Những tuần lễ sau đó, tôi vượt qua vùng cao nguyên Décan để
đi xuống miền nam. Tôi viếng thăm nhiều nơi danh lam thắng cảnh, nhưng
không gặp một nhân vật nào đáng kể. Tuy nhiên, có một sức mạnh huyền
bí mà tôi nhắm mắt tuân theo không suy nghĩ đã thúc giục tôi tiếp tục
tiến bước.
Ngày nọ, tôi ngồi trên chuyến xe lửa đêm đi xuống Madras, và
không tìm thấy giấc ngủ. Tôi bèn ngồi dậy để thử kiểm điểm những kết
quả đã thu thập được. Tôi phải nhìn nhận rằng những kết quả ấy rất mỏng
manh, và tôi chưa có dịp gặp gỡ một người đạo sĩ nào. Còn nói về hy
vọng gặp được một vị chân sư thì tôi đành tạm gác sang một bên vì chưa
thấy có chút manh mối tương quan nào cả.
Ngược lại, tôi đã gặp phải không biết bao nhiêu những sự dị đoan mê
tín và những tập quán cổ xưa lỗi thời. Bây giờ tôi mới hiểu những nụ
cười nghi hoặc và những lời cảnh cáo của các bạn tôi ở Bombay. Lần đầu
tiên tôi nhận thức được sự khó khăn của vấn đề tôi đang theo đuổi.
Nói về những tu sĩ tự xưng là sùng tín và đạo hạnh thì ở xứ này không
thiếu. Họ họp thành một thành phần đông đảo không thể tưởng tượng.
Nhưng có đáng để tốn công nhọc sức đi tìm những người như thế hay không
thì lại là một chuyện khác.
Bạn đi ngang qua một ngôi đền cổ kính thâm nghiêm, bề ngoài có vẻ rất
hấp dẫn và đầy hứa hẹn. Bạn bước vào trong với một tấm lòng sùng kính
thiêng liêng và tiến đến gần nơi thánh điện. Bạn nhìn vào trong và bạn
thấy những gì? Những người hành lễ ngây ngô vừa cầu nguyện vừa rung một
cái chuông nhỏ để làm cho những lời cầu xin của họ được thấu đến tai
của những vị thần trong đền!
Thành phố Madras với những phong cảnh tưng bừng nhộn nhịp và
màu sắc địa phương rực rỡ lạ mắt làm cho tôi rất thích thú. Tôi tạm
trú ở một vùng ngoại ô cách thành phố hai dặm. Nơi đây tôi sẽ được gần
gũi với người bản xứ hơn là ở khu sang trọng dành cho người Âu.
Tôi đi theo con đường cái, nhà cửa hai bên đường đều quét vôi trắng,
trước mỗi nhà đều có một hàng hiên để hóng mát. Chung quanh vùng có cây
cối sầm uất, cảnh vật tươi tốt trông thật thích mắt. Cách đó chừng nửa
dặm, con sông Adyar uốn quanh, dòng nước chảy chậm chạp lờ
đờ. Hai bên bờ sông có những vườn dừa che bóng mát rượi. Tôi định lúc
nào rảnh rang sẽ đi bách bộ dạo chơi dưới bóng những hàng dừa, hoặc ngồi
ngắm cảnh trên bờ sông. Con sông Adyar chảy về ngoại ô phía nam thành phố Madras, trước khi đổ ra vịnh Coromandel.
Một buổi sớm mai, tôi dạo chơi trên bờ sông với một người thanh niên
Ấn mà tôi mới làm quen và tôi đã có dịp thổ lộ với anh ta về mục đích
cuộc sưu tầm của tôi. Thình lình anh ta nắm lấy tay tôi và nói:
– Kìa! Ông hãy nhìn xem, người đang đi về phía chúng ta từ đàng xa kia là một yogi. Có lẽ ông sẽ muốn biết về người ấy, nhưng có điều rất tiếc là khó mà làm quen được với với ông ta.
– Tại sao vậy?
– Tôi biết chỗ ông ta ở, nhưng tôi chưa từng thấy ai dè dặt và kín đáo như người này.
Người lạ mặt đã tiến đến gần chúng tôi. Ông ta có cái vóc vạc cao lớn
lực lưỡng và trạc độ ba mươi lăm tuổi. Gương mặt có điều làm cho tôi
chú ý nhất là những nét đặc biệt của một người da đen: nước da rất sậm,
mũi thấp, cặp môi dày, vai rộng. Tóc ông ta dài và cột lại thành một
búi nhỏ trên đỉnh đầu. Ông ta đeo hai cái khoen lớn khác thường dưới
hai trái tai. Ông ta vận một cái chăn quấn chung quanh thân mình, một
đầu vắt lên vai bên trái, hai vai để trần và đi chân trần.
Ông ta đi ngang qua chúng tôi với những bước đi chậm rãi, mắt nhìn
xuống đất như đang tìm một vật gì và dường như không nhìn thấy chúng
tôi. Đằng sau đôi mắt đó hẳn phải là một tâm hồn sáng suốt linh hoạt,
và tôi tự hỏi trong cơn suy tư trầm lặng và đơn chiếc của ông ta lúc
ấy, không biết ông ta đang suy gẫm về vấn đề gì.
Tôi bỗng có ý muốn phá tan bức rào ngăn cách với con người kỳ lạ đó.
Lúc ấy ông ta đã đi qua khỏi chỗ chúng tôi đứng. Tôi bèn đề nghị:
– Tôi muốn nói chuyện với ông ta. Chúng ta hãy quay trở lại.
Người thanh niên bèn cản tôi:
– Ông sẽ mất thời giờ vô ích thôi.
– Nhưng hãy thử xem, biết đâu.
Người bạn tôi lại can ngăn lần nữa:
– Người này sống ẩn dật và cách biệt đến nỗi không ai biết gì cả về
cuộc đời của ông ta. Ông ta tránh xa tất cả mọi người, thậm chí đến cả
những người láng giềng. Tốt hơn, chúng ta không nên quấy rầy ông ta.
Nhưng tôi đã quyết định quay trở lại, và người bạn trẻ của tôi đành
phải đi theo. Không bao lâu, chúng tôi đã theo gần kịp người lạ mặt.
Ông ta vẫn tiến bước mà không tỏ vẻ gì biết rằng có chúng tôi đi theo.
Chúng tôi cố đi nhanh hơn để vượt lên. Tôi bảo người bạn tôi:
– Anh hãy nói giúp là tôi muốn nói chuyện với ông ta.
Người bạn trẻ của tôi do dự và lắc đầu từ chối:
– Tôi không dám.
Không muốn bỏ qua một cơ hội tốt, tôi quyết định phải đánh bạo làm
quen. Tôi không còn cách nào khác, đành bất chấp những luật lệ xã giao
thông thường. Tôi bèn đứng chặn đường người yogi và thốt ra một
câu ngắn ngủi rút trong số vốn tiếng Ấn Độ nghèo nàn của tôi. Người lạ
mặt ngước mắt nhìn lên, miệng hơi nở một nụ cười, nhưng lại lắc đầu tỏ
vẻ không muốn bị làm phiền.
Người bạn trẻ của tôi thấy rằng đã đến lúc anh ta phải can thiệp.
Bằng một giọng do dự, anh ta nói vài lời xin lỗi bằng tiếng Tamoul. Người yogi
không đáp lại, nét mặt ông ta trở nên cứng rắn, cặp mắt lạnh lùng cách
biệt. Người thanh niên luống cuống nhìn tôi, sự im lặng càng trở nên
nặng nề và khó chịu. Làm sao thoát ra khỏi tình trạng đó?
Trong cơn bối rối, tôi mới biết rằng thật không phải dễ gì mà làm cho
một người ẩn sĩ mở miệng để nói chuyện với mình. Những người ấy hẳn là
không thích bị ai phỏng vấn, đừng nói chi là tiếp đón một người ngoại
chủng tọc mạch muốn biết về đời sống nội tâm của họ. Điều mà họ càng
không thích hơn nữa là phải nói chuyện với một người Anh, là hạng người
mà họ luôn có định kiến rằng không hề có một chút thiện cảm hoặc hiểu
biết gì về những điều huyền vi tế nhị của pháp môn Yoga.
Nhưng ý nghĩ đó bị xô đuổi bởi một ý nghĩ khác. Tôi cảm thấy rõ rệt
rằng mình đang là cái đích đặt dưới sự dò xét tỉ mỉ và sâu sắc của
người yogi. Tôi chắc chắn rằng phía sau vẻ mặt thờ ơ lãnh đạm
kia, ông ta đang chú ý thăm dò những ý nghĩ thầm kín nhất của tôi. Hay
là tôi đã lầm? Nhưng tôi vẫn không thể gạt bỏ cái cảm giác khó chịu đó:
tôi đang là một vật khám nghiệm dưới một ống kính hiển vi!
Người thanh niên lấy làm bực mình và ngầm lấy cùi chỏ thúc vào hông
tôi, như muốn nói rằng ta hãy nên lui bước. Anh ta làm cho tôi khó
chịu, và chỉ độ một phút nữa là tôi cũng đành nhượng bộ rút lui và nhìn
nhận sự thất bại của mình. Nhưng ngay khi đó, người yogi cử
động; ông ta đưa tay chỉ một gốc dừa gần bên và ra hiệu bảo chúng tôi
cùng đến ngồi dưới bóng cây. Ông ta ngồi xuống sau hết và nói vài lời
bằng tiếng Tamoul với người thanh niên.
Tôi nhận thấy giọng nói ông ta trong và ấm gần như tiếng nhạc. Người bạn trẻ của tôi thông dịch lại:
– Đạo sĩ nói rằng người sẵn lòng tiếp chuyện với ông.
Tôi liền hỏi quí danh đạo sĩ và được biết ông ta có một cái tên rất dài. Tôi bèn xin phép gọi ông ta là Brama cho tiện và dễ nhớ. Tôi nói với người thanh niên:
– Anh hãy nói giùm là tôi rất chú trọng đến pháp môn Yoga và tôi muốn được hiểu biết ít nhiều về khoa ấy.
Người yogi nghe xong liền gật đầu mỉm cười:
– À! Tôi cũng đoán là như vậy. Vậy ông muốn biết điều gì, xin ông cứ hỏi.
– Đạo sĩ tu luyện theo pháp môn nào?
– Tôi tu theo pháp môn Hatha Yoga, tức là phép chủ trị xác
thân. Đó là pháp môn khó nhất. Thể xác con người và nhất là bộ máy hô
hấp phải được tập luyện và kiểm soát như một con lừa! Sau đó, việc làm
chủ được hệ thần kinh và trí óc sẽ dễ dàng như trò chơi trẻ con.
Tôi lại hỏi:
– Tu theo pháp môn này đem đến những ích lợi gì?
Cặp mắt mơ màng như nhìn về một cõi xa xăm, Brama đáp:
– Sức khỏe, ý chí và sống lâu. Đó là chỉ kể sơ qua vài điều. Người
yogi tu luyện đúng phép sẽ làm chủ được xác thân và làm cho nó trở nên
cứng rắn như sắt. Sự đau đớn không còn tác động đến nó được nữa. Tôi
biết một yogi đã chịu đựng một cuộc giải phẫu mà không cần dùng đến thuốc mê. Ông ta trải qua suốt ca mổ mà không một tiếng rên. Người yogi cũng có thể phơi mình trần dưới tiết trời lạnh lẽo nhất mà không hề gì cả.
Tôi lấy sổ ra ghi chép, và câu chuyện bắt đầu chuyển sang một giai đoạn thú vị hơn. Lối viết chữ tốc ký của tôi làm Brama mỉm cười, nhưng ông ta không ngăn cản việc ấy.
– Đạo sĩ có thể cho biết thêm vài chi tiết?
– Được, nếu ông muốn. Thầy tôi đã từng sống ở một địa điểm ngoài trời
trên dãy Hi Mã Lạp Sơn đầy tuyết phủ mà trên người không mặc gì khác
hơn một manh áo mỏng. Người có thể nằm suốt nhiều giờ liên tiếp ở một
nơi mà nước phải đông lại trong tức khắc, nhưng vẫn không hề chi cả. Đó
là cái sức mạnh nhiệm mầu của pháp môn Yoga.
– Đạo sĩ là đệ tử của ngài?
– Phải, nhưng tôi chưa đạt tới mức cao tột, mặc dầu tôi đã công phu cố gắng luyện tập không ngừng trong suốt mười hai năm.
– Nhưng chắc đạo sĩ cũng đã đạt tới một trình độ nhất định nào đó rồi, và có được những năng lực vượt hơn người thường?
Brama gật đầu nhưng không nói gì. Ông ta làm cho tôi càng tò mò hơn nữa. Tôi bèn hỏi:
– Xin đạo sĩ cho biết trong trường hợp nào ông đã trở thành một người yogi?
Im lặng. Cả ba người chúng tôi đều ngồi dưới bóng cây ven bờ sông.
Trên lùm cây bên kia sông, tiếng bầy quạ kêu vang lẫn với tiếng kêu chí
choé của vài con khỉ nhảy nhót trên cành. Bỗng nhiên, Brama cất tiếng nói:
– Được.
Tôi đoán chắc ông ta có thể hiểu được những câu hỏi của tôi có một lý
do sâu xa hơn là một sự tò mò. Ông ta choàng lại cái khăn vắt trên
vai, đôi mắt mơ màng nhìn về phía bên kia sông và bắt đầu nói:
– Thuở nhỏ, tôi là một đứa trẻ ít nói và thích sống cô đơn. Tôi không
thấy gì là vui thú trong những trò chơi của các bạn tôi, vì thế tôi
luôn tránh xa họ và thích đi dạo một mình ở những nơi vườn cây hay
ngoài đồng vắng. Ít người biết được những gì diễn ra trong tâm hồn kín
đáo của một đứa trẻ. Tôi sống cách biệt với mọi người và cảm thấy rằng
đời không có gì vui. Vào năm mười hai tuổi, tình cờ tôi nghe lỏm được
một câu chuyện giữa những người lớn nói về vấn đề Yoga. Đó là
lần đầu tiên tôi nghe đến danh từ đó, và những gì tôi nghe trong câu
chuyện cũng đủ làm cho tôi tò mò muốn biết thêm. Tôi chất vấn nhiều
người và góp nhặt được vài quyển sách nói về Yoga, trong đó tôi đọc được nhiều điều thú vị về các đạo sĩ Yogi.
Cũng như con ngựa giong ruổi trên sa mạc mong mỏi tìm đến dòng suối
mát, trí óc tôi khát khao sự hiểu biết. Nhưng tôi chỉ có một mình và
không làm sao tiến xa hơn nữa được.
Một hôm, tình cờ tôi lật một quyển sách và thấy trong đó có câu: “Muốn tiến bộ trên đường tu luyện pháp môn Yoga, phải nhờ có sự chỉ dẫn của một bậc danh sư.”
Những lời này làm cho tâm hồn tôi thắc mắc băn khoăn. “Một danh sư”
ư? Tôi hiểu ngay rằng, muốn tìm được thầy thì không có cách nào khác
hơn là bỏ nhà ra đi để tìm kiếm khắp thiên hạ. Nhưng tôi không thể mong
đợi sự cho phép của cha mẹ tôi về việc này. Không biết phải làm thế
nào, tôi bèn lén lút luyện thử một vài phép hô hấp mà tôi đã góp nhặt
được từ những tài liệu trong các sách. Phép luyện này, thay vì có ích,
lại làm hại cho tôi. Tôi không biết rằng phép khí công rất nguy hiểm
nếu không có sự dìu dắt của một bậc danh sư. Nhưng vì tôi quá nóng lòng
nên không thể chờ đợi mãi được. Sau vài năm tập luyện lén lút một
mình, hậu quả bất ngờ đưa đến là tôi bị đứt một gân máu trên đỉnh đầu,
dường như đó là chỗ chịu đựng yếu nhất.
Tôi cảm thấy toàn thân tôi giá lạnh và sức khỏe yếu dần, máu chảy
lênh láng ở chỗ vết thương. Tôi tưởng rằng tôi sắp chết. Hai giờ sau
đó, tôi nhìn thấy một linh ảnh lạ lùng, hình như tôi thấy gương mặt đạo
mạo của một vị đạo sĩ già hiện ra và nói với tôi: “Con thấy chăng,
phép tu luyện ngăn cấm đối với kẻ phàm tục có thể đưa con đến một tình
trạng nguy hiểm là dường nào! Con hãy nhớ lấy bài học này.” Rồi linh ảnh
biến mất, nhưng lạ thay, từ đó trở đi tôi cảm thấy khá hơn và không
bao lâu sức khỏe của tôi hoàn toàn bình phục trở lại. Nhưng ông hãy
xem, vết sẹo hãy còn đây.
Brama cúi đầu cho chúng tôi xem một vết sẹo nhỏ hiện ra rõ ràng trên đỉnh đầu. Ông ta nói tiếp:
– Sau khi tai nạn đó xảy ra, tôi bèn ngưng việc luyện hơi thở và chờ
đợi để cho thời gian làm giảm bớt những sự ràng buộc với gia đình. Khi
tôi được tự do, tôi liền từ giã gia đình và đi châu du khắp nơi để tìm
thầy. Tôi biết rằng phương pháp hay nhất để chọn lựa một bậc thầy là
hãy sống chung với người ấy trong vài tháng. Tôi đã gặp qua được vài ba
người, nhưng khi sống chung với họ thì tôi luôn bị thất vọng. Những vị
ấy đều là những sư trưởng đứng đầu các tu viện hoặc đạo viện, nhưng
không có vị nào làm cho tôi thỏa mãn. Về phần lý thuyết thì họ biết rất
nhiều, nhưng về kinh nghiệm tự thân thì hầu như họ chẳng có gì cả.
Phần nhiều họ chỉ lặp lại những điều đã có trong sách, còn việc dìu dắt
tôi trên phương diện thực hành thì họ không làm được.
Tôi đã bỏ qua tất cả mười vị thầy, nhưng vẫn không thối chí, sự nhiệt
thành của tuổi trẻ lại càng sôi sục thêm nữa, và những thất vọng liên
tiếp đó càng nung nấu thêm lòng cương quyết của tôi.
Khi tôi đã đến tuổi trưởng thành. Tôi bèn quyết định từ bỏ gia đình
và tất cả ruộng vườn nhà cửa, dứt bỏ hẳn cuộc sống thế tục và đi lưu
lạc khắp nơi để tìm thầy. Tôi dứt bước ra đi, phiêu lưu đây đó.
Một ngày kia, tôi đến một làng thuộc tỉnh Tanjore. Tôi xuống
sông để tắm gội, xong rồi mới lên dạo chơi trên bờ sông. Tôi thấy một
ngôi đền nhỏ xây bằng đá màu đỏ. Vì hiếu kỳ, tôi đến nhìn vào trong thì
lấy làm ngạc nhiên mà thấy có một số người ngồi vây quanh một người
khác để mình trần. Họ nhìn người này với một sự kính mến vô cùng: quả
thật, trên gương mặt người này có một cái gì vừa huyền bí vừa tôn
nghiêm.
Tôi đứng ở trên thềm và nhìn xem với một sự say sưa, chăm chú. Tôi
nhận thấy rằng cả nhóm đang thụ giáo người này về một môn học nào đó,
và tôi có cái linh cảm rằng người này là một vị đạo sĩ chân chính, một
bậc danh sư mà tôi đang tìm kiếm chứ không phải một học giả nhồi sọ đầy
những lý thuyết. Tại sao tôi có cái linh cảm đó, tôi cũng không thể
nói được.
Bỗng nhiên, bốn mắt chúng tôi gặp nhau. Tuân theo một sự thúc giục
thầm kín bên trong, tôi bước ngay vào đền. Vị tôn sư tiếp đón tôi một
cách niềm nở, mời tôi ngồi và nói:
– Con đây rồi! Đã sáu tháng nay ta luôn nghĩ đến việc thâu nhận con làm đệ tử.
Thật là vừa đúng sáu tháng kể từ ngày tôi bước chân ra đi! Và tôi đã
gặp thầy tôi trong hoàn cảnh đó. Từ đó trở đi, tôi theo thầy tôi khắp
mọi nơi. Có đôi khi ngài xuống tỉnh thành, nhưng thường hơn là ngài ở
tận trong rừng thẳm. Tôi bắt đầu thu hoạch được những kết quả tiến bộ
mau chóng về khoa Yoga. Thầy tôi là một vị yogi thượng đẳng về pháp môn Hatha Yoga, tức là pháp môn tinh luyện xác thân. Khoa Yoga
có nhiều môn phái khác nhau về phương pháp thực hành. Môn phái của tôi
chuyên lo tinh luyện xác thân trước nhất, rồi sau mới tu luyện về tinh
thần. Phép luyện khí công, tức luyện hơi thở, cũng thuộc về pháp môn
này. Có một lần, tôi phải nhịn đói suốt bốn mươi ngày liên tiếp để
chuẩn bị cho một giai đoạn công phu đặc biệt và nhận lãnh một vài quyền
năng của pháp môn Yoga.
Một hôm, thầy tôi gọi tôi lại gần và nói: “Cuộc đời xuất gia và hoàn
toàn thoát tục chưa phải là của con. Con hãy trở lại thế gian và sống
một cuộc đời bình thường. Con sẽ lập gia đình và sinh một đứa con. Đến
năm ba mươi chín tuổi, con sẽ được thấy nhiều ấn chứng và sau đó sẽ
được tự do rút lui ra ngoài vòng thế tục. Chừng đó, con hãy trở lại nơi
rừng thẳm để tu luyện cho đến khi công phu viên mãn. Thầy sẽ chờ đợi,
con có thể trở lại với thầy.”
Tôi vâng lời thầy dạy và trở về quê hương. Tôi cưới một người vợ và
có một đứa con đúng như lời thầy tôi đã nói trước. Sau đó ít lâu, vợ
tôi qua đời, cha mẹ tôi cũng đã khuất núi, và tôi lại từ giã quê hương
một lần nữa để đến ở nơi đây, tại nhà một bà lão góa bụa, người đồng
hương với tôi và đã từng biết tôi từ khi tôi còn nhỏ. Bà lão này coi
sóc nhà cửa bếp núc cho tôi, và vì tuổi già làm cho bà trở nên ít nói và
kín đáo, nên bà để cho tôi bình yên sống cuộc đời ẩn dật mà sự tu tập
của tôi cần đến.
Brama nói dứt lời, tôi cũng không hỏi thêm gì nữa. Sau vài
phút im lặng, ông ta đứng dậy và bước chậm rãi trở về nhà. Tôi và người
bạn trẻ cùng đi theo sau. Chúng tôi đi qua một đám rừng dừa và những
đám cây cối sầm uất. Nước sông Adyar phản chiếu ánh nắng sáng ngời.
Một hay hai giờ trôi qua trong khi chúng tôi đi dạo một cách thú vị
dọc theo bờ sông. Không bao lâu, chúng tôi đã về đến làng. Một ngọn gió
nhẹ từ bờ biển thổi vào mát rượi. Đến một bên đường, một bầy lợn đi
ngang qua. Một bà lão chăn lợn cầm cái gậy quất ngọn roi tre vào những
con đi lạc bầy.
Brama quay lại để từ giã chúng tôi. Tôi tỏ ý muốn gặp ông
ta lần nữa. Ông ta gật đầu bằng lòng. Tôi bèn mời ông ta đến nhà tôi
chơi. Người bạn trẻ của tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy người đạo sĩ
nhận lời đến chơi nhà tôi ngay chiều hôm đó.
Chiều đến, tôi ngồi đợi Brama và sắp đặt sẵn trong trí những
câu hỏi mà tôi sẽ đưa ra. Những điều ông ta thuật lại về cuộc đời của
ông ta làm tôi thích thú và muốn tìm hiểu thêm về con người đặc biệt
đó.
Vừa nghe nói có ông ta đến, tôi liền bước ra hàng ba và chắp tay chào
theo kiểu Ấn Độ để tỏ thiện chí đối với ông ta và cũng vì tôi muốn tỏ
ra tôn trọng phong tục bản xứ.
Brama theo tôi vào phòng khách và ngồi xuống sàn gạch, hai
chân xếp bằng. Tôi mời ông ta ngồi trên bộ ván gỗ, nhưng ông ta từ chối
và bảo thích ngồi dưới sàn gạch hơn. Tôi tỏ lời cám ơn ông ta về cuộc
thăm viếng và mời ông ta dùng một ít bánh trái. Ông ta lẳng lặng ngồi
ăn.
Khi ông ta đã dùng xong trà bánh, tôi thấy có bổn phận nói qua đôi
chút về mình để ông ta biết được lý do vì sao tôi đường đột muốn làm
quen với ông ta.
Trong vài câu vắn tắt, tôi thổ lộ với ông ta về những hoàn cảnh và những sức mạnh huyền bí đã dắt dẫn tôi đến với xứ Ấn Độ. Brama im lặng ngồi nghe tôi nói đến khi dứt câu chuyện, ông ta mới bước đến gần, thân mật đặt một bàn tay lên vai tôi và nói:
– Tôi rất thích thú khi được biết rằng ở Tây phương vẫn có những
người như bạn. Bạn sẽ không uổng phí thời giờ khi quyết định đến đây và
chắc chắn sẽ học hỏi được rất nhiều. Ngày đầu tiên tôi được quen biết
bạn, ấy là ngày sung sướng nhất của tôi. Bạn cứ hỏi điều gì bạn muốn
biết, tôi sẽ vui lòng giải đáp nếu tôi có thể.
Những lời này có vẻ rất hứa hẹn. Tôi bèn hỏi ông ta về lịch sử, tính chất và mục đích của pháp môn Hatha Yoga. Ông ta đáp:
– Làm gì có ai biết được pháp môn này bắt nguồn từ bao giờ trong lịch
sử? Những sách cổ Ấn Độ nói rằng pháp môn này trước hết do thần Shiva
truyền dạy cho nhà hiền triết Gheranda. Vị này mới truyền lại cho nhà hiền triết Marteyanda.
Đến lượt vị sau này truyền dạy lại cho các đệ tử và từ đó nó được lưu
truyền cho hậu thế trải qua hàng bao nhiêu ngàn năm. Nó có mấy ngàn năm
lịch sử, chúng tôi không được biết rõ và cũng không cần biết điều đó,
mặc dầu chúng tôi luôn tin rằng trong tất cả các môn Yoga thì
môn này là xuất hiện sớm nhất. Thật vậy, vào thời kỳ cổ xưa nhân loại
cũng đã rơi vào một tình trạng sa đọa đến nỗi các bậc thánh nhân phải
phát minh ra một phương pháp giải thoát tâm linh mà sự thực hành lại áp
dụng trước hết cho thể xác. Pháp môn này chỉ được một số ít môn đồ hiểu
rõ và thực hành đúng đắn, còn phần đông những người phàm tục thì dễ
hiểu sai lầm. Vì những môn đồ chân chính ngày càng hiếm, nên những sự
tập luyện trái phép, những lối tu khổ hạnh điên rồ thường bị gán một
cách sai lầm cho pháp môn Hatha Yoga mà cũng không có ai đưa ra lời cải chính nào.
Bạn hãy đi lên tận Bénarès, bạn sẽ thấy có những người nằm
suốt ngày đêm trên bàn chông sắt nhọn, hoặc có người đưa một cánh tay
lên trời suốt nhiều năm cho đến khi cánh tay chết mất một nửa và móng
tay mọc dài đến hơn nửa thước! Người ta nói rằng những người này thực
hành pháp môn Hatha Yoga, nhưng sự thật không phải vậy. Trái
lại họ còn làm hoen ố danh dự của pháp môn ấy. Mục đích của pháp môn
này không phải là hủy hoại xác thân để làm những trò lạ mắt cho người
đời khâm phục. Những người khổ hạnh kể trên chỉ là những kẻ ngu dốt
không biết gì về mục đích của pháp môn Yoga. Họ chỉ là những kẻ bày trò lạ mắt ở giữa chợ để kiếm ăn. Chỉ có thế thôi.
– Nhưng ta có nên phiền trách họ chăng? Sự thật là, nếu những nhà đạo
sĩ chân tu ngày càng hiếm hoi và luôn giấu kín những bí pháp chân
truyền của họ, thì những sự sai lầm và lạm dụng kể trên làm sao tránh
khỏi?
Brama nhún vai đáp:
– Một ông vua có khi nào phơi bày những ngọc ngà châu báu ra trước
mắt mọi người? Không, người ta cần cất giữ những của quí ấy trong kho
tàng và giấu kín trong chốn thâm cung. Còn sự quý giá của pháp môn Yoga
thì có kho tàng nào có thể so sánh được? Vậy chúng tôi có nên đem ra
phơi bày ở giữa chợ hay chăng? Kẻ nào muốn biết, hãy tự ra công tìm
lấy. Đó là phương pháp chọn lọc tốt nhất. Những sách cổ Ấn Độ luôn dặn
dò sự chân truyền bí pháp cho những đệ tử thâm niên đã từng trải qua
nhiều thử thách. Khoa Yoga của môn phái chúng tôi là môn bí
mật nhất, bởi vì nó đầy sự nguy hiểm không những đối với môn đồ, mà còn
đối với kẻ phàm tục. Vậy bạn tưởng rằng tôi được phép tiết lộ cho bạn
những điều khác hơn là những nguyên tắc sơ đẳng hay chăng, và dẫu cho
những điều sơ đẳng này, liệu có thể nói ra mà không đắn đo cẩn thận hay
sao?
– Tôi hiểu.
– Tuy nhiên, có một phần của pháp môn Yoga mà tôi có thể nói
cho bạn nghe. Đó là phương pháp luyện ý chí trở nên mạnh mẽ và thân
thể được cường tráng để có thể bước qua những giai đoạn khó khăn trên
đường đạo.
– A! Đó là điều mà bên Âu Tây có nhiều người muốn biết.
– Môn phái chúng tôi có gần hai mươi phép tập luyện, gọi là những tư thế, tiếng Phạn gọi là Asama,
để tăng cường sức mạnh cho những bộ phận và cơ quan trong thân thể, và
để chữa trị hay ngăn ngừa một vài chứng bịnh. Mỗi tư thế đó ảnh hưởng
đến những bí huyệt trong hệ thần kinh, và những bí huyệt này lại tác
động đến những bộ phận hay cơ quan suy yếu và giúp cho nó được hoạt
động mạnh mẽ trở lại.
– Môn phái của ngài có dùng thuốc men để chữa bịnh chăng?
– Nếu cần, chúng tôi cũng dùng đến một vài loại cỏ thuốc, và thường
hái những loại cỏ ấy vào tuần trăng lên. Chúng tôi có bốn phương pháp
để giữ cho thân thể luôn luôn khỏe mạnh cường tráng. Trước hết, là phép
nghỉ ngơi để làm xoa dịu hệ thần kinh và cân não. Kế đó là phép tĩnh
tọa. Thứ ba là phép tẩy uế thân thể bằng những phương pháp mà các bạn
có thể cho là kỳ dị, nhưng có hiệu lực rất tốt. Sau cùng là phép khí
công, tức là phép luyện và kiểm soát hơi thở.
Tôi đề nghị ông ta biểu diễn cho xem một vài phép tập luyện. Brama mỉm cười và nói:
– Những điều tôi sẽ chỉ cho anh đây không có gì là bí mật. Chúng ta
hãy bắt đầu bằng phép nghỉ ngơi. Điều này chúng ta có thể học được từ
loài mèo. Thầy tôi thường để con mèo ngồi giữa các đệ tử và giảng giải
cho họ thấy được những ưu điểm trong tư thế của nó khi ngồi yên bất
động. Người dạy họ hãy quan sát nó một cách tỉ mỉ khi nó ngồi ngủ trưa
hoặc ngồi rình chuột. Người chỉ cho họ thấy rằng con mèo biết cách dùng
sức. Nó biết bảo tồn sinh lực, không để tiêu hao, phí phạm một chút
sinh lực nào. Đôi khi các bạn tưởng rằng mình biết cách nghỉ ngơi,
nhưng sự thật là các bạn không biết. Bạn ngồi trên ghế một lát, rồi ngả
về bên nọ, quay sang bên kia, hoặc tréo chân chữ ngũ, rồi lại duỗi
thẳng hai chân ra. Mặc dầu bạn vẫn ngồi trên ghế, bề ngoài trông có vẻ
thoải mái, nghỉ ngơi, nhưng thật ra trí óc bạn có nghỉ ngơi được không?
Phải chăng đó chỉ là một hình thức hoạt động âm thầm?
– Đó là một điều mà tôi chưa bao giờ nghĩ đến.
– Loài vật biết phép nghỉ ngơi dưỡng sức, nhưng ít người biết được
phép này. Đó là vì loài vật sống theo bản năng, mà bản năng chính là
biểu hiện của tự nhiên. Còn con người thì được hướng dẫn bằng lý trí.
Nhưng vì con người phần nhiều không kiểm soát được bộ óc của họ, nên
hậu quả là hệ thần kinh và cơ thể đều bị ảnh hưởng, và bởi đó họ không
hề biết cách nghỉ ngơi một cách thật sự.
– Bây giờ phải làm thế nào?
– Việc trước tiên mà bạn phải tập luyện không gì khác hơn là ngồi xếp
bằng theo kiểu Đông phương. Ghế bành tuy rất hữu ích cho khí hậu lạnh
lẽo ở các xứ miền bắc, nhưng bạn phải tập ngồi không có ghế trong thời
gian luyện tập để chuẩn bị nhập môn vào khoa Yoga. Phép ngồi
của chúng tôi thật ra là thoải mái nhất. Sau khi làm việc hay đi bộ, nó
đem lại sự nghỉ ngơi, yên ổn cho cả toàn thân. Phương pháp dễ nhất để
tập ngồi là trải chiếu dưới đất rồi ngồi lên, xếp hai chân vào và tréo
hai bàn chân. Không nên có cảm giác quá gò bó hay căng thẳng, và đừng
co bắp thịt lại.
Như vậy, phép tập trước tiên là hãy ngồi như thế và giữ cho toàn thân
yên lặng, trừ ra hơi thở nhẹ và đều. Khi đã giữ được thế ngồi đó, bạn
hãy để cho trong lòng yên tĩnh, vắng lặng, không bận rộn nghỉ ngợi gì
đến những việc trần gian, phàm tục. Hãy tập trung tư tưởng vào một đối
tượng có sức cuốn hút mạnh, chẳng hạn như một bức tranh rất đẹp hay một
đóa hoa.
Tôi rời khỏi ghế bành và ngồi xuống đất, đối diện với Brama, theo đúng như phép ngồi mà anh ta vừa mô tả. Brama nói:
– A! Đúng đấy. Bạn đã ngồi được khá dễ dàng, nhưng có nhiều người Âu
không ngồi được vì họ chưa quen. Nhưng bạn có một điểm phải sửa lại:
hãy giữ cho xương sống thẳng đứng, đừng cong về phía trước. Bây giờ, để
tôi chỉ cho bạn xem một thế ngồi khác.
Brama bèn đưa hai đầu gối lên đến tận cằm, nhưng vẫn giữ hai bàn chân
tréo. Thế ngồi này làm cho hai bàn chân ông ta tách rời khỏi thân
mình. Ông ta dùng hai bàn tay ôm chặt quanh hai đầu gối Tôi nói:
– Thế ngồi này có vẻ giản dị quá nhỉ?
– Trong phép nghỉ ngơi, chúng tôi không cần đến những gì khó khăn
phiền phức. Thật vậy, những tư thế dễ dàng nhất lại đem đến những kết
quả rất tốt. Bạn hãy nằm ngửa trên lưng, hai chân duỗi thẳng, đưa hai
ngón chân cái ra ngoài. Hai bàn tay mở ra và đặt ở hai bên thân mình.
Buông xuôi tất cả các bắp thịt, nhắm mắt lại và để cho sức nặng của toàn
thân đè lên sàn gạch. Bạn không thể tập kiểu nằm này trên giường một
cách đúng phép, vì cần phải giữ cho xương sống hoàn toàn ngay thẳng.
Hãy dùng một cái chăn trải trên sàn gạch. Trong phép nằm nghỉ này,
những sức mạnh hàn gắn của thiên nhiên sẽ giúp bạn bồi bổ sinh lực.
Chúng tôi gọi đây là thế nằm của người chết. Khi đã quen thực hành, bạn
có thể nghỉ ngơi trong những tư thế này suốt nhiều giờ nếu muốn. Những
tư thế đó làm cho các thớ thịt không bị căng thẳng và làm dịu hệ thần
kinh. Sự nghỉ ngơi của bắp thịt phải đi trước sự nghỉ ngơi của trí não.
– Thật vậy, những phép tập luyện mà ông nói dường như không có gì khác hơn là ngồi yên lặng theo cách này hay cách khác
– Bạn tưởng rằng như thế là vô ích sao? Những người Âu Tây chỉ biết
có hoạt động, nhưng phải chăng chính vì lẽ đó mà khinh thường sự nghỉ
ngơi? Bạn tưởng rằng sự tịnh dưỡng của hệ thần kinh là vô ích sao? Thật
ra, chính sự nghỉ ngơi, dưỡng sức là nền tảng của pháp môn Yoga, nhưng không phải chỉ có chúng tôi mới cần dùng đến nó, mà thế giới Tây phương của các bạn còn cần dùng đến nó nhiều hơn.
Về điểm này, tôi phải thừa nhận những lời nói của Brama không phải là vô căn cứ. Ông ta nói thêm:
– Bài học chiều nay như vậy đã đủ. Bây giờ tôi phải đi.
Tôi cám ơn ông ta về bài học vừa qua và bày tỏ ý muốn được học hỏi thêm. Ông ta nói:
– Sáng mai, anh hãy đến gặp tôi nơi bờ sông.
Ông ta choàng lại cái khăn trên vai, và chắp hai bàn tay chào từ giã.
lll
Tôi đã gặp lại người đạo sĩ ấy nhiều lần. Theo ý muốn của ông ta, tôi
đến tìm ông ta trong những lúc ông ta đi dạo mỗi buổi sớm mai trên bờ
sông, nhưng khi tôi mời ông ta về nhà thì ông ta chỉ đến chơi với tôi
vào những buổi chiều tối.
Những đêm đó đã giúp ích cho tôi rất nhiều vì người đạo sĩ hình như
sẵn sàng chia sẻ những sự hiểu biết cổ kính thâm sâu của ông ta dưới
ánh trăng khuya hơn là dưới ánh mặt trời nóng gắt.
Một ngày nọ, tôi hỏi anh ta về một điểm đã làm tôi thắc mắc từ lâu.
Tôi vẫn tưởng rằng người Ấn Độ chỉ có màu da nâu hay đồng bạch, nhưng Brama
lại có một màu da sậm gần như người da đen. Brama liền cho tôi biết
rằng ông ta thuộc về một chủng tộc thổ dân bản xứ đã cư trú lâu đời
nhất tại Ấn Độ. Khi chủng tộc Aryen từ trung tâm châu Á vượt
qua miền núi non phía tây bắc tràn xuống những vùng đồng bằng Ấn Độ để
xâm chiếm xứ này, thì họ gặp những dân tộc bản xứ thuộc chủng tộc Dravidien và đẩy lui những dân tộc này xuống tận miền Nam. Giống dân Dravidien này cho đến nay vẫn là một dân tộc riêng biệt, trừ phi họ hấp thụ tôn giáo của giống dân Aryen
đã chinh phục họ. Mặt trời nóng gắt vùng nhiệt đới đã làm cho màu da
họ trở thành sậm gần như đen, và điều này kết hợp với một số yếu tố
tương đồng khác đã làm cho một số nhà nhân chủng học lầm tưởng rằng họ
có xuất xứ từ những chủng tộc ở châu Phi. Cũng như ngày xưa, khi họ còn
làm chủ xứ Ấn Độ, người dân Dravidien vẫn còn để tóc dài và
cột lại thành búi nhỏ ở phía sau gáy, và họ vẫn còn nói những thổ ngữ
địa phương, quan trọng nhất là tiếng Tamoul.
Brama quả quyết rằng những giống dân chinh phục thuộc chủng tộc Aryen có màu da đồng bạch đã hấp thụ được đạo pháp Yoga của giống dân Dravidien
truyền lại, cũng như nhiều yếu tố văn hóa khác nữa. Nhưng tôi đã hỏi
vài nhà trí thức Ấn Độ về vấn đề này thì họ đều cho là không đúng. Tôi
xin nhường lại cho các nhà học giả giải quyết vấn đề này.
Vì không có ý định viết một luận đề về phương pháp thể dục của khoa Yoga Ấn Độ, nên tôi chỉ nói sơ qua ở đây về những nguyên tắc đại cương của khoa này. Những tư thế (asana) mà Brama
biểu diễn cho tôi xem, hoặc dưới bóng mát của hàng dừa trên bờ sông,
hoặc ở tại nhà tôi, gồm những phép tập luyện rất lạ kỳ và khó khăn đến
nỗi theo sự nhận xét của người Âu Tây thì có thể là lố bịch và không
thể thực hiện.
Một vài tư thế đó gồm có những phép tập luyện công phu như chống hai
tay xuống đất, ép khuỷu tay vào hai bên hông và nâng đỡ sức nặng của
toàn thân trên các đầu ngón tay. Tư thế này gọi là Mayurasana. Hoặc ngồi xếp bằng, tréo hai tay ra sau lưng và cố đưa hai bàn tay ra phía trước để nắm lấy hai ngón chân cái, gọi là Padmasana).
Hoặc sắp xếp cả hai tay và hai chân đều tréo lại với nhau, làm thành
một cái gút rất là phức tạp; hoặc vắt hai chân lên cổ hay lên vai; hoặc
những thế ngồi vặn vẹo thân mình một cách kỳ dị không thể tưởng
tượng...
Nhìn xem Brama biểu diễn những cách tập luyện đó, tôi bắt đầu nhận thấy sự khó khăn của pháp môn Hatha Yoga. Tôi hỏi:
– Tất cả có bao nhiêu tư thế?
– Pháp môn Hatha Yoga có tất cả 84 tư thế, nhưng tôi chỉ mới học được 64 tư thế mà thôi.
Anh ta vừa nói vừa biểu diễn một tư thế mới và giữ vững thế ngồi đó
một cách tự nhiên dễ dàng như tôi ngồi trên ghế bành. Hình như đó là
một thế ngồi quen thuộc của anh ta. Tôi thấy tư thế này tuy không khó
làm, nhưng chắc chắn không phải dễ chịu: Chân trái xếp cong lại, bàn
chân đụng vào hông bên mặt đặt dưới thân mình, chân mặt xếp lại chịu
hết sức nặng của toàn thân. Tôi hỏi:
– Tư thế này có ích lợi gì?
– Kèm với một phép thở đặc biệt, người yogi sẽ cảm thấy khỏe khoắn và trẻ lại như hồi niên thiếu.
– Vậy phép thở đó như thế nào?
– Tôi không được phép tiết lộ điều đó.
– Nhưng làm như vậy có mục đích gì?
– Vấn đề ngồi hay đứng trong một tư thế nào đó trong thời gian bao
lâu không quan trọng. Nhưng chính sự tập trung ý chí cần thiết để thi
hành những tư thế đó một cách đúng phép mới là quan trọng, vì điều đó
làm khơi dậy những sức mạnh tiềm tàng trong mỗi con người. Những sức
mạnh đó là bí mật của thiên nhiên và chỉ hoàn toàn phát triển khi có
kèm theo những phép luyện hơi thở, vì hơi thở có những công năng rất
nhiệm mầu. Sự khơi dậy những sức mạnh tiềm tàng đó là mục đích chính
của pháp môn Hatha Yoga. Có những tư thế khác giúp cho chúng
ta rèn luyện các giác quan và tinh thần, vì ai cũng biết rằng tinh thần
con người ảnh hưởng đến thể xác. Trong những giai đoạn cao siêu của
pháp môn Yoga, khi người hành giả phải tham thiền nhập định
trong nhiều giờ thì tư thế ngồi là một yếu tố rất quan trọng, vì nó
giúp cho sự tập trung tư tưởng được dễ dàng, giúp thêm sức tinh tấn cho
người hành giả và tăng cường rất nhiều năng lực ý chí. Như thế, bạn có
thể thấy pháp môn Hatha Yoga có ích lợi biết là dường nào!
– Còn những thế ngồi vặn vẹo thân mình như thế là để làm gì?
– Bạn nên biết rằng có những trung tâm bí yếu của hệ thần kinh nằm
rải rác nhiều nơi trong thân thể. Mỗi tư thế đều có công năng gây ảnh
hưởng đến một trung tâm nhất định. Nhờ tác động vào các bí huyệt đó mà
ta có thể gây ảnh hưởng đến sự vận động của các bộ phận trong cơ thể,
cũng như đến sự hoạt động của trí não. Những thế ngồi vặn vẹo đó là để
tác động đến những bí huyệt của hệ thần kinh, vì ngoài ra người ta không
thể dùng cách nào khác.
Tôi bắt đầu nhận định một cách rõ ràng hơn về những nguyên tắc căn bản của môn thể dục Hatha Yoga.
Môn thể dục này so với những phương pháp thể dục Âu Mỹ khác nhau thế
nào, đó là một điều lý thú mà chúng ta nên biết. Tôi bèn hỏi Brama điều đó, ông ta nói:
– Tôi không được biết rõ về các phương pháp ở Âu Mỹ, nhưng tôi có
nhìn thấy những quân nhân Anh tập luyện ở một doanh trại gần Madras.
Nhìn họ luyện tập, tôi nhận ra được mục đích của các huấn luyện viên.
Dường như mục đích chính của họ là tăng cường sức mạnh của các bắp
thịt, vì người Tây phương các anh luôn luôn hoạt động bằng thể xác. Vì
thế, tôi thấy họ vận động tay chân một cách hăng hái, mạnh bạo. Họ tiêu
phí sinh lực một cách quá đáng vì muốn làm nở nang các bắp thịt và có
được một sức mạnh dồi dào hơn. Điều này dĩ nhiên là thích hợp với khí
hậu lạnh lẽo ở những xứ miền Bắc.
– Như vậy, theo ông thì hai phương pháp thể dục Đông và Tây khác nhau thế nào?
– Cách tập theo pháp môn Yoga thật ra chỉ là những tư thế
nghỉ ngơi, không cần vận động tay chân khi đã giữ vững được một tư thế
ngồi hay đứng nhất định. Thay vì làm nở nang các bắp thịt để tăng thêm
sức mạnh nhờ phát triển thể xác, chúng tôi nhắm đến mục đích tăng thêm
sức chịu đựng dẻo dai bền bỉ của cơ thể. Chúng tôi cho rằng, việc làm nở
nang các bắp thịt tuy là hữu ích, nhưng chính cái sức mạnh ý chí đã
điều khiển và vận động các bắp thịt mới có giá trị nhiều hơn. Nếu tôi
chỉ cho bạn một tư thế đặc biệt nào đó, một người Âu như các bạn thường
sẽ thực hiện tư thế đó một cách vội vàng, nóng nảy. Như thế, bạn sẽ
không thu hoạch được những sự lợi ích bằng cách biết thực hành đúng
phép như một người Yogi.
– Làm thế nào mới gọi là đúng phép?
– Người Yogi thực hiện một tư thế theo cách chậm rãi, có ý
thức, và giữ vững tư thế ấy trong vài phút. Để tôi chỉ cho anh xem một
tư thế vận dụng cả toàn thân.
Brama nằm ngửa xuống đất, duỗi thẳng hai chân và hai tay dọc
theo thân mình. Rồi ông ta từ từ đưa hai chân lên, giữ hai đầu gối
thẳng, cho đến khi hai chân gần làm thành một góc thẳng đứng so với sàn
gạch. Ông ta đặt hai cùi chỏ chống trên sàn gạch, rồi dùng hai tay đỡ
lấy thân mình. Sức nặng toàn thân khi ấy được chống đỡ bằng hai vai, gáy
và đầu. Sau khi giữ vững tư thế lộn ngược đầu này trong chừng năm
phút, người yogi mới từ từ hạ hai chân xuống, ngồi dậy và giải thích sự lợi ích của nó:
– Tư thế này dồn máu xuống bộ não do trọng lượng của nó trong vài
phút. Lúc bình thường, máu được đưa lên đầu do sức vận động của quả
tim. Sự khác biệt giữa hai trường hợp là, trong tư thế này máu dồn
xuống não tạo ra một ảnh hưởng xoa dịu. Đối với những người làm việc
bằng trí não, như các nhà nghiên cứu, học giả, sinh viên, việc thực hành
tư thế này sẽ đem lại sự khỏe khoắn cho trí não Nhưng người ta chỉ thu
thập những lợi ích đó bằng cách thực hành đúng theo phương pháp chứ
không phải làm một cách hấp tấp vội vàng như người Âu Tây các bạn.
– Nếu tôi không lầm, thì ông muốn nói rằng phương pháp Yoga
giữ thân thể trong một trạng thái yên tĩnh và thăng bằng, còn phép tập
luyện nghiêng về sự vận động của Tây phương làm cho thân thể bị náo
động?
Brama đồng ý:
– Đúng là như vậy.
Brama còn biểu diễn cho tôi xem vài tư thế khác nữa và giải
thích những sự ích lợi của mỗi phép tập luyện. Tôi được biết một tư thế
có công dụng tăng cường tủy sống, chữa các chứng thần kinh suy yếu và
giúp cho máu huyết được lưu thông điều hòa. Trong một tư thế khác, bí
huyệt thần kinh ở cổ, vai và chân được kích thích một cách mạnh mẽ và
tạo ảnh hưởng rất tốt cho bộ ngực.
Người phương Tây hiện nay thường xem người Ấn Độ như một dân tộc chậm
tiến, di sản của một khí hậu nóng bức và sự nghèo túng. Nhưng họ sẽ
phải lấy làm ngạc nhiên khi biết mình đã hoàn toàn nhầm lẫn, vì xứ Ấn
Độ từ đời thượng cổ đã từng phát minh ra một phương pháp thể dục tinh
vi và huyền diệu đến thế. Chúng ta biết rằng những phương pháp thể dục
Âu Tây cũng có giá trị rất lớn, nhưng có ai dám kết luận rằng nó đã
được hoàn toàn? Ai dám nói rằng nó không còn gì phải cải tiến thêm nữa
về các phương diện phát triển cơ năng, bảo tồn sức khoẻ và ngăn ngừa
bệnh tật? Biết đâu rằng nếu Tây phương áp dụng phương pháp khoa học để
khảo cứu về môn Hatha Yoga như một phép dưỡng sinh mầu nhiệm để
giúp cho sự hiểu biết của chúng ta về khoa sinh lý học được hoàn bị
hơn, và đưa chúng ta tiến thêm một bước trên con đường đi tìm một đời
sống lành mạnh?
Tuy nhiên người ta phải nhìn nhận rằng chỉ có khoảng hơn một chục tư thế Yoga
là dành cho việc tập luyện và thực hành một cách phổ biến đối với mọi
người. Còn lại hơn bảy mươi tư thế khác đều rất khó khăn, càng tìm hiểu
lại càng thấy dị kỳ hơn, chỉ có thể được luyện tập bởi những thanh
thiếu niên hăng hái, hãy còn trẻ trung và dẻo dai. Brama cũng nhìn nhận như vậy:
– Tôi đã khổ công tập luyện mỗi ngày suốt mười hai năm mới có thể
nhuần nhuyễn được tất cả 64 tư thế mà tôi biết. Tôi có sự may mắn là
bắt đầu tập khi còn trẻ, vì một người đã lớn tuổi mới bắt đầu tập có
thể gặp nhiều sự nguy hiểm. Những bắp thịt và gân xương của họ đều đã
cứng và không quen vận động nên dễ bị đau đớn. Tuy thế, với sự kiên tâm
bền chí người ta cũng có thể thu được những kết quả rất mỹ mãn.
Brama ngừng một lúc và nói tiếp:
– Người phương Đông chúng tôi nó thói quen tập ngồi kiết già từ thuở
nhỏ. Đó là thế ngồi căn bản, nền tảng cho tất cả những tư thế khác, và
có một ảnh hưởng rất tốt.
Nói xong, ông ta ngồi kiết già hai chân xếp bằng giống như thế ngồi của tượng Phật mà tôi đã thấy. Ông ta giải thích:
– Thế ngồi này còn được gọi là tư thế hoa sen. Nó rất quan trọng và
được chọn làm thế ngồi của các đạo sĩ lúc tham thiền. Nó giúp cho thân
thể được vững vàng, nhờ đó hành giả không bị té ngã khi đã hoàn toàn
xuất thần nhập định. Bạn hãy nhìn xem, trong tư thế hoa sen này, hai
chân xếp lại tạo thành một nền tảng vững chắc nâng đỡ cả thân mình. Nếu
thân mình không vững thì tâm thần ắt phải xao động và phân tán, còn
trong tư thế này thì hành giả cảm thấy an ổn và tự tin. Vì thế, nó giúp
ta dễ tập trung tư tưởng, và đó là điều quan trọng nhất trong công phu
tập luyện. Chúng tôi thường dùng thế ngồi này để luyện hơi thở, vì sự
phối hợp này làm kích thích một luồng nội hỏa tiềm tàng trong cơ thể và
giúp cho hành giả phát triển một vài năng lực đặc biệt.
Câu chuyện của chúng tôi đến đây chấm dứt. Brama đã biểu
diễn cho tôi xem một loạt các tư thế khó khăn, những thế ngồi vặn vẹo
lạ lùng. Tôi không còn nghi ngờ gì nữa, quả thật anh ta đã hoàn toàn
làm chủ được thể xác. Liệu có người Âu Tây nào đủ kiên tâm bền chí để
thực hành những phép tập luyện khó khăn và phức tạp đến thế? Liệu có
người Âu Tây nào chịu dành đủ thời gian để tập luyện pháp môn này?