Gieo nhân gặt quả
Vào khoảng những năm cuối thập niên 70 của thế kỷ trước,
tôi đã có thời gian sống tĩnh mịch giữa một vùng đất hoang vu với rừng
cây vây quanh. Xin đừng hiểu lầm, tôi không đến vùng đất này để ẩn tu
hay suy ngẫm thế sự, mà mục đích chính chỉ đơn giản là để khai khẩn đất
đai trồng các loại nông sản như đậu xanh, đậu phộng, bắp (ngô)... Vào
thời gian đó, đây là phương tiện kiếm sống hầu như duy nhất của gia đình
tôi. Mặc dù vậy, nhờ vào sự thích hợp của môi trường sống nên phải thừa
nhận rằng đây là quãng thời gian tôi đã có được những thành tựu, tiến
bộ hết sức đáng kể về mặt tinh thần.
Sống giữa thiên nhiên và không có nhu cầu giao tiếp, thời gian đó tôi
được trải nghiệm cảm giác của một con người gần như hoàn toàn vô tư
và... vô sản. Ngoài một số rất ít những thứ thiết yếu như quần áo, xoong
nồi, cuốc xẻng... nơi tôi sống hầu như chẳng có gì giá trị. Những gì
tôi đang sở hữu, nếu có thể gọi như thế, đều nằm cả trên khu đất rẫy với
các loại cây trồng. Nhu cầu cuộc sống hằng ngày chẳng có gì nhiều và
những bữa ăn thì thường xuyên đơn sơ đến mức có thể tự chuẩn bị chỉ
trong mười, mười lăm phút. Rau xanh không phải trồng, vì chỉ cần hái rau
dại, vừa tươi ngon phong phú, có thể tha hồ đổi món mỗi ngày, lại hoàn
toàn không mất tiền mua. Ngoài một ít lương thực dự trữ tối thiểu như
gạo, muối... thỉnh thoảng cần được tiếp tế, còn thì tất cả đều sẵn có
tại chỗ.
Cuộc sống thật bình yên, hầu như không có gì khuấy động. Bài toán duy
nhất mà tôi phải bận tâm giải quyết trong năm là vào đầu mùa mưa phải
phân bổ, sắp xếp các loại cây trồng trên toàn khu đất rẫy sao cho hợp lý
và hiệu quả. Chẳng hạn, những nơi đất có độ xốp cao nên trồng đậu
phộng, phần đất đen pha sỏi rất thích hợp để trồng đậu xanh, trong khi
một số phần đất khác chỉ thích hợp để trồng bắp đỏ...
Sau khi gieo hạt xong, mọi thứ gần như đều tự chúng phát triển và công
việc chăm sóc hằng ngày rất đơn giản, tuy có phần hơi nhọc nhằn, vất vả
nhưng lại chẳng có gì để phải bận tâm suy nghĩ.
Mà quả thật đâu có gì để phải bận tâm suy nghĩ? Khi bạn đã gieo hạt đậu
trên một phần đất nào đó, thì điều tự nhiên và chắc chắn là bạn sẽ nhìn
thấy những cây đậu mọc lên. Sau một quá trình chăm sóc thích hợp, bạn sẽ
thu hái được những quả đậu để tách lấy hạt... Ngược lại, ở những nơi
bạn đã gieo hạt bắp, thì điều tất nhiên là bạn chỉ có thể mong đợi sẽ
thu hoạch được những quả bắp.
Nếu gọi đây là một nguyên tắc, thì có lẽ nó là nguyên tắc đơn giản và dễ
hiểu nhất trong thế giới tự nhiên. Hẳn bạn không cần phải chờ đợi một
sự chứng minh hay biện luận gì thêm mới tin vào tính đúng đắn của nguyên
tắc này. Thật quá đơn giản phải không? Bạn trồng đậu và thu hái đậu,
hoặc trồng bắp và thu hái bắp! Hay nói một cách khái quát hơn, bạn gieo
nhân nào sẽ gặt quả nấy. Thế thôi!
Nhưng một khi ta mở rộng nguyên tắc này đến những phạm trù trừu tượng
hơn, vấn đề sẽ không còn đơn giản nữa. Chẳng hạn, khi cần đến lời khuyên
ứng xử từ một bậc trưởng thượng nào đó, bạn có thể nhận được những chỉ
dẫn đại loại như: “Gieo gió gặt bão”, “Gieo nhân lành gặt quả tốt”,
“Gieo nhân ác gặt quả xấu”... Những cái nhân được đề cập ở đây như là
“nhân lành”, “nhân ác”... hoàn toàn không cụ thể và dễ nhận biết như
những hạt đậu, hạt bắp... Và vì thế, nếu cần phải chứng minh một cách cụ
thể những phát biểu như trên, bạn có thể sẽ phải hết sức bối rối!
Tuy nhiên, để đưa ra những khái niệm phân biệt “nhân ác”, “nhân lành”,
dù có phần trừu tượng nhưng cũng là việc có thể làm, vì chúng ta vẫn tìm
được những tiêu chí khác nhau để thẩm định, phân biệt. Nhưng vấn đề trở
nên phức tạp hơn nhiều khi chúng ta buộc phải đi tìm một mối liên hệ cụ
thể giữa “nhân” và “quả” trong những trường hợp này.
Chúng ta có thể quan sát và đo đếm được quãng thời gian cụ thể từ khi
gieo hạt đậu cho đến khi thu hái quả đậu. Nhưng điều này hoàn toàn không
thể thực hiện được trong trường hợp quan sát mối liên hệ giữa “nhân
lành” và “quả tốt” hay “nhân ác” và “quả xấu”. Nếu chúng ta chấp nhận
tính đúng đắn của nguyên tắc này thì điều đó chỉ có thể là dựa vào sự
trực nhận và niềm tin chứ không thể đòi hỏi một sự chứng minh cụ thể
thông qua các biểu hiện trong thế giới vật chất.
Người đầu tiên đưa ra phát biểu về nhân quả theo cách như trên chính là
đức Phật. Hơn thế nữa, những lời dạy của ngài còn hình thành cả một hệ
thống lý luận chặt chẽ dựa trên nguyên lý nhân quả. Đức Phật dạy rằng,
mỗi một hành vi của chúng ta đều tạo thành những kết quả tương ứng, cũng
tương tự như những hạt đậu sau khi gieo xuống đất sẽ nảy mầm thành cây
đậu. Những hành vi tốt đẹp sẽ mang lại kết quả tốt đẹp, nghiệp lành, hay
thiện nghiệp; những hành vi xấu ác sẽ dẫn đến kết quả không tốt đẹp,
nghiệp xấu, hay ác nghiệp. Tuy nhiên, do tiến trình nhân quả này phức
tạp hơn nhiều so với sự nảy mầm của cây đậu, cây bắp... nên có rất nhiều
yếu tố liên quan cần phải xét đến mới có thể thấu hiểu được.
Đối với chúng ta, việc chứng minh cụ thể về tính chính xác của những
điều nói trên là hoàn toàn không thể được. Bạn chỉ có thể tin hoặc không
tin, và điều đó là quyền lựa chọn của bạn. Tuy nhiên, tôi sẽ cố gắng
đưa ra một số đề nghị về sự chọn lựa này, và sẽ được trình bày trong
phần sau của tập sách. Nhưng nếu bạn không tự mình vận dụng sự suy xét
phán đoán của bản thân mà cứ nhất định muốn tôi hay bất kỳ ai đó hãy
chứng minh một cách cụ thể những điều nói trên, thì có lẽ bạn sẽ không
bao giờ được thỏa mãn, đơn giản chỉ là vì trong giới hạn đời sống hiện
tại của chúng ta thì đó là điều không thể làm được.
Tuy nhiên, đối với đức Phật thì vấn đề hoàn toàn khác biệt. Sau khi
chứng ngộ, ngài có được khả năng nhìn thấu suốt và hiểu được một cách rõ
ràng, minh bạch về nghiệp quả của mọi chúng sinh cũng như chính bản
thân ngài trong vô số kiếp đã qua. Trong kinh Mahasaccaka thuộc Trung bộ
kinh, đức Phật mô tả về năng lực của ngài sau khi chứng đạo như sau:
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền
não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm,
hướng tâm đến Túc mạng minh. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một
đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi
đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm
ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp.
Ta nhớ rằng: “Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này,
giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế
này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy,
ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ
khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này.” Như vậy, ta nhớ đến
nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết...
(Trung bộ kinh, kinh số 36 - Mahasaccaka, bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu)
Không những có khả năng nhớ lại và thấy biết rõ về nhiều đời sống quá
khứ của chính mình, đức Phật còn có khả năng thấy biết rõ ràng về đời
sống của tất cả chúng sinh, thấu suốt được những nguyên nhân nào đã dẫn
đến những kết quả nào trong đời sống của mỗi chúng sinh. Ngài nói rõ về
điều này cũng trong bản kinh vừa trích dẫn trên như sau:
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền
não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, ta dẫn tâm,
hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần
tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng
chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người
may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm
những ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến,
tạo các nghiệp theo tà kiến; những người này, sau khi thân hoại mạng
chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng
sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc
Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến; những vị này sau
khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi trời, trên
đời này. Như vậy, ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống
chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao
sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh
nghiệp của họ.
(Trung bộ kinh, kinh số 36 - Mahasaccaka, bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu)
Như vậy, đức Phật đã có thể nhìn thấy rõ tất cả chúng sinh và nghiệp quả
của họ trong nhiều đời, nhiều kiếp. Ngài thấy rõ do những hành vi như
thế này dẫn đến nghiệp quả như thế này, hoặc do những hành vi như thế
kia dẫn đến nghiệp quả như thế kia... Tất cả những điều đó đối với ngài
trở nên đơn giản và rõ ràng giống như khi chúng ta quan sát tiến trình
nảy mầm của một hạt đậu để trở thành một cây đậu và cho quả đậu!
Và một khi sự việc đã trở nên đơn giản đến thế thì còn cần gì phải giải
thích hay chứng minh? Vì thế, nguyên lý nhân quả được đức Phật nêu ra
như một chân lý hiển nhiên, một tiến trình tất yếu mà chúng ta dù muốn
hay không vẫn phải chấp nhận.
Nhưng để chứng minh điều này với những con người bình thường như chúng
ta, chưa có được trí tuệ và năng lực sáng suốt của một vị Phật, thì đức
Phật cũng không thể làm gì khác hơn ngoài việc đưa ra những xác tín về
sự thấy biết của ngài. Đơn giản chỉ vì chúng ta không có khả năng nhìn
thấy rõ tiến trình nhân quả như ngài, nên không có cách nào để chỉ ra
cho ta thấy được. Cũng tương tự như khi bạn muốn chỉ cho một người mù
thấy được tiến trình nảy mầm và kết quả của cây đậu, cây bắp... điều đó
sẽ là không thể được, bởi họ không có khả năng nhìn thấy. Đức Phật dạy
rằng, do sự che lấp của vô minh và nghiệp lực nên chúng ta cũng giống
như những người mù, không có khả năng nhìn thấu suốt tiến trình nhân quả
của bản thân ta cũng như của mọi người khác quanh ta.
Với trí tuệ của bậc giác ngộ, đức Phật đã nhìn thấy toàn bộ tiến trình
nhân quả. Và vì điều đó là cực kỳ quan trọng để giúp chúng ta tu tập
tiến bộ trên con đường tâm linh, nên đức Phật đã để lại những lời dạy
hết sức cặn kẽ về lý nhân quả trong nhiều kinh điển, nhằm giúp chúng ta
có thể hiểu và tin nhận được những điều mà bản thân ta chưa đủ khả năng
nhìn thấy một cách toàn diện. Một khi chúng ta có thể đặt niềm tin vào
đức Phật, chúng ta sẽ thấy rằng việc tin nhận những lời dạy của ngài về
nhân quả là điều tất yếu và mang lại rất nhiều lợi ích.
Ví như có một đứa con chưa từng đi xa, không có bất kỳ sự hiểu biết trực
tiếp nào về con đường và nơi mình sắp đi đến; đứa con ấy cần phải tin
tưởng và nghe theo những chỉ dẫn của người cha, là người có đầy đủ kiến
thức, hiểu biết thấu suốt và toàn diện về nơi mà người con ấy sắp đi
đến. Kiến thức của người cha và tình thương đối với đứa con là những yếu
tố không thể đặt nghi vấn, nên người con có thể tin nhận mà không cần
đòi hỏi gì khác. Cũng giống như thế, tâm từ bi và trí tuệ của đức Phật
là những yếu tố không thể đặt nghi vấn, và người Phật tử cần phải tin
nhận nếu muốn hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn không thể
phán đoán suy xét gì đối với những lời dạy của đức Phật về nhân quả.
Ngược lại là khác. Vì chúng ta hoàn toàn có thể tự mình kiểm chứng,
chiêm nghiệm mỗi vấn đề xảy đến cho chính bản thân ta và mang ra soi rọi
dưới ánh sáng của lý nhân quả để thấy được tính chính xác và hợp lý của
nó.
Lấy ví dụ, khi ta được chỉ dẫn đường đi ở một thành phố xa lạ, ta không
có cách gì để biết được ngay rằng những chỉ dẫn mình đã nhận được từ ai
đó là chính xác hay không. Tuy nhiên, khi bắt đầu đi theo những chỉ dẫn
đó, ta sẽ có khả năng kiểm chứng, đối chiếu những chỉ dẫn này với những
gì ta nhìn thấy trên đường đi, qua đó ta có thể tiếp tục đặt niềm tin
vào những chỉ dẫn này hoặc nhận ra sự sai lệch và quyết định tìm kiếm
những chỉ dẫn từ một người khác.
Cũng vậy, chúng ta không thể tức thời biết được ngay rằng những chỉ dẫn
của đức Phật về con đường dẫn đến sự giải thoát có hoàn toàn là chính
xác hay không, nhưng qua việc khởi sự thực hành những lời dạy của ngài,
ta sẽ có khả năng chiêm nghiệm, phán xét những kết quả đạt được và những
lợi lạc từ đó sẽ giúp ta củng cố niềm tin sâu vững vào những lời dạy
của đức Phật. Chính trong ý nghĩa này mà kinh Duy-ma-cật có dạy rằng:
“Tùy kỳ phát hành tắc đắc thâm tâm.” (Từ chỗ khởi làm mà có được lòng
tin sâu vững.)
Những gì đức Phật dạy về nhân quả cũng thế. Tuy chúng ta không có khả
năng nhìn thấu suốt và toàn diện như đức Phật để thấy rõ nhân quả, nhưng
ta có thể nhận biết rõ ràng những kết quả thực hành ngay trước mắt. Ta
cũng có thể phán xét, chiêm nghiệm để thấy rõ tính chính xác và hợp lý
của những lời dạy đó.
Khi đức Phật dạy rằng những hành vi xấu ác sẽ dẫn đến những kết quả xấu,
những ác nghiệp, thì mặc dù ta không thể nhìn thấy ngay những ác nghiệp
đó, ta vẫn có thể nhận biết phần nào tính chính xác và hợp lý của lời
dạy này qua việc phán xét và chiêm nghiệm những gì quan sát được ngay
trong hiện tại.
Khi một tư tưởng, lời nói hay hành vi xấu ác được thực hiện, ta có thể
dễ dàng nhận ra những tác động tức thời của nó đối với tâm thức ta. Đó
là vì, mỗi một tư tưởng, lời nói hay hành vi xấu ác đều luôn đi kèm với
những trạng thái tâm tương ứng như tham lam, sân hận, si mê, ganh ghét,
đố kỵ, oán hờn, ích kỷ... được gọi chung là những tâm niệm xấu. Những
tâm niệm xấu như thế luôn khiến ta rơi vào tâm trạng bực dọc, khó chịu,
căng thẳng, lo lắng và bất an. Chúng đốt cháy mọi sự an ổn, thanh thản
trong ta, khiến ta không thể cảm nhận được bất kỳ niềm vui nào, cho dù
quanh ta có sẵn có mọi nguồn vui.
Ngược lại, khi ta khởi sinh những tư tưởng hiền thiện, nói ra hoặc thực
hành những điều tốt đẹp, lợi mình lợi người, thì tự thân việc đó đã mang
đến cho ta những niềm vui tức thời, không phải chờ đợi qua thời gian
mới nhận biết được. Trong lòng ta thấy an vui, thanh thản nhờ vào những
việc tốt đã làm, và điều đó diễn ra một cách hoàn toàn tự nhiên, không
cần đến bất kỳ tác động nào khác từ bên ngoài.
Như thế, cho dù ta không có khả năng nhìn thấu suốt để thấy được nghiệp
quả mai sau như đức Phật, nhưng ta vẫn có thể phán xét và phân biệt được
sự khác biệt rất rõ ràng những kết quả mang lại bởi việc tốt và việc
xấu là khác nhau như thế nào. Ta cũng có thể tự mình trực nhận được điều
đó trong tâm hồn mà không cần đến một sự giải thích hay chứng minh nào
từ người khác.
Tuy nhiên, có lẽ điều mà hầu hết chúng ta dễ nảy sinh nghi vấn nhất là:
tiến trình nhân quả đã diễn ra như thế nào? Bởi vì, do không thể quan
sát được một cách toàn diện, ta không thể hiểu được vì sao giữa nhân và
quả vẫn luôn giữ được mối tương quan chặt chẽ ngay cả khi có những cách
biệt rất xa về không gian và thời gian. Như đã nói, điều này hoàn toàn
khác biệt với trường hợp của hạt đậu nảy mầm thành cây đậu, bởi nó vượt
ngoài khả năng quan sát của chúng ta. Một người tạo nghiệp tại đây, vào
lúc này, nhưng rồi lại thọ lãnh nghiệp quả tại một nơi khác, vào lúc
khác, và rất thường là trong một đời sống khác... Như vậy, mối quan hệ
vượt thời gian và không gian giữa nhân và quả phải được chứng minh hoặc
giải thích như thế nào?
Đức Phật đã giải thích về điều này rất cụ thể và chi tiết, nhằm giúp
chúng ta có thể nhận hiểu được vấn đề một cách toàn diện và chính xác
chứ không chỉ đơn thuần là nghe qua và tin nhận. Về mối tương quan giữa
nhân và quả, đức Phật chỉ rõ rằng đó là một tiến trình liên tục thông
qua sự ghi nhận và lưu giữ trong tâm thức chúng ta. Chính dòng tâm thức
tương tục của mỗi chúng sinh đã đóng vai trò kết nối trong tiến trình
nhân quả. Mỗi một tư tưởng, lời nói hay hành vi khi thực hiện đều để lại
một dấu ấn tương ứng trong dòng tâm thức. Đạo Phật gọi những dấu ấn đó
là chủng tử, nghĩa là những hạt giống, trong ý nghĩa là chúng sẽ nảy
sinh thành các kết quả tương ứng sau khi đã được gieo vào tâm thức.
Trong tâm thức phức tạp của mỗi chúng sinh, phần lưu giữ những hạt giống
này được gọi là tạng thức.
Chữ tạng (藏) có nghĩa là chất chứa, cất giữ, nên tạng thức chính là cái
kho vô hình chất chứa, cất giữ mọi chủng tử, tốt cũng như xấu. Cho đến
một thời điểm nhất định nào đó, với những điều kiện thích hợp, mỗi chủng
tử sẽ hiện hành để tạo ra một kết quả nhất định nào đó mà chúng sinh đã
tạo nghiệp nhất thiết phải nhận lãnh. Do đó mà đức Phật dạy:
Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ
thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.
Với một tầm nhìn thấu suốt và toàn diện, đức Phật đã nói ra điều này như
một mô tả hết sức đơn giản và tất yếu. Mỗi chúng sinh tự mình tạo ra
những nghiệp lành dữ, tốt xấu khác nhau, và vì thế mà họ phải nhận lãnh
những kết quả tốt xấu không giống nhau. Thật đơn giản! Hoàn toàn không
khác gì khi ta gieo trồng những hạt đậu, hạt bắp và rồi thu hoạch những
quả đậu, quả bắp...
Từ giản đơn đến phức tạp và rồi từ phức tạp đến giản đơn, đó là những gì
chúng ta có thể nói về lý nhân quả trong đạo Phật. Giản đơn, vì đó là
điều gần như tất yếu và không cần giải thích, chỉ cần quan sát thực tiễn
thì bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể thấy biết và tin nhận; và
phức tạp vì khi nhân quả vượt ra ngoài khả năng quan sát trong hiện tại
của chúng ta thì việc tin nhận hầu như phải dựa trên niềm tin và sự phán
xét, suy luận nhiều hơn là trực tiếp thấy biết.
Như tôi đã nói ở một phần trên, việc chứng minh mối quan hệ nhân quả
bằng những biểu hiện cụ thể trong thế giới vật chất là điều không thể
được, vì phần lớn các tiến trình này diễn ra vượt quá thời gian của một
kiếp người. Nếu chúng ta muốn tự mình thấy biết và thấu hiểu về nhân
quả, chỉ có một cách duy nhất là ta phải nỗ lực tu tập để đạt được trí
tuệ giác ngộ như đức Phật. Một khi thời điểm đó vẫn còn chưa đến, thì sự
thấy biết của ta về nhân quả tất nhiên sẽ còn nhiều giới hạn, và có
những phạm vi mà ta chỉ có thể tin hoặc không tin chứ không thể đòi hỏi
sự chứng minh cụ thể.
Và như vậy, điều gì sẽ xảy ra nếu có những chúng sinh không tin vào nhân
quả? Đức Phật đã nhìn thấy trước mọi vấn đề, vì thế trong kinh Pháp cú
ngài có những lời dạy rất rõ:
Ai bác bỏ đời sau,
Không ác nào không làm.
(Kinh Pháp cú, kệ số 176, bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu)
“Bác bỏ đời sau” cũng hàm nghĩa là không tin vào nhân quả, bởi như đã
nói, tiến trình nhân quả đa phần không diễn ra tức thời hay trong phạm
vi giới hạn của một kiếp sống này. Chính vì vậy, trước mắt ta có thể vẫn
luôn đầy dẫy những cảnh chướng tai gai mắt, trái nghịch nhân quả... Có
những kẻ gian tham, xảo quyệt lại hầu như luôn sống trong nhà cao cửa
rộng, giàu sang phú quý, còn người hiền lương chân chất thì luôn phải
lận đận lao đao chuyện cơm áo, nói gì đến tận hưởng những tiện nghi đời
sống! Những nghịch lý đó không có lời giải đáp trong hiện tại, đành phó
mặc cho cái gọi là “số mạng” hay “định mệnh”...
Chính vì thế mà những ai đã không tin vào nhân quả, bác bỏ đời sau thì
sẽ không còn gì phải e sợ trước những hành vi xấu ác. Gian xảo cũng
được, lường gạt cũng xong... miễn là hành vi đó, thủ đoạn đó có thể mang
đến cho họ những lợi ích ngay trước mắt. Và chính vì thế mà đối với họ
thì “không ác nào không làm”!
Hơn thế nữa, một khi đã bác bỏ đời sau thì cái gọi là “công lý” hầu như
rất khó đặt niềm tin vào. Trong xã hội có biết bao kẻ lọc lừa gian xảo,
buôn gian bán lận, ngay trước mắt họ là những khoản lợi nhuận kếch sù,
giúp cho bản thân họ và gia đình luôn được sung túc, đầy đủ, mà đâu có
gì bảo đảm là họ sẽ phải chịu quả báo xấu? Ngay cả cái công lý cụ thể
nhất là pháp luật của xã hội, thì sự thực thi vẫn không phải bao giờ
cũng tuyệt đối hoàn hảo, vẫn còn không ít kẻ có thể luồn lách vượt qua,
để rồi sống ung dung ngoài vòng pháp luật mà chẳng ai làm gì được họ.
Nếu những người như thế vẫn có thể được sống yên thân đến cuối đời - mà
ta có thể tìm thấy không ít người như thế - thì lý nhân quả đâu có đáng
để tin theo? Gần đây nhất là vụ sữa bột giả tại Trung Quốc mà tác hại có
thể khiến cho tất cả chúng ta đều phải rùng mình kinh sợ! Những kẻ kinh
doanh vô đạo đức đã khai thác lợi nhuận trước mắt bằng cách tung ra
hàng trăm tấn sữa bột giả, lợi dụng sự nghèo khó và thiếu kiến thức của
người dân ở các vùng quê tại Trung Quốc. Nhà chức trách chỉ bắt đầu vào
cuộc sau khi có hàng loạt trẻ em tử vong vì suy dinh dưỡng sau một thời
gian dùng sữa giả. Thế nhưng, kết quả được biết sau đó chắc chắn không
làm cho bất cứ ai trong chúng ta cảm thấy hài lòng. Quá ít người phải
chịu trách nhiệm hoặc nhận sự trừng phạt, trong khi con số các nạn nhân
chịu tác hại và những đau khổ mà người thân các em phải gánh chịu thì
không sao đo đếm nổi! Hơn thế nữa, cho dù sự việc đã được phát hiện từ
khoảng năm 2004 nhưng cho đến nay vẫn chưa chấm dứt, và sự việc còn tồi
tệ hơn nữa khi ngoài sữa giả (kém chất lượng, thiếu dinh dưỡng) còn có
thêm sữa độc (chứa melamin gây tác hại chết người)! Không ai trong chúng
ta có thể tin được rằng chính quyền có đủ khả năng để trừng trị hết tất
cả những kẻ tham gia vào hành vi kinh doanh vô đạo đức này.
Ngoài ra còn có rất nhiều trường hợp mà kẻ xấu ác thực sự không thể nào
trả hết những món nợ họ đã gây ra. Như những kẻ diệt chủng ở Kampuchia
trong giai đoạn 1975-1979, liệu cái chết của cá nhân họ có thể xem là
kết quả tương xứng với biết bao khổ đau mà họ đã gây ra cho hàng triệu
người khác hay chăng?
Rõ ràng là, khi bác bỏ niềm tin về một đời sống khác sau khi chết, bức
tranh cuộc sống sẽ trở nên vô cùng ảm đạm và đầy bất công đối với tất cả
chúng ta. Chính điều này có thể sẽ khiến cho chúng ta đánh mất đi rất
nhiều động cơ tốt đẹp trong đời sống.
Chính vì vậy, ngay cả đối với những ai chưa đặt niềm tin vào đức Phật và
lời dạy của ngài, thì nguyên lý nhân quả vẫn phải được xem là giả
thuyết hợp lý nhất trong mọi giả thuyết. Và việc tin nhận nhân quả sẽ
giúp thắp lên ngọn lửa niềm tin trong cuộc sống, thay vì là sự ray rứt,
bất an và bất mãn trước những thấy biết giới hạn của chúng ta trong kiếp
sống này.
Về mối liên hệ giữa nhân và quả dựa trên sự tương tục của dòng tâm thức,
không ít người đã đặt ra vấn đề tìm kiếm những bằng cứ xác đáng, cụ
thể. Trong chừng mực giới hạn của khoa học hiện nay thì có vẻ như điều
đó vẫn chưa thể được đáp ứng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể có được ít
nhiều những phán xét và lập luận liên quan, có thể giúp tiếp cận vấn đề
này một cách dễ dàng hơn.
Trước hết, tôi muốn đề cập đến những trường hợp mà hầu hết chúng ta đều
đã từng nghe nói đến. Đó là những trường hợp “chết đi sống lại”. Nói một
cách nôm na thì có một số người sau khi đã chết đi một thời gian, theo
xác nhận của những người thân quanh họ, bỗng đột nhiên sống lại một cách
rất khó giải thích. Khoảng thời gian “chết đi” thường không giống nhau,
có khi chỉ vài giờ đồng hồ, nhưng có trường hợp kéo dài đến một, hai
ngày rồi đương sự mới “sống lại”.
Mặc dù trong những trường hợp này, dấu hiệu của sự sống đã hoàn toàn
không còn nhận thấy được nữa đối với những người chung quanh, chẳng hạn
như ngừng thở, cơ thể bất động, toàn thân lạnh..., nhưng rồi bỗng dưng
sự sống trở lại với họ - không duyên cớ! Một số người có thể “chết thật”
sau đó một thời gian ngắn, nhưng cũng có nhiều người sau khi “sống lại”
còn tiếp tục sống đến nhiều năm sau nữa.
Một số người lý giải rằng đó là những trường hợp mà người ta chưa thực
sự chết hẳn. Tuy nhiên, những người trong cuộc thì hoàn toàn không chấp
nhận giải thích này, vì họ đã quan sát được rất rõ những dấu hiệu của sự
chết cũng như đã trải qua đủ thời gian để khẳng định điều đó. Vấn đề
trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta xét đến những tường trình về các trường
hợp tương tự đã được đưa ra từ một số bệnh viện lớn ở phương Tây, khi
mà các thiết bị máy móc tối tân đã được sử dụng để xác nhận chắc chắn
những dấu hiệu của cái chết. Có những người “sống lại” sau khi đã bị
mang bỏ vào nhà xác của bệnh viện!
Đến đây thì người ta buộc phải thừa nhận là có một sự thật như thế, cho
dù chúng ta chưa thể giải thích được nguyên nhân là do đâu. Trong một
bài giảng, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV có đề cập đến vấn đề này. Ngài
nói:
... there are occasionally cases of people who after a long illness
become so physically weak that their heartbeat and all physical
functions stop. Entering into such a deep coma that no physical activity
or function can be perceived, the doctor declares them clinically dead.
However, sometimes after a few minutes or even hours, despite the
apparent lack of physical activity, the person starts breathing again,
the heart starts beating, and physical functions are regained. This
revival, despite the previous cessation of all physical functions...
[...đôi khi có những người bệnh sau một thời gian dài trở nên yếu ớt đến
nỗi mất hẳn nhịp tim và mọi chức năng cơ thể đều ngưng hoạt động. Họ
rơi vào tình trạng hôn mê sâu đến nỗi không một hoạt động cơ thể hay
chức năng nào được nhận ra, và về mặt lâm sàng bác sĩ tuyên bố là họ đã
chết. Tuy nhiên, có khi sau đó vài phút, thậm chí nhiều giờ, mặc dù rõ
ràng là không có các hoạt động cơ thể, người bệnh đó [bỗng nhiên] bắt
đầu thở lại, tim bắt đầu đập và các chức năng vật lý được phục hồi. Sự
hồi sinh này, bất chấp sự ngưng hoạt động trước đó của mọi chức năng vật
lý...]
Như vậy, điều này có ý nghĩa gì? Trong một chừng mực nào đó, điều này
cho thấy một cách rõ ràng là phải có sự tồn tại của một yếu tố vô hình
phi vật chất nào đó trong khoảng thời gian giữa lúc một người được xem
là “chết đi” cho đến lúc họ “sống lại”. Vì nếu không có yếu tố này thì
sự sống không thể tự nó sinh khởi từ một thể xác đã chết hoàn toàn -
nghĩa là về mặt sinh học không còn có bất kỳ dấu hiệu sống nào nữa cả -
mà chỉ có thể là sự tiếp nối sự sống trước đó. Và nếu như trong sự sống
của con người quả thật có tồn tại một yếu tố phi vật chất nằm ngoài khả
năng nhận biết của khoa học hiện nay, thì yếu tố đó cũng có khả năng sẽ
tiếp tục tồn tại sau khi chết để rồi trở thành nhân tố khởi đầu cho một
đời sống khác.
Bàn về một yếu tố phi vật chất như thế, chúng ta có thể sẽ phải ngạc
nhiên khi được nghe ý kiến của một trong các nhà khoa học hàng đầu thế
giới hiện nay, Tiến sĩ B. Alan Wallace. Ông đã viết như sau:
While subtle states of awareness can be detected only with very refined
awareness, even the grossest mental states, such as rage (which can be
ascertained firsthand by an ordinary, untrained mind), cannot be
directly detected with the physical instruments of modern neuroscience:
they detect only the neurophysiological correlates of such mental states
and other related physical behavior. Thus, all states of consciousness
may be regarded as too subtle for modern neuroscience to detect.
[Trong khi các trạng thái vi tế của sự nhận biết chỉ có thể được nhận ra
bởi sự nhận biết rất tinh tế, thì ngay cả các trạng thái tinh thần thô
thiển nhất, chẳng hạn như sự giận dữ (có thể được nhận biết chắc chắn
một cách trực tiếp bởi một tâm thức bình thường không tu tập), vẫn không
thể phát hiện trực tiếp bởi các thiết bị vật lý của thần kinh học hiện
đại: họ chỉ phát hiện được các tương quan thần kinh tâm lý của những
trạng thái tinh thần như thế và các biểu hiện vật lý khác có liên hệ. Do
đó, mọi trạng thái của ý thức có thể xem là quá vi tế đến mức thần kinh
học hiện đại không thể phát hiện.]
Từ phát biểu trên đây của một nhà khoa học hiện đại, chúng ta có thể
thấy rõ là khoa học còn khá hạn chế trong việc nhận biết về tâm thức
thông qua các thiết bị máy móc. Những gì người ta có thể nhận biết như
các xung động trong não bộ hay sự thay đổi thành phần các chất hóa học
trong cơ thể, thực ra chỉ là những tác động do các trạng thái tâm thức
gây ra cho cơ thể chứ không phải bản thân các trạng thái tâm thức đó.
Khi một người nổi giận, cơn giận đó gây ra những phản ứng nhất định
trong cơ thể người đó, như huyết áp thay đổi, tim đập mạnh hơn, máu dồn
lên mặt đỏ bừng... Tất cả những thay đổi này dễ dàng được nhận biết,
nhưng chúng lại không phải là bản thân cơn giận. Vì vậy, nếu một người
có thể tự kiềm chế được cơn giận để không xảy ra những phản ứng thông
thường như thế, thì khoa học hiện đại cũng không có cách gì nhận biết
được là người ấy đang giận.
Vì các phản ứng kèm theo cơn giận có vẻ như rất phổ biến ở tất cả mọi
người, nên hầu hết chúng ta đã đồng nhất chúng với cơn giận và ít người
nghĩ rằng chúng và tự thân cơn giận là hai yếu tố khác nhau.
Đối với người thực hành Phật pháp thì đây lại là điều hết sức quen
thuộc, và khả năng nhận biết rõ về các trạng thái tâm lý khác nhau chính
là một trong những mục đích nhắm đến của sự tu tập. Với công phu hành
trì, ta sẽ có khả năng giữ tâm an tịnh và quán sát được những khi cơn
giận khởi lên trong tâm thức mình nhưng không để cho nó gây ra bất kỳ
phản ứng có hại nào. Tương tự, đối với các trạng thái tâm khác như tham
lam, ghen ghét, đố kỵ, kiêu mạn... người tu tập Phật pháp cũng đều có
khả năng nỗ lực kiềm chế theo cách đó. Một khi các trạng thái tâm này
vừa sinh khởi, ta lập tức nhận biết và giữ tâm an tịnh, bình thản quán
sát từ lúc tâm ấy sinh khởi, phát triển cho đến khi nó diệt mất. Bằng
cách này, ta có thể ngăn ngừa tất cả những tác hại do các trạng thái tâm
xấu ác gây ra.
Trở lại với tính chất phi vật chất và không thể nhận biết trong phạm vi
khả năng của khoa học hiện nay, chúng ta phải thừa nhận một điều là
những gì ta không thể nhận biết cụ thể qua các biểu hiện vật lý hoàn
toàn không có nghĩa là chúng không tồn tại. Và đây chính là điều mà
nhiều nhà khoa học phương Tây trong những năm gần đây đã hết sức chú ý
nghiên cứu, tìm hiểu, thông qua sự trao đổi và hợp tác với nhiều vị đại
sư Phật giáo Tây Tạng mà đứng đầu là đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV. Kết quả
nghiên cứu cho thấy một trạng thái tâm thức có tu tập - hoàn toàn không
thể nhận biết bởi các thiết bị khoa học - lại có khả năng tạo ra những
thay đổi đáng kinh ngạc trong cơ thể của người tu tập, có thể nhận biết
một cách cụ thể bằng các thiết bị khoa học.
Năm 2002, tiến sĩ Antoine Lutz (một nhà thần kinh học được đào tạo tại
Francisco Varela) và tiến sĩ Richard Davidson (một nhà thần kinh học nổi
tiếng thế giới và là thành viên Hội đồng cố vấn khoa học của Viện Tâm
thần quốc gia Hoa Kỳ) đã cùng nhau tiến hành một cuộc nghiên cứu chuyên
sâu về vấn đề này tại Phòng nghiên cứu Waisman thuộc Đại học Wisconsin,
bang Madison.
Trong phần Dẫn nhập viết cho sách The joy of living, Eric Swanson mô tả
về cuộc nghiên cứu này với những trang thiết bị hiện đại như sau:
The tests employed state-of-the-art fMRI technology that - unlike
standard MRI technology, which provides only a kind of still photograph
of brain/body activity - captures a moment-by-moment pictorial record of
changing levels of activity in different areas of the brain.
The EEG equipment used to measure the tiny electrical impulses that
occur when brain cells communicate was also quite sophisticated. Whereas
a typical EEG procedure involves attaching only sixteen electrodes to
the scalp in order to measure electrical activity at the surface of the
skull, the equipment used in the Waisman lab employed 128 electrodes in
order to measure tiny changes in electrical activity deep within the
subjects’ brains...
[Những thí nghiệm này sử dụng kỹ thuật hiện đại fMRI (đồ hình cộng hưởng
từ trường), khác với kỹ thuật MRI trước đây vốn chỉ cung cấp hình ảnh
cố định về hoạt động của não bộ hay cơ thể. Kỹ thuật fMRI ghi lại một
biểu đồ theo từng thời điểm về những mức độ thay đổi của hoạt động [não
bộ] ở các vùng não khác nhau.
Thiết bị EEG (điện não đồ) được dùng [trong cuộc nghiên cứu này] để đo
những xung điện cực nhỏ xảy ra khi các tế bào não giao tiếp cũng hết sức
tinh vi. Trong khi một tiến trình EEG thông thường chỉ gắn 16 điện cực
vào da đầu để đo những xung điện trên bề mặt xương sọ, thiết bị được
dùng trong Phòng nghiên cứu Waisman lại có đến 128 điện cực để đo được
cả những thay đổi cực nhỏ về xung điện nằm sâu trong não bộ của đối
tượng.]
Và đây là những kết quả so sánh được ghi nhận sau khi tiến hành các cuộc
thử nghiệm với sự tham gia của 8 bậc thầy Phật giáo, là những vị đại sư
đã thực hành thiền định qua rất nhiều năm:
The results of both the fMRI and EEG studies of these eight trained
meditators were impressive on two levels. While practicing compassion
and loving-kindness meditation, the brain area known to be activated in
maternal love and empathy was more prominently activated among long-term
Buddhist practitioners than among a group of control subjects who had
been given meditation instructions one week prior to the scans and asked
to practice daily...
[Những kết quả nghiên cứu từ cả hai hệ thống fMRI và EEG đối với 8 vị
thiền giả lão luyện này gây ấn tượng mạnh trên hai cấp độ. Trong khi
thực hành thiền quán về tâm từ và tâm bi, vùng não bộ vốn được kích hoạt
bởi tình thương và sự cảm thông của người mẹ đã được kích hoạt một cách
vượt trội hơn ở những thiền giả Phật giáo thâm niên so với nhóm đối
tượng chỉ mới được học về thiền quán một tuần trước đó và được yêu cầu
thực hành thiền quán mỗi ngày...]
Nhưng không chỉ là sự khác biệt ở mức độ như trên, các nhà nghiên cứu đã
phải kinh ngạc và ban đầu đã hoài nghi cả về độ chính xác của các thiết
bị tối tân mà họ đang dùng:
... More remarkably, the measurements of the long-term practitioners’
EEG activity during meditation were apparently so far off the scale of
normal EEG readings that - as I understand it - the lab technicians
thought at first that the machinery might have been malfunctioning.
After hastily double-checking their equipment, though, the technicians
were forced to eliminate the possibility of mechanical malfunction and
confront the reality that the electrical activity associated with
attention and phenomenal awareness transcended anything they’d ever
witnessed...
[Đáng chú ý hơn nữa, những số đo hoạt động EEG từ các vị thiền giả thâm
niên trong khi họ đang thiền định dường như đã vượt ngoài phạm vi thông
thường của các chỉ số EEG - theo như sự nhận hiểu của tôi - đến mức làm
cho các kỹ thuật viên của phòng nghiên cứu lập tức nghĩ rằng có lẽ máy
đã bị hỏng. Nhưng sau khi nhanh chóng tiến hành kiểm tra thiết bị nhiều
lần, họ buộc phải loại bỏ khả năng máy hỏng và nhìn thẳng vào một sự
thật là các hoạt động xung điện [của não bộ] khi có sự định tâm và tỉnh
giác đã vượt quá xa so với những gì họ từng chứng kiến...
Và những kết quả “vượt quá xa” này được Daniel Goleman mô tả cụ thể hơn trong Lời giới thiệu của cùng quyển sách này như sau:
During a meditation on compassion, neural activity in a key center in
the brain’s system for happiness jumped by 700 to 800 percent! For
ordinary subjects in the study, volunteers who had just begun to
meditate, that same area increased its activity by a mere 10 to 15
percent.
[Trong một buổi thiền quán về tâm từ, hoạt động thần kinh tại trung tâm
chủ yếu trong hệ thống não bộ liên quan đến sự an lạc đã tăng vọt từ
700% đến 800% [so với bình thường]! Đối với những đối tượng thông thường
trong cuộc nghiên cứu này, là những người tình nguyện tham gia chỉ vừa
mới khởi sự tu tập thiền quán, thì ở cùng khu vực [trung tâm thần kinh]
này, hoạt động thần kinh chỉ gia tăng từ 10% đến 15%.]
Như vậy, cho dù bức màn bí ẩn chưa được hoàn toàn vén lên, nhưng khoa
học hiện đại và Phật giáo đã có những bước tiến đến gần nhau cực kỳ đáng
kể. Khoa học đang hết sức nỗ lực để có thể mở rộng khả năng hiểu biết
và giải thích về những vấn đề liên quan đến tâm thức, trong khi các hành
giả Phật giáo đang sử dụng chính công phu tu tập của họ để chứng minh
cho nhân loại thấy rằng những lời Phật dạy là hoàn toàn chính xác, thiết
thực và hữu ích.
Và như vậy, chúng ta cũng có thể thấy được khuynh hướng của các nhà khoa
học hiện nay là thừa nhận những giới hạn chưa thể vượt qua thay vì phủ
nhận những gì họ chưa thể nhận hiểu và giải thích một cách cụ thể.
Nói cách khác, những lời dạy của đức Phật về một dòng tâm thức tương tục
kéo dài qua các kiếp sống của mỗi chúng sinh và là nơi dung chứa các
hạt giống thiện ác hiện nay đã không còn quá trừu tượng nữa. Mặc dù khoa
học vẫn chưa thể - và có lẽ sẽ không bao giờ có thể - giúp con người
nhận biết được cụ thể về một dòng tâm thức như thế, nhưng sự hiện hữu và
những tác động của dòng tâm thức ấy đang ngày càng được nhận biết nhiều
hơn.
Một vấn đề khác mà ngày nay đã trở nên quá quen thuộc với hầu hết mọi
người trên thế giới là sự tái sinh có chủ định của rất nhiều vị Lạt-ma
Tây Tạng.
Hầu hết các vị này đều biết rất rõ về những gì họ đang làm. Trước khi
viên tịch, một số các vị để lại những lời dặn dò, chỉ dẫn về sự tái sinh
sắp tới của mình, thậm chí có vị còn để lại di thư nói rõ những chi
tiết có thể giúp các vị đệ tử căn cứ vào đó mà tìm ra hóa thân tái sinh
của họ.
Đức Karmapa đời thứ 16 có thể xem là một ví dụ điển hình cho những sự
kiện này. Ngài viên tịch năm 1981 và để lại một bức di thư, trong đó có
những chi tiết liên quan đến việc tìm kiếm hóa thân tái sinh của ngài.
Năm 1992, một phái đoàn tìm kiếm dựa theo những chỉ dẫn trong di thư đã
tìm gặp vị Karmapa đời thứ 17 hiện nay, vào lúc đó vừa được 7 tuổi. Điều
kỳ diệu ở đây là, cha mẹ của vị Karmapa thứ 17 này là những người sống
du mục, và vào năm đó, chính đức Karmapa chỉ mới lên 7 này đã thúc giục
họ dời đến đồng cỏ sớm hơn 1 tháng. Chính nhờ vậy mà phái đoàn tìm kiếm
mới gặp được họ ở đúng vị trí được ghi trong di thư. Đức Karmapa thứ 17
sinh năm 1985 và hiện nay vẫn còn đang hoằng hóa nhiều nơi trên thế
giới. Ngài có thể xem là một nhân chứng sống cho hiện tượng tái sinh có
chủ định.
Trường hợp điển hình thứ hai là Đại sư Tenga Rinpoche, sinh năm 1932,
được tin là hóa thân tái sinh của vị Lạt-ma Samten trước đó.
Trước khi Lạt-ma Samten viên tịch, ngài trao cho một vị đệ tử là Tenzin
Drupchok một chiếc kèn làm bằng ống xương đùi, và dặn vị này phải giữ
gìn cẩn thận cho đến khi ngài quay lại nhận nó.
Nhiều năm sau, ngài Tenzin Drupchok trong một chuyến đi hành hương đã
hoàn toàn tình cờ nhận lời mời thỉnh đến thăm một gia đình cư sĩ. Tại
đó, cậu con trai út trong gia đình đã bất ngờ hỏi thẳng ngài về chiếc
kèn và đòi lại nó. Ngay sau đó, cậu bé được thừa nhận là hóa thân của
Lạt-ma Samten và đã theo ngài Tenzin Drupchok về tu viện để tu học. Hiện
nay, vị Lạt-ma tái sinh này là một cao tăng nổi tiếng khắp thế giới.
Ngài đã sáng lập Hiệp hội Karma Kamtsang tại Ba Lan, Karma Thegsum Ling
tại Verona (nước Ý) và Lotus Trust cũng như Lotus Direkthilfe ở nước
Đức.
Như vậy, nếu không có một dòng tâm thức tương tục nối liền giữa những
kiếp sống, thì hiện tượng tái sinh như trên sẽ không thể dựa vào đâu để
có thể xảy ra. Hơn thế nữa, trong bài luận văn đúc kết đã trích dẫn
trước đây của tiến sĩ B. Alan Wallace, ông cũng cho rằng đôi khi có
những người không tu tập thiền định nhưng vẫn có khả năng nhớ lại các
tiền kiếp của họ. Và ông trích lời đức Đạt-lai Lạt-ma XIV đã trình bày
trong Hội nghị khoa học này nói về hai cô gái ở Ấn Độ nhớ lại được tên
của những người họ quen biết trong kiếp trước! Điều này càng khẳng định
hơn nữa về sự hiện hữu một dòng tâm thức tương tục trải qua nhiều kiếp
sống.
Một khi nhận hiểu được về sự hiện hữu của một dòng tâm thức tương tục,
chúng ta sẽ thấy những lời dạy của đức Phật về nhân quả không còn quá
khó hiểu nữa. Vấn đề sẽ trở nên đơn giản hơn, cụ thể hơn, và có vẻ như
tương đồng nhiều hơn với những trường hợp nảy mầm và kết quả của những
cây đậu, cây bắp...
Hiểu biết và tin nhận giáo lý nhân quả là điều vô cùng quan trọng để có
thể hướng đến một đời sống tinh thần tốt đẹp hơn. Nhờ tin và hiểu về
nhân quả, ta sẽ có một cách nhìn toàn diện hơn đối với những gì đã, đang
và sẽ diễn ra trong đời sống. Hơn thế nữa, ta cũng thấy được vai trò
quyết định của chính bản thân mình đối với bất kỳ điều gì xảy đến cho
ta, và do đó mà sẽ có một thái độ sống tích cực hơn, quan tâm đến người
khác nhiều hơn cũng như luôn nỗ lực hoàn thiện bản thân mình thay vì
luôn trách móc hay trông đợi vào người khác.