Những viên thuốc bọc đường
Kinh Pháp Bảo Đàn, phẩm Cơ duyên có ghi lại chuyện ngài
Pháp Đạt, xuất gia từ năm 7 tuổi, chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa. Lần đầu
tiên tìm đến lễ bái Lục tổ Huệ Năng, khi lễ lạy đầu không sát đất. Tổ
sư thoáng nhìn đã biết Pháp Đạt trong tâm có chút kiêu mạn, liền gạn
hỏi. Pháp Đạt nói: “Tôi tụng kinh Pháp Hoa đã được ba ngàn lượt!”
Tụng kinh đến ba ngàn lượt, cho dù mỗi ngày tụng được trọn một bộ (cả
thảy có 7 quyển, 28 phẩm) thì cũng phải mất đến khoảng 10 năm liên tục!
Như vậy, ắt hẳn phải thuộc lòng văn kinh; và thọ trì kinh văn được như
vậy đã có thể nói là rất chí thiết. Nhưng thái độ chưa đủ chí thành khi
lễ lạy Tổ sư và câu trả lời đầy tự mãn như trên lại chứng tỏ vị tăng này
chưa nhận hiểu và thực hành được theo đúng nghĩa kinh! Vì như chúng ta
vừa đề cập trên, chỉ riêng một phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát cũng đã dạy
ta những điều hoàn toàn ngược lại với thái độ ấy, huống chi là đã thọ
trì được trọn vẹn cả bộ kinh?
Thế nhưng, chúng ta đừng vội xem thường ngài Pháp Đạt. Kinh Pháp Bảo Đàn
cũng ghi rõ là chỉ sau một lần đối thoại trong hôm đó, ngài đã nhận
hiểu được những lời dạy của Lục tổ, khai mở được trí tuệ và trở thành
một trong những vị danh tăng của thời ấy. Liệu có mấy ai trong chúng ta
ngày nay có thể sánh được với năng lực tu tập và nhận hiểu như ngài?
Vấn đề cần lưu ý ở đây là, ngay cả khi có được sự nỗ lực hành trì rất
mãnh liệt và chí thiết như ngài Pháp Đạt: xuất gia từ năm lên bảy, tụng
đọc kinh Pháp Hoa đến ba ngàn lượt... nhưng vẫn chưa diệt hẳn được tâm
chấp ngã! Điều đó cho thấy rằng một nhận thức chân thật về bản ngã không
phải là điều có thể dễ dàng và nhanh chóng đạt đến.
Câu chuyện thứ hai tôi muốn đề cập ở đây là chuyện về Quốc sư Ngộ Đạt, được nhắc đến trong lời tựa sách Từ bi thủy sám pháp.
Ngài Ngộ Đạt là danh tăng vào đời nhà Đường của Trung Hoa, khi chưa là
Quốc sư đã từng chăm sóc một vị tăng mang bệnh ghẻ lở, toàn thân hôi
hám. Sau khi lành bệnh, trước lúc chia tay vị tăng ấy có dặn ngài về sau
nếu gặp khổ nạn hãy đến tìm ông ta ở núi Cửu Lũng, Bành Châu, thuộc
tỉnh Tứ Xuyên.
Thời gian sau, ngài Ngộ Đạt nhờ có đạo hạnh cao thâm, uyên bác kinh điển
nên được vua Đường Ý Tông vô cùng kính trọng, quyết định tôn ngài làm
Quốc sư. Trong một buổi lễ vô cùng long trọng, vua thỉnh ngài ngồi lên
tòa trầm hương cao quý nhất trước sự cung kính lễ bái của chính nhà vua
cùng với đông đảo thần dân và quan viên lớn nhỏ trong triều đình. Ngay
khi ấy, ngài Ngộ Đạt liền khởi lên một ý niệm rằng: “Chỉ có ta mới được
nhận sự cung kính đến như thế này!” Ngay khi đó, ngài thấy trong người
khó chịu, choáng ngất. Đến chừng tỉnh lại thì nơi đầu gối đã mọc ra một
cái ghẻ vô cùng đau nhức.
Đó là một cái ghẻ rất kỳ lạ, có hình dạng như một mặt người. Cái ghẻ ấy
khiến ngài đau nhức không sao chịu nỗi, mà biết bao danh y được mời đến
cũng đều bó tay không sao chữa trị được. Cuối cùng, ngài nhớ đến lời dặn
của vị tăng năm xưa, liền tìm đến núi Cửu Lũng. Quả nhiên gặp được vị
tăng ấy.
Vị tăng dạy ngài pháp sám hối và dùng nước suối nơi ấy để rửa cái ghẻ.
Nhưng ngay trước khi ngài khoác nước rửa, cái ghẻ bỗng cất tiếng nói như
người và nhắc lại mối thâm thù từ một kiếp xa xưa giữa ngài với nó.
Trải qua nhiều kiếp sống theo đuổi nhưng kẻ thù này không thể ra tay,
chỉ vì ngài luôn tu tập nghiêm cẩn, giữ gìn theo giới hạnh cao quý nên
nó không đủ sức làm hại ngài. Chỉ đến lúc ngài được mời lên tòa trầm
hương, thoáng một niệm sinh tâm kiêu mạn, kẻ thù mới nhân dịp đó mà ra
tay, khiến ngài phải chịu khổ sở vì cái ghẻ oan nghiệt. Sau khi thành
tâm sám hối và dùng nước suối nơi ấy rửa qua cái ghẻ, ngài mới được lành
lặn như xưa.
Ngài Ngộ Đạt nhân chuyện này mới soạn ra bộ Từ bi thủy sám pháp, là một
bản văn sám hối rất hay, lưu truyền mãi đến ngày nay. Pháp sám hối mà
ngài đề cập trong bản văn chính là dùng nước từ bi để rửa sạch mọi oan
nghiệt, oán thù, giống như ngài đã từng sám hối và nhờ nước suối nơi
ngọn Cửu Lũng mà rửa sạch oán thù trong quá khứ.
Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây không phải là câu chuyện ly kỳ được truyền
tụng qua nhiều đời về Quốc sư Ngộ Đạt, mà chính là cái tâm kiêu mạn mà
ngài đã khởi sinh trong chốc lát khi được thọ nhận sự cung kính lễ bái
cúng dường. Trong chúng ta, liệu có mấy ai dám sánh với Quốc sư Ngộ Đạt
về công phu tu tập cũng như đạo hạnh cao thâm? Vì thế, khi đối mặt với
những tác động chi phối của tâm chấp ngã, không thể không hết lòng cẩn
trọng.
Bài học muôn thuở được rút ra từ câu chuyện của ngài Ngộ Đạt chính là
mối tương quan giữa sự tu tập và ngoại cảnh. Một chú sa-di mới tập tễnh
vào chùa, bất cứ ai cũng có thể sai khiến được, sẽ có rất ít nguy cơ
sinh lòng kiêu mạn, vì chú tự biết là mình chẳng hơn ai trong môi trường
mới. Tuy nhiên, sau một thời gian dài tinh tấn tu tập, dần dần trở
thành một vị cao tăng thạc đức thì thái độ của mọi người chung quanh tất
yếu cũng thay đổi, ngày càng bày tỏ sự cung kính nhiều hơn. Và như vậy,
công phu tu tập càng cao, giới hạnh càng nghiêm cẩn, kiến thức càng
thông tuệ, thì người ta càng nhận được nhiều sự cung kính và xưng tụng.
Điều đáng sợ là, trong khi những sự cung kính và xưng tụng đó hoàn toàn
xứng đáng đối với người có tài năng và đức hạnh, thì đồng thời nó cũng
là liều thuốc có tác dụng ru ngủ sự tinh tấn đồng thời khơi dậy và nuôi
lớn tâm kiêu mạn, trở thành một cái bẫy cực kỳ nguy hiểm mà bất cứ ai
trong chúng ta cũng đều rất dễ rơi vào.
Tiến trình này cũng diễn ra tương tự trong cuộc sống thường ngày của mỗi
chúng ta, nhưng dường như rất ít người nhận biết. Những khi cơ hàn lam
lũ, tình nghĩa đệ huynh, bằng hữu thường gắn bó như keo sơn, luôn thương
yêu tôn trọng lẫn nhau; nhưng đến khi thành đạt, nắm trong tay nhiều
của cải, quyền lực, người ta lại rất thường trở nên xa lạ, nhạt nhẽo
tình cảm với người khác. Đó là vì “cái ta” của mỗi người luôn lớn lên
theo tỷ lệ thuận với giá trị của bản thân mà họ nhận biết được trong mối
quan hệ với những người chung quanh. Càng được người khác tôn trọng,
cung kính thì “cái ta” càng được nuôi lớn hơn, và “cái ta” càng lớn lên
thì người ta sẽ có một cái nhìn khác hơn đối với mọi người quanh mình,
thường là thiếu tôn trọng và rất dễ xem thường người khác.
Nếu như người tu hành dễ rơi vào cái bẫy của sự tôn kính lễ lạy, thì
những kẻ thế tục cũng có cái bẫy của tiền tài và quyền lực. Bởi nhìn
chung thì những thứ ấy đều khiến cho người khác phải bày tỏ sự phục
tùng, cung kính đối với ta, và điều đó tất yếu sẽ làm cho sự kiêu căng
ngã mạn vốn có của ta càng phát triển, cho đến khi nó khống chế hoàn
toàn và biến ta thành một con người khác hơn so với trước đó.
Vì thế, khi ta bắt đầu bước vào con đường đạo thì mục tiêu trước mắt chỉ
đơn thuần là học hỏi và tu tập, sao cho có thể dẹp bỏ dần những thói
xấu và hoàn thiện bản thân mình. Nhưng khi sự tu tập của ta đạt nhiều
thành tựu thì vấn đề bắt đầu thay đổi. Một mặt, ta thường tự hào với
những kết quả mà mình đã có được với sự tinh tấn nỗ lực, nhất là khi
những kết quả ấy nổi bật hơn so với nhiều người khác; mặt khác, ta cũng
dễ dàng nhận ra là những người quanh ta bắt đầu bày tỏ sự ngợi khen, tán
thán hay thậm chí là nể phục, tôn kính đối với ta, vì họ cũng thấy được
những thành tựu mà ta đã đạt được.
Cho đến đây thì mọi việc vẫn diễn ra hoàn toàn hợp lý và tất yếu, bởi
những gì ta có được là xứng đáng, vì chúng được tạo ra từ những nỗ lực
chân chánh và đúng hướng của bản thân ta. Thế nhưng, nếu ta không có sự
tỉnh táo để nhận biết được nguy cơ tiềm tàng vào lúc này, thì khả năng
rơi vào cái bẫy kiêu mạn sẽ ngày càng lớn hơn. Nói cách khác, nếu muốn
tiếp tục vững tiến trên đường tu tập thì ngay vào lúc này ta phải biết
tỉnh táo để nhận ra ngay mọi khuynh hướng thay đổi đang chớm xuất hiện
trong tâm thức.
Ta cần nhận hiểu một cách đúng thật hơn về sự tôn kính mà mọi người
chung quanh đang dành cho ta. Lấy ví dụ, khi ta tu tập đúng theo lời
Phật dạy và được nhiều người tôn kính, thì sự tôn kính đó rõ ràng có
được là nhờ vào đức Phật, người đã vạch con đường cho ta đi theo. Khi ta
giảng giải giáo pháp và được nhiều người tôn kính, thì sự tôn kính đó
là hướng về giáo pháp, vốn do đức Phật truyền dạy chứ không phải do ta
nghĩ ra. Nếu biết suy nghĩ như thế, ta sẽ chế ngự được tâm kiêu mạn ngay
từ khi nó vừa chớm phát ra.
Mặt khác, nếu ta đạt được nhiều thành công, thậm chí là những kết quả
phi thường, khiến mọi người quanh ta đều ngưỡng mộ và tôn kính, thì thật
ra những điều đó cũng không phải chỉ riêng mình ta mà có thể đạt được.
Điều tất yếu là ta phải có sự giúp sức của nhiều cộng sự, có sự thuận
lợi đến từ nhiều yếu tố liên quan... Nếu không, ta không thể đạt được
bất kỳ kết quả nào dù là rất nhỏ. Khi nhận thức về sự việc một cách đúng
thật và toàn diện như thế, ta sẽ không thấy tự mãn một cách thái quá về
những thành tựu của mình. Nhờ đó, ta sẽ chế ngự được tâm kiêu mạn.
Nhưng nếu thiếu sự suy xét tỉnh giác và nhận thức đúng đắn, ta sẽ rất dễ
dàng rơi vào con đường tuột dốc vì ngã mạn, thay vì là tiến bộ. Do sự
cung kính lễ bái của người khác, ta thường thấy mình trở nên quan trọng,
tài đức hơn người, và có vẻ như những người khác không ai có thể sánh
bằng ta được... Thậm chí mỗi khi có ai đó bày tỏ thái độ thiếu cung kính
hoặc tôn trọng không đúng mức đối với ta, chẳng hạn như chỉ tán tụng sơ
sài hơn những người khác hoặc xưng hô bằng những danh xưng không hợp ý
ta, ta rất dễ sinh ra phiền não, bực dọc...
Không những thế, khuynh hướng này sẽ ngày càng phát triển. Sự cung kính
lễ bái hoặc tán thán ngợi khen của người khác có tính chất tương tự như
những liều thuốc kích thích, muốn giữ được tác dụng thì ngày càng phải
tăng liều mạnh hơn, nhiều hơn. Nếu như lần đầu tiên được khen ngợi ta có
thể hài lòng với một mức độ nào đó, thì về sau những lời khen tương tự
như thế sẽ không còn làm ta thỏa mãn nữa. Ta cần đến những sự ca ngợi,
tán tụng có mức độ mạnh mẽ hơn, và ta cũng khát khao, thèm muốn nhiều
hơn đối với những sự ca ngợi, tán tụng như thế...
Và khi đã rơi vào căn bệnh ngã mạn, đã “nghiện nặng” đối với sự phục
tùng và tôn xưng, kính trọng của người khác, ta sẽ dễ dàng đánh mất đi
sự sáng suốt và trung thực vốn có trước đây của mình. Ta thèm muốn được
người khác xưng tụng, ngợi khen, đến mức không ngần ngại đưa ra những
đòi hỏi như thế. Thậm chí ta có thể đòi hỏi hoặc gợi ý người khác nhiều
hình thức khác hơn nữa để bày tỏ sự kính trọng đối với ta, như viết văn
thơ ca tụng, như tôn xưng ta trước đám đông, hoặc phải bày tỏ sự tôn
kính tuyệt đối những lời ta nói ra, hay thậm chí dựng cả tượng đồng để
vinh danh ta càng tốt... Nói chung, đó là một con đường tuột dốc cực kỳ
nguy hại và không có điểm dừng!
Mặt khác, hệ quả của căn bệnh trầm kha này là ta sẽ luôn tìm mọi cách để
che giấu những khuyết điểm hay lỗi lầm của mình, vì ta rất sợ những
điều đó sẽ khiến ta mất đi sự tôn kính. Trong khi việc mắc phải một số
lỗi lầm hay sai sót là chuyện rất bình thường đối với mọi con người khi
chưa đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn, thì đối với ta lại là điều không thể
chấp nhận được. Đó chính là vì ta đã nuôi dưỡng “cái ta” lớn lên quá
mức, và “cái ta” đó không cho phép ta tự mình hạ thấp hay bộc lộ sự thua
kém trước người khác, ngay cả khi đó là sự thật. Than ôi! Ta có ngờ đâu
chính khuynh hướng thiếu trung thực, che giấu lỗi lầm như thế sẽ làm
cho tâm trí ta ngày càng mê muội hơn nữa, đánh mất đi khả năng trực nhận
chân lý cũng như hoàn thiện chính bản thân mình.
Thật ra, trong cuộc sống thì những thay đổi theo khuynh hướng như trên
thường rất dễ được mọi người quanh ta nhận ra, nhưng bản thân ta lại
không mấy khi tự nhận biết! Chính vì tâm chấp ngã đã làm cho ta trở nên
thiếu sáng suốt và luôn nhìn sự vật quanh ta qua một lăng kính biến đổi
nhằm thỏa mãn đòi hỏi của nó. Với cách nhận thức biến đổi sự việc theo
hướng đó, ta dễ dàng nhận ra và thậm chí là thường khuếch đại những
khuyết điểm, lỗi lầm của người khác, vì điều đó giúp ta cảm thấy mình
tốt đẹp hơn, cao quý hơn so với họ. Ngược lại, ta không thể nhận ra hoặc
không muốn nhận ra những khuyết điểm, những yếu kém hoặc lỗi lầm của
chính bản thân mình, vì điều đó sẽ làm suy giảm sự tốt đẹp của ta đối
với người khác, sẽ khiến ta cảm thấy bị tổn thương.
Nếu so sánh với câu chuyện về Bồ Tát Thường Bất Khinh trong kinh Pháp
Hoa, ta sẽ dễ dàng nhận ra hai khuynh hướng tác động trái ngược nhau.
Trong khi sự chân thành tôn kính và lễ bái người khác có thể giúp ta
điều phục tâm ý, phá trừ chấp ngã, vững vàng trong sự tu tập, thì tất cả
những hình thức ngợi khen, xưng tán hay lễ bái mà người khác dành cho
ta lại có tác dụng hoàn toàn ngược lại, dễ dàng nuôi lớn tâm chấp ngã và
đẩy ta vào một sự suy thoái về đạo đức lẫn tinh thần.
Điều đáng chú ý nhất ở đây là, tiến trình đó luôn diễn ra một cách âm
thầm, chậm chạp nhưng vô cùng mạnh mẽ, khiến cho ta thậm chí không nhận
biết được là mình đang dần thay đổi vì chịu sự tác động của nó!
Nhưng nói như vậy không phải là đổ lỗi cho những sự ngợi khen, xưng tán
hay cung kính lễ bái... Trong thực tế, những người có tài năng, đức độ
thì tất nhiên rất xứng đáng để được ngợi khen, xưng tán... Và mỗi chúng
ta cũng cần thiết phải chân thành biểu lộ sự tôn kính, ngợi khen đối với
những người có tài năng, đức độ hơn ta, vì điều đó sẽ giúp ta phát khởi
tâm hướng thiện mạnh mẽ hơn, sẽ nỗ lực tinh tấn nhiều hơn để hoàn thiện
chính mình.
Vấn đề ở đây là, mỗi khi nhận được sự ngợi khen, xưng tán từ người khác,
ta phải luôn có sự tỉnh giác, tự giữ mình; luôn phải nhận biết rằng
những lời khen ngợi đó sẽ dễ dàng trở thành những viên thuốc ngủ bọc
đường nếu ta thiếu sự tỉnh giác. Và thật ra thì chỉ khi có thể tỉnh táo
nhận biết được như vậy, ta mới thật sự xứng đáng với sự ngợi khen, xưng
tán hay lễ bái của