Trong những tác phẩm nói về đời sống ở Ấn Độ, thường có một khía cạnh
mơ hồ mà tôi xin cố gắng giải thích để quí vị độc giả được am tường.
Những du khách xưa và nay đi du lịch bên Ấn Độ trở về đều có tường
thuật những chuyện lạ lùng về các nhà đạo sĩ (yogi) hay thuật sĩ (fakir)
của xứ ấy. Những câu chuyện mà chúng ta vẫn nghe quen tai về hạng
người bí mật, thường được gọi là đạo sĩ hay thuật sĩ đó, có chứa đựng
một phần nào sự thật chăng? Và có bao nhiêu sự thật ẩn giấu sau những
truyền thuyết cho rằng có một nền minh triết cổ truyền của Ấn Độ có thể
đem đến cho hành giả sự phát triển quyền năng đến một mức độ phi
thường?
Để biết rõ sự thật về những điều này, tôi đã thực hiện một cuộc viễn
du dài hạn, và những trang sách này là tóm tắt những kết quả điều tra
sưu tầm của tôi. Tôi nói “tóm tắt”, là vì sự giới hạn của thời gian và
không gian bắt buộc tôi chỉ ghi chép những tài liệu về một vài người
đạo sĩ (yogi) tiêu biểu và điển hình trong số những người đặc
biệt mà tôi chú ý nhất và có thể khêu gợi sự tò mò thích thú của thế
giới Tây phương. Các bạn thử nghĩ xem: Bạn nghe nói về một đạo sĩ chân
tu, nổi tiếng là có một sự minh triết thâm sâu và những quyền năng lạ
lùng. Để mong gặp họ, bạn liền ra đi, bạn trải qua những ngày nóng như
thiêu và những đêm mệt nhọc vì mất ngủ. Khi đến nơi, rốt cuộc bạn chỉ
thấy toàn những kẻ mê tín dị đoan, những người nô lệ kinh sách, miệng
nói lưu loát nhưng chẳng hiểu gì cả; những người ấy sẽ làm cho độc giả
mất thời giờ vô ích, và đối với tôi đó là một việc làm không hứng thú.
Vì thế, tôi đã loại bỏ những chuyện đó ra ngoài.
Tôi có thể nói một cách khiêm tốn rằng tôi đã được cái hân hạnh khám
phá một trong những khía cạnh của xứ Ấn Độ mà ít người du khách được
thấy và hiểu rõ. Trong số những người Âu Tây đến xứ này, thử hỏi có
được bao nhiêu người đã chịu tìm hiểu cái khía cạnh đó? Và trong cái
thiểu số đó, cũng chỉ có rất ít người có đủ tự do sống len lỏi chung
chạ trong đám bình dân để xem xét một cách tỉ mỉ và tường thuật lại một
cách rõ ràng, bởi vì họ luôn muốn giữ gìn phẩm cách của họ đối với
người bản xứ mà họ cho là thấp hèn. Vì thế mà những văn sĩ Âu Tây đã
từng viết về vấn đề này đều bị ngăn cách với những nguồn tài liệu bản
xứ, và làm cho những người Ấn Độ hiểu biết thâm sâu về vấn đề ấy phải
lánh mặt không chịu đàm luận với họ.
Kết quả của sự kiện trên là người da trắng thường chỉ có sự hiểu biết rất thiếu sót về các nhà đạo sĩ yogi
và nếu họ có được biết về một vài người, thì chắc chắn rằng đó không
phải là những người đạo sĩ chân tu thượng thặng. Những người này chỉ
muốn ẩn mình đối với kẻ thế gian phàm tục và thường làm ra vẻ như người
ngu xuẩn. Ở Ấn Độ cũng như Tây Tạng, Trung Hoa, họ xô đuổi những du
khách Tây phương đường đột đến nơi ẩn trú của họ bằng cách cố ý khoác
lấy một vẻ mặt ngu si đần độn.
Có lẽ họ sẽ hiểu rõ hơn chúng ta, nếu họ biết được câu phương châm bất hủ của Emerson: “Làm bậc vĩ nhân, tất sẽ bị hiểu lầm.” (Tre grand, c’est tre mai compris).
Dầu sao, đó là những người ẩn sĩ, không thích sống chung lộn với người
đời. Dầu cho họ có tiếp xúc với người thế gian, họ cũng không bao giờ
từ bỏ thái độ dè dặt kín đáo, trừ phi đã sau một thời gian quen biết
lâu dài. Chính bởi đó mà ở phương Tây chỉ có rất ít tài liệu sách vở
được ghi chép về đời sống lạ lùng của những đạo sĩ yogi, và chính những tài liệu ít oi đó cũng hãy còn rất mập mờ và thiếu sót.
Người ta có thể tìm thấy những sách vở tài liệu của những văn sĩ Ấn
Độ, nhưng ta nên đọc những sách vở này một cách thận trọng. Thật là một
điều đáng tiếc mà nhận thấy rằng người Ấn Độ thiếu óc phê bình sáng
suốt về những vấn đề này và thường không phân biệt sự đồn đãi với những
điều có thật. Bởi vậy, những tài liệu họ ghi chép bị giảm giá trị rất
nhiều.
Khi tôi nhận thấy nhiều người phương Đông bị tấm màn mê tín làm cho
thiếu sáng suốt, tôi lấy làm cám ơn cuộc đời đã cho tôi có được một sự
đào luyện trí tuệ theo phương pháp khoa học Âu Tây và có được một thái
độ hợp lý của người làm nghề viết báo. Trong những điều mê tín dị đoan
của phương Đông có ẩn giấu tiềm tàng một phần nào sự thật, nhưng người
ta không thể khám phá ra sự thật này nếu không có một sự cảnh giác
thường xuyên.
Bất cứ chỗ nào tôi đi đến, tôi vẫn luôn duy trì một sự phê phán khách
quan và chặt chẽ, nhưng hoàn toàn không có định kiến chống báng hay
thù nghịch. Có người khi biết rằng ngoài sự khảo cứu triết học tôi còn
thích sưu tầm những điều thần bí, nhiệm mầu, thì họ liền vẽ vời tô điểm
những câu chuyện tầm thường của họ với một lớp sơn phết lòe loẹt. Có
lúc tôi đã nghĩ tôi có thể dạy cho họ biết rằng sự thật vốn đủ sức đứng
vững trên hai chân mà không cần đến những lớp sơn phết bóng bẩy của họ,
nhưng tôi không có thì giờ.
Tuy nhiên, tôi cũng lấy làm hài lòng mà có dịp học hỏi về những điều
huyền bí của Đông phương ở ngay tại chỗ. Trong một khối vô cùng hỗn độn
và phức tạp gồm rất nhiều những chuyện thần thoại ly kỳ, tôi đã thử
lục lạo tìm kiếm những gì có in dấu vết của chân lý và có thể đứng vững
sau những cuộc thử thách gắt gao của phương pháp thực nghiệm khoa học.
Tôi tự hào rằng có lẽ tôi đã không bao giờ làm được điều này nếu tôi
không dung hòa trong cái bản chất phức tạp của tôi hai yếu tố thường
vẫn luôn luôn trái ngược nhau: đó là sự hoài nghi của một bộ óc khoa
học và sự nhạy cảm tâm linh.
Tôi đề tựa quyển sách này là “Đông phương huyền bí”, vì nó nói về một
xứ Ấn Độ đã từng thoát khỏi mọi sự tìm tòi trong hàng bao nhiêu ngàn
năm, và được che đậy ẩn giấu một cách kín đáo đến nỗi ngày nay những gì
còn sót lại cũng đang tuần tự suy vong và biệt tích. Thái độ kín đáo
và bí mật của người đạo sĩ Yogi về việc giữ gìn những sự hiểu
biết của họ có vẻ như ích kỷ đối với quan niệm dân chủ tự do của phương
Tây hiện nay, và cũng bởi lẽ đó mà họ đã dần dần biến mất và bị mai một
với lịch sử.
Hàng ngàn người Âu sống ở Ấn Độ và có đến hàng trăm ngàn người khác
đến viếng xứ ấy mỗi năm. Tuy vậy, ít có ai biết được điều gì về Ấn Độ,
ngoài những viên ngọc thạch quí giá và những hạt trân châu đắt tiền mà
xứ ấy cung cấp.
Càng ít hơn nữa là những người chịu khó đi tìm những đạo sĩ của pháp môn Yoga,
và trong một ngàn người Âu, có lẽ không có đến một người sẵn sàng khấu
đầu làm lễ trước một nhà tu sĩ khổ hạnh mình trần, da sậm, ngồi thiền ở
một nơi đầy chướng ngại đến nỗi cho dù là những người có tâm hồn quảng
đại và trí thức cao xa, nếu bất thình lình phải rời khỏi khu cư xá
người Âu và lọt vào nơi động đá thâm u đó, cũng sẽ nhận thấy là khó
lòng mà sống chung gần gũi với một yogi và thông cảm với những ý tưởng của ông ta.
Tuy nhiên, người ta không thể trách một người Âu, dù là chuyên viên,
tư chức, thương gia hay du khách, vì quá kiêu hãnh nên không thể cùng
ngồi chung một chiếu với một yogi. Ngoài vấn đề giữ gìn thể
diện của người da trắng, còn có vấn đề khác là hình dáng bề ngoài của
những người đạo sĩ thường là dị dạng và không được hấp dẫn. Tránh xa
một người như thế chắc chắn là một quyết định an toàn và hợp lý nhất. Vì
thế mà thật đáng tiếc khi thấy rằng sau một thời gian nhiều năm lưu
trú ở xứ này, phần nhiều người Âu trở về nước với một sự thật thà ngây
ngô, không hề biết có những gì nằm phía sau cái trán phẳng lì của một
nhà hiền triết Ấn Độ.
Tôi còn nhớ buổi gặp gỡ một người đồng hương dưới bóng mát của pháo đài lớn xây trên đồi tại tỉnh Tiruchi.
Anh ta giữ một chức vụ quan trọng trong ngành hỏa xa Ấn Độ đã hơn hai
mươi năm. Lẽ tự nhiên, tôi hỏi thăm anh ta về đời sống ở xứ này. Sau
cùng tôi hỏi một câu đã quen miệng:
– Anh từng gặp các yogi chưa?
Anh ta nhìn tôi bằng cặp mắt vô tư và hỏi lại:
– Yogi ư? Con gì vậy? Anh muốn nói đến một loại thú rừng chăng?
Một sự ngờ nghệch như thế có thể tha thứ được đối với một người chỉ
quanh quẩn ở xó nhà và chưa từng đi ra khỏi tầm tiếng chuông nhà thờ Sainte Marie le Bow, nhưng là sau hai mươi sáu năm lưu trú ở Ấn Độ thì đó quả thật là một điều hi hữu!
Sở dĩ tôi có thể viết được thiên phóng sự này là vì tôi đã biết gạt
bỏ sang bên lòng tự kiêu của người da trắng khi tôi sống chung đụng với
mọi sắc dân của xứ Ấn Độ; vì tôi đã tiếp xúc với họ trong một tinh
thần cảm thông, cởi mở và gạt bỏ mọi thành kiến; và sau cùng là vì tôi
đã suốt đời đi tìm chân lý và sẵn sàng chấp nhận những gì xảy đến cho
tôi.
Tôi đã phải vạch một con đường đi xuyên qua những đám rừng người dị
đoan mê tín, những thuật sĩ giả mạo bịp đời, để có thể ngồi dưới chân
của những bậc hiền triết chân tu, và trực tiếp lắng tai nghe những lời
dạy chân chính về khoa pháp môn yoga Ấn Độ.
Tôi đã từng ngồi xếp bằng dưới đất trong những đạo viện hẻo lánh thâm
nghiêm, giữa những người bản xứ màu da sậm và nói những thổ ngữ lạ
lùng. Tôi đã từng đi tìm những nhà tu sĩ ẩn dật, lánh đời, những bậc yogi
thượng đẳng, để lắng tai nghe một cách khiêm tốn những lời dạy khẩu
truyền của họ. Tôi đã từng đàm luận suốt nhiều giờ với những nhà bác học
Bà-la-môn ở thành Bénarès về những vấn đề triết học
thâm sâu và cổ kính, đã từng giày vò khối óc và quả tim của con người
kể từ khi mới bắt đầu biết ngẫm nghĩ suy tư. Thỉnh thoảng tôi cũng đã
dừng chân để giải trí bên cạnh những vị pháp sư, phù thủy chuyên làm
những phép thuật kỳ dị, và tôi đã từng chứng kiến nhiều việc lạ lùng.
Như đã nói trên, tôi muốn ghi chép những sự việc có thật về những người yogi
thời nay bằng phương pháp điều tra tại chỗ. Tôi cũng tự hào rằng kinh
nghiệm trong nghề làm báo đã giúp tôi gom góp được nhiều tài liệu trong
một thời gian ngắn; và thói quen cầm cây bút chì xanh ngồi sửa bài
trong một văn phòng tòa soạn đã đào luyện cho tôi một khối óc phê phán
chặt chẽ và xác đáng để phân biệt ngọc đá, vàng thau. Sự tiếp xúc với
mọi hạng người trong xã hội mà nghề nghiệp phóng viên bắt buộc, gồm cả
các giới nam nữ, kẻ sang người hèn, kẻ cùng đinh chí đến nhà triệu phú,
đã giúp tôi biết cách đi đứng len lỏi dễ dàng giữa những đám quần chúng
đông đảo và phức tạp của xã hội Ấn Độ để lục lạo tiếp xúc với những
người bí mật lạ lùng mà người ta gọi là yogi.
Mặt khác, tôi đã từng có một đời sống nội tâm hoàn toàn cách biệt với
sự sinh hoạt hằng ngày. Tôi đã dành nhiều thời giờ để khảo cứu những
sách vở về khoa huyền môn và thám hiểm những ngõ ngách khó khăn của
khoa tâm lý. Tôi đã từng vùi đầu vào những vấn đề xưa nay vẫn được bao
trùm trong một tấm màn bí mật hoàn toàn. Thêm vào đó là một sự thích
thú tự nhiên đối với những gì thuộc về Đông phương.
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn
tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc
khảo cứu các kinh điển của Á châu, nghiền ngẫm về những lời bình luận
sâu xa của các nhà bác học và những tư tưởng siêu việt của các nhà hiền
triết Đông phương mỗi khi tôi tìm được những bản dịch Anh ngữ.
Hai thứ kinh nghiệm sóng đôi trên đây đã tỏ ra rất hữu ích cho công
việc tìm tòi của tôi. Nhờ đó, tôi không bao giờ để cho sự thiện cảm của
tôi đối với các vấn đề Đông phương làm thiên lệch óc phê bình và xét
đoán khoa học trong công việc điều tra sưu tầm. Nhưng nếu không có mối
thiện cảm nói trên thì không bao giờ tôi có thể sống chung đụng với dân
bản xứ và len lỏi vào những nơi bình dân mà một người Âu bình thường
không thèm đi đến. Còn nếu không có một khối óc phê bình chặt chẽ và lý
luận khoa học, tôi đã có thể bị lạc vào đám rừng hỗn độn của sự mê tín
dị đoan, mà điều này dường như có nhiều người Ấn Độ đã mắc phải.
Muốn dung hòa những đức tính thường được xem như là tương phản nhau
thật không phải là một điều dễ dàng. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn luôn cố
gắng gìn giữ những đức tánh đó trên một thế quân bình và hợp lý.
lll
Nói rằng Tây phương không có gì phải học hỏi từ xứ Ấn Độ về các
phương tiện vật chất kỹ thuật, điều đó có thể không cần bàn cãi nhiều.
Nhưng tôi có thể quả quyết không chút do dự rằng chúng ta có rất nhiều
điều cần phải học hỏi từ những bậc hiền triết cổ Ấn Độ và một số bậc
hiền giả đương thời về mặt tinh thần và đạo đức.
Người du khách Tây phương đi một vòng viếng những thành phố lớn và
những nơi cổ tích lịch sử rồi lên tàu về nước, vui lòng quay lưng từ
giã một nền văn minh mà họ cho là lạc hậu, dĩ nhiên cũng có lý do trong
sự nhận xét của họ. Nhưng một ngày kia chắc sẽ có một hạng du khách
thông minh hơn, thay vì đi tìm tàn tích sụp đổ của những ngôi đền miếu
bỏ hoang, hay cung điện cũ của những bạo chúa thời xưa nay đã mai một
với lịch sử, hạng du khách này lại đi tìm những bậc hiền giả đương
thời, những người có thể tiết lộ cho họ một nền minh triết không hề
được giảng dạy ở các trường đại học của phương Tây.
Phải chăng những nhà hiền triết Ấn Độ này chỉ là những kẻ vô công rỗi
nghề, ngồi ngáp dài dưới ánh mặt trời nóng như thiêu của vùng nhiệt
đới? Phải chăng họ chẳng làm được gì có ích cho thế gian? Người du
khách nào chỉ nhìn thấy riêng khía cạnh vật chất thiếu thốn và thái độ
có vẻ như tiêu cực vô vi của họ, hẳn là đã không nhìn thấy xa. Người ấy
hãy thay thế sự khinh bỉ bằng một chút kính nể, quí trọng, rồi sẽ có
thể làm cho những vị hiền triết ấy mở miệng và hé mở những cánh cửa bí
mật, diệu huyền.
Đành rằng xứ Ấn Độ đã ngủ im lìm trong suốt hàng bao nhiêu thế kỷ, và
có hàng triệu người dân quê Ấn Độ hiện nay vẫn sống trong vòng dốt nát
và dị đoan giống như tình trạng của người dân quê Anh quốc hồi thế kỷ
14. Đành rằng những nhà bác học Bà-la-môn ở những trung tâm học thuật
bản xứ thường lãng phí thời giờ vô ích để chẻ sợi tóc triết lý ra làm
bốn và nói chuyện siêu hình một cách vu vơ, viển vông chẳng thua gì
những nhà học giả phương Tây thời Trung Cổ. Tuy nhiên, vẫn còn một
ngành học thuật tuy nhỏ nhưng vô giá, được biết đến dưới cái danh từ Yoga, có thể mang đến cho nhân loại những ích lợi cũng quan trọng như tất cả những tiến bộ của khoa học Âu Tây.
Nó có thể đem đến cho thể xác chúng ta một tình trạng sức khoẻ kiện
toàn đúng theo ý muốn. Nó có thể đem đến cho nền văn minh tân tiến của
chúng ta một trong những điều mà nhân loại cần đến một cách cấp bách
nhất, đó là sự bình an trong tâm hồn. Và nó có thể đem đến cho người
nào chịu bỏ ra một chút công phu cố gắng cần thiết những phần thưởng
quí báu trên địa hạt tâm linh.
Tôi nhìn nhận rằng sự minh triết cao cả đó dường như không phải là
của xứ Ấn Độ ngày nay, mà nó thuộc về Ấn Độ của quá khứ, và ngày nay đã
không cònnữa thời hưng thịnh của pháp môn Yoga, đã từng có
lúc qui tụ chung quanh những bậc danh sư nhiều môn đệ xứng đáng. Tôi tự
hỏi, phải chăng chính tấm màn bí mật mà người ta dùng để che đậy ẩn
giấu pháp môn Yoga một cách vô cùng chặt chẽ đó đã giết chết sự phát triển mở mang của nó?
Như thế, có lẽ cũng không phải là một điều ngốc nghếch khi yêu cầu
những người phương Tây hãy quay mắt nhìn về phương Đông, không phải để
tìm một tín ngưỡng mới, mà để thâu thập vài điều kiến thức mới lạ, thêm
vào số vốn hiểu biết sẵn có của họ.
Khi những nhà Đông phương học như Burnouf Colebrooke và Max Muller
xuất hiện trên diễn đàn học thuật của thế giới và đem đến cho chúng ta
vài nghệ phẩm văn chương kiệt tác của Ấn Độ, thì những nhà bác học Âu
Châu mới bắt đầu hiểu rằng những dân tộc “dị giáo” ở xứ ấy không phải
là ngu đần như họ vẫn lầm tưởng do nơi sự dốt nát của chính họ. Những
kẻ tự phụ là khôn ngoan nói rằng nền học thuật Á châu vốn trống rỗng,
không có gì bổ ích cho Tây phương, ấy là họ đang tự phô bày sự trống
rỗng của chính họ. Có những người tự cho là thực tế thường bảo rằng
khảo cứu văn hóa Đông phương là một điều dại dột, nhưng rốt cuộc điều
đó chỉ bày tỏ sự dại khờ và nông cạn của chính họ.
Chúng ta có xứng đáng là một dân tộc văn minh chăng nếu quan niệm của
chúng ta về cuộc đời lại hoàn toàn bị định đoạt bởi một sự ngẫu nhiên
tình cờ, khiến cho ta sinh ra ở London thay vì ở Bombay?
Những kẻ nào khép chặt trí óc đối với những tư tưởng Đông phương tức
là tự khép chặt trí óc họ đối với những tư tưởng tế nhị, những chân lý
uyên thâm và những sự hiểu biết sâu rộng về các vấn đề tâm linh. Người
khôn ngoan hơn chịu khó tìm tòi lục lạo trong kho tàng hỗn độn cũ kỹ của
Đông phương để hy vọng tìm thấy một vài viên ngọc quí, một sự kiện lạ
lùng, một vài điểm minh triết quí báu, sẽ thấy rằng công phu tìm kiếm
của họ rốt cùng không phải là vô ích.
lll
Tôi lên đường thẳng đến phương Đông để tìm những nhà đạo sĩ và khoa
học huyền bí thâm sâu của họ. Tôi cũng nuôi ý nghĩ đi tìm một sự giác
ngộ tâm linh và một đời sống siêu việt hơn, tuy rằng đó không phải là
mục đích chính của tôi. Tôi đã từng đi dạo trên bờ những con sông linh
thiêng của Ấn Độ: sông Hằng với dòng nước xám xanh chảy lờ đờ, sông Jumna rộng lớn, sông Godavari hùng vĩ và ngoạn mục.
Tôi đi châu du khắp chốn và đã được đền đáp trọng hậu: xứ Ấn Độ đón
tiếp tôi với hai tay mở rộng, ôm chặt tôi vào lòng, và những bậc hiền
giả cuối cùng còn sót lại của xứ ấy đã hé mở những cánh cửa bí mật,
diệu huyền trước cặp mắt vô cùng ngạc nhiên của người khách lạ Tây
phương!
Tôi có thể nói rằng, chính ở Ấn Độ mà tôi nhận thấy đức tin đã trở
lại với tôi. Trước đây không lâu, tôi vẫn còn ở trong số những người
xem các học thuyết tâm linh như một điều ảo tưởng, chân lý như một đám
mây mù không thiết thực, và luật nhân quả, nền công lý thiêng liêng,
như một sản phẩm giả tạo của những kẻ có đầu óc không tưởng, hư vô. Tôi
đã phải chịu đựng một cách khốn khổ những người xây dựng cõi thiên đàng
thần học, họ thản nhiên dắt bạn đi chơi một vòng trên cõi ấy, tự xem
mình là những người của Thượng đế! Tôi chỉ có sự dửng dưng đối với
những hành động quá khích và vô vị của những người ấy.
Bởi vậy, nếu tôi đã bắt đầu suy nghĩ khác đi về những vấn đề đó, ấy
là tôi có những lý do chính đáng. Tuy thế, tôi vẫn không theo một tín
ngưỡng Á Đông nào, vì thật ra tôi đã từng khảo cứu về những vấn đề ấy
từ lâu. Điều mà tôi thâu thập được, đó là một quan niệm mới về những
vấn đề tâm linh. Điều này dường như chỉ là nhỏ nhặt không đáng kể và có
tính cách cá nhân, nhưng đối với một con người của thế hệ hiện nay,
không hề tin tưởng ở thần quyền, thì thiết tưởng đó là một kỳ công đáng
kể. Đức tin vào đời sống tâm linh đã đến với tôi bằng một phương tiện
độc đáo, làm hoán cải một kẻ hoài nghi, nghĩa là không phải do sự lý
luận mà do một kinh nghiệm của tự thân. Và chính một bậc hiền giả trong
rừng thẳm, một vị ẩn sĩ vô danh và khiêm tốn đã từng sống trong một
động đá suốt sáu năm trường, đã mang lại cho tôi sự chuyển biến sâu xa
và huyền diệu đó. Tôi tin rằng vị này không hề thi đỗ một cấp bằng khoa
cử nào, nhưng tôi không chút hổ thẹn mà nhìn nhận nơi đây tất cả sự
biết ơn sâu xa của tôi đối với ngài.
Một xứ sở tạo ra được những con người như vậy ít nhất cũng có đủ uy
tín để kêu gọi sự chú ý của những người phương Tây tự cho là thông
minh, hiểu biết. Đời sống tâm linh của xứ Ấn Độ huyền bí vẫn luôn có
thật và ẩn giấu dưới sự che đậy bên ngoài của những cơn giông tố ồ ạt
trên trường chính trị.
Tôi đã cố gắng ghi chép lại trong quyển sách này những chuyện có thật
của nhiều bậc tu sĩ đã đạt được sức mạnh tâm linh và sự bình an trong
tâm hồn, tức là những ân huệ quí báu mà người đời vẫn thường mong ước
một cách tuyệt vọng! Trong sách này, tôi cũng ghi chép nhiều chuyện
khác nữa, những chuyện huyền bí và lạ lùng đến nỗi có vẻ như hết sức khó
tin.
Thật thế, tôi cũng đã lấy làm ngạc nhiên về sự bạo gan của mình, khì
tôi dám viết quyển sách này cho một thế giới hoài nghi và không tin
tưởng. Tuy nhiên tôi không tin rằng trào lưu chạy theo vật chất trên
thế giới hiện nay sẽ tồn tại mãi mãi với thời gian. Người ta đã bắt đầu
nhận thấy những dấu hiệu đầu tiên của một sự tiến hóa tư tưởng trong
tương lai.
Thật ra, tôi cũng như phần đông người của thế hệ này, không hề tin
tưởng nơi những phép lạ nhiệm mầu. Nhưng tôi tin rằng sự hiểu biết của
chúng ta về những định luật thiên nhiên hãy còn rất thiếu sót, và tôi
cũng tin rằng những nhà bác học tiền phong, hiện đang lần mò từng bước
để thám hiểm lãnh vực đó, rồi sẽ có ngày khám phá được những điều mà
ngày nay ta vẫn thường xem như những phép lạ nhiệm mầu.
PAUL BRUNTON