Thế giới trong ta...
Bước ngoặt quan trọng nhất trong tiến trình nhận thức của
con người có lẽ là khi chúng ta bắt đầu nhận thức về chính bản thân
mình. Thay vì đặt những câu hỏi về thế giới quanh ta, mỗi chúng ta đều
có một thời điểm bất chợt nào đó quay nhìn lại chính mình và đặt ra
những câu hỏi đại loại như “Ta là ai?”, “Tại sao ta sinh ra và chết
đi?”, “Đời sống của ta có ý nghĩa gì?”...
Khi nhận thức về chính bản thân mình, chúng ta luôn vấp phải những trở
ngại hầu như không thể vượt qua. Chẳng hạn, mọi phương thức hình thành
các khái niệm mô tả mà ta đã từng áp dụng cho thế giới vật chất đều trở
nên không phù hợp để mô tả về bản thân chúng ta. Khi nhận thức về một sự
vật, ta luôn có thể thấy được sự vật ấy hình thành từ bao giờ, hình
thành như thế nào, tồn tại trong bao lâu và sẽ hư hoại trong những điều
kiện nào. Nhưng với tâm thức chúng ta thì hoàn toàn khác. Chúng ta không
thể nói được là ta đã bắt đầu hiện hữu từ bao giờ. Tuy có mối tương
quan với thể xác vật lý, nhưng ít người trong chúng ta tin rằng tâm thức
ta chỉ bắt đầu hiện hữu từ lúc thể xác này sinh ra và sẽ biến mất hoàn
toàn sau khi thể xác này tan rã. Có nhiều lý do để chúng ta không thể
chấp nhận một quan niệm như vậy, nhưng ngay cả khi ta chấp nhận thì điều
đó dường như lại sẽ làm nảy sinh hàng loạt nghi vấn khác...
Một trong những ưu thế lớn nhất của con người là chúng ta có ngôn ngữ và
chữ viết. Nhờ đó mà kiến thức và kinh nghiệm của mỗi chúng ta đều có
thể chia sẻ với tất cả những người cùng thế hệ cũng như lưu lại cho
nhiều thế hệ về sau. Đồng thời, ta cũng thừa hưởng được vô số những kiến
thức và kinh nghiệm của biết bao thế hệ trước đây.
Trong chuỗi trao truyền đó, đã có quá nhiều dữ kiện khiến ta không thể
chấp nhận được giả thuyết về một tâm thức đoạn diệt, nghĩa là chỉ giới
hạn hoàn toàn trong kiếp sống này. Gần đây nhất là hiện tượng tái sinh
có chủ định của các vị Lạt-ma Tây Tạng. Không chỉ được nhiều người trực
tiếp chứng kiến, các hiện tượng này còn được ghi chép cụ thể, kèm theo
nhiều hình ảnh và có cả các đoạn phim cho phép người xem có thể kiểm
chứng được tính xác thực của sự việc. Ngoài ra, người ta cũng ghi nhận
được rất nhiều trường hợp đặc biệt của những trẻ em có khả năng nhớ lại
chính xác một số chi tiết trong đời sống trước đây của chúng. Mặc dù
khoa học hiện nay vẫn chưa giải thích được một cách cụ thể về nguyên
nhân dẫn đến những trường hợp này, nhưng việc bác bỏ những sự kiện hiển
nhiên như thế là điều không thể được.
Nhưng ngay cả trong trường hợp chúng ta không chấp nhận các sự kiện nêu
trên và nhất định tin rằng đời sống con người chỉ giới hạn trong phạm vi
của một kiếp sống, thì việc tìm ra một ý nghĩa cho sự hiện hữu của mỗi
chúng ta trong cuộc đời lại càng trở nên khó khăn hơn. Lẽ nào chúng ta
chỉ sinh ra và chết đi như một sự ngẫu nhiên? Và nếu như thế thì sự nỗ
lực hoàn thiện bản thân hay xây dựng cộng đồng nào có ích lợi gì, vì tất
cả rồi sẽ không còn ý nghĩa gì cả khi ta đã đi qua hết những năm tháng
ngắn ngủi của cuộc đời này. Chỉ cần nghĩ đến điều đó thôi, có lẽ chúng
ta đã có thể hoàn toàn mất đi tất cả những động cơ cần thiết cho đời
sống. Và như vậy, trong một chừng mực nào đó thì đây là một cách suy
nghĩ hết sức tai hại.
Trở lại với vấn đề ý nghĩa cuộc sống, hầu hết chúng ta hẳn không ai có
thể hài lòng với cái vòng luẩn quẩn “ăn để sống và sống để ăn”. Khả năng
nhận thức về cuộc sống và chính bản thân mình giúp ta thấy được nhiều ý
nghĩa và mục tiêu cao cả hơn là việc chỉ đơn thuần kiếm sống qua ngày.
Vì thế, việc đi tìm một lý tưởng cho đời sống hầu như có thể xem là bản
năng tinh thần của hết thảy mọi người. Chúng ta khó lòng hình dung được
một con người với khả năng tư duy nghiêm túc lại có thể chấp nhận một
cuộc sống không mục tiêu, không lý tưởng.
Thế nhưng, mọi lý tưởng hay quan điểm sống dường như đều phải xuất phát
từ nhận thức cơ bản nhất về chính bản thân ta, dựa trên mối quan hệ phân
biệt giữa bản thân và thế giới chung quanh. Chính vì vậy mà nhân loại
đã nảy sinh ít nhất là hai quan điểm khác biệt nhau như đã đề cập đến
trong chương trước: duy tâm và duy vật.
Những người theo quan điểm duy vật không thể bác bỏ hoàn toàn quan điểm
duy tâm, vì có những sự thật hiển nhiên đã từng xảy ra nhưng họ không
thể giải thích được. Nhưng ngược lại thì những người duy tâm cũng không
thể thuyết phục được những người duy vật, vì những gì họ tin nhận đã
không được chứng minh cụ thể bằng cái gọi là “những quy luật khách
quan”. Và do đó, tình trạng “đường ai nấy đi” trong cuộc tranh cãi bất
phân thắng bại này có lẽ sẽ vẫn còn kéo dài dai dẳng không có hồi kết
thúc.
Nhưng từ một góc nhìn khách quan và toàn diện hơn thì các quan điểm duy
tâm hay duy vật thật ra đều không giúp chúng ta giải quyết được vấn đề
quan trọng nhất của đời người, không giúp chúng ta nhận chân được ý
nghĩa thực sự của cuộc đời. Hơn thế nữa, có vẻ như việc chạy theo các ý
tưởng về duy tâm hay duy vật còn khiến cho rất nhiều người trong chúng
ta bị lệch hướng.
Đức Phật đã gián tiếp chỉ cho ta thấy sự lệch hướng này khi ngài hoàn
toàn không đề cập đến duy tâm hay duy vật mà chỉ nhấn mạnh vào sự phân
tích và nhận hiểu về chính tâm thức con người. Như đã nói, cả hai quan
điểm duy tâm và duy vật đều dựa trên ý niệm căn bản đầu tiên là phân
biệt giữa chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức. Xuất phát từ sự phân
biệt này, mọi hành vi ứng xử của ta đều hình thành xoay quanh một “bản
ngã” được xem là trung tâm điểm và quan trọng nhất. Nói cách khác, dù là
duy tâm hay duy vật thì “cái ta” vẫn là quan trọng hơn “người khác”,
vẫn cần phải được quan tâm trước tiên. Và như vậy, sự khác biệt về quan
điểm chỉ có thể dẫn đến những cung cách hành xử có phần nào đó khác biệt
nhau, nhưng về nền tảng cơ bản thì lại không có gì khác biệt.
Và cái nền tảng cơ bản được xây dựng trên quan điểm về một “bản ngã có
thật” đó chính là đầu mối của mọi sự khổ đau và bất ổn mà chúng ta luôn
tự chuốc lấy về mình. Mọi sự công kích hay gây hại nhắm đến cái “bản
ngã” đó đương nhiên được xem là đang nhằm vào ta, đang tấn công ta, và
vì thế ta cần có những phản ứng thích hợp để tự bảo vệ.
Nhưng liệu cái “bản ngã” mà ta mặc nhiên thừa nhận đó có thực sự chính
là ta? Đức Phật đã quán chiếu rõ về điều này và bằng kinh nghiệm thực
chứng của bản thân, ngài dạy rằng cái “bản ngã” đó là hoàn toàn không
thật có. Hơn thế nữa, sự nhầm lẫn cho rằng “bản ngã” đó thật có lại
chính là nguyên nhân dẫn đến tất cả những ưu phiền khổ não trong đời
sống. Trong kinh Pháp cú, đức Phật dạy rõ ý nghĩa này:
Con tôi, tài sản tôi,
Người ngu sinh ưu não.
Tự ta, ta không có,
Con đâu, tài sản đâu?
(Kinh Pháp cú, kệ số 62, bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu)
Khi ngay từ nền tảng cái “ta” đã là không có, thì làm gì có những hệ quả
tiếp theo như “vợ con của ta”, “tài sản của ta”...? Và khi tất cả những
thứ “của ta” đó vốn đã là không có, thì dựa vào đâu ta có thể khởi tâm
tham đắm, vướng mắc? Như thế, mọi ưu sầu khổ não sẽ không còn lý do để
sinh khởi, mở ra một cuộc sống ung dung tự tại mà không cần đến bất kỳ
một phép mầu hay sự cứu rỗi nào.
Tiếc thay, một chân lý sáng tỏ như thế nhưng lại có rất ít người trong
chúng ta có thể thực sự nghiêm túc nhận hiểu và làm theo. Vì sao vậy?
Đó là vì sự nhận hiểu về một “bản ngã thật có” đã ăn sâu trong tâm thức
chúng ta từ nhiều đời, nhiều kiếp, đến nỗi ta hầu như đã mặc nhiên xem
đó như một phần nhận thức không thể thay đổi! Hơn thế nữa, suy luận
thông thường của chúng ta dường như rất ít khi chạm đến những điểm vốn
là hoàn toàn không hợp lý trong sự hình thành khái niệm về bản ngã.
Như đã nói, mọi sự vật, hiện tượng đều do nhân duyên tạo thành. Cái được
gọi là “ta” đó cũng không là ngoại lệ. Nếu như khi phân tích bất kỳ đối
tượng nào của thế giới hiện tượng, ta đều nhận ra đó là sự kết hợp của
nhiều yếu tố nhân duyên khác nhau, thì khi phân tích về “cái ta”, ta
cũng có thể nhận thấy một điều tương tự.
Bằng khả năng quán chiếu sâu xa và phân tích chính xác, đức Phật đã mô
tả sự cấu thành của mỗi một chúng sinh không gì khác hơn là sự kết hợp
của 5 thành phần, được gọi là 5 uẩn (蘊 - skandha), bao gồm sắc uẩn, thọ
uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.
Chữ uẩn (蘊), dịch từ Phạn ngữ skandha, hàm nghĩa là “tích tập, chứa nhóm
lại”. Vì thế, các uẩn tự chúng đều là những “hợp thể” do nhiều yếu tố
cấu thành. Chẳng hạn, sắc uẩn là một hợp thể của những âm thanh, hình
sắc, mùi hương, vị nếm... kết hợp với các giác quan của chúng ta như
mắt, tai, mũi, lưỡi... Mỗi một yếu tố trong đó đều là điều kiện cần
thiết để tạo thành cái gọi là sắc uẩn.
Mỗi chúng sinh được tạo thành từ sự kết hợp của 5 uẩn. Trong đó, sắc uẩn
chỉ chung tất cả những yếu tố thuộc về sắc chất, như hình sắc, âm
thanh... trong khi 4 yếu tố còn lại không thuộc về sắc chất..., không
thể nhận biết qua các giác quan.
Sắc uẩn cũng bao gồm cả bản thân các giác quan như mắt, tai, mũi,
lưỡi... và đối tượng của chúng, vì tất cả đều do vật chất cấu thành. Đây
chính là những gì mà những người theo quan điểm duy vật có thể quan sát
được và chấp nhận.
Thọ uẩn chỉ các cảm thọ sinh khởi khi thân tâm ta tiếp xúc với các đối
tượng bên ngoài, như lạc thọ (cảm xúc vui thích), khổ thọ (cảm xúc khó
chịu, không ưa thích), xả thọ (cảm xúc không khổ, không vui)...
Tưởng uẩn chỉ sự nhận biết phân biệt đối với các đối tượng sau khi tiếp
xúc, như phân biệt được đó là sự vật dài ngắn, lớn nhỏ, xanh vàng trắng
đỏ... cho đến phân biệt đó là thiện ác, tà chánh... Cơ chế hoạt động của
tưởng chính là dựa vào sự truy tìm trong ký ức những hình ảnh, thông
tin... của quá khứ có liên quan đến đối tượng, rồi qua đó xác định và
khởi lên sự phân biệt.
Hành uẩn chỉ chung tất cả mọi hoạt động tâm lý hay phản ứng của tâm
thức, được sinh khởi sau khi tiếp xúc và phân biệt đối tượng, như ưa
thích, chán ghét, ngợi khen, chê bai... Hành là yếu tố phức tạp vì có
phạm vi đề cập rất rộng và có khả năng làm nhân cho các hoạt động khác
của thân và tâm, trong khi các uẩn như sắc, thọ và tưởng chỉ là những
hiện tượng hiện hữu mà không tạo nhân. Chính vì thế, hành uẩn có hai vai
trò phân biệt như sau:
Hành uẩn có vai trò là quả, khi những phản ứng của tâm thức là kết quả được tạo thành do những điều kiện, những yếu tố khác;
Hành uẩn có vai trò là nhân, khi những phản ứng của tâm thức trở thành
điều kiện dẫn đến các hành vi, hoạt động của thân, khẩu, ý. Trong ý
nghĩa này, các hoạt động của thân, khẩu và ý chính là sự biểu hiện của
hành uẩn, là kết quả sự tác động của hành uẩn.
Thành phần cuối cùng trong 5 uẩn là thức uẩn, chỉ chung công năng của
thức (sự nhận biết) được biểu hiện ở các giác quan, như ở mắt có nhãn
thức, ở tai có nhĩ thức... cho đến ý thức.
Sự phân tích toàn bộ kết cấu thân tâm của mỗi chúng sinh thành 5 uẩn là
một nhận thức khái quát hết sức quan trọng, bởi nó bao gồm được tất cả
những yếu tố thực sự tham gia cấu thành cái hợp thể chung được gọi là
“ta”, trong đó có cả các thành phần hữu hình lẫn vô hình. Hơn thế nữa,
sự phân tích này giúp ta thấy rõ rằng mọi sự biểu hiện qua tư tưởng, lời
nói và hành vi mà ta vẫn xem như là một “cái ta” có thật, tồn tại độc
lập với thế giới quanh ta, thì thật ra chỉ là một chuỗi tiếp nối những
phản ứng vật lý và tâm lý nảy sinh theo quy luật nhân quả. Tuy nhiên,
trong suốt quá trình đó, do tác dụng thúc đẩy của các phản ứng tâm như
tham, sân, si... chúng ta nảy sinh sự tác ý, hướng các ý tưởng, lời nói
hay hành vi của mình theo sự hiền thiện hay xấu ác, do đó mà tạo thành
nghiệp quả nối dài không dứt.