Thế giới quanh ta...
Thời thơ ấu, chúng ta luôn háo hức mỗi khi được tiếp xúc
với một sự vật mới. Thế giới quanh ta đầy dẫy những điều mà ta chưa từng
biết đến tên gọi, và sự tiếp xúc với mỗi một sự vật mới mẻ đều khiến ta
say mê, thích thú. Thế giới mở rộng quanh ta như một nguồn cảm hứng bất
tận, với vô số những điều chưa biết luôn chờ đợi ta khám phá và tìm
hiểu... Ta có cảm tưởng như sẽ không bao giờ có thể hiểu hết về thế giới
quanh ta! Trong giai đoạn này của cuộc đời, hầu hết chúng ta thường
liên tục đưa ra những câu hỏi làm điên đầu người lớn, không phải vì tính
chất phức tạp hay khó khăn của những câu hỏi, mà chính là vì mức độ dồn
dập dường như chẳng bao giờ có thể thỏa mãn được hết.
Rồi thời gian trôi qua và trí óc non nớt của ta dần dần lấp đầy với
những tên gọi và khái niệm. Danh sách liệt kê những gì “đã biết” dần dần
được kéo dài ra và tưởng chừng như vượt xa những điều “chưa biết”. Hơn
thế nữa, song song với quá trình nhận biết và định danh sự vật, chúng ta
cũng đồng thời thực hiện sự phân loại, sắp xếp. Thông qua đó, sự vật
được đưa vào nhận thức của ta theo những kiểu loại, hệ thống nhất
định... và ta có cảm giác như mình đã am hiểu rất nhiều về thế giới
quanh ta, khiến cho nó như ngày càng trở nên nhỏ hẹp hơn đối với ta.
Trong giai đoạn này của cuộc đời, phần lớn chúng ta thường trở nên tự
mãn - hay tự tin quá độ - và ít khi chịu lắng nghe những lời giải thích
hay chỉ dạy của người lớn tuổi. Ta luôn muốn tự mình đưa ra những giải
thích về sự việc và có khuynh hướng tin chắc rằng những nhận thức của ta
là chính xác. Ta ít khi chịu lắng nghe người khác, trừ phi họ có thể
chỉ ra một cách hết sức rõ ràng và cụ thể những sai lầm của ta.
Nhưng rồi cuộc sống không dừng lại ở đó. Thời gian tiếp tục trôi qua và
kinh nghiệm sống cũng như sự va chạm, tiếp xúc với đời sống của chúng ta
ngày càng nhiều hơn. Ta bắt đầu có cơ hội tiếp xúc với những sự việc mà
ta không thể giải thích hay nhận hiểu bằng phần tri thức đã có. Từ phạm
vi thế giới vật chất, chúng ta dần mở rộng nhận thức sang thế giới tinh
thần, bao gồm cả những cảm xúc, tình cảm cũng như những hiện tượng tâm
linh. Và chúng ta bắt đầu nhận ra rằng vẫn còn có rất nhiều điều mà ta
chưa hiểu biết hết hay thậm chí là hoàn toàn không hiểu gì cả! Thế giới
quanh ta dường như ngày càng trở nên bí ẩn và khó hiểu hơn, và những tri
thức đã có của ta có vẻ như ngày càng trở nên hạn hẹp, ít ỏi...
Trong giai đoạn này của cuộc đời, nhiều người trong chúng ta bắt đầu
chọn cho mình một lý tưởng sống, một hướng đi tinh thần, tìm kiếm một ý
nghĩa cho đời sống hay một chỗ nương tựa về mặt tâm linh. Khuynh hướng
này thường giúp ta bớt đi sự hụt hẫng khi phải đối mặt với những hiện
tượng tâm linh bí ẩn hay những cơn sóng gió biến động trong đời sống mà
rất ít người trong chúng ta tránh khỏi.
Tất nhiên, mỗi chúng ta có thể trải qua một tiến trình tiếp xúc khác
nhau với thế giới quanh ta, nhưng diễn tiến thay đổi cơ bản như trên
dường như có thể xem là một mô thức chung chung nhất, phổ biến nhất ở
hầu hết mọi người.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, một mặt thì bản thân thế giới quanh
ta luôn chuyển biến, thay đổi, nhưng mặt khác thì nhận thức của ta về
thế giới cũng thay đổi qua từng giai đoạn khác nhau. Mỗi một sự vật là
mới mẻ hay khó hiểu đối với bản thân ta lại không có gì là mới mẻ hay
khó hiểu đối với nhiều người khác, và có những sự việc quen thuộc đối
với ta lại có thể là chưa hề được biết đến bởi một số người. Nói cách
khác, sự thay đổi mà ta nhận thức được nơi thế giới quanh ta bao giờ
cũng nằm trong mối tương quan chặt chẽ giữa bản thân ta - chủ thể nhận
thức - và những sự vật quanh ta - đối tượng nhận thức. Chúng ta hầu như
không thể hình dung được một thế giới nào khác hơn là cái thế giới xuất
hiện trong mối tương quan như thế.
Và cũng chính từ mối tương quan giữa chủ thể và đối tượng nhận thức mà
nhân loại đã nảy sinh ít nhất là hai phương cách nhận thức khác nhau về
thế giới, hình thành hai quan điểm hoàn toàn khác biệt nhau.
Một số người lấy chủ thể làm trọng tâm trong mối tương quan với thế giới
bên ngoài. Theo quan điểm này, thế giới vật chất bên ngoài chỉ là sự
phóng chiếu của ý thức, được nhận biết bởi ý thức chúng ta. Sở dĩ thế
giới vật chất có thể tồn tại được là vì có một chủ thể đang nhận thức
về nó. Chúng ta không thể hình dung một dạng tồn tại nào đó của thế giới
vật chất nếu như không có bất kỳ chủ thể nào nhận biết về nó. Lập luận
đơn giản ở đây là, nếu không có chủ thể nhận biết thì làm sao để biết
được về sự tồn tại đó?
Quan điểm này được mở rộng hơn khi cho rằng sự thay đổi của tâm thức có
thể tác động lên thế giới vật chất, hay nói khác đi là thế giới vật chất
có thể thay đổi theo một cách nào đó tùy thuộc vào tâm thức ta. Một ví
dụ đơn giản của điều này là khi một người đang vui, môi trường chung
quanh sẽ thấm đẫm niềm vui đó; ngược lại, tâm trạng thất vọng hoặc u sầu
sẽ làm cho mọi thứ quanh ta đều trở nên u ám.
Nhưng những người không chấp nhận quan điểm này có thể bác bỏ điều đó
khi cho rằng những thay đổi theo cách như thế chẳng qua chỉ là sự thay
đổi chủ quan trong tâm thức của chúng ta mà thôi, hoàn toàn không phải
là sự thay đổi khách quan của thế giới vật chất bên ngoài.
Tuy nhiên, ở mức độ tiến xa hơn nữa, những người nhấn mạnh vào vai trò
của chủ thể nhận thức thường dựa vào trực quan, nghĩa là sự cảm nhận
trực tiếp của họ, để cho rằng có những mối quan hệ nhất định mà qua đó
tâm thức có thể chi phối các hiện tượng trong thế giới vật chất. Những
mối quan hệ hay sự chi phối này không phải là những quy luật thuần túy
vật chất, nên chúng hoàn toàn không thể được nhận biết hay kiểm chứng
thông qua các nguyên tắc vật lý thông thường. Nhưng cho dù không thể
nhận biết hay kiểm chứng bằng cách thông thường thì con người vẫn có thể
trực nhận được sự hiện hữu của chúng trong tự nhiên thông qua những
kinh nghiệm trực tiếp.
Trong một ý nghĩa phổ biến hơn, những người theo quan điểm này tin rằng
ngoài thế giới vật chất được nhận biết bằng các giác quan, còn có một
thế giới khác - hay một phần khác của thế giới - thuộc phạm trù siêu
nhiên, vô hình, không thể nhận biết bằng các giác quan thông thường. Tuy
nhiên, con người có thể nhận biết, giao tiếp được với phần thế giới vô
hình này nhờ vào những năng lực nhất định của tâm thức, được phát triển
thông qua những phương thức tu tập, rèn luyện nào đó.
Những người không tán đồng với quan điểm trên thì đưa ra một quan điểm
ngược lại, lấy đối tượng nhận thức làm trọng tâm trong mối tương quan
với thế giới bên ngoài. Đối với họ, thế giới luôn tồn tại một cách khách
quan và vận hành theo những quy luật cụ thể của nó, không hề chịu sự
tác động bởi ý chí con người. Và vì thế, cách duy nhất để chúng ta có
thể cải thiện hoàn cảnh chung quanh là nghiên cứu tìm ra những quy luật
vận hành khách quan của thế giới vật chất và dựa vào đó để tác động, làm
thay đổi môi trường quanh mình.
Quan điểm thứ hai này dường như có thể được chứng minh cụ thể qua những
sự việc thường xuyên diễn ra trong đời sống. Chẳng hạn, khi một người
nông dân trồng lúa và mong muốn được mùa, thì cách duy nhất để ông ta có
thể tác động và biến mơ ước của mình thành hiện thực là phải nắm rõ quy
luật sinh trưởng của cây lúa, sau đó tác động thích hợp vào chu kỳ sinh
trưởng của nó bằng những biện pháp cụ thể như bón phân, dẫn nước
tưới... Nếu sự hiểu biết của ông ta là đúng đắn và những biện pháp tác
động đã được thực hiện tốt, kết quả chắc chắn sẽ là một vụ mùa bội thu
như mong muốn. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp xảy ra thiên tai,
dịch bệnh dẫn đến mất mùa, thì điều đó vẫn có thể được giải thích bằng
những quy luật khách quan, dù là vượt ngoài khả năng tác động của người
nông dân ấy nhưng vẫn không đi ngược với các quy luật vận hành của thế
giới vật chất.
Lấy một ví dụ khác, khi một học sinh mong muốn vượt qua kỳ thi với điểm
số cao, thì cách duy nhất để thực hiện mong muốn đó là phải học tập
chuyên cần, đáp ứng được những yêu cầu mà kỳ thi đề ra. Mọi sự nỗ lực
theo những hướng khác hơn đều bị xem là không đúng quy luật khách quan,
và do đó sẽ không thể mang lại kết quả như mong muốn.
Khi đi sâu tìm hiểu thì thật ra mỗi quan điểm nêu trên đều có cả một hệ
thống cơ sở lý luận chi ly và phức tạp để bảo vệ cho quan điểm của mình,
đồng thời bác bỏ quan điểm của phía bên kia mà họ cho là bất hợp lý.
Những người theo quan điểm nhấn mạnh vào chủ thể nhận thức như trên được
xem là duy tâm, và đối nghịch hoàn toàn trên cơ sở lý luận với những
người theo quan điểm duy vật, tức là quan điểm nhấn mạnh vào đối tượng
nhận thức, hay thế giới vật chất khách quan.
Đa số các tôn giáo - trừ Phật giáo - đều gắn liền với quan điểm duy tâm
và phát triển trên nhận thức cho rằng trong phạm trù vô hình đã nói trên
có sự hiện hữu của một đấng siêu nhiên toàn năng nào đó, có thể chi
phối cả thế giới tâm linh lẫn thế giới vật chất.
Trong khi đó, những người theo quan điểm duy vật thì cho rằng tất cả mọi
hiện tượng đang tồn tại đều được hình thành từ các dạng vật chất. Và
như vậy, cả chủ thể lẫn đối tượng nhận thức đều chỉ là kết quả của những
quá trình tương tác vật chất theo những quy luật khách quan nhất định.
Chính vì vậy, ý chí con người không thể tác động vào sự thay đổi của thế
giới vật chất. Nếu muốn làm thay đổi thế giới thì cách duy nhất là con
người phải hành động dựa vào những quy luật vận hành khách quan của nó.
Dù là duy tâm hay duy vật, điểm chung mà chúng ta có thể dễ dàng nhận
thấy ở đây là cả hai phía đều xây dựng lập luận dựa trên căn bản khởi
đầu có một chủ thể nhận thức và một đối tượng được nhận thức. Và nếu xét
theo tiến trình tiếp xúc ban đầu của mỗi cá nhân với thế giới chung
quanh thì rõ ràng là chưa hề có sự phân chia về mặt quan điểm là duy tâm
hay duy vật. Khi một đứa trẻ lớn lên, sự tiếp xúc và tìm hiểu về thế
giới chung quanh là một tiến trình phát triển và thu thập kinh nghiệm
hoàn toàn tự nhiên với sự phân biệt giữa chủ thể nhận thức và đối tượng
nhận thức nhưng không hề, và cũng không cần thiết phải xác định đó là
theo quan điểm duy tâm hay duy vật.
Sự chọn lựa giữa một trong hai quan điểm duy tâm hay duy vật dường như
chỉ xuất hiện khi ý thức chúng ta bắt đầu tiến trình nhận thức về chính
nó, và đây là dấu hiệu của sự phát triển tư duy khi cá nhân không chỉ
đơn thuần học hỏi nhận biết về thế giới quanh mình mà bắt đầu có sự phán
xét, suy nghiệm về những gì đã được nhận biết. Như vậy, điều rõ ràng ở
đây là những quan điểm duy tâm hay duy vật chỉ được đưa ra như một nỗ
lực trong tư duy của con người nhằm giải thích về những gì nhận biết
được từ thế giới bên ngoài, trong khi sự phân biệt giữa chủ thể và đối
tượng nhận thức là điều đã xuất hiện từ trước đó.
Vấn đề duy tâm hay duy vật đã từng là đề tài tranh cãi khá dai dẳng giữa
nhiều triết gia cũng như các nhà tư tưởng lớn trên thế giới. Và như đã
nói, đa số tôn giáo đều được xem là duy tâm. Tuy nhiên, trong thực tế
thì đạo Phật có thể xem là tôn giáo duy nhất không hề lưu tâm đến vấn đề
duy tâm hay duy vật, mà chỉ đặt trọng tâm chú ý vào sự phân tích thiết
thực tính chất hiện hữu của cả chủ thể lẫn đối tượng nhận thức trong mối
quan hệ tiếp xúc giữa bản thân ta và thế giới quanh ta.
Khi phân tích về đối tượng nhận thức, nghĩa là toàn bộ thế giới được
nhận biết bởi các giác quan của chúng ta, đạo Phật không nhằm đi sâu mở
rộng sự hiểu biết nhằm bao trùm tất cả. Thay vì vậy, đạo Phật nhấn mạnh
đến hai vấn đề căn bản:
Tìm ra nguyên nhân phổ quát đã hình thành tất cả các hiện tượng, sự vật.
Nhận thức rõ bản chất thực sự của mọi hiện tượng, sự vật.
Bằng sự phân tích và quán chiếu theo hướng như thế, đức Phật đã chỉ ra
rằng toàn bộ thế giới hiện tượng này đều được hình thành từ một nguyên
lý chung. Dưới đây là bài kệ của ngài A-thuyết-thị (Aśvajit), một trong 5
vị đệ tử đầu tiên của đức Phật, nhắc lại lời dạy của đức Phật cho ngài
Xá-lợi-phất nghe:
Nhược pháp nhân duyên sinh,
Pháp diệc nhân duyên diệt.
Thị sinh diệt nhân duyên,
Phật Đại Sa-môn thuyết.
(Các pháp nhân duyên sinh,
Cũng theo nhân duyên diệt.
Nhân duyên sinh diệt này,
Do Đức Phật thuyết dạy.)
Vào lúc được nghe bài kệ này, ngài Xá-lợi-phất (Śāriputra) vẫn còn là
một luận sư ngoại đạo. Nhưng khi vừa được nghe qua bài kệ, ngài đã nhận
ra ngay người thuyết dạy bài kệ này chính là bậc đạo sư chân chính mà
mình đang tìm kiếm. Vì thế, ngài quyết định đưa tất cả đệ tử của mình
đến quy y Phật. Sau đó, ngài trở thành một trong số Thập đại đệ tử của
đức Phật, được ngợi khen là người có trí tuệ đệ nhất.
Bài kệ trên nêu tóm tắt nguyên lý nhân duyên, cũng được gọi là nhân
duyên sinh hay duyên sinh, là một phần giáo lý căn bản của đạo Phật,
được đề cập rất nhiều lần trong hầu hết các kinh điển. Giáo lý này giải
thích sự hình thành và tồn tại của toàn bộ thế giới hiện tượng chỉ như
là sự kết hợp của các nhân và duyên khác nhau.
Nhân ở đây chỉ đến những yếu tố tham gia vào sự hình thành sự vật, hiện
tượng. Chẳng hạn như những yếu tố bột, đường, nước, hương liệu... là các
nhân trực tiếp làm nên cái bánh.
Duyên chỉ đến các điều kiện tác động cần thiết để hình thành sự vật,
hiện tượng. Chẳng hạn như khả năng của người làm bánh, sự ủng hộ hay cản
trở của những người chung quanh...
Trong trường hợp ví dụ nhỏ này, nếu thiếu các nhân cần thiết như bột,
đường... thì không thể hình thành cái bánh. Nhưng nếu có đủ các yếu tố
rồi mà không đủ các điều kiện tác động làm duyên thì cũng không hình
thành cái bánh. Chẳng hạn như người làm bánh không biết cách làm, tuy
bắt tay làm nhưng có thể làm hỏng, hoặc có những người khác không tán
thành, ngăn cản việc làm bánh, thì người làm bánh có thể thay đổi ý
định... Và như vậy cũng không có cái bánh.
Đây chỉ là một ví dụ đơn giản nhằm tiếp cận vấn đề từ góc độ dễ hiểu
nhất. Khi phân tích sâu hơn, mỗi một yếu tố tham gia hình thành sự vật,
hiện tượng có thể vừa là nhân, vừa là duyên; cũng có thể là nhân trong
giai đoạn này và là duyên trong giai đoạn khác của sự vật, hoặc cũng có
thể là nhân cho một sự vật này nhưng là duyên cho một sự vật khác...
Khi mở rộng nguyên lý nhân duyên từ ví dụ đơn giản vừa nêu ra toàn bộ
thế giới hiện tượng, chúng ta vẫn thấy được sự phù hợp và đúng đắn. Các
hiện tượng phức tạp sẽ được hình thành từ những nhân và duyên phức tạp
và tất nhiên cần phải trải qua tiến trình thời gian, nhưng về nguyên lý
chung thì vẫn không thay đổi. Hơn thế nữa, hệ quả của nguyên lý này là:
Khi nhân duyên thay đổi thì sự vật, hiện tượng chắc chắn cũng sẽ thay
đổi. Vì thế, thay vì bực tức với những sự việc không như ý, ta nên biết
rằng điều tốt hơn là phải thay đổi ngay từ những nhân duyên tạo thành
chúng.
Bằng cách quán sát thế giới hiện tượng qua nguyên lý nhân duyên sinh,
đạo Phật giúp chúng ta buông bỏ được những sự thắc mắc, truy tìm không
cần thiết. Thế giới hiện tượng là vô cùng mà khả năng tri giác của chúng
ta là giới hạn, thế nên mong muốn mở rộng sự hiểu biết của ta bao trùm
hết thế giới hiện tượng chỉ là điều không tưởng. Thay vì vậy, chúng ta
nên quán xét để thấy rõ được nguyên lý chung đang hiện hành trong tất cả
các sự vật, hiện tượng. Và cái nguyên lý chung đó chính là nguyên lý
nhân duyên sinh.
Vào thời đức Phật còn tại thế, ngài cũng nhiều lần từ chối trả lời những
câu hỏi về thế giới hiện tượng, vì cho rằng điều đó hoàn toàn không có
ích lợi gì cho sự tu tập cải thiện đời sống. Những thắc mắc đại loại
như: vũ trụ là hữu hạn hay vô hạn, vũ trụ đã có từ lúc nào... rõ ràng là
không liên quan gì đến việc giúp ta có được một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Giải pháp mà đức Phật đề ra có vẻ như hoàn toàn đi ngược lại với khuynh
hướng tìm hiểu của đại đa số chúng ta. Như đã nói, ngay từ thuở ấu thơ,
chúng ta đã háo hức tìm hiểu về thế giới quanh ta, luôn mong muốn mở
rộng sự hiểu biết đến bất kỳ sự việc nào mà ta có cơ hội tiếp xúc.
Khuynh hướng khát khao hiểu biết này theo đuổi chúng ta cho đến lúc
trưởng thành, và ta liên tục chạy theo nó cho đến khi chạm phải bức
tường giới hạn. Nhưng ngay cả khi đã nhận ra sự bất lực của mình trước
cái vô hạn của thế giới hiện tượng, nhiều người trong chúng ta vẫn không
từ bỏ được khuynh hướng khát khao tìm hiểu. Ta bị cuốn hút bởi sự tò
mò, thắc mắc như một quán tính đã ăn sâu trong tâm thức và không dễ gì
từ bỏ. Điều đó khiến ta đôi khi hoang phí rất nhiều thời gian và công
sức chỉ để chạy theo những điều hoàn toàn vô ích.
Vì thế, nỗ lực trước tiên của chúng ta khi mới bước vào đạo Phật chính
là sự buông bỏ. Đạo Phật dạy ta phải biết buông bỏ những tri kiến, khái
niệm không cần thiết cho mục đích hoàn thiện đời sống. Những gì sẵn có
còn phải buông bỏ đi, huống gì lại chạy theo tìm kiếm những gì chưa có?
Vì vậy, một khi nhận hiểu và chấp nhận giải pháp tiếp cận của đạo Phật
với thế giới chung quanh, ta sẽ ngay lập tức buông bỏ được cái gánh nặng
khát khao tri thức đã đeo đuổi ta ngay từ khi mới bước vào đời.
Tuy nhiên, việc buông bỏ khuynh hướng truy tìm các khái niệm mới về sự
vật, hiện tượng hoàn toàn không có nghĩa là ta không tiếp xúc với thế
giới hiện tượng này hay phản bác sự học hỏi, mở rộng tri thức. Vấn đề ở
đây là trước hết cần phải nhận thức được bản chất thật sự của mọi sự
vật, hiện tượng, và việc học hỏi mở rộng tri thức phải được xem như một
phương tiện để phục vụ đời sống chứ không phải là mục đích theo đuổi.
Thật ra, bản chất thực sự của mọi sự vật, hiện tượng vốn đã hàm chứa
trong nguyên lý hình thành chúng. Vì tất cả đều do các nhân duyên kết
hợp mà thành nên tự thân chúng không hề có một bản thể độc lập, tự tồn
tại. Như được mô tả trong bài kệ trên, chẳng những chúng được hình thành
do nhân duyên, mà chúng cũng tan rã, hoại diệt tùy thuộc vào nhân
duyên. Thế nhưng, tất cả các nhân duyên đều có một tính chất chung là
liên tục chuyển biến, không bền vững. Do đó, mọi sự vật, hiện tượng cũng
chịu ảnh hưởng của các nhân duyên đã tạo thành chúng, phải liên tục
chuyển biến và không có gì bền vững. Quan sát bất kỳ một sự vật, hiện
tượng nào quanh ta, ta cũng dễ dàng nhận ra được tính chất thay đổi liên
tục và không bền vững của chúng.
Trong kinh Kim Cang, đức Phật dạy rất rõ ràng về ý nghĩa này:
Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng, ảo, bào, ảnh,
Như lộ diệc như điển,
Ưng tác như thị quán.
(Hết thảy pháp hữu vi,
Như mộng ảo, bọt nước...
Như sương sa, điện chớp,
Nên quán sát như vậy.)
Pháp hữu vi ở đây chỉ đến toàn bộ thế giới hiện tượng được nhận biết qua
các giác quan của chúng ta. Và vì chúng được nhận biết qua các giác
quan, nên ta luôn có cảm giác như chúng là có thật, là bền chắc và có
khả năng tự tồn độc lập. Tuy nhiên, nhận thức như thế là hoàn toàn không
đúng thật, và vì thế nó luôn dẫn đến những tư tưởng, lời nói và cách
hành xử sai lầm, mang lại khổ đau. Điều này sẽ được phân tích kỹ hơn
trong một phần sau.
“Nên quán sát như vậy”, bởi đây không phải một kiểu luận thuyết được đưa
ra nhằm tranh biện hơn thua hay để chứng minh điều này điều nọ... Đây
là một phương pháp quán chiếu thiết thực và hữu hiệu nhằm giúp ta cởi bỏ
hoặc ít ra cũng làm vơi nhẹ đi gánh nặng phiền não đè nặng trên cuộc
sống của ta từ lâu. Và phương pháp đó là một thực tế nhận biết được ngay
từ trong cuộc sống, nên chúng ta hoàn toàn có thể chiêm nghiệm và tự
mình khẳng định tính chính xác của nó.
Bằng cách nhận thức thế giới hiện tượng đúng thật như bản chất của chúng
là vô thường và liên tục thay đổi, ta sẽ gạt bỏ được vô số những cảm
xúc buồn đau thất vọng ngay trong cuộc sống thường ngày, từ những mối
bận tâm vụn vặt nhất cho đến những vấn đề trọng đại nhất của đời người,
như chuyện sống chết của bản thân ta và người thân quanh ta chẳng hạn.
Lấy ví dụ, khi một món đồ quý giá mà ta yêu thích bị trầy xước, hư hỏng,
ta thường khó kiềm được sự bực tức, phiền muộn. Nhưng nếu ta nhìn thấu
được bản chất của nó là luôn biến đổi và không thể tồn tại mãi mãi, ta
sẽ chấp nhận điều đó một cách dễ dàng hơn và nhận ra ngay sự bực tức,
phiền muộn của mình là vô lý. Sự hư hỏng của một món đồ vật là điều tất
nhiên, chỉ là vấn đề thời gian khác nhau mà thôi. Dù ta có cố gắng giữ
gìn cẩn thận đến đâu đi chăng nữa thì rồi cũng phải đến lúc nó hư hỏng.
Đó là sự thật. Ta không thể buồn phiền, bực tức vì một sự việc diễn ra
theo tự nhiên, đúng như bản chất của nó, bởi vì nếu biết “quán sát như
vậy” thì ta đã hoàn toàn có thể hình dung được sự việc ngay từ khi nó
chưa xảy ra.
Khi một người thân của ta qua đời, ta không thể tránh được sự đau buồn
thương tiếc. Nhưng nỗi đau đó chắc chắn sẽ có thể vượt qua dễ dàng hơn
nếu ta thấu hiểu và chấp nhận bản chất thật sự của vấn đề. Mọi người ai
cũng phải chết, kể cả bản thân ta. Thay vì quá đau thương về cái chết
của một người thân - vì điều đó là không thể tránh được, ta hãy xem đó
là lời nhắc nhở ta hãy cố gắng sống tốt hơn với những người thân còn
lại.
Tất nhiên, không phải mọi hiểu biết về thế giới vật chất đều là vô ích
và phải tức thời buông bỏ hết. Vấn đề ở đây là hãy buông bỏ khuynh hướng
truy tìm kiến thức một cách không cần thiết, nhất là khi lãnh vực kiến
thức đó không liên quan gì đến sự cải thiện cuộc sống của ta. Trong kinh
điển, đức Phật có đưa ra ví dụ về một người trúng tên độc nhưng không
chịu để cho người khác nhổ tên ra ngay, bởi trước tiên ông ta muốn biết
ai là người bắn tên, mũi tên làm bằng loại gỗ gì, cây cung làm bằng gỗ
gì v.v... Tất nhiên, người đàn ông tội nghiệp đó đã chết trước khi biết
được tất cả những gì muốn biết!
Nếu nhìn thẳng vào bản chất đời sống, mỗi chúng ta đều là người đang
trúng tên độc. Chúng ta sinh ra trong cuộc đời đầy dẫy khổ đau với những
điều bất như ý. Hạnh phúc và niềm vui đến với ta một cách bất chợt và
không dài lâu, trong khi những khó khăn về vật chất cũng như tinh thần
thường xuyên vây phủ quanh ta. Chúng ta đối mặt với các dạng khác nhau
của khổ đau hầu như ngay từ khi ta bắt đầu hiện hữu trong cuộc đời này.
Cho dù có là những người may mắn nhất, ta cũng không thoát khỏi những
nỗi khổ như bệnh tật hay chia lìa với người yêu thương... và biết bao
nỗi khổ đau khác nữa trước khi trở nên già yếu rồi nhắm mắt xuôi tay
theo một quy luật chung không ai tránh khỏi...
Nếu có ai đó là người hoàn toàn mãn nguyện trong cuộc sống, thì chí ít
người ấy cũng không thể hài lòng với sự bệnh tật, già yếu và cái chết,
trừ phi đó là người đã nhận hiểu và hành trì Phật pháp, bởi Phật pháp
chính là phương thuốc “giải độc” mà tất cả chúng ta đang cần đến.
Vì thế, chúng ta nên dành thời gian quý giá của cuộc sống cho mục đích
trước tiên là “giải độc”. Mọi nỗ lực của ta nên hướng đến việc làm giảm
nhẹ khổ đau và cải thiện đời sống, sao cho ta ngày càng có được nhiều
niềm vui và hạnh phúc hơn. Trong ý nghĩa đó thì sự truy tìm những kiến
thức không thiết thực sẽ là một thái độ kém khôn ngoan và hoang phí thời
gian.
Trong cuộc sống, điều tất nhiên là ta vẫn luôn cần đến những phần kiến
thức nhất định để có thể mang lại lợi ích chính đáng cho bản thân, gia
đình cũng như tất cả mọi người quanh ta. Chỉ riêng những kiến thức như
thế cũng đã quá đủ để ta phải thường xuyên trau giồi, học hỏi. Nếu ta
không tự nhận biết mình, vẫn duy trì khuynh hướng chạy theo những kiến
thức không cần thiết thì điều tất yếu là ta sẽ không có đủ thời gian để
có được tất cả những gì ta muốn, chẳng khác gì người đàn ông dại dột
trong ví dụ vừa nêu trên.
Khi tiếp cận với thế giới quanh ta bằng sự hiểu biết về nhân duyên và
nhận biết được bản chất vô thường của mọi sự vật, hiện tượng, chúng ta
sẽ như người nắm được trong tay chiếc chìa khóa và ngọn đèn soi để bước
vào căn nhà kho hỗn tạp. Cho dù quanh ta ngổn ngang nhiều vật dụng khác
nhau, ta vẫn luôn có thể nhìn rõ được giá trị và bản chất của từng món
đồ. Vì thế, ta sẽ dễ dàng chọn đúng được những thứ ta cần mà không thấy
hoang mang, lạc lối. Nhờ đó, thay vì chịu sự chi phối hoàn toàn của thế
giới vật chất, ta sẽ được tự do nhiều hơn trong việc quyết định cuộc đời
mình, giảm thiểu đến mức tối đa mọi sự phụ thuộc vào ngoại cảnh.