Con thuyền ngược nước
Chúng ta đã tìm hiểu qua về sự cấu thành của bản ngã, hay
nói nôm na là “cái ta” của mỗi người. Từ những kết quả phân tích khách
quan, có thể thấy rõ rằng cái gọi là “ta” đó không hề có một thực thể
chắc thật và tồn tại độc lập. Tuy nhiên, sự thật là chúng ta hiện nay
vẫn đang sống với một nhận thức không đúng thật về “cái ta”, vẫn luôn
cho đó là một thực thể tồn tại độc lập với thế giới chung quanh, và là
trung tâm điểm cho mọi hoạt động của ta.
Mặc dù vậy, việc xóa bỏ nhận thức sai lầm này không phải việc dễ dàng,
bởi đó là một thói quen đã ăn sâu vào tâm thức ta quá lâu, thậm chí là
qua vô số kiếp sống. Ngay cả khi đã nhận ra được tính giả tạo và không
chắc thật của “bản ngã”, chúng ta hầu như vẫn không thể hình dung được
cuộc sống này sẽ tiếp diễn ra sao nếu như không có cái gọi là “bản ngã”
đó. Điều này như đã nói, có nguyên nhân sâu xa từ sự nhận biết không
đúng thật về “bản ngã”.
Sự cố chấp vào một bản ngã tồn tại độc lập và chắc thật, tách biệt với
thế giới quanh ta là một nhận thức sai lầm, nhưng việc phủ nhận hoàn
toàn bản ngã đó cũng là một kiểu sai lầm khác. Sự hiện hữu của “bản ngã”
này là có thật. Hơn thế nữa, những hành vi tạo tác là có thật, đang
từng ngày từng giờ tạo thành gánh nặng nghiệp lực lôi cuốn ta quay cuồng
trong luân hồi. Vì thế, ta không thể phủ nhận hoàn toàn sự hiện hữu của
một bản ngã trong ý nghĩa này.
Do đó, lựa chọn đúng đắn ở đây là cần có một nhận thức đúng thật về cái
gọi là “bản ngã”. Trong khi nhận rõ sự tồn tại và không ngừng tạo nghiệp
của “bản ngã” như một thực tế đang diễn ra, ta cũng đồng thời phải nhận
biết về bản chất giả hợp, vô thường và luôn phụ thuộc vào các nhân
duyên của cái gọi là bản ngã đó. Một nhận thức đúng đắn và toàn diện như
vậy sẽ là bước khởi đầu tối cần thiết để giúp ta đảo ngược mọi thói
quen, tập quán suy nghĩ và hành động sai lầm vốn có từ xưa nay.
Quan niệm cố chấp sai lầm về bản ngã như một chủ thể có thật và tồn tại
độc lập với thế giới chung quanh được giáo lý nhà Phật gọi là chấp ngã.
Do chấp ngã mà ta luôn có những hành vi và tư tưởng sai lầm, vì nó làm
cho ta bị cuốn hút vào khuynh hướng phải bảo vệ và bồi đắp cho cái bản
ngã của riêng ta, phải chống lại tất cả những gì ta nghĩ là có thể gây
tổn hại cho bản ngã đó. Hơn thế nữa, khi cái bản ngã đó chịu sự biến
dịch tự nhiên của vô thường, phải suy yếu đi hay thậm chí là hư hoại mất
khi các nhân duyên hòa hợp tạo thành nó đã biến đổi hoặc không còn
nữa... ta cảm thấy đó là chính ta đang suy yếu, đang hư hoại. Và điều đó
làm cho ta đau khổ vô cùng.
Như đã nói, quan niệm chấp ngã được hình thành trong mỗi chúng ta từ vô
số kiếp sống rất lâu xa về trước, đến nỗi ta luôn có cảm giác như đó là
một bản chất sẵn có của mình. Từ lúc sinh ra đời, ngay khi vừa nhận biết
về môi trường chung quanh, ta đã tức thời biết phân biệt giữa “ta” và
“người khác”, biết phản đối khi những gì “của ta” bị người khác xâm hại,
và biết vui mừng thỏa mãn khi “cái ta” được nâng niu, chiều chuộng...
Vì thế, có thể nói rằng cội gốc của chấp ngã là rất sâu xa, vững chắc,
và việc thay đổi hay xóa bỏ được nó hoàn toàn không phải là chuyện dễ
dàng.
Ta có thể hình dung sự khó khăn đó cũng giống như một người chèo con
thuyền đi ngược dòng nước xiết, bất cứ lúc nào cũng có thể bị nước cuốn
phăng đi nếu như không có sự tỉnh táo và liên tục gắng sức. Nếu nhớ lại
những câu chuyện về Quốc sư Ngộ Đạt và thiền sư Pháp Đạt vừa đề cập
trong chương trước, ta sẽ thấy rõ được sự chi phối của quan niệm chấp
ngã là ghê gớm đến như thế nào!
Quan niệm chấp ngã là nền tảng đầu tiên của đời sống thế tục, là một
trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến sự lưu chuyển của mỗi
chúng sinh trong luân hồi. Do chấp ngã mà mỗi người chúng ta luôn muốn
tự mình giương lên thật cao ngọn cờ “bản ngã” trong cuộc sống thế gian
đầy phong ba bão táp, để rồi phải không ngừng hứng chịu sự xô đẩy về mọi
hướng của những cơn gió thế gian. Một cách khái quát và hình tượng, ta
có thể dựa theo những tính chất tương đối khác biệt để phân biệt và gọi
tên 8 cơn gió mạnh của thế gian đang không ngừng lay động “lá cờ bản
ngã” của mỗi chúng ta. Người xưa gọi 8 cơn gió này là bát phong (八風) hay
bát thế phong (八世風), có thể nói là đã khái quát được một cách khá đầy
đủ về tất cả những ngoại duyên đang thường xuyên tác động đến chúng ta
trong cuộc sống.
Cơn gió thứ nhất là lợi phong, nghĩa là những ngoại duyên có lợi cho ta.
Nhưng có lợi như thế nào? Chữ lợi (利) mang nghĩa chung là lợi ích,
nhưng ở đây được dùng theo quan niệm thế tục, để chỉ tất cả những gì mà
ta ưa thích, mong muốn, như tiền bạc, của cải, áo quần, vật chất nói
chung... Và vì thế, khi ta có được những thứ ấy tức là có lợi. Chữ lợi ở
đây không chỉ đến những lợi ích chân chánh có được khi ta tu tập hay
thực hành những điều tốt đẹp.
Cơn “gió lợi” này tác động rất mạnh mẽ và có thể dễ dàng nhận thấy. Ngay
khi cảm nhận được sự “có lợi” trong một sự việc nào đó, ta có thể sẽ
lập tức thay đổi hành vi, tư tưởng cũng như lời nói của mình sao cho
không đánh mất đi sự “có lợi” đó. Điều này khiến ta dễ dàng có những
quyết định sai lầm, thiếu sáng suốt. Chẳng hạn, những người đi tìm trầm
hương đều biết rõ về mối nguy hiểm khi băng rừng lội suối, nhưng mối lợi
to lớn từ việc tìm được trầm hương đã tác động đến họ, khiến họ quên cả
sự hiểm nguy mà sẵn sàng dấn thân lên đường. Cơn “gió lợi” đã thổi họ
vào những hành trình nguy hiểm, có thể phải mất đi cả sinh mạng.
Ở mức độ gần gũi dễ nhận biết hơn, mỗi chúng ta hẳn đều đã từng gặp rất
nhiều trường hợp mà những cơn “gió lợi” đã làm cho người ta đổi trắng
thay đen, sẵn sàng quên đi mọi đạo lý nhân nghĩa thường tình, chỉ cốt để
không bỏ lỡ mất một mối lợi nào đó trước mắt. Biết bao người bán hàng
sẵn sàng nói dối để bán được giá cao, biết bao người cung cấp dịch vụ
sẵn sàng làm nhiều việc sai trái để tăng thêm lợi nhuận, và biết bao kẻ
trong đời này sẵn sàng nhắm mắt làm ngơ trước những bất công chỉ để tự
bảo vệ quyền lợi của riêng mình... Tự cổ chí kim, từ Đông sang Tây, cơn
“gió lợi” đã không ngừng cuốn hút, xô đẩy chúng ta vào những việc không
nên làm, khiến ta không ngừng lún sâu vào sai lầm, tội lỗi...
Cơn gió thứ hai là suy phong, nghĩa là những ngoại duyên làm ta hao tổn,
mất mát... Chữ suy (衰) có nghĩa là suy yếu, sút giảm đi, hao tổn, mất
mát đi những gì ta đang có. Không ai trong chúng ta muốn bị hao tổn, mất
mát cả! Vì thế, cơn “gió suy” này thổi vào chúng ta theo chiều ngược
lại. Nó không kích thích ta tìm đến cái lợi, nhưng thôi thúc ta phải
hành động theo hướng sao cho không bị tổn thất đi những gì đang có. Và
hơn thế nữa, vì sự hao tổn, mất mát là điều tất nhiên không sao tránh
khỏi trong cuộc sống, nên cơn “gió suy” này luôn thổi vào tâm thức khiến
cho ta phải cảm thấy buồn khổ, tiếc nuối những gì đã mất. Nếu như ta
thấy vui mừng hả hê khi ngoại duyên mang đến cho ta những mối lợi vật
chất, thì ta lại thấy buồn khổ, tiếc nuối khi ngoại duyên lấy mất đi của
ta những gì ta đang sở hữu. Cũng giống như “gió lợi”, cơn “gió suy”
cũng tác động vào tâm trí ta, khiến ta mất đi sự sáng suốt, bình tĩnh
cần phải có và do đó dẫn đến những quyết định hay hành vi sai lầm, mê
muội.
Cơn gió thứ ba là hủy phong, nghĩa là những ngoại duyên đi ngược lại sự
tự mãn của ta, chẳng hạn như những lời chê bai, chỉ trích, công kích...
Chữ hủy (毀) có nghĩa là hủy báng, chê bai, phỉ báng, nói xấu... Cơn “gió
hủy” là tất cả những gì xúc phạm đến thanh danh hay giá trị nhân cách
của ta, hủy hoại đi những gì mà ta tin là có thể tạo nên hình ảnh tốt
đẹp của bản thân ta trong lòng người khác. Khi bị cơn gió này thổi vào,
ta thường sẽ tức thời cảm thấy vô cùng khó chịu vì cảm giác bị tổn
thương, xúc phạm. Đối với một số người, sự tổn thương này có thể còn
nặng nề, khó chịu hơn cả những mất mát, tổn thất về vật chất. Bởi sự mất
mát vật chất trong nhiều trường hợp có thể dễ dàng được đền bù, thay
thế, nhưng sự tổn thương về danh dự hay uy tín thường được xem như là
không thể bù đắp. Và do đó, dưới tác động của cơn “gió hủy”, chúng ta
cũng có thể dễ dàng đánh mất đi sự sáng suốt và bị cuốn hút vào những
hành vi sai trái.
Cơn gió thứ tư là dự phong, nghĩa là những ngoại duyên gián tiếp thuận
theo với lòng tự mãn của ta, chẳng hạn như những lời khen ngợi, đề cao
được người khác nói về ta, khiến ta cảm thấy thích thú, thỏa mãn trong
lòng khi nghe được. Chữ dự (譽) chỉ chung những lời khen tặng, ca ngợi mà
người khác dành cho ta, thường là không trực tiếp nói ra với ta nhưng
lại tạo thành cái mà ta thường gọi là danh thơm, tiếng tốt... Cơn “gió
dự” thổi ta bay vút lên đỉnh cao của sự tự mãn, khiến ta cảm thấy mình
trở thành cao quý, tốt đẹp hơn người, và ta say mê ngây ngất với cảm
giác được người khác tôn sùng, ca tụng. Sự say mê ngây ngất này cũng làm
ta mất đi sáng suốt trong ứng xử, khiến ta trở nên mê muội và dễ dàng
mắc phải sai lầm trong mọi hành vi, quyết định của mình. Để có được
những lời khen tặng, đôi khi người ta cũng không ngại dùng đến biết bao
thủ đoạn gian dối, lọc lừa, sẵn sàng che giấu hoặc bóp méo sự thật, bất
chấp cả lương tri và đạo đức.
Cơn gió thứ năm là xưng phong, là những ngoại duyên trực tiếp thuận theo
với lòng tự mãn của ta, chẳng hạn như những lời xưng tụng, ca ngợi mà
người khác nói ra trước mặt ta, thường là vượt quá sự thật, chỉ nhằm để
vuốt ve, làm ta thỏa mãn. Chữ xưng (稱) ở đây hàm nghĩa là tâng bốc, ca
ngợi quá lời. Mặc dù vậy, khi được tâng bốc, chúng ta thường rất ít khi
nhận biết điều này. Nguyên nhân là bởi ta đang bị cơn “gió xưng” tác
động. Nó làm cho ta ngất ngây với cảm giác được đề cao, được tôn xưng,
khiến ta ngỡ rằng mình quả thực rất xứng đáng để được đề cao như vậy. Và
chính sự cảm nhận sai lầm đó sẽ nhanh chóng đẩy ta đến chỗ “mục hạ vô
nhân”, trở thành một con người cao ngạo, tự mãn đến mức xem thường người
khác. Tất nhiên, một khuynh hướng sai lầm như thế chỉ có thể mang đến
cho ta những sự suy thoái trầm trọng về đạo đức, phẩm hạnh mà thôi. Vì
thế, đây cũng chính là một trong những chướng ngại rất lớn cho sự vươn
lên hoàn thiện bản thân.
Cơn gió thứ sáu là cơ phong, là những ngoại duyên gây tổn thương tâm lý
một cách bất công cho chúng ta, chẳng hạn như những lời vu khống, công
kích hoặc phỉ báng sai sự thật. Chữ cơ (譏) mang nghĩa là quở trách, chê
bai, nhưng ở đây hàm ý là những sự chê bai không dựa trên sự thật, dựng
chuyện chỉ để nói xấu, vu khống. Khi cơn “gió cơ” này thổi đến chúng ta,
ta sẽ rơi vào trạng thái bất an vì sự bực dọc, tức tối.
Tuy nhiên, những điều gọi là “vu khống” ở đây lại thường chỉ là được
nhận thức từ phía chúng ta, bởi ta thấy đó là vô lý, là bất công, nhưng
trong rất nhiều trường hợp thì người chê bai, chỉ trích ta lại có những
chứng cứ mà họ cho là xác thực. Ngay cả khi những chứng cứ ấy chỉ là do
sự hiểu lầm thì họ vẫn thật sự tin tưởng vào đó. Vì thế, thay vì hành xử
một cách sáng suốt là phân tích để tìm ra nguyên nhân và giải tỏa sự
hiểu lầm, chúng ta lại thường chỉ biết nổi giận và trách cứ về sự “vô
lý” hay “bất công” của người khác. Đây cũng chính là một trong những tác
động của cơn “gió cơ” này: nó làm cho ta mất đi khả năng phán xét và
suy nghĩ sáng suốt.
Cơn gió thứ bảy là khổ phong, là những ngoại duyên làm ta khổ sở, không
vừa ý. Chữ khổ (苦) tuy có hàm ý là tất cả mọi khổ đau, nhưng ở đây được
dùng chủ yếu để chỉ đến những điều bất như ý, bức bách ta vào hoàn cảnh
không mong muốn, phải gắng sức chịu đựng, như đói rét, nóng bức, thiếu
thốn... Khi bị cơn “gió khổ” này thổi vào, ta cảm thấy thân tâm đều khó
chịu, bực dọc, chỉ mong sao cho hoàn cảnh đó sớm qua đi. Cảnh khổ càng
kéo dài thì sự khó chịu của ta càng tăng thêm. Vì vậy, cơn “gió khổ” đã
tạo ra một thứ ngục tù vô hình giam hãm tinh thần ta, ngăn cách không
cho ta tiếp xúc với những điều tốt đẹp của cuộc sống vẫn đang hiện hữu
quanh ta.
Cơn gió cuối cùng là lạc phong, là những ngoại duyên làm ta sung sướng,
thích thú, vui mừng. Chữ lạc (樂) mang nghĩa khái quát là vui thích, ở
đây được dùng để chỉ chung những ngoại duyên khiến ta được hài lòng
thích ý, thân tâm đều khoái lạc, chẳng hạn như được ăn ngon, mặc đẹp,
tận hưởng các thú vui...
Mới nghe qua thì cơn “gió lạc” này tưởng chừng như phải là điều rất đáng
mong cầu, bởi nó chẳng gây hại gì cho ta cả. Nhưng thật ra thì sự vui
thích, khoái trá mà ta có được từ ngoại duyên cũng chính là một trong
những tác nhân khiến ta ngày càng vướng sâu vào đau khổ. Vì sao vậy? Sự
vui thích vốn có được là vì ta đang có chỗ mong cầu, ưa muốn, nên khi
được thỏa mãn ta mới có cảm giác vui thích, khoái chí. Nhưng sự mong cầu
của ta vốn không hề có giới hạn. Vì thế, một khi nó được thỏa mãn ở mức
độ này thì lại lập tức nảy sinh một mức độ khác, và thường là cao hơn
cả mức độ trước đó. Như vậy, xét cho cùng thì chính sự thỏa mãn bao giờ
cũng nuôi lớn thêm dục vọng, và do đó mà một sự thất vọng dẫn đến khổ
đau trong tương lai là điều không thể tránh được.
Tám cơn gió (bát phong) vừa được mô tả như trên có thể nói là bao gồm
toàn bộ những điều kiện ngoại duyên tác động đến chúng ta trong cuộc
sống. Trong đó có 4 ngọn thổi xuôi (lợi, lạc, xưng, dự) theo ý ta mong
muốn và 4 ngọn thổi theo chiều ngược lại (suy, hủy, cơ, khổ), tiếp nối
thay nhau mà khiến cho ta phải thường xuyên dao động, quay quắt mãi
trong cuộc đời.
Mỗi một ngoại duyên đến với ta thường luôn thuộc về một trong số những
cơn gió ấy, hoặc cũng có những trường hợp mà cả hai, ba... cơn gió cùng
lúc thổi đến, khiến ta hoàn toàn không còn tự chủ được. Toàn bộ những
cảm xúc của chúng ta như buồn, vui, yêu, ghét, giận giữ, lo âu... thảy
đều khởi sinh từ những cơn gió ngoại duyên này. Chỉ khi nào ta an nhiên
bất động trước những cơn gió ấy thì nội tâm mới có thể an định và sáng
suốt được.
Trong cuộc sống đời thường của mỗi chúng ta, 8 cơn gió ấy thay nhau liên
tục tác động, khiến ta không một giây phút nào có thể chủ động dừng
nghỉ thân tâm, nếu như chưa thoát được sự chi phối của chúng.
Giống như một lá cờ được kéo lên cao giữa khoảng không mênh mông, tha hồ
cho gió từ bốn phương tám hướng thay nhau thổi đến, khiến cho lá cờ ấy
phải luôn luôn lay động, phất phơ về mọi hướng, không một lúc nào có thể
đứng yên.
Thân tâm chúng ta cũng liên tục chịu sự lay động của 8 ngọn gió khi “lá
cờ bản ngã” được giương lên cao, và càng lên cao thì tất nhiên là càng
phải chịu tác động của gió nhiều hơn, mạnh hơn. Mỗi một thời điểm trong
cuộc đời ta, nếu không gặp phải những ngoại duyên có lợi thì ắt là tổn
hại, không được khen ngợi thì ắt bị chê bai, không gặp điều vui thì ắt
có chuyện buồn... Nên hầu như không thể có được một giây phút nào “sóng
yên gió lặng” cả. Và từ ví dụ hình tượng này, ta cũng có thể thấy được
một điều là: khi bản ngã càng được đề cao thì ta càng phải hứng chịu
những tác động mạnh mẽ hơn từ 8 cơn gió của cuộc đời.
Nhưng suy cho cùng, 8 cơn gió ấy cũng chỉ là những tác động đến từ bên
ngoài. Nếu không có cái vật cản cụ thể là sự chấp ngã của ta để chúng
thổi vào, thì chắc chắn chúng không thể nào gây tác động. Giống như giữa
khoảng không mênh mông kia, nếu không có lá cờ giương cao đón gió thì
hẳn ta không thể nhìn thấy tác động của những cơn gió đang thổi qua đồng
trống. Cũng vậy, 8 cơn gió đời sở dĩ có thể gây tác động đến ta chính
là vì ta luôn ôm giữ quan niệm chấp ngã. Nếu ta có thể nhận ra được sự
sai lầm của quan niệm chấp ngã và buông bỏ đi thì chắc chắn những cơn
gió ấy sẽ không còn khả năng gây tác động đến ta được nữa.
Mặt khác, những cơn gió thổi không ngừng trong khoảng không kia là một
hiện tượng hoàn toàn tự nhiên. Tám cơn gió mà chúng ta đang nói đến cũng
là những hiện tượng tự nhiên xuất hiện trong cuộc đời. Chúng ta cần
phải biết cách “sống chung” với chúng chứ không thể nghĩ đến việc tránh
né hay mong muốn có một ngày chúng không còn nữa. Một khi hiểu được điều
đó và đồng thời gạt bỏ dần đi quan niệm chấp ngã, ta sẽ thấy ngày càng
ít bị chi phối hơn bởi tám cơn gió đời, tương tự như khi ta hạ thấp lá
cờ giữa đồng trống, nó sẽ ít bị lay động hơn bởi những ngọn gió thổi đến
từ tám hướng.
Nói thì dễ, nhưng việc vô hiệu hóa tám cơn gió đời chắc chắn không thể
là một việc dễ làm. Bởi như đã nói, việc phá trừ chấp ngã cũng khó khăn
như người chèo thuyền ngược dòng nước xiết, không thể xem là việc dễ
dàng. Đôi khi ta có thể ngỡ như mình đã hiểu thấu vấn đề và đạt đến sự
an nhiên bất động, nhưng rồi một trong những cơn gió kia bỗng bất ngờ
thổi đến, khiến ta bị cuốn tung đi theo chiều gió, đánh mất đi mọi công
phu tu tập đã có. Vào đời Tống của Trung Hoa, một nhà thơ nổi tiếng là
Tô Đông Pha (1037-1101) đã có lần rơi vào tình huống như thế.
Tô Đông Pha am hiểu Phật pháp, thường giao du thân thiết với thiền sư
Phật Ấn (佛印) và cùng vị này trao đổi về sở học. Thiền sư Phật Ấn là một
cao tăng thời bấy giờ, chẳng những uyên thâm về Phật pháp mà cũng rất
giỏi về văn chương. Tô Đông Pha là bậc văn tài cái thế, thường cùng ngài
Phật Ấn bàn luận về văn thơ, Phật pháp, đôi bên đều rất tâm đắc. Những
tác phẩm của Tô Đông Pha thường không chỉ là văn chương điêu luyện, ngôn
từ mỹ lệ, mà ý nghĩa cũng rất sâu sắc, hàm chứa những đạo lý thâm thúy
mà ông học được từ Phật pháp. Vì thế, ngoài thiền sư Phật Ấn ra ông cũng
ít khi tìm được người tri âm tri kỷ để giải bày hay trao đổi về những
thơ văn hàm chứa đạo vị.
Một hôm, Tô Đông Pha ngẫu hứng làm được một bài thơ hay, ý tưởng sâu xa, rất lấy làm đắc ý, nguyên văn như sau:
稽首天中天,
毫光照大千,
八風吹不動,
端坐紫金蓮。
Khể thủ Thiên trung thiên,
Hào quang chiếu đại thiên,
Bát phong xuy bất động,
Đoan tọa tử kim liên.
Tạm dịch:
Đê đầu lễ Thế Tôn,
Hào quang soi khắp chốn,
Tám gió thổi không lay,
Trang nghiêm ngự sen hồng!
Tô Đông Pha làm được bài thơ rồi, hứng chí muốn tìm người để chia sẻ,
liền nghĩ ngay đến thiền sư Phật Ấn. Khổ nỗi, ông đang Hoàng Châu, bên
bờ phía nam của Trường giang, còn chùa Quy Tông mà ngài Phật Ấn đang trụ
trì lúc đó lại nằm bên bờ phía bắc của con sông. Vì thế, ông không tiện
đến gặp thiền sư, liền chép ngay bài thơ bỏ vào phong bì niêm lại, giao
cho một tiểu đồng, dặn phải gấp rút đi thuyền sang bên kia sông trình
cho thiền sư Phật Ấn xem, trong lòng đinh ninh thế nào thiền sư cũng sẽ
hết lời khen ngợi kiệt tác này.
Mà bài thơ của Tô Đông Pha quả là hay thật, lại hàm ý rất sâu xa! Xem ra
khi làm bài thơ này, ông đã thấy biết được rằng hết thảy mọi công phu
tu tập chẳng qua chỉ là để vượt thoát sự chi phối của bát phong, tám
ngọn gió đời. Vì thế, khi xưng tán đức Phật ông đã chọn không nói đến
công hạnh nào khác mà chỉ nêu bật một câu: “Bát phong xuy bất động.”
Theo như bài thơ này mà hiểu, thì ông cho rằng bất cứ ai đã thoát khỏi
hoàn toàn sự chi phối của tám ngọn gió đời, người ấy xứng đáng được tôn
xưng là Phật. Hay nói cách khác, chỉ có đức Phật mới hoàn toàn thoát
được sự chi phối của bát phong, có thể an nhiên bất động trong mọi hoàn
cảnh.
Nhưng muốn thoát được sự chi phối của bát phong, như đã nói trên, không
có cách nào khác hơn là phải phá trừ hoàn toàn chấp ngã. Trong Thành duy
thức luận (quyển 1) có nói: “Phiền não của chúng sinh vô số chủng loại,
đều có gốc rễ nơi chấp ngã. Nếu không có chấp ngã, ắt không có phiền
não.” Dứt sạch phiền não, đó chính là Phật! Cho nên, cách hiểu của Tô
Đông Pha như vậy không phải là không có lý.
Nhưng chấp ngã có nhiều mức độ, từ thô (dễ thấy) đến tế (tinh vi, khó
thấy), nên chỗ hiểu của Tô Đông Pha tuy đúng mà chưa đủ, bởi ông chưa có
công phu tu tập để thấy được phần vi tế nhất của chấp ngã, do đó mới
ngỡ rằng mình đã thông đạt được vấn đề.
Chính vì vậy, bài thơ của ông còn có một hàm ý thứ hai. Ông không chỉ
dùng những câu trên để xưng tán đức Phật! Vì bài thơ chia làm hai khổ rõ
rệt, nên người đọc tinh ý sẽ nhận ra ngay là khổ thơ đầu (2 câu) ông
xưng tán đức Phật, còn khổ thơ sau ông hàm ý muốn bày tỏ chỗ sở đắc của
mình trong sự tu tập. Nói cách khác, nhà thơ khi ấy cho rằng mình đã đạt
được đến chỗ “bát phong xuy bất động”.
Thiền sư Phật Ấn là người uyên thâm Phật pháp, lại rất giỏi văn chương,
nên vừa xem qua đã nhận ra ngay điều đó. Ngài thầm nghĩ, người bạn này
tuy đã có chút sở đắc về Phật pháp, nhưng hiện đang bị sự kiêu mạn xô
đẩy đi lầm đường lạc hướng, nhất định cần có một tiếng chuông cảnh tỉnh.
Nghĩ rồi, ngài không nói lời nào, chỉ lặng lẽ cầm bút phê ngay vào bên
dưới bài thơ hai chữ “phóng thí” (放屁) thật lớn. Xong, ngài niêm kỹ lại
và giao cho tiểu đồng mang về.
Phóng thí có nghĩa là xả hơi trong người ra về phía dưới, hay trung
tiện, mà nói nôm na là đánh rấm. Đọc một bài thơ mà phê vào hai chữ ấy,
khác nào như ta nói “văn chương thối”! Đây không phải là chê bai nữa, mà
là miệt thị, khinh bỉ.
Tiểu đồng mang thư về trao lại, Tô Đông Pha nôn nóng hỏi: “Thầy đọc thơ
có nói gì chăng?” Tiểu đồng thưa: “Không nói gì, chỉ thấy phê vào mấy
chữ rồi đưa con cầm về.”
Tô Đông Pha trong lòng hoài nghi, lập tức mở thư, không biết thiền sư
nhận xét về bài thơ của mình như thế nào. Ngờ đâu mở ra chỉ thấy hai chữ
“phóng thí” thật lớn. Lửa giận bốc lên, khí uất tuôn tràn, trong lòng
ông thầm nghĩ: “Có lý nào lại như thế? Đã chẳng khen ngợi thì thôi, bài
thơ này có chỗ nào thô thiển đến nỗi phải phê vào hai chữ như thế! Lão
tăng này quả thật quá đáng!”
Càng nghĩ càng tức, cho đến lúc không chịu được nữa, ông nhất định phải
thân hành đến gặp Phật Ấn để hỏi cho ra lẽ. Thế là ông lập tức đi ra bến
sông, lên thuyền vượt Trường giang để đến chùa Quy Tông. Trên đường đi,
gió sông lồng lộng mà ông vẫn thấy như đang ngồi trên đống lửa, trong
lòng nôn nóng chỉ mong sao cho thuyền đi nhanh đến nơi.
Ngờ đâu, khi ông lên chùa rồi, vừa vào đến nhà khách thì vị tăng tri
khách đã lạnh lùng thông báo: “Hôm nay thầy không tiếp khách!” Hóa ra
ngài Phật Ấn đã dự liệu trước mọi chuyện, nên dặn thầy tri khách nói với
ông như vậy. Lúc này, Tô Đông Pha không còn kiềm được cơn giận, lập tức
đứng dậy xông thẳng vào phương trượng, không thèm đếm xỉa gì đến những
lời của thầy tri khách.
Vừa đến phương trượng thì ông nhận ra là cửa vào đã khép kín. Ông đùng
đùng nổi giận, vung tay lên định đập cửa, bất chợt nhìn thấy phía trên
cửa có dán một mảnh giấy lớn ghi hai câu thơ, rõ ràng là nét chữ của
ngài Phật Ấn:
八風吹不動,
一屁過江來。
Bát phong xuy bất động,
Nhất thí quá giang lai.
Tạm dịch:
Tám gió dù thổi không động,
Một “cú” vượt sông sang ngay!
Tô Đông Pha vừa đọc qua hai câu thơ ấy, như người bị dội gáo nước lạnh,
lập tức bừng tỉnh thốt lên ngay: “Ta hiểu sai rồi!” Liền lặng lẽ quay về
không nói thêm gì nữa. Từ đó ông ra công tu tập hành trì, không dám cho
rằng mình đã thấu đạt Phật pháp.
Tô Đông Pha về sau có soạn tập Đông Pha thiền hỷ, gồm 9 quyển, trong đó
quyển thứ 9 có ghi lại một số đoạn vấn đáp với thiền sư Phật Ấn. Tập
sách này được lưu hành rộng rãi trong nhà thiền và được rất nhiều người
khen ngợi. Điều này cho thấy sau khi nhận được bài học từ ngài Phật Ấn,
ông đã thức tỉnh và biết tu tập đúng hướng nên mới đạt được những kết
quả tiến bộ thực sự về Phật pháp.
Bài học mà thiền sư Phật Ấn dành cho Tô Đông Pha cũng là một bài học quý
giá cho tất cả chúng ta. Trong Phật pháp, sự nghiên cứu học hỏi tuy
không phải là vô ích, nhưng nếu không đi đôi với công phu tu tập hành
trì thì không thể mang lại kết quả lợi ích thật sự. Tô Đông Pha khi suy
xét về tác hại của tám cơn gió đời hẳn đã hiểu được hết sức thấu đáo,
nhưng lại chưa có sự thực hành chống chọi với chúng. Vì thế, thiền sư
Phật Ấn chỉ cần khơi dậy một cơn gió trong số đó cũng đã đủ để ông phải
điêu đứng, khổ não. Đến khi thiền sư đưa ra hai câu thơ “tả thực” giúp
ông nhìn lại được chính mình, ông mới biết sự cảm nhận trước đó của mình
là hoàn toàn sai lầm. Sự hiểu biết về lý thuyết không thể giúp ta chống
lại được tác hại của bát phong! Vì thế, ông mới bắt đầu chú trọng đến
thực hành tu tập và không còn tự mãn về sự uyên bác của mình nữa.
Mấy người trong chúng ta có thể được như Tô Đông Pha, biết kịp thời tỉnh
ngộ? Chỉ cần có thể được như thế, sự tu tập phá trừ chấp ngã tuy có khó
khăn nhưng không phải là chuyện không làm được. Hơn nữa, chỉ cần chúng
ta không rơi vào sự tự mãn, biết chuyên cần tu tập thì lợi ích của công
phu tu tập sẽ ngày càng tăng thêm, giúp ta có thể chống chọi một cách
vững vàng hơn. Cho dù chưa đạt đến mức “bát phong xuy bất động”, nhưng
cũng không đến nỗi bị chúng cuốn đi tan tác và đánh mất hoàn toàn sự tự
chủ của bản thân mình.
Và như đã nói, sự phá trừ chấp ngã cũng khó khăn như kẻ chèo thuyền
ngược dòng nước xiết, chúng ta không thể không liên tục nỗ lực, bởi chỉ
cần một chút biếng nhác buông lơi là sẽ lập tức bị cuốn trôi theo dòng
nước.
Tuy nhiên, ta cũng có thể mô tả theo một cách khác để vấn đề được hình
dung tích cực hơn. Quan niệm chấp ngã của chúng ta giống như một gốc cây
đại thụ đã lâu đời, nếu ta tiếp tục nuôi dưỡng, nó sẽ ngày càng cao to
hơn nữa. Nhưng nếu ta nhận hiểu được vấn đề, không còn chăm bón tưới tẩm
cho nó nữa, lại dùng búa rìu chặt vào từng nhát để đốn hạ, thì cho dù
chưa thể đốn ngã nó ngay nhưng trước mắt cũng đã làm cho nó ngưng không
còn phát triển, và còn bị ta ngày ngày đẽo gọt cho suy yếu đi, thì chắc
chắn rồi cũng sẽ có một ngày nó hoàn toàn bị ta đốn ngã.
Như vậy, ta phải đẽo gọt cây đại thụ chấp ngã như thế nào? Hãy thường
xuyên quán chiếu về tính chất giả tạm và vô thường của chính bản thân ta
và thế giới quanh ta, cũng như sự giả hợp của năm uẩn tạo thành “cái
ta” tạm bợ này. Không có gì là chắc thật, bền lâu! Tất cả đều do các
nhân duyên hòa hợp tạo thành, mà bản thân các nhân duyên đó vốn luôn
biến đổi, không có gì bền chắc, nên ta không thể tìm thấy bất kỳ điều gì
thật sự bền chắc trong thế giới nhân duyên giả hợp đó.
Với sự quán chiếu thường xuyên như thế, ta sẽ bắt đầu tỉnh táo nhận ra
được những tác động của quan niệm chấp ngã đối với mỗi một tư tưởng, lời
nói và hành vi của ta. Khi nhận biết được như thế, ta sẽ bắt đầu có
được sự tự chủ nhiều hơn trước khi quyết định làm bất cứ điều gì, thay
vì chỉ hành xử theo một quán tính từ lâu đời, theo khuynh hướng bảo vệ
và vun đắp cho một bản ngã vốn là không thật.
Sự quán chiếu thường xuyên về vô thường và vô ngã cũng giúp ta dập tắt
hoặc ít ra cũng làm giảm nhẹ đi sự say mê và hứng khởi đối với những đối
tượng trần cảnh. Không có sự say mê và hứng khởi đó, ta sẽ không bị lôi
cuốn vào sâu hơn trong thế giới của ngũ dục, và do đó cũng không chịu
nhiều tác động của bát phong. Khi ta không tham đắm nhiều đối với tiền
bạc, của cải, thì những cơn gió lợi, suy không thể xô đẩy, lay chuyển
được ta; khi ta biết xem danh vọng thế gian là bọt bèo giả tạm, thì
những cơn gió hủy, dự, xưng, cơ đối với ta cũng không còn chiếm được tầm
quan trọng; khi ta biết rằng mọi sự việc trong thế gian này đều vô
thường, thoạt có thoạt không, thì những cơn gió khổ, lạc đối với ta cũng
không có nhiều tác dụng...
Tuy nhiên, điều quan trọng nhất cần phải luôn ghi nhớ vẫn là bài học của
Tô Đông Pha mà chúng ta vừa nhắc lại ở trên. Mọi sự thuyết lý vẫn chỉ
là lý thuyết, và nội lực của chúng ta có được vững vàng hay không luôn
tùy thuộc vào sự thực hành tu tập chứ không phải là sự am hiểu lý thuyết
suông.