan
vừa thấy Phật, đảnh lễ rơi lệ, hối hận từ vô thủy đến nay, chỉ hướng đa văn,
chưa hoàn toàn đủ đạo lực, nên ân cần khải thỉnh mười phương Như Lai mở phương
tiện đầu tiên, để tu hành chứng đắc đạo Bồ Đề, diệu Xa Ma Tha, Tam Ma Thiền Na.
Phật ứng theo lời thỉnh cầu, nên thuyết ra bộ kinh Lăng Nghiêm. Ngài A Nan gặp
dâm nữ Ma Đăng Già, không thể làm chủ được. Đấy là Bồ Tát thị hiện vào thế
gian, chẳng do ái dục, mà chỉ vì tâm từ bi, muốn chúng ta xả ái, cùng các tham
dục, nên nhập vào sanh tử, giả việc tham ái. Kinh Viên Giác nói: "Tất cả
chúng sanh, từ đời vô thủy đến nay, do vì bao loại ân ái tham dục, nên bị luân
hồi. Tất cả chủng tánh, noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, đều nhân dâm
dục mà sanh ra tánh mạng. Phải biết luân hồi, ái dục là cội gốc".
Thế nên bảo:
- Luân hồi trong ba cõi, dâm dục
làm gốc. Qua lại sáu đường, ái dục làm nền tảng.
Trên thế gian, có người xuất gia kẻ
tại gia, lại có người vì đạo và không vì đạo. Do không rõ tự tánh, nên đều bị
năm món dục lạc xoay cuốn tới lui. Năm dục là tiền tài, sắc đẹp, danh vọng,
thức ăn, ngủ nghỉ. Do năm món dục lạc này, mà khởi ra thất tình: Vui vẻ, bực
tức, buồn bả, sung sướng, thương mến, oán ghét, mong muốn. Thất tình lại trói
chặt năm món dục lạc. Vì vậy, không thể cắt đứt sanh tử.
Kinh nói: "Chúng sanh trong
cõi Nam Diêm Phù Đề, dùng tiền tài làm mạng sống".
Lúc nhập thai, khởi đầu do dâm dục.
Đến khi sanh ra, lại dùng tiền tài làm chủ yếu. Hòa thượng Quảng Huệ khuyên người
chớ tham tài lợi:
- Tất cả nghiệp tội, đều nhân vì
đắm chấp vào tiền tài vật chất mà sanh ra.
Thế nên, trong năm món dục, đầu
tiên là tiền tài. Người có tiền tài, mới có y phục, thức ăn chỗ ở, rồi mong
muốn nữ sắc, phụ nữ thê thiếp. Người nghèo cùng, thì làm việc gì cũng khó
thành. Chứng minh, tiền tài rất lợi hại. Người thế gian dùng tiền tài làm nguồn
vui. Không tiền thì khổ đau, nên mong muốn có tiền. Có được chút đỉnh thì lại
muốn nhiều thêm. Có được bạch ngân, lại thích vàng ròng, chẳng hề biết đủ. Họ
chỉ lo thân mình, và tính toán cho con cháu. Cả đời khổ nhọc, bận bịu vì tiền
tài, mà không biết rằng có tiền nhưng khó mua được con cháu hiền lành. Khi vô
thường đến, một mảnh giấy cũng không mang theo được. Phải nên nhìn thấu suốt
tiền tài.
Xưa kia, có ba gã ăn xin, cùng đi
trên đường. Cả ba đồng chợt thấy một đồng tiền trên đất. Gã thứ nhất định nhặt
lấy, nhưng bị gã thứ hai ngăn lại, bảo:
- Tôi thấy đồng tiền đó trước, nên
nó phải về tay tôi.
Gã thứ ba cũng bảo:
- Tôi thấy trước hết, nên nó phải
thuộc về tôi.
Ba gã ăn mày chỉ vì một đồng tiền
này mà tranh cãi đánh nhau trên đường phố. Quân lính tuần hành, đi ngang qua
thấy họ đánh nhau rất hung hăng; vì sợ sẽ tổn thương tánh mạng, nên quân lính
bắt cả ba về dinh phủ, phán xử thị phi. Quan huyện ngồi trên tòa, tra hỏi rõ nguyên do, bảo:
- Các ông không nên tranh nhau vì
đồng tiền này.
Cả ba đồng nói:
- Chúng tôi bần cùng đến mức này,
sao lại không tranh đồng tiền đó?
- Vậy thì mỗi người các ông hãy kể
việc nghèo cùng của mình. Nếu ai là người thật rất nghèo cùng thì Ta sẽ đưa
đồng tiền này cho.
Gã thứ nhất nói:
- Tôi thật rất nghèo cùng, vì nóc
nhà lủng thấu trời xanh; y phục rách rưới không chỉ vá; thường lấy ngói gạch
làm gối, và lấy cỏ xanh làm nệm.
Gã thứ hai bảo:
- Tôi còn nghèo cùng hơn nữa, vì
trời xanh là nóc nhà, y phục chẳng che được nửa thân, gối là búi tóc, gân cốt
là nệm chiếu.
Gã thứ ba bảo:
- Họ không nghèo cùng bằng tôi. Tôi
bị đói khát cả chục ngày, ngủ mộng cả nửa năm, chết không nhắm mắt, chỉ vì đồng
tiền này.
Quan nghe thế, liền cười to. Đây là
câu chuyện tham tiền hài hước.
Đức Thế Tôn thuyết pháp, giảng giải
tiền tài mê hoặc người đời, thật không gì diễn tả hết. Đa số người xuất gia
cũng bị tiền tài làm mê hoặc. Xưa đồng tiền, nay là giấy bạc. Chúng trói buộc
con người đến chết. Rời chúng thì chẳng sống được qua ngày. Quý vị muốn trồng
trọt, làm ruộng vườn thì phải có công cụ cuốc xẻng. Không tiền thì không thể
mua được dụng cụ cuốc xẻng, nên không thể trồng trọt chi hết. Chúng ta bận rộn
suốt ngày, có phải chỉ vì tiền bạc thôi sao?
Người thế tục ăn mặc nếu đầy đủ
rồi, lại tham đắm sắc dục. Chữ sắc này đã hại không biết bao nhiêu người. Xưa
kia, các vua chúa đế vương, chỉ vì tham sắc mà mất nước không ít. Thuở xưa, vua
nhà Thương, tức Hạ Kiệt, mang quân đi chinh phạt, toàn thắng bắt được Muội HỶ
đem về làm vợ. Vì hoang dâm vô đạo, nên nhà Thương mới bị đoạn diệt. Vua Trụ
nhà Thương luyến ái Đắc KỶ, đam mê tửu sắc, bạo ngược vô đạo. Khi bị Châu Võ
Vương chinh phạt, khiến quân binh tán loạn, nên Trụ Vương phải tự sát. Thời xưa
chưa có điện thoại điện báo, cảnh sát biên phòng, nên khi giặc đến, chỉ đốt cỏ
khô làm hiệu. Phương pháp là lập một đài cao. Trên đài có một cái gác. Trên gác
có một cái giỏ. Trong giỏ có chứa cỏ khô. Nếu có giặc đến, liền đốt lửa làm
hiệu, gọi là phong toại. Khi lửa hiệu được đốt lên, thì những đài bên cạnh lập
tức báo cho quân phòng thủ. Châu U Vương ân sủng chiều chuộng Bao Tự, nhưng
nàng ta chẳng bao giờ cười đùa. Châu U Vương đốt lửa để hiệu triệu các nước chư
hầu. Quân chư hầu đến, nhưng không thấy giặc, chỉ nghe tiếng nàng Bao Tự cười
to. Sau này, Tây Di Khuyển Nhung theo giặc vây thành. Châu U Vương liền đốt lửa
làm hiệu, nhưng quân chư hầu không màng đến. Khuyển Nhung xua quân chiếm thành,
giết Châu U Vương dưới chân núi Li Sơn, cùng bắt đi Bao Tự. Vì vua đốt lửa
hiệu, trêu ghẹo quân chư hầu, nên phải bị mất mạng. Họa tham sắc dục, vô lượng
vô biên, kể không thể hết.
Lợi và danh đi liền với nhau. Danh
có tốt có xấu, hoặc lưu tiếng thơm trăm đời, hay để vết nhơ muôn thuở. Điển
hình là tam hoàng ngũ đế, thánh quân hiền vương. Vua Vũ nhà Hạ vâng lệnh lo
việc dẫn thủy nhập điền; tám năm ra ngoài lao tâm cực khổ, ba lần đi ngang qua
nhà mà không dám bước vào. Ông khai chín châu, thông chín đại lộ, đào chín
sông, vạch chín núi. Làm xong nhiệm vụ đó, ông ta lại định lập thuế má, lệ
cống, chế năm loại y phục, cùng khiến các nước lân bang thần phục.
Đời vua Thang, có gã thợ săn sau
khi đặt lưới bẫy chim, liền cầu nguyện: "Từ trên trời xuống, từ dưới đất
vọt lên, bốn phương các loại chim chóc, hãy đều chui vào lưới này".
Nghe lời này, vua Thang than thở:
- Ô hởi! Như vậy hắn muốn bắt hết
mọi loài chim chóc sao!
Nói xong, vua Thang ra lệnh cho gã
thợ săn hãy mở lưới bẫy ra ba bên, chỉ còn chừa lại một bên, rồi dạy hắn ta,
nên cầu nguyện như vầy:
- Nếu muốn bay bên trái thì bay.
Nếu muốn bay bên phải thì bay. Nếu không còn muốn thân mạng nữa, thì hãy bay
vào lưới võng này.
Đây là do đạo đức thấm nhuần, nên
chư thánh lưu danh muôn thuở.
Vương Bổn, Tào Tháo, Tần Tăng, để lại
vết nhơ muôn đời. Chư Phật chư Bồ Tát, chư đại tổ sư, đạo đức chân thật. Tuy
các ngài không cầu danh mà danh vẫn lưu thiên cổ. Tỳ kheo Thiện Tinh, tỳ kheo
ny Bảo Liên Hương, nghiệp tội thâm trọng nên đọa địa ngục, khiến lưu vết nhơ
muôn năm.
Danh này cũng hại người. Nếu mình
được khen là giỏi, có đạo đức, hoặc thường làm những việc khó làm, thì sanh tâm
vui thích; đó là háo danh. Bị chửi mắng khiến không vui, cũng vì danh. Được
khen hay chê dở, nói chung đều bị danh xoay chuyển. Trước mặt, ẩn náo súng đạn.
Sau lưng khó tránh hỏa tiển.
Xưa kia, nơi thiền đường, dùng ngọ
xong lại có cháo điểm tâm, rồi lên chánh điện lễ Phật, đến giám liêu uống trà
đàm luận. Được khen rằng mình dụng công rất hay, liền sanh tâm hoan hỶ. Bị chê
là dụng công không giỏi, thì đôi má ửng hồng, xả không nổi. Các vị tiểu thượng
tọa cũng như thế. Được khen là hay thì sanh tâm vui vẻ. Bị chê là dở thì sanh
tâm bực tức. Đó cũng là bị danh chuyển.
Ăn uống cũng rất lợi hại. Quân tử
ăn không cầu no, ở không cầu an. Người xưa nhất tâm tại đạo, ăn rau dại để no
lòng. Tâm định thì rau tươi cỏ dại đều có mùi vị. Hòa thượng Long Sơn tại Đàm
Châu bảo:
"Một ao lá sen, y vô số
Hoa tùng ngập đất, ăn vẫn dư
Vừa bị người đời biết nơi trú
Lại dời am thất vào thâm u".
Người thế gian tham ăn, chấp trước
mùi vị ngọt chua cay mặn nồng. Ai ai cũng thích mùi ngon vật lạ, nên sát sanh
hại mạng, để thỏa thích miệng mồm bao tử. Người thích ăn chay, nhưng khi nấu
nướng lại bỏ hành tỏi mỡ gà mỡ heo, để món ăn ngon hơn; chẳng bỏ được tập khí
giết sanh hại mạng, vì tâm tánh giết hại vẫn còn. Tuy không ăn thịt, nhưng lại
dùng dầu mỡ động vật cùng hành tỏi, thì vẫn phạm giới. Dẫu thức ăn ngon hay dở,
một khi đã xuống bao tử rồi thì thành phẩn uế. Sao lại tham cầu cao lương mỸ
vị, tranh nhau không ngừng! Ăn càng nhiều thì thải bỏ phẩn uế càng nhiều, có
hay ho chi đâu!
Ngủ lại không thể bàn hết. Một năm
có ba trăm sáu mươi ngày. Một ngày có hai mươi bốn tiếng. Ban ngày làm việc,
tối đến mơ mộng. Bình thường, một năm ngủ khoảng một trăm tám mươi ngày. Việc
ngủ nghỉ chiếm rất nhiều thì giờ, thật hại chết người. Người chân chánh tu
hành, rất mến tiếc thời gian. Kinh Di Giáo bảo: "Ban ngày chuyên cần tu
tập pháp lành, không để mất thời gian. Đầu hôm cuối hôm, cũng chớ bỏ phế công
phu. Giữa đêm tụng kinh, lấy đó làm việc nghỉ ngơi. Nếu cứ mộng mị vô cớ, thì
một đời trải qua vô ích, không đắc được gì cả".
Do đó, tối đến nếu có mộng mị, phải
đổi cách thức tu thiền hay ứng dụng các pháp tu khác, để hàng phục ma ngủ. Người
háu ăn làm biếng, chỉ ưa tham ngủ, thường không thể phát đạo tâm, không biết
sám hối. Vừa tỉnh giấc bên trái, lại xoay qua ngủ bên phải. Buổi khuya ngủ chưa
đủ, ban ngày lại ngủ thêm để bù đắp. Xem kinh nghe pháp, ngồi thiền niệm Phật
cũng ngủ gật, bỏ phí thời giờ rất nhiều, vậy mục đích cứu cánh xuất gia để làm
gì?
Cổ đức bảo:
- Nghe chuông, nằm lăn không dậy,
khiến hộ pháp thiện thần quở. Hiện đời phước đức giảm; chết rồi đọa làm thân
rắn.
Ngài Quy Sơn bảo:
- Thường thấy những kẻ sơ phát tâm,
giải đãi làm biếng, ham ăn ngủ nghỉ, sống cuộc đời vô ích trên thế gian. Thật
đáng thương thay, ai bi thiết tâm! Không đành ngậm miệng, nên phải nói lời răn
nhắc này.
Hy vọng, người có tâm cầu đạo,
nguyện vượt ra sanh tử, chớ để năm món dục lạc, cùng thất tình xoay chuyển. Hãy
nỗ lực chuyên cần tu hành, chớ để thời gian trôi qua vô ích.
31/ Ngày hai mươi ba tháng năm
Quân lệnh ở thế gian rất nghiêm
khắc. Ban hành lệnh như trời long đất lở, chẳng có ai dám vi phạm. Pháp của
Phật thuyết ra cũng như quân lệnh. Là đệ tử Phật phải y giáo phụng hành, quyết
không vi phạm chút tơ hào. Hôm trước, tôi có nói về việc lúc làm lễ Bố Tát,
thầy thượng tọa răn nhắc Sa Di:
- Các con phải thanh tịnh thân
miệng ý, chuyên cần học tập thánh giáo kinh luật luận, cẩn trọng chớ phóng dật.
Đã xuất gia, phải nhớ đến nỗi thống
khổ của sanh tử, như cứu lửa cháy đầu, sao lại phóng dật lười biếng? Chuyên cần
học tập kinh luật luận, tức ba tạng thánh giáo, để tìm ra con đường và phương
pháp thoát khỏi sanh tử. Kinh luật luận gọi là ba đại tạng. Ba đại tạng tàng
chứa hết tất cả văn nghĩa. Kinh nói bàn về định học. Luận nói về giới học. Luận
nói về huệ học. Ba tạng này tức là ba học. Kinh có hai nghĩa là thường và pháp,
hay kinh tuyến và tràng hoa. Tiếng Phạn gọi tạng kinh là Tố Đản Lãm Giám, hay
Tu Đa La, được dịch là tràng dây; vì đây là lời của đức Phật, có thể nối buộc
tất cả pháp, như tràng hoa nối liền tất cả nụ hoa với nhau. Tiếng Phạn gọi tạng
luật là tạng Tỳ Nại Da hay Tỳ Ni, được dịch là Diệt, tức diệt ba nghiệp xấu.
Tiếng Phạn gọi tạng luận là A Tỳ Đạt Ma hay A Tỳ Đàm, dịch là đối pháp, tức
dùng trí huệ thù thắng đối quán chân lý mà chấp trì danh xưng. Lại được dịch là
pháp vô so tỶ, tức trí huệ tối thắng, không gì so sánh. Tên riêng của tạng luận
là Ưu Bà Đề Xá, dịch là luận, tức luận tánh tướng chư pháp mà phát sanh trí huệ
thù thắng.
Người thọ giới tại tam đàn đại giới
là những vị Bồ Tát và đại trượng phu. Người đã phát tâm Bồ Đề, phải làm những
việc của bậc đại trượng phu và chư Bồ Tát. Bồ Đề là tiếng Phạn, dịch là đạo.
Đạo tức là tâm, và là lý; nghĩa là diệu lý của tâm. Thể của tâm đồng với hư
không, biến khắp ba cõi mười phương, xum la vạn tượng. Phát tâm Bồ Đề như thế,
tức là Bồ Tát đại trượng phu.
Chư Phật từ bi thuyết ba thừa pháp, bao gồm muôn loại giáo pháp triết lý. Bàn
về giới, Phật chế luật là tỳ kheo năm năm đầu chuyên cần học giới luật cho
tường tận. Năm năm sau, đi khắp nơi nghe giáo tham thiền. Điều này chứng minh
rằng việc học giới và giữ giới của đệ tử Phật rất quan trọng. Trong kinh Phạm
Võng có mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh. Phạm mười giới trọng tức
phạm tội Ba La Di. Ba La Di dịch là ti tiện, hay thối đọa, bất cộng trụ, đọa
nơi bất như ý, đoạn đầu, bị kẻ khác thắng v.v... Phạm giới này là phạm tội nặng
nhất trong giới luật. Trong luật lại có khai giới cùng giá giới, mà đại thừa và
tiểu thừa không đồng. Khai có nghĩa là hứa. Giá có nghĩa là chỉ. Hứa làm gọi là
khai. Cấm làm gọi là giá. Muốn khai phải xem thời tiết nhân duyên, cùng phương
tiện bên ngoài. Không có nhân duyên thì không thể khai. Giá tức là nhất giá hay
vĩnh viễn giá. Tiểu Thừa và Đại Thừa có rất nhiều sự tương phản. Sự Trì của
Tiểu Thừa tức là phạm của Đại Thừa. Sự Trì của Đại Thừa tức là phạm của Tiểu
Thừa. Điều lệ và ngôn từ rõ ràng; hãy xem quyển Tỳ Ni về sự Chỉ Trì và Tác Trì.
Trong giới cụ túc, tỳ kheo có hai
trăm năm mươi giới. Tỳ kheo ny có ba trăm bốn mươi tám giới. Những giới này,
phân ra làm năm thiên:
Thứ nhất, Ba La Di là tội nặng
nhất, được dịch là đoạn đầu; nếu phạm thì không thể trở thành tỳ kheo, như đầu
bị cắt. Nơi thiên này, tỳ kheo có bốn giới, và tỳ kheo ny có tám giới.
Thứ hai, tội Tăng Tàng, tiếng Phạn gọi
là Tăng Già Bà Thi Sa. Tăng tức là lược nói về tăng già. Tàng dịch là Bà Thi
Sa. Tỳ kheo nếu phạm giới này thì gần bị chết, nhưng còn mạng tàn dư, nên phải
sám hối trước tăng chúng, thì mới được toàn mạng. Do đó, gọi là Tăng Tàng. Nơi
thiên này, tỳ kheo có mười ba giới, còn tỳ kheo ny thì có mười bảy giới.
Thứ ba, tội Ba Dật Đề, dịch là đọa,
tức đọa địa ngục. Nơi thiên này, tỳ kheo có một trăm hai mươi bốn giới, còn tỳ
kheo ny thì có hai trăm lẻ tám giới.
Thứ tư, tội Đề Xá Ni hay Ba La Đề
Xá, dịch là hướng bỉ hối, tức sám hối trước một vị tỳ kheo thanh tịnh. Nơi
thiên này, tỳ kheo có bốn giới, còn tỳ kheo ny thì có tám giới.
Thứ năm, tội Đột Kiết La, dịch là
ác tác; tội này nhẹ. Nơi thiên này, tỳ kheo có một trăm pháp chúng học, hai
pháp bất định, bảy pháp diệt tranh, cộng thành một trăm lẻ chín giới. Tỳ kheo này
có một trăm pháp chúng học và bảy pháp diệt tranh.
Tỳ kheo nghiêm thủ hai trăm năm
mươi giới trong ba nghiệp bốn oai nghi, tức trở thành ba ngàn oai nghi. Mười
hai thời khắc luôn tuân thủ tôn chiếu, trì tụng năm mươi bài kệ chú nhỏ trong
quyển Tỳ Ni Nhật Tụng. Hàng phục tâm và chế thân không cho làm việc ác.
Bàn về ba tụ viên giới, mỗi giới
đều có đủ nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới.
Ví dụ, giới cấm giết hại có đầy đủ ba tụ. Xa rời nghiệp ác giết hại, nên gọi là
nhiếp luật nghi giới. Vì trưởng dưỡng tâm từ bi mà không giết hại, nên gọi là
nhiếp thiện pháp giới. Vì bảo hộ chúng sanh mà không giết hại, nên gọi là nhiêu
ích hữu tình giới. Kinh Lăng Nghiêm bảo: "Nếu chư tỳ kheo không mặc áo tơ
lụa, đi giày dép da thú, mặc y lông cừu chim chóc, uống sữa đề hồ, thì là chân
chánh giải thoát, và không còn trả nghiệp báo, cùng chẳng còn dạo trong ba
cõi".
Do nhân duyên khai giới nên Tiểu
Thừa có thể ăn thịt uống sữa. Bồ Tát không thể ăn thịt, mặc tơ lụa, đắp áo lông
cừu chim chóc. Đây là sự khác biệt giữa giới khai, giá, trì, phạm của Tiểu Thừa
và Đại Thừa.
Lại nữa, tỳ kheo không được giữ
tiền, không giữ một hạt gạo, không ăn thức ăn để qua đêm. Ngày nào khất thực
được bao nhiêu thì ăn bấy nhiêu. Phần thức ăn dư thừa, không được giữ lại qua
đêm. Bồ Tát được khai mở, tức là cầm giữ tiền thì không phạm. Rượu là giá giới
trọng căn bản của năm căn, nên Đại Thừa và Tiểu Thừa không chuẩn cho khai. Chỉ
trừ lúc bịnh nặng, ngoài rượu ra không còn thuốc gì để trị, thì phải bạch trước
đại chúng, rồi mới được dùng. Nhân duyên khai giá của giới luật rất vi tế, phải
thâm nhập nghiên cứu kỸ càng mới có thể hiểu rõ. Phật giáo hưng thịnh hay suy
vi, đều do còn giới hay không. Tỳ kheo phạm giới, như trùng trên thân sư tử, ăn
thịt sư tử. Thế nên, lúc sắp viên tịch, Phật thuyết kinh Niết Bàn, bảo chư tỳ
kheo phải lấy giới luật làm thầy, thì Phật pháp mới trụ thế lâu dài được.
Phật lại thuyết tứ y pháp, tức là
bốn pháp phải nên nương y vào. Thứ nhất, mặc y phấn tảo. Thứ hai, thường đi
khất thực. Thứ ba, ngồi trú dưới gốc cây. Thứ tư, dùng thuốc cũ. Bốn loại pháp
này là nhân duyên nhập đạo, và là nơi nương tựa của bậc thượng căn lợi khí, nên
gọi là tứ y pháp, cũng gọi là bốn hạt giống thánh, vì khiến nhập vào thánh đạo.
Y phấn tảo được gọi là nạp y. Tỳ
kheo dùng những mảnh vải thiêu đốt còn dư lại, vải bị trâu nhặm chuột cắn, vải
của người chết bỏ lại, vải bị ngâm nước, vải bị người đời vứt bỏ vì hôi thúi.
Lượm những mảnh vải đó, đem về giặt sạch, rồi may đắp thành y, nên gọi là y
phấn tảo. Dùng từng miếng vải, may kết lại thành, nên cũng gọi là nạp y. Tỳ
kheo dùng y phấn tảo, nên không cần dùng y do đàn việt bố thí. Ngay nơi đó, lìa
được tâm tham trước.
Khất thực, tiếng Phạn gọi là Phân
Vệ. Kinh Mười Hai Hạnh Đầu Đà bảo: "Có ba loại thức ăn. Thứ nhất, thức ăn
được mời thỉnh. Thứ hai, thức ăn của tăng chúng. Thứ ba, thức ăn do đi khất
thực mà có. Hai loại thức ăn đầu là nhân duyên khởi lậu. Tại sao? Người được
thọ thỉnh, thường tự cho đó là phước đức của mình. Nếu không được thỉnh mời thì
lại sanh tâm oán ghét người thí chủ, hoặc tự khinh rẻ mình, tức vì tâm tham lam
mà ưu sầu, khiến làm chướng ngại đạo. đối với thức ăn của tăng chúng, phải
thường theo đại chúng mà dùng. Vị trai chủ phải trình thưa với tăng tri sự. Tâm
nếu tán loạn mà thọ thức ăn đó, thì phá hoại sự hành đạo. Vì những nhân duyên
đó, phải thường hành pháp khất thực".
Mỗi đêm, ngủ dưới gốc cây, mà không
trú trong nhà. Mỗi ngày ăn cơm một lần.
Kế đến, tỳ kheo có bịnh thì không
cầu thỉnh thầy thuốc, không dùng thuốc mới, chỉ dùng thuốc mà người vứt bỏ.
Bịnh có lành hay không, đều để tự nhiên. Hiện tại, chư tỳ kheo có ai thủ trì
được? Vừa bị bịnh thì bèn có bác sĩ đông y tây y cho những toa thuốc bổ phẩm.
Đã lâu rồi không còn ai hành bốn pháp y chỉ này.
Tỳ kheo là tiếng Phạn, được gọi là
trừ cận, khất sĩ, phá ác, bố ma. Tỳ kheo làm phước điền cho thế gian. Nếu có ai
cúng dường cho vị tỳ kheo chân chánh một bát cơm, hay nghe vị đó thuyết một bài
pháp, thì sẽ tiêu trừ tất cả hoạn nạn cơ cẩn bần cùng, nên gọi là Trừ Cận. Khất
Sĩ tức là trên khất cầu pháp của Như Lai để trưởng dưỡng huệ mạng, và dưới khất
thực thức ăn của người thế tục để nuôi thân. Khất thực nơi Phật pháp tức là cầu
pháp ba mươi bảy phẩm trợ đạo như tứ niệm xứ, tứ như ý túc, tứ chánh cần, năm
căn, năm lực, bảy Bồ Đề phần, tám chánh đạo. Phá Ác tức là phá trừ tất cả
nghiệp ác do thân miệng ý tạo ra, và chuyển đổi chúng thành mười nghiệp lành.
Bố Ma tức là khi vừa xuất gia thọ giới tỳ kheo, liền thoát khỏi quyến thuộc của
ma, nên cung ma bị chấn động, khiến chúng sợ hãi.
Chúng ta đã là tỳ kheo, vậy thì ai
dám tự bảo mình là tỳ kheo chân chánh? Xuất gia vì muốn cắt đứt dòng sanh tử,
nên phải y theo pháp mà phụng hành. Miệng tụng và tâm phải tư duy. Sáng tối tẩy
rửa thân tâm, không để tham lam sân si ái kiến của thế gian xoay chuyển, cũng không
nên khởi nhân ngã thị phi, háu ăn làm biếng.
32/ Ngày hai mươi sáu tháng năm
Câu đầu trong thiên hai mươi của
quyển Luận Ngữ, Khổng Tử bảo:
- Học phải thường hành.
Khổng Tử dạy đồ đệ rằng học xong
việc gì thì phải hành việc đó. Trong động hay tĩnh, luôn luôn nhớ đến và niệm
niệm chẳng quên. Nếu chỉ học đại khái sơ sài, thì công phu không thể tương ưng,
và không thể đạt đến cứu cánh. Pháp thế gian và Phật pháp đều như thế. Phải vừa
học vừa hành. Phật pháp là thể. Pháp thế gian là dụng. Thể là lý, tức chân đế.
Dụng là sự, tức tục đế. Phải biết đạo lý tam muội ấn của hai đế viên dung vô
ngại. Nếu không dung thông thì lạc vào sự bất quân bình. Rời thể mà biểu thị
sự, tức là phàm phu phàm tình. Rời sự mà giảng tâm, thì không hiểu tâm địa. Hai
đế chân và tục, tên gọi rất nhiều. Chân là thể. Tục là dụng. Trong giới định
huệ đều có thể và dụng. Chúng là những danh tự xuất phát từ tâm địa. Nếu có thể
quán thông dung hội, thì đại đạo liền thông tận Trường An.
Xưa kia, tăng hỏi Triệu Châu:
- Thế nào là đạo?
Triệu Châu đáp:
- Bên ngoài bức tường!
- Không hỏi đạo đó.
- Vậy ông hỏi đạo nào?
- Đại đạo.
- Đại đạo thông Trường An!
Lý này như thế nào? Xin quý vị hãy
tham cứu. Hiểu rõ thì nơi nơi đều là Phật pháp. Không hiểu rõ thì cứ chấp mãi
trên danh tướng. Từ sáng đến tối, bôn ba bận rộn làm ruộng ăn cơm, có khác gì
với người thế tục? Hiện tại, có nhiều người cư sĩ cạo đầu. Tăng sĩ lại cũng ăn
mặc như người thế tục. Như thế, nơi hình tướng bên ngoài làm sao phân biệt được
kẻ tăng người tục?
Người xưa bảo:
- Ruộng tâm chẳng trưởng dưỡng cỏ
vô minh. Đất tánh thường khai nở hoa trí huệ.
Đây là đại đạo thông tận Trường An,
tức là nơi khác biệt với người thế tục.
Người trồng lúa, nếu không nhổ cỏ
dại thì khó mà thu hoạch lúa thóc thành tựu. Người tu hành nhổ sạch cỏ vô minh
trong ruộng tâm, thì hoa trí huệ mới khai nở. Điều thiết yếu, nếu không để cảnh
chuyển và tình không phụ vật, thì cỏ vô minh không thể tăng trưởng. Một khi hoa
trí huệ khai nở, thì dầu lời thô ngữ tế đều thuyết lý vô sanh. Người xưa làm
được nói được, chứ chẳng giảng lời nói suông trống rỗng. Một câu hỏi một câu đáp, tức là trả lời tại câu hỏi ; thổ
lộ tâm cơ, biết tất cả đều là diệu dụng. Tâm của chúng ta vì không thường trụ
nơi đạo, nên luôn bị cảnh chuyển, và không thể khởi trí huệ chân thật. Nếu thường
khởi niệm thống thiết vì khổ sanh tử, và tâm hoàn toàn trụ tại đạo, thì không
phân biệt pháp thế gian, pháp xuất thế gian, là nam là nữ, vừa ý hay không vừa
ý. Vừa khởi động niệm, tức ma xuất hiện, bị cảnh chuyển. Không phân biệt tức tự
làm chủ được, mà không bị cảnh tình chuyển. Người xưa bảo:
- Quý vị có cây tích trượng. Tôi lại
cho quý vị thêm một cây tích trượng.
Đây là pháp biểu thị. Vì vọng tưởng
quá nhiều, tức là quý vị có cây tích trượng. Muốn dẹp trừ vọng tưởng, nên tôi
dạy quý vị tu pháp quán sổ tức, quán thân bất tịnh, quán tưởng niệm Phật, tụng
kinh lễ Phật, tham khán thoại đầu. Cho quý vị pháp môn tu hành, tức cho quý vị
cây tích trượng. Khi dụng công, nếu quý vị có chút thọ dụng, thì trụ nơi bình
yên vô sự. Có chướng ngại tức cây tích trượng của quý vị thật vô dụng. Vì thế,
nay tôi đoạt lấy cây tích trượng của quý vị. Lành bịnh rồi thì không cần dùng
thuốc mãi. Ngược lại, cứ chấp trước dùng thuốc mãi thì sẽ sanh thêm bịnh. Đây
là nghĩa đoạt lấy cây tích trượng của quý vị. Ngài Thái Dương bảo:
"Chớ chấp núi lạnh khác cỏ xanh
Ngồi trên mây trắng, tông nào chẳng diệu".
Trong mọi thời, đối với việc tham
Thiền hay niệm Phật, điều cần thiết là miệng niệm và tâm tư duy. Mở miệng ngỏ
lời mà không phân biệt thị phi, thì suốt ngày được giải thoát; không phiền não,
và không khởi tâm động niệm, thì mới có công phu. Nếu không giữ tâm mà để cảnh
chuyển, tức sanh phiền não, nên dụng công không có phần lợi ích, và nơi nơi đều
bị sóng ngập đầy trời. Xưa kia, lúc đang nhập thất, thấy Tô Đông Pha đến, thiền
sư Phật Ấn bảo:
- Nơi đây không có chỗ ngồi.
Tô Đông Pha nói:
- Tạm mượn thân tứ đại của Ngài làm
ghế ngồi.
- Sơn tăng có câu hỏi, nếu học sĩ
đáp được thì thỉnh ngồi, bằng ngược lại, hãy để vòng ngọc đái nơi đây.
Tô Đông Pha đồng ý. Thiền sư bèn
hỏi:
- Bốn đại vốn không, năm ấm chẳng
thật có. Vậy cư sĩ ngồi được chỗ nào?
Tô Đông Pha không đáp được, bèn để lại
vòng ngọc đái. Thiền sư cười, rồi nhận lấy. Tô Đông Pha viết kệ:
"Lưng bịnh khó đưa vòng ngọc đái
Độn căn nên cung kiếm lạc đường
Muốn dạy nàng hầu biết ăn xin
Lại cùng Vân Sơn đắp y cũ".
Tô Đông Pha tuy thông minh, nhưng
đối đáp không ra lời, vì chưa bước đến nơi thật địa.
Quý vị đồng tham học, làm sao để đến nơi thật
địa? Chỉ thiết yếu, miệng niệm tâm tư duy, tinh tấn tẩy rửa suốt ngày.