I. CÔNG DỤNG CỦA LỜI NÓI.
Lời nói
thường có hai công dụng:
- Lời nói biểu hiện nội tâm
- Lời
nói là phương tiện để giao tiếp.
1. Lời nói biểu hiện nội tâm.
Khi
nghe một người thốt lên lời nói, chúng ta có thể biết được quan điểm, đạo đức,
cá tính, sở thích cũng như trình độ, trí tuệ…của họ. Nhưng tìm hiểu lời nói dưới
góc độ Tâm lý Đạo đức không phải chỉ để chúng ta nhận xét, đánh giá người khác
mà còn để đánh giá được chính mình.
Trước hết, qua lời nói, cách nói,
chúng ta có thể hiểu đựơc quan điểm của người đối diện. Chẳng hạn, khi chúng ta
nói chuyện với họ về tôn giáo, về tâm linh, về Nhân quả, họ tỏ ra không quan tâm
lắm, cũng không tranh cãi điều gì. Nhưng khi có dịp, họ chỉ nói toàn những vấn
đề về kinh tế, khoa học - kỹ thuật, chúng ta biết ngay người này không có khuynh
hướng về tín ngưỡng, về tâm linh.
Hoặc qua lời nói, chúng ta có thể đánh
giá được Đạo đức của người khác. Thông thường, khi đã tu dưỡng Đạo đức được một
thời gian dài, chúng ta trở nên sắc bén hơn trong việc nhìn nhận và đánh giá
người khác. Vì đã trải qua không ít những sai lầm trong cuộc sống và biết quá rõ
về mình nên chỉ cần người khác có những biểu hiện rất nhỏ, chúng ta cũng có thể
biết ngay họ là người như thế nào. Nhưng chúng ta phải hiểu, không phải biết để
phê phán mà để thương yêu và thông cảm. Nếu có điều kiện, có duyên, chúng ta còn
giúp họ vượt qua những lỗi lầm mà họ phạm phải. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng,
khi bước ra làm việc Đạo, chúng ta rất cần dựa vào lời nói để đánh giá người
khác. Trong quá trình giao tiếp, nhờ vào lời nói, chúng ta có thể nhận xét được
người khác và công việc sẽ dễ dàng hơn. Đó là vấn đề thuộc về bản lĩnh làm việc
và chúng ta sẽ khai thác trong một dịp khác. Bây giờ, chúng ta chỉ tìm hiểu lời
nói trong việc tự đánh giá chính mình. Trong cuộc sống, có những điều khi đã
buột miệng nói ra, chúng ta mới giật mình nhận ra đó là lời nói sai và tự trách
mình sao lại nói những điều sai lầm như vậy. Rõ ràng, nhờ vào lời nói, chúng ta
có thể kiểm soát được tâm mình, ngăn chặn được nghiệp bất thiện và tăng trưởng
được Tâm thiện.
Ví dụ, khi nghe người đối diện thốt lên lời thô tục,
thiếu văn hoá, có thể chúng ta sẽ xuất hiện hai cách phản ứng: nguyền rủa người
ấy hoặc cảm thấy tội nghiệp họ. Nếu trong tâm ta phát ra lời nguyền rủa người
ấy, chúng ta là người không có Đạo đức, không có tâm Từ bi. Chúng ta phải hiểu
rằng, tâm Từ bi không chỉ dành để thương yêu con người khi họ lâm vào cảnh khổ
mà phải thương ngay cả lúc họ gieo nhân xấu. Trước lỗi lầm của người khác, chúng
ta sinh tâm bực bội quá đáng, thậm chí ghét bỏ nguyền rủa họ là chúng ta thiếu
Từ bi, gây nên ác nghiệp. Khi đã lỡ lời, chúng ta phải ăn năn, sám hối để chuộc
lại tội lỗi của mình. Nếu khi nhìn vào Nhân xấu rồi nghĩ đến Quả báo xấu của một
người và thấy thương họ hơn vì sống mà không biết nhân quả, tội phước, đó là
chúng ta có tâm Từ bi. Như vậy, qua một lời nói trước một vấn đề, chúng ta có
thể đánh giá được Đạo đức, đánh giá được Tâm của con người. Hiểu được điều này,
chúng ta sẽ không nói những lời ác độc.
Những cá tính, sở thích hay
những thói xấu, lòng ham muốn…còn đang tiềm ẩn trong con người cũng dễ được bộc
lộ ra qua lời nói. Trong lúc nói chuyện, nhiều khi vô tình, chúng ta đã để lộ ra
những điều xấu còn tiềm ẩn trong tâm mình. Chính nhờ vào những lời nói vô tình
đó, chúng ta có thể phát hiện và loại bỏ những thói xấu, những ham muốn tầm
thường mà trước kia ta chưa biết.
Lời nói cũng thể hiện được trí tuệ của
con người. Nhờ lời nói, chúng ta biết được trình độ, trí tuệ của người đối
diện. Ví dụ, khi trở thành Thầy, làm Giáo thọ, Giảng sư hay Trụ trì, có người
đến chùa hỏi: “ Tại sao tôi tu lâu mà không tiến bộ?”, chúng ta phải trả lời như
thế nào? Mỗi người có thể trả lời một cách theo quan điểm của mình nhưng câu trả
lời có trí tuệ là: “ Do thiếu Công Đức”. Vì đây là câu trả lời có thể giúp đỡ
người khác hiểu được vấn đề và biết tu như thế nào cho đúng.
Công Đức
bao gồm Đạo đức và Phước. Nếu Công Đức chưa đủ, người tu phải tạo thêm Công Đức
bằng cách cố gắng tu dưỡng Đạo đức và làm việc Phước. Tuy nhiên, trả lời như vậy
vẫn chưa sâu sắc vì mỗi người đều có nghiệp riêng. Chúng ta phải chỉ rõ được
nghiệp của họ: đố kỵ, ích kỷ, khoe khoang, kiêu mạn hay giải đãi… Có người tu
không tiến bộ vì họ ít bố thí quá, sống hẹp hòi quá. Với những người như vậy,
chúng ta khuyên họ phải biết buông xả, đừng chấp giữ vật chất vì vật chất là vô
thường. Bố thí giúp đỡ người khác sẽ tạo thành Phước trong tâm. Có người thiếu
công đức lễ Phật nên tu không tiến bộ. Chúng ta khuyên họ phải cố gắng lễ Phật.
Có người vì khoe khoang, tu được điều gì cũng đem nói cho mọi người biết nên mất
hết Phước, không còn hạnh Kín đáo nữa. Người ấy tu cũng không tiến bộ. Vì vậy,
chúng ta khuyên họ phải kín đáo. Hoặc có người sống hay đố kỵ với người khác,
thấy ai thành công cũng tỏ ra ganh ghét nên việc tu hành của họ không tiến bộ
được. Với loại người này, chúng ta lại khuyên đừng đố kỵ, phải cố gắng tập hạnh
tùy hỷ với người khác vv…
Nhưng điều quan trọng là làm sao khi nhìn vào
mỗi người, chúng ta biết được Nghiệp của họ để có những lời khuyên sâu sắc, hợp
lý ?
Nhiều khi người hỏi câu ấy là một người hoàn toàn chưa quen biết
nhưng chúng ta phải nhìn thấy ngay được cái nghiệp của họ để trả lời cho có trí
tuệ. Đây là cái khó của người Thầy. Nếu chỉ dựa vào kinh nghiệm trong đời sống
tu tập của mình thì chưa đủ. Vì có những “bệnh” người ta có mà chúng ta hoàn
toàn không có. Như vậy, chúng ta cần dựa vào những cái họ bộc lộ ra bên ngoài
qua lời nói. Tất nhiên, phải có mối quan hệ gần gũi với người ấy, chúng ta mới
đánh giá được cá tính, nội tâm của họ qua lời nói cũng như việc làm.
Còn
trường hợp người hỏi điều đó chưa hề sống gần gũi với mình mà chúng ta vẫn biết
được là nhờ vào quá trình tu hành của mình. Vì nhờ tu tốt, tâm linh phát triển,
trực giác phát triển, chúng ta có thể biết được nội tâm của người khác. Nhưng
phải hiểu một điều là chúng ta biết để giáo dục người chứ không phải để khoe
khoang. Phật gọi điều này là giáo hóa thần thông. Nghĩa là thần thông dùng để
giáo hóa, không phải thần thông dùng để làm điều lạ. Có được điều này không phải
dễ nhưng đã theo con đường của đạo Phật, ai cũng cần phải có một chút trực giác.
Nhờ trực giác, khi người ta đến với mình, chúng ta sẽ biết quan tâm, đối xử với
họ đến mức độ nào để giúp họ gỡ cái nghiệp mà họ đang gánh nặng. Không phải lúc
nào chúng ta cũng dạy được người khác, nhưng biết người ta nặng nghiệp ở chỗ
nào, khuyên họ xoáy vào chỗ đó để dễ vượt qua cũng là điều rất cần thiết. Mặt
khác, trả lời người khác một cách chính xác cũng thể hiện được trí tuệ, trình độ
tu tập của người Thầy.
Với những câu hỏi đơn giản như vậy, chúng ta có
thể theo trực giác trả lời để giúp họ tu tập được tiến bộ.
Trường hợp khi
được hỏi những câu thuộc về đạo lý, sâu sắc hơn, chúng ta phải có trí tuệ rất
cao mới trả lời được. Có một Thầy kể lại câu chuyện có thật mà mình gặp phải,
chúng ta nghe để thấy rằng, trả lời đúng một câu hỏi lắt léo của Phật tử không
phải là chuyện đơn giản. Một lần, người ấy ngồi nói chuyện với một nhóm Phật tử,
trong đó có một người có khả năng kiến giải rất cao. Anh ta kể về trình độ tu
tập của mình khiến ai cũng nể phục. Mặc dù chỉ là cư sĩ nhưng anh ta đã từng
ngồi thiền Yoga và có được sự đốn ngộ như một nhà Thiền. Trong nhóm Phật tử,
người hỏi câu này, người hỏi câu kia, chỉ có anh ta là nói nhiều hơn cả để chứng
tỏ mình là người có kiến giải đặc biệt trong đạo Phật. Quả thật, những điều anh
nói đều rất sắc bén. Trong lúc nói chuyện, bất ngờ anh quay sang hỏi vị Thầy một
câu:
- Thưa Thầy ! Không biết tại sao khi nhìn mặt ông bà già bảy tám
mươi tuổi, tôi vẫn thấy họ nhỏ hơn tôi nhiều?
Câu hỏi ấy không phải dễ
trả lời. Nhưng anh ta vừa dứt câu hỏi, ông Thầy ngồi đó đã trả lời ngay : “Kiếp
trước anh tu làm Tiên trường thọ sống đến hai, ba trăm tuổi nên ông bà già bảy
tám mươi tuổi đối với anh vẫn còn là trẻ con”. Ngay lúc đó, một người bạn anh ta
mới nói tên của anh ta là Nguyễn Thọ Trường. Lúc này, anh ta mới tiết lộ : Từ
khi còn là cậu bé bảy, tám tuổi, anh đã biết được phép tu tiên, đã luyện Yoga,
luyện khí công rất thành công. Anh có thể nhập Định giữ không cho mạch nhảy,
không cho tim đập. Nghĩa là mức độ luyện khí công, luyện các phép tu Tiên của
anh khá thành công. Đây cũng là dấu hiệu cho thấy kiếp trước anh đã luyện thành
công nên bây giờ gặp lại phép đó, anh đã tu rất sớm và rất thành công. Và kiếp
trước anh tu làm Tiên trường thọ nên bây giờ, cái nghiệp đã rơi vào tên của anh
là Nguyễn Thọ Trường.
Thực ra, ông Thầy mới gặp anh ta lần đầu, không hề
biết những chuyện ấy, nhưng không hiểu sao lại trả lời đúng, lại giải thích được
một vấn đề anh ta còn băn khoăn khiến anh ta rất nể phục. Từ đó, hình như cái
ngã của anh ta lắng xuống, anh ít nói hơn, biết lắng nghe hơn. Câu trả lời như
vậy là có trí tuệ. Tất nhiên, đó không phải là câu trả lời duy nhất. Có thể một
người khác cũng hỏi câu tương tự như vậy nhưng trường hợp này không phải do tuổi
thọ lớn hơn mà có khi do đời trước họ từng làm vua. Vì đứng trước ông vua dù còn
rất trẻ, một ông già bảy, tám mươi tuổi cũng phải quỳ.
Như vậy, không
phải trường hợp nào cũng giống trường hợp nào, chúng ta phải có cách trả lời cho
phù hợp. Trong việc giáo hóa hay giao tiếp, chúng ta sẽ đối diện với nhiều đối
tượng, nhiều trường hợp khác nhau. Nếu trả lời một cách sâu sắc, chúng ta sẽ
giúp người khác có niềm tin vào Phật pháp, có hướng đi đúng đắn và có sự tinh
tấn trong cuộc sống cũng như trong việc tu hành.
Đặc biệt, khi tiếp xúc
với người khác, chúng ta phải dùng lời nói giúp người tin sâu Nhân Quả. Vì luật
Nhân Quả chi phối mọi mặt trong đời sống cũng như sự tu hành. Nếu dựa vào đó để
giải thích, chúng ta sẽ ít bị sai lầm. Có Phật tử từng là đệ tử của một vị Thầy
khá nổi tiếng đã tâm sự với một Thầy khác rằng: “Thầy của con không đi sâu vào
Nhân Quả mà nghiêng về tâm lý học, xã hội học. Ông thường dùng những lý luận của
tâm lý xã hội để giải thích nhưng áp dụng vào cuộc sống lại không thích hợp. Khi
nghiên cứu về Nhân Quả, con thấy hợp lý hơn, tâm con yên hơn và dễ chấp nhận
hơn”. Đây là một lời tâm sự rất chân thành. Những điều mà người Phật tử ấy nhận
xét là có cơ sở. Bởi vậy, chúng ta hiểu sâu Nhân Quả để hướng dẫn, giáo hóa sẽ
đem lại nhiều lợi ích cho chúng sinh.
Và như vậy, chúngta có một phương
pháp tu khá hay là luôn luôn quan sát lời nói trước khi phát ra. Đó là Chánh
niệm trong lời nói. Trước khi nói, chúng ta phải kiểm soát xem mình sắp nói ra
điều gì. Có nhiều người, khi được người khác hỏi đến, không bao giờ suy nghĩ mà
vội vàng trả lời ngay nên không kiểm soát được tâm mình. Nếu có trí tuệ đi
trước, chúng ta sẽ biết mình nên nói điều gì và nói điều gì trước, điều gì sau
để tránh khỏi sai lầm.
Ví dụ, khi nghe người khác khen một Thầy nào đó
học giỏi, luôn luôn được điểm cao, chúng ta suýt buột miệng nói: “ Chắc có cảm
tình riêng với Giáo thọ nên được điểm cao chứ giỏi giang gì”. Nhưng nhờ sự tỉnh
giác, kiểm soát trước lời nói, chúng ta đánh giá được ngay đó là lời hàm ý chê
bai và được xuất hiện từ tâm đố kỵ nên không thốt ra. Chúng ta biết rằng, tâm đố
kỵ rất nguy hiểm, người còn tâm đố kỵ sẽ tạo nên nhiều nghiệp khủng khiếp sau
này. Như vậy, nhờ đánh giá trước lời nói, chúng ta giữ lại được những lời nói
không hay nên tránh tạo thành nghiệp. Đồng thời, chúng ta cũng biết trong tâm
mình còn sự đố kỵ và quay về lạy Phật sám hối để vượt qua.
Chúng ta
tuyệt đối không nói lời đố kỵ, chỉ trích mà chỉ nên hoan hỉ khen điều tốt của
người. Khi nghe ai khen người khác, chúng ta nên vui mừng thật sự và cũng bày tỏ
sự khen ngợi, cảm phục của mình. Ví dụ, nghe một người khen một vị Giảng sư rất
nổi tiếng, làm được nhiều việc tốt cho Phật pháp, chúng ta dựa vào Nhân Quả và
khen rằng, có lẽ vị này đã có Công đức trước đó rất lớn, có nhiều hạnh tốt ở
trong tâm nên có một sự thành công như vậy. Người ấy chỉ giảng những giáo lý cơ
bản, không có gì sâu sắc nhưng lại được nhiều người nghe và khen ngợi, chắc chắn
người ấy phải có đức, có phước gì đó rất lớn. Khen được như vậy, trước hết tâm
chúng ta phải biết hoan hỷ.
Khi nghe người khác tài giỏi, thành công,
chúng ta phải vui mừng. Đây là điều người tu chúng ta nên lưu ý. Trong cuộc
sống, người đời hay có bệnh ganh tị nhau như con gà ghét nhau tiếng gáy. Nhưng
là người tu, chúng ta phải vượt qua được điều đó. Có thể rồi chúng ta sẽ làm
nhiều việc cho Phật pháp, khi làm việc cho Giáo hội, khi đi dạy cho Phật tử, cho
Tăng Ni... nhưng nghe ở đâu có người giảng hay, chúng ta phải thực sự vui mừng.
Vì trong đạo Phật, có được nhiều người giảng hay như vậy, nhiều chúng sinh sẽ
được hoá độ.
Nói tóm lại, chúng ta phải kiểm soát lời nói của mình. Muốn
nói điều gì, chúng ta phải nhìn trước lời nói đó và khi thốt ra lời, phải thong
thả, chậm rãi, trầm tĩnh.
Chúng ta biết, lời nói là biểu hiện của nội
tâm. Nhưng cũng có những trường hợp lời nói và nội tâm trái ngựơc nhau. Đó là
trường hợp nói không thật tâm hay còn gọi là giả dối. Ví dụ, trong lòng ghét cay
ghét đắng người nào đó nhưng vờ nói thương. Hoặc ghét người nhưng không dám nói
thẳng rồi nói xấu sau lưng. Hoặc không có đạo đức nhưng làm ra vẻ đạo mạo để mọi
người tôn trọng vv… Người tu chúng ta không nên rơi vào trường hợp này, cần sống
buông bỏ, không giận ghét bất cứ ai và nghĩ như thế nào, nói như thế đó. Người
chân tu phải chân thật, thẳng thắn nhưng khả ái, dịu dàng không thô tháo, không
nói nặng lời để làm mất lòng nhau. Lời nói phải có ái ngữ.
Tại sao người
tu phải sống chân thật ? Vì không thích ai đó nhưng cứ giả vờ nịnh hót, nói ngọt
để lấy lòng họ, chúng ta sẽ trở thành con người hèn hạ. Đó là lối sống của kẻ
tiểu nhân. Người đời sống theo đạo Nho, đạo làm người quân tử cũng tránh lối
sống giả dối như vậy( trừ một số trường hợp). Cho nên, là người của đạo Phật, đi
tìm danh vị Thánh, chúng ta không bao giờ được sống luồn lách, dối trá. Mỗi
người phải sống thật như chính tâm hồn mình.
Không những lời nói biểu lộ
nội tâm mà giọng nói cũng biểu lộ nhiều điều. Có những điều qua lời nói chúng ta
không nhận ra được nhưng giọng nói lại biểu lộ rất rõ. Bởi vậy, khi đánh giá một
người, nhiều khi không cần nghe họ nói điều gì, chúng ta chỉ cần nghe giọng nói
họ như thế nào. Giọng nói của con người thường biểu lộ hai điều: Phước và Đức.
Phước là cái nhân quả họ đã gieo. Đức là những tính tình của họ.
Nếu
nghe một người có giọng nói vang ấm, trang trọng, chúng ta biết đó là người giàu
có, thậm chí là người nổi tiếng. Trong đời sống, có những người tuy khỏe mạnh
nhưng giọng nói lại yếu ớt. Những người như vậy thường có cuộc sống nghèo khổ
hoặc chết sớm. Người có giọng nói không rõ ràng là người vị kỷ, nham hiểm. Người
có giọng nói nghe chát chúa, khó ưa là người có tính tình hung dữ và thô tháo.
Người này hay nói những điều làm mất lòng người khác. Trong khi đó, không ít
người có giọng nói rất êm ái, rất chuẩn. Đó là những người có tâm Từ bi. Vì xuất
phát từ lòng từ bi, thương yêu nên khi nói với người đối diện, người ấy như đang
chan rải tình thương. Gặp những người như vậy, chúng ta rất dễ có cảm tình. Một
khi đã có tâm từ, chắc chắn họ đã làm nhiều việc phước nên những người này cũng
là người giàu có tuy không nổi tiếng, không có uy quyền. Còn trường hợp giọng
nói êm nhưng chưa chuẩn, nghĩa là Tâm từ mới xuất phát, có thể người này chưa
giàu vì Nhân mới gieo, Quả chưa đến. Có người nói giọng êm nhưng uốn éo. Đây là
người có tâm đa tình, đa cảm. Người này thường yếu đuối, thiếu lập trường. Ngoài
đời, chúng ta thấy nhiều người lẳng lơ, lăng nhăng cũng có giọng kiểu này. Không
ít người trong cuộc sống gặp nhiều điều rắc rối, phức tạp cũng vì giọng nói ngọt
ngào, êm ái mà đa tình ấy.
Có những trường hợp, giọng nói biểu lộ được
cá tính, nội tâm của con người rất rõ. Nghe giọng nói bên trong có vẻ gì vừa dứt
khoát, cương nghị vừa êm ái, chúng ta biết đây là người vừa có đạo đức, vừa có
ý chí. Có nhiều người tướng mạo bên ngoài đẹp đẽ nhưng giọng nói không dứt
khoát, yếu đuối. Đó là người rất khó tu. Trong việc nhận xét con người, những
thầy tướng thường cho rằng giọng nói quan trọng hơn gương mặt. Ví như người có
gương mặt đẹp mà giọng nói không tốt vẫn có thể bị phá tướng. Bởi vậy, mỗi nguời
phải có ý thức sửa dần giọng nói của mình.
Nếu để ý chúng ta sẽ thấy
giọng nói cũng có những “tật” riêng. Có người nói quá lớn, có người nói quá
nhanh, có người lại nói lắp, ngọng nghịu…
Người nói quá nhanh thường là
nguời thông minh. Trong vùng não của họ có những tư tưởng phát ra rất nhanh.
Nhưng những người nói nhanh cũng biểu lộ một nhược điểm là vội vàng, hấp tấp.
Nếu biết mình có “tật” nói nhanh, chúng ta phải tập kiểm soát lời nói của mình
trước khi phát ra. Như vậy, lời nói tự nhiên sẽ chậm lại. Người có giọng nói quá
lớn thường là người không có chiều sâu, hay khoe khoang và thường là người không
có bản lĩnh. Người có giọng nói bị lắp, ngọng nghịu là người thiếu phước và gây
nghiệp xấu ở đời trước. Nói lắp (còn gọi là nói cà lăm) là trong một câu nói
thường có một vài chữ lặp đi lặp lại nhiều lần khiến câu nói không suông. Người
có “tật” nói lắp thường khó thành công trong cuộc sống.
Người ta có kể
một câu chuyện vui về người nói lắp như sau: Khi huấn luyện cho những người lính
tập nhảy dù, huấn luyện viên có dặn khi nhảy ra khỏi máy bay phải đếm một, hai,
ba…đến mười thì giật dây cho dù bung ra, từ từ rơi xuống đất. Sau khi buông dù,
huấn luyện viên kiểm lại thấy thiếu một người. Thì ra, anh ta rơi xuống bị “lệch
pha”, cũng may là rơi trên đống rơm nên không nguy hiểm. Hỏi ra mới biết anh ta
chưa đếm đến mười thì đã rơi xuống đến đất rồi. Lúc ấy mọi người mới biết anh ta
bị nói lắp, đếm đến năm, sáu bị lặp lại nhiều lần quá nên buông dù không
kịp.
Khác với nói lắp, nói ngọng là người nói phát ra phụ âm không rõ.
Ví dụ, trong một câu thơ viết về những anh chàng “ngọng”, nhà thơ Hồ Xuân Hương
có viết: Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông.
Chúng nó bảo nhau: “ ấy ái
uông”.( “thấy cái chuông”-NV)
Chúng ta biết rằng, trongVăn học cổ Việt
Nam, Hồ Xuân Hương nổi tiếng là một nữ sĩ có cá tính ngang tàng, độc đáo. Viết
những câu thơ này, bà muốn mỉa mai những anh học trò tài năng còn non kém, tài
thơ còn “ngọng nghịu” mà dám làm thơ chọc ghẹo mình.
Người nói lắp, nói
ngọng thường là người bị cái nghiệp gì đó trong quá khứ. Họ phải phải sám hối
thật nhiều trong đời này. Như vậy, căn cứ vào giọng nói, chúng ta có thể biết
được Nghiệp và Tâm mình để sám hối, sửa đổi.
2. Lời nói là phương tiện
giao tiếp.
Đây là công dụng thứ hai của lời nói. Trước kia, khi chưa có
chữ viết, chúng ta giao tiếp với nhau chủ yếu bằng lời nói. Từ thế kỷ thứ X, ta
có chữ Hán; thế kỷ XIII, cha ông ta chế ra chữ Nôm và đến thế kỷ XVII, chúng ta
sử dụng chữ Quốc ngữ với mẫu tự Latin làm phương tiện ghi lại lời nói. Nhưng
phương tiện giao tiếp chủ yếu giữa con người với con người trong cuộc sống vẫn
là lời nói. Bởi vậy, lời nói có vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên sự
tương quan giữa người và người. Chúng ta phải cẩn thận trong lời nói để tạo nên
mối tương quan tốt. Dù bày tỏ ý nghĩ của mình cho người khác nghe hay nhờ vả,
sai bảo, thuyết phục, chào hỏi…, lời nói cũng cần phải có đạo đức. Tuy nhiên,
dùng lời nói để thuyết phục người khác là một điều rất khó.
Chẳng hạn,
khi ra giáo hóa, gặp người nào đó chưa tin luật Nhân Quả, chúng ta phải dùng lời
nói có đủ sức thuyết phục để họ tin đạo lý Nhân Quả. Vì không tin luật Nhân Quả
là điều bất hạnh lớn trong cuộc đời. Khi không hiểu luật Nhân Quả, không biết về
sự quả báo, họ sẽ làm nhiều điều lầm lỗi. Để có sức thuyết phục, chúng ta phải
có đủ lý lẽ và phải nắm được trình độ của họ. Thuyết phục cho người ta làm điều
họ chưa làm, tin điều họ chưa biết, từ bỏ lối sống cũ, chuyển qua lối sống mới
và tu hành tốt hơn là điều rất khó của Giảng sư . Điều này hoàn toàn khác với
việc trình bày một đề tài cho người khác hiểu của người đi giảng ở thế gian.
Trình bày cho người ta hiểu chỉ đơn giản người trình bày hiểu sâu sắc vấn đề và
có tài ăn nói khéo léo một chút.Trong đạo, người Giảng sư không chỉ làm cho
người khác hiểu mà còn phải thuyết phục họ thay đổi cách sống. Cái sức mạnh
chuyển hóa người khác ấy phải xuất phát từ chính sự tu hành của
mình.
Trong giao tiếp, người phát ngôn luôn luôn có đối tượng tiếp nhận.
Nếu khi nói chuyện với người đối diện hoặc với hai, ba người với nhau, chúng ta
phải cẩn thận từng lời nói thì khi chuyển lời của mình thành sách, chúng ta càng
phải cẩn thận hơn. Vì chúng ta không thể hình dung bao nhiêu đối tượng sẽ đọc
sách của mình.
Cũng có trường hợp nói mà không có đối tượng, người nói
chỉ lẩm nhẩm một mình. Đó là những trường hợp đặc biệt. Người nói có vấn đề
không ổn về thần kinh hoặc có khi người bình thường ghét ai đó nhưng không dám
nói thẳng nên lầm bầm chửi rủa một mình. Người tiểu nhân thường có tính xấu
đó.
Sở dĩ chúng ta phải cẩn thận từng lời trong khi nói vì nếu lỡ nói
lời không hay, xúc phạm đến người khác, chúng ta sẽ làm đổ vỡ tình cảm. Mà tình
cảm một khi đã đổ vỡ thật khó hàn gắn lại nguyên vẹn như xưa. Người ta thường
nói : “Mọi sự chắp nối, dẫu tinh vi cũng còn dấu vết”. Ông bà ta cũng từng nói
một câu rất chí lý: “Ly nước đổ ra hốt lại sẽ không đầy”. Nếu trong lúc nóng
nảy, lỡ nói những lời càn dở, sau này chúng ta có ân hận cũng không kịp nữa. Bởi
vậy, tốt hơn hết, chúng ta phải cẩn thận, đừng nói lời quá nặng, xúc phạm đến
người khác. Trong cuộc sống, chúng ta luôn nhớ một điều:
“Vết dao đâm có
thể lành thương tích.
Lời nói đâm nhau, hận một đời”.
Trong khi
nói chuyện, chúng ta nên khen điều tốt của người hơn chê bai, chỉ trích. Vì sao
như vậy? Vì lời chê bai, chỉ trích thường làm buồn lòng người khác và gây nên
sự bất hòa. Hơn nữa, theo luật Nhân Quả, nếu chê ai điều gì, chúng ta sẽ bị quả
báo, sẽ mắc những điểm xấu giống như vậy. Ngược lại, nếu khen điểm tốt của
người, chúng ta sẽ được những điều tốt ấy. Bởi vậy, trong giao tiếp, chúng ta cứ
nhìn vào ưu điểm của người khác để có lời khen ngợi, đừng bao giờ chỉ chăm chăm
vào những điểm xấu của họ.
Trong lời nói còn có một “bệnh” đáng để ý nữa
là nói nhiều. Chúng ta phải hiểu rằng, giá trị của lời nói nằm ở ngay trong việc
làm của chúng ta. Hay nói cách khác, việc làm chính là cái gốc giá trị của lời
nói. Liên hệ đến Kinh tế học, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn điều đó. Như chúng ta đã
biết, đồng tiền lưu hành có giá trị là nhờ có cái gốc của nó. Mỗi quốc gia
thường có một cách xác định giá trị của đồng tiền. Chẳng hạn, có quốc gia dùng
vàng để xác định giá trị đồng tiền. Họ quy định một lượng vàng bằng một trăm
đồng chẳng hạn. Muốn phát hành tám tỉ đồng cho lưu hành ra ngoài, trong kho bạc
Nhà nước, họ phải dự trữ một số vàng tương ứng. Như vậy, đồng tiền lưu hành ra
ngoài có giá trị là nhờ vào số vàng cất trong kho Nhà nước làm cái gốc giá trị
cho nó. Đồng tiền hoàn toàn không phải là tờ giấy đơn thuần được in ra. Nhưng
nếu một lúc nào đó, do lạm phát, kinh tế khó khăn, họ in ra hai mươi tỉ đồng.
Giá trị của đồng tiền bị giảm đi vì không có cái gốc.
Có quốc gia lại
xác định giá trị đồng tiền của nước mình dựa vào ngoại tệ mạnh ở nước ngoài như
đồng đôla của Mỹ. Một đôla, họ quân bình thành bao nhiêu tiền của nước họ. Tương
tự như vậy, số tiền phát hành bên ngoài tương ứng với số đô la họ dự trữ trong
Ngân hàng Nhà nước. Nếu có trường hợp bị lạm phát, số tiền họ in ra nhiều hơn
thì đồng tiền của họ sẽ bị giảm giá.
Từ ý nghĩa kinh tế học, chúng ta suy
ra giá trị của lời nói cũng vậy. Lời nói có giá trị là lời nói có sức thuyết
phục đối với người khác. Cái gốc giá trị của lời nói nằm ở việc làm của mỗi
người. Đó là việc làm bố thí, vị tha, thương yêu giúp đỡ người khác một cách tận
tuỵ, đối xử tử tế với tất cả mọi người… Trong cuộc sống, có nhiều người rất khéo
nói, nói rất nhiều nhưng không làm được bao nhiêu. Đó là những lời nói không có
giá trị. Chúng ta không cần nói nhiều nhưng làm tất cả mọi điều giúp đỡ người
khác, lời nói của chúng ta chắc chắn sẽ có giá trị, có sức thuyết phục mạnh
mẽ.
Ví dụ, chúng ta sống một đời bố thí, buông xả, không bao giờ giữ bất
cứ cái gì cho riêng mình. Khi nhìn thấy một huynh đệ sống ích kỷ, không bố thí
quảng đại, không buông xả, chúng ta chỉ khuyên một câu nên sống một đời buông
xả, rộng rãi bố thí, đừng giữ cái gì cho riêng mình, một câu ngắn thôi nhưng
người ấy đã hiểu ra và thay đổi. Sức mạnh của lời khuyên ấy nằm ở những việc làm
bố thí, ở cả một đời sống vị tha của chúng ta. Hiểu như vậy, chúng ta không nên
nói nhiều (cũng như đồng tiền phát hành nhiều nên mất giá trị ). Mỗi ngày, chúng
ta nên tổng kết lại mình làm được bao nhiêu việc tốt. Nếu cân đối lại, thấy mình
đã nói nhiều hơn làm việc tốt, chúng ta sẽ khắc phục hôm sau sẽ làm nhiều hơn
nói, để lời nói không mất giá trị. Hơn nữa, nói nhiều cũng là biểu hiện của
“bệnh” chấp ngã, lúc nào cũng muốn người ta phải để ý đến mình, thấy mình là
người quan trọng. Người nói nhiều không những dễ bị sai lầm mà còn làm phiền
người khác. Đây là một loại “bệnh” cần phải sửa. Hằng ngày, chúng ta phải có ý
thức sám hối, sửa chữa mới vượt qua được.
Trong cuộc sống, chúng ta gặp
không ít người rất ham nói, ham biện luận. Nhưng đó là loại người biện luận
rỗng, cố nói để thuyết phục người nghe tin vào lý luận của họ. Đó là những người
giả dối, lừa đảo mà chúng ta cần phải tránh. Theo kinh nghiệm, chúng ta thấy
người nói nhiều thường ít nói thật. Không phải tự nhiên mà khi nói với đệ tử của
mình, một vị Giảng sư đã nói: “ Muốn thuyết pháp, trước hết phải biết im lặng”.
Nghĩa là người nói phải làm chủ được lời nói của mình, làm chủ được tâm hồn
mình, sống mà không còn mong cầu điều gì hết, không còn mong cho người khác phải
tin theo mình, phải tu theo mình, không thấy mình là quan trọng nữa. Người sống
như vậy, không còn điều gì để nói hết. Họ thuyết phục người khác bằng chính nội
tâm có tu hành, từ nội tâm buông xả của mình chứ không hoàn toàn bằng lời
nói.
Sự thật, làm Giảng sư không phải là tìm cách nói cho nhiều, nói cho
hay. Trên thực tế, biết bao nhiêu người học làm Giảng sư nhưng số người nói có
giá trị, có sức thuyết phục chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nguyên nhân được tìm thấy
là do phần lớn họ không có tu tập, cuộc đời chưa trải qua những khổ đau, thử
thách; chưa có sự rèn luyện Đạo đức, chưa có những giờ phút yên lặng ngồi Thiền,
chưa có những lúc thiết tha lạy Phật sám hối vv… Nếu cứ học cho nhiều, ghi chép
thật đầy đủ, khi đi dạy đem những điều mình đã học được nói lại cho người khác
thì chúng ta chẳng khác gì cái máy. Những lời giảng của chúng ta phải thoát ra
từ nội tâm mới có sức thuyết phục người khác. Nếu cứ giảng cho mọi người rằng
hãy sống nhẫn nhục nhưng trong tâm mình chưa bao giờ thực hành điều đó, chưa bao
giờ nhẫn nhục trước nghịch cảnh cuộc đời thì làm sao những lời nói ấy có thể đi
vào tráùi tim người nghe. Ngược lại, nếu xuất phát từ trái tim, từ những đau
khổ, trở trăn, từ những giờ phút tinh tấn của chính mình thì những lời nói ấy sẽ
đi vào tâm người nghe làm cho họ chuyển hóa, bị thúc đẩyï phải tu
tập.
Trên lĩnh vực khác, chúng ta không cả quyết, nhưng nói chuyện Phật
pháp thì phải xuất phát từ trái tim biết tu tập. Ánh sáng phát ra từ trái tim ấy
sẽ thắp vào những trái tim khác cũng biết tu tập như vậy. Cứ như thế, trái tim
biết tu tập này lại thắp sáng những trái tim khác tạo thành những ngọn đèn nối
nhau từ trái tim đến trái tim.
Sức thuyết phục của lời nói không có được
do học tập mà từ sự hành trì tu tập, kiên nhẫn lễ Phật, Toạ Thiền, Bố thí, Vị
tha… Do vậy, chúng ta cố gắng tu hành, lễ Phật, ngồi Thiền, sống vị tha thương
yêu huynh đệ, chịu đựng những nghịch cảnh, dấn thân vào những việc khó khăn… để
có sức mạnh nói được những lời pháp có giá trị, chuyển hóa giáo dục được bao
nhiêu tâm hồn khác. Sức thuyết phục ấy còn được tạo nên từ nơi phước của công
quả. Câu chuyện một Ni Sư ngộ đạo nhưng không chịu nấu bếp nên không giảng pháp
được là một ví dụ. Khi đã ngộ đạo, bà bỏ ngang không chịu nấu cơm tiếp ba năm
như đã hứa. Phật hiện ra bảo: “ Nếu con không nấu cơm hết ba năm, con không
thuyết pháp được”. Bà vẫn không nghe và ngang bướng bỏ đi luôn. Quả thật, dù đã
ngộ đạo nhưng đến khi chết, bà cũng không thuyết pháp được do thiếu phước. Đây
là điều rất lạ. Chúng ta đừng tưởng mình có thể đem cái tàng thức có được từ
kiếp trước qua kiếp sau. Nếu không chịu làm phước, dù kiếp trước có là giảng sư,
đời này chúng ta cũng không thể làm giảng sư được.
Trái với người nói
nhiều, có người thốt ra lời nói thật khó khăn, không diễn tả được tâm trạng của
mình. Nguyên nhân thứ nhất là do ít học, ít viết lách nên vùng ngôn ngữ trong
não không phát triển. Muốn khắc phục được tình trạng này, chúng ta phải tập viết
thật nhiều. Viết nhiều, chúng ta có điều kiện trau chuốt câu văn, cộng thêm
những công hạnh khác, lời nói của chúng ta sẽ dễ thuyết phục. Nguyên nhân thứ
hai là do vùng não kém phát triển làm giọng nói không lưu loát. Đó là người
thiếu phước, cần lễ Phật sám hối.
Trong giao tiếp, có khi ta bắt gặp
những người có lời nói thiếu chính xác do không phán đoán được phản ứng của
người nghe. Đây là chỗ biểu hiện Trí tuệ khôn ngoan của người nói. Chưa bàn đến
vấn đề có thuyết phục trước đông người hay không, chỉ trong phạm vi trao đổi
trong từng người, chúng ta cũng nhận ra điều này. Khi nói xong một câu, chúng ta
phải hiểu người nghe phản ứng ra sao, trong tâm họ hiểu chưa. Nếu đoán họ chưa
hiểu, chúng ta sẽ lặp lại vấn đề một lần nữa. Nếu họ hiểu rồi, chúng ta có thể
chuyển sang vấn đề khác. Hoặc khi nói ra điều gì, chúng ta phải đoán được người
nghe hoan hỷ hay tự ái, buồn lòng, để kịp điều chỉnh. Khi thuyết pháp trước đám
đông, chúng ta vẫn phải đoán được phản ứng của người nghe dù rất đông. Như vậy,
lời giảng mới hấp dẫn và có hiệu quả.
II. ĐẠO ĐỨC CỦA NGÔN NGỮ.
Trong đạo
Phật, đạo đức của ngôn ngữ thể hiện ở sự ái ngữ. Mọi người phải dùng lời khả ái
dễ nghe, biểu hiện thái độ nhã nhặn, lịch sự. Người tu không được nói lời thô
tháo, cộïc cằn hay có thái độ khinh bỉ, miệt thị người khác. Lúc nào trong lời
nói, chúng ta cũng biểu lộ hai điều : thương yêu và tôn trọng. Đối xử với người
nhỏ hơn, chúng ta phải thể hiện lòng thương yêu và sự tôn trọng, không quát
tháo, nạt nộ. Đối với người lớn hơn, chúng ta cũng biểu lộ sự thương yêu và kính
trọng đúng mực. Sự thương yêu, tôn trọng ấy chủ yếu biểu hiện ở cách xưng hô hay
ở giọng nói, lời nói. Chúng ta phải xưng hô rõ ràng, hợp lý và đúng mực; giọng
điệu phải từ tốn, lễ phép, chậm rãi ; lời nói phải rõ ràng, dễ
nghe.
Không chỉ thương yêu, tôn trọng, với người nhỏ hơn, chúng ta phải
bảo bọc, phải hy sinh nhiều hơn. Chúng ta đừng bao giờ có suy nghĩ mình tu lâu
hơn, phải được hưởng nhiều quyền lợi hơn. Đó là quan niệm sai lầm, tạo nên một
định kiến, một tiền lệ không hay trong Đạo Phật. Là người tu trước, hiểu đạo
nhiều hơn, có đạo đức hơn, sức chịu đựng cũng nhiều hơn, chúng ta phải hy sinh
nhiều hơn cho người nhỏ. Đó là tư cách của người tu trong Đạo Phật.
Đặc
biệt, chúng ta không được hơn thua trong lời nói, không được bộc lộ sự khoe
khoang. Người có tâm hơn thua thường hay biểu lộ ra lời nói, muốn tranh hơn với
người khác, nhất là trong Giáo lý. Điều này sẽ làm tổn phước. Bởi vậy, chúng ta
nên nhường nhịn nhau trong lời nói. Ví dụ, khi nghe người ta nói một lời muốn
chứng tỏ họ hay hơn mình, chúng ta nên im lặng, mỉm cười. Vì chúng ta biết họ
đang có tâm hơn thua, không muốn nghe mình. Khi nào người ta muốn nghe, chúng ta
sẵn sàng trình bày những kiến giải của mình một cách chân thành. Có như vậy, họ
mới nể phục mình.
Những người mới tu thường bộc lộ sự khoe khoang, hơn
thua với huynh đệ. Họ hay bắt chước những Thiền sư trong Thiền ngữ thử kinh
nghiệm nhau, thử sức ngộ của nhau bằng cách bác bỏ lời của nhau. Nói đến Thiền
ngữ, chúng ta hay nhắc đến ngài Đại Huệ. Ông chuyên môn đặt những câu hỏi bắt bí
người khác. Ai trả lời được, người ấy thực sự là giỏi. Một hôm, có một vị Tăng
bước vào cốc của ông ta, ông hỏi :
- Không cùng vạn pháp làm bạn là
người nào?
“Vạn pháp” là mọi chuyện trên đời này: hơn thua, ganh ghét,
tình tiền… Không làm bạn với những thứ đó là ai ? Tất nhiên là người đã giải
thoát. Ông Tăng trả lời ngay :
- Kẻ không mặt mày.
Câu trả lời
cũng hay nhưng ngài Đại Huệ nói :
- Lúc nãy có một người trả lời như ông
đã bị ta đánh đuổi ra.
Nghe vậy, ông Tăng chựng lại ngay và ngờ ngợ
không biết tại sao câu trả lời hay như vậy mà bị đánh đuổi ra ngoài. Thấy thế,
ngài Đại Huệ đánh đuổi ông Tăng ra liền. Rõ ràng, vị Tăng kia nói được mà Tâm
chưa chứng được. Mới nghe ngài Đại Huệ thử một câu đã chựng lại ngay. Đọc những
câu Thiền ngữ đó, người mới tu thường hay bắt chước hỏi về Đạo, muốn tỏ ra hơn
người khác.
Một biểu hiện khác trong đạo đức của ngôn ngữ là nên khen
nhiều hơn chê. Trước khi khen ai câu gì, chúng ta phải suy nghĩ. Vì một lời khen
không đúng cũng có nghĩa như một lời chê. Nhưng trước khi chê ai điều gì, chúng
ta càng phải suy nghĩ nhiều hơn. Muốn chê trách ai, chúng ta phải có đủ đức độ.
Khi đã có đức rất lớn, chúng ta chê trách, người ta không giận mà còn tiếp thu,
sửa chữa. Nếu chưa đủ đức, chúng ta chê trách, chỉ trích người khác sẽ khiến họ
giận ghét, tạo ra tương quan không tốt giữa người và người.
Trong cuộc
sống cũng như trong đạo, khi có duyên với nhau, mỗi lời nói đều đem lại sự vui
vẻ, thú vị. Những lúc như vậy, chúng ta nên nói. Trường hợp nói mà người khác
không nghe, chúng ta đừng bao giờ nói. Phật pháp cũng như thuốc bổ vậy, đúng
liều, đúng đối tượng sẽ có lợi; quá liều, không phù hợp với đối tượng, sẽ trở
thành thuốc độc. Đây là chỗ tế nhị, chúng ta nên cẩn thận.
Mỗi lời nói
đều là sự lan truyền hoặc tốt, hoặc xấu nên khi nói, chúng ta phải nghĩ đến hậu
quả của lời nói, phải cân nhắc, thận trọng trước khi nói. Chẳng hạn, khi chê ai
một điều gì, chúng ta phải nghĩ nếu lời chê bai của mình lan ra thì hậu quả sẽ
như thế nào, ảnh hưởng đến Phật pháp ra sao…? Hoặc chúng ta nói cho người đối
diện nghe một giáo lý thì phải hình dung người đó nói lại cho người khác nghe sẽ
có lợi hay có hại cho Phật pháp. Đây cũng là điểm cần phải cẩn thận. Các vị
Thiền sư thường hay có cách phá chấp cho người trước mặt, nhưng qua người thứ
hai thì sẽ trở thành bất lợi.
Ví dụ, ngài Đức Sơn nói : “Mười phương Bồ
Tát giống như đống phân chuột”. Có thể câu nói phá chấp của ông làm cho người
đối diện ngộ đạo, nhưng lời nói ấy lan truyền tạo ra một sự ngông cuồng trong
giới những người học Thiền. Từ đó, người học Thiền thích nói bậy bạ làm tổn
phước, không còn ai tu chứng được nữa. Như vậy, chỉ một người mà gây hại cho
không biết bao nhiêu người. Trong khi đó, Đức Phật luôn nói lời có lợi cho mọi
người. Phật nói với người này nhưng nếu đem cho người khác, lời nói ấy vẫn có
ích lợi vì lời nói của Ngài luôn luôn chuẩn.
Khi có Phật tử tìm đến nhờ
giải đáp một vấn đề gì về đạo hoặc về chuyện gia đình, chúng ta phải cân nhắc
trước khi trả lời. Có thể lời khuyên của chúng ta làm cho họ tỉnh ngộ nhưng áp
dụng cho người khác lại không phù hợp, lại sai lầm. Chúng ta phải lường trước
điều này. Làm sao khi một lời nói ra dẫu có lan truyền sang người khác vẫn không
để lại hậu quả. Muốn vậy, chúng ta phải kiểm soát kỹ lời nói của mình để khỏi
mắc sai lầm.
Khi nói đến đạo đức của ngôn ngữ, chúng ta thường khuyến
khích ít nói. Tuy nhiên, có lúc cần phải nói nhiều. Đó là khi can đảm nói lên sự
thật để minh oan hay bênh vực cho những người yếu thế, giải tỏa những oan ức cho
họ. Hoặc có khi chúng ta dùng lời nói để khuyên lơn, dạy cho người khác biết
điều hay để tránh lỗi lầm. Biết người ta mắc sai lầm mà không mạnh dạn ngăn cản,
chỉ lo cho bản thân mình là chúng ta thiếu trách nhiệm đối với Phật pháp. Tất
nhiên, khi đã làm Giảng sư, chúng ta không thể nói ít được. Lúc ấy phải nói
nhiều nhưng phải nói hay và nói đúng được đạo lý, lời nói mới có ý nghĩa. Có
những lúc gặp được người tâm đầu ý hợp như tri kỷ gặp nhau, chúng ta nói chuyện
cả ngày không biết chán. Nhưng có những khi nguời ta khen mình hết lời, chúng ta
lại dè dặt, không nói gì. Nói như vậy để chúng ta hiểu rằng, không phải lúc nào
cũng ít nói, có khi cũng cần phải nói nhiều, nói cho mạnh mẽ.
Trong một
bài kinh, Đức Phật nói : “Sau 45 năm ta chưa hề nói một lời”. Nghĩa là dù nói
suốt đời mà Phật lại chẳng thấy mình nói lời nào. Đức Phật sống trong Định rất
sâu, Ngài không chấp một điều gì, Ngài có nói cũng vì chúng sinh mà nói. Thuyết
pháp 45 năm nhưng Ngài vẫn thấy mình không nói gì hết là điều rất tự nhiên,
không lý luận được. Ai từng sống trong cái Định sẽ hiểu sâu sắc được điều Ngài
nói. Thử sống trong thanh tịnh một ngày, chúng ta sẽ thấy mình làm rất nhiều
việc nhưng lại thấy như không làm gì cả. Chúng ta cần học theo Đức Phật để giữ
Chánh Niệm trong lời nói. Dù nói chuyện với người nhưng chúng ta vừa kiểm soát
được tâm mình, giữ tâm mình cho thanh tịnh để khi người ta đi rồi chúng ta vẫn
thấy mình như chưa nói gì hết. Đó là cái đạo, là con đường của Phật pháp mà
chúng ta phải đi theo. Có thể bây giờ chưa thực hiện được nhưng nếu luyện tập,
chắc chắn chúng ta sẽ làm được.
Có những trường hợp chúng ta phải nói và
dùng lời nói để cho không khí giao tiếp thêm vui tươi, nói để độ người. Điều này
nghe hơi lạ nhưng sự thật nhiều khi rất cần.Ví dụ, một vài Phật tử có chuyện gì
buồn ở ngoài vào chùa chơi cho yên tĩnh. Thấy vậy, chúng ta mời vào chùa lễ
Phật, sau đó mời qua nhà khách uống nước. Họ chẳng biết Phật pháp là gì để nói
chuyện nên cứ im lặng. Lúc ấy, nếu chịu khó một chút, chúng ta sẽ hỏi chuyện xem
họ làm việc gì, có hay đi chùa không, hay xem Kinh không? vv… Sau đó, chúng ta
có thể cho họ mượn cuốn sách mình thấy hay. Trong khi nói chuyện, chúng ta nói
nhẹ nhàng, từ ái, thong thả, nói trong sự vui vẻ, người ta cũng cảm thấy vui
vui. Hôm sau có dịp họ lại đến chùa. Nhờ vậy, họ dần dần biết Đạo, phát triển
được Đạo tâm. Đây cũng là một cách độ người. Như vậy, khi cần thiết phải nói cho
vui, đó là đạo đức của ngôn ngữ, chúng ta không cố chấp. Nhưng lúc cần phải im
lặng để mọi người niệm Phật, giữ Tâm, chúng ta không nên nói làm xao động, làm
loạn Tâm người khác. Chúng ta cần phân biệt được hai trường hợp này.
Học
bài Làm chủ lời nói nhưng điều cuối cùng chúng ta cần chốt lại là phải để Tâm
nói nhiều hơn miệng. Ví dụ, trong chúng có những người có Tâm thương yêu huynh
đệ rất mực. Từ ánh mắt, nụ cười cho đến việc làm của họ đều biểu lộ tình thương
yêu huynh đệ chan chứa nhưng họ lại rất ít nói. Khi tiếp xúc, chúng ta sẽ hiểu
và cảm nhận được ngay. Tự nhiên, trong Tâm chúng ta cũng yêu mến họ. Có người
lại nói rất nhiều, gặp ai cũng nói thương mến nhưng trong Tâm chẳng có tình
thương yêu. Khi tiếp xúc, chúng ta cũng nhận ra ngay. Bởi vậy, dù họ rất khéo
léo, nhỏ nhẹ trong lời nói, ân cần trong việc làm, chúng ta cũng cảm thấy nhạt
nhẽo, không có cảm tình.
Sống trong cuộc đời này, để Tâm nói nhiều hơn
miệng, chúng ta phải huân tập Từ Tâm thật sâu rộng. Làm sao khi mắt vừa thấy
người, Tâm Từ đã khởi phát ngay. Người ta nói, Tâm Từ bi lan đến cỏ cây vạn vật
là như vậy. Mỗi ngày ngồi Thiền, chúng ta trải Tâm Từ đến tất cả chúng sinh. Mọi
người xung quanh sẽ cảm nhận được điều đó. Ngay cả những người sống trong thế
giới vô hình cũng cảm nhận được. Trong cuộc sống cũng vậy, khi ra đường, nhìn
thấy những người xa lạ, chúng ta đều khởi Tâm thương yêu thì trong vô hình, họ
đều có cảm ứng trở lại. Họ sẽ nhìn người tu chúng ta một cách trìu mến, có cảm
tình. Ngược lại, nếu không khởi Tâm thương yêu mà tỏ ra bực dọc, người ta cũng
sẽ nhìn mình với ánh mắt khó chịu. Trong tâm, tự nhiên họ nảy ra ý mỉa mai, xỉa
xói người tu.
Đây cũng là điều rất lạ. Bởi vậy, chúng ta cố gắng tu tập
Tâm Từ cho thật mạnh. Trong bài Tâm từ , chúng ta đã nói nhiều đến vấn đề này.
Khi mắt chạm đến chúng sinh là lòng thương yêu mình khởi phát ngay. Cả một cuộc
đời, chúng ta phải sống được như vậy, phải tập được như vậy.
Một điều
chúng ta cần chú ý khi học về ngôn ngữ là các phương tiện ngôn ngữ giao tiếp
thay đổi theo thời đại. Ngày xưa, cách đây mấy ngàn năm, thời Đức Phật, người ta
giao tiếp với nhau chủ yếu bằng lời nói vì chưa có chữ viết. Người này nói,
người kia nghe và truyền lại cho người khác. Cứ thế, đời này truyền lại kinh
nghiệm sống, ý tưởng, tình cảm cho đời sau đều bằng con đường truyền miệng. Một
thời gian dài, Văn học hình thành, phát triển và lưu truyền cũng bằng hình thức
này, gọi là Văn học Dân gian. Tất nhiên, khi truyền miệng qua con đường trí nhớ
thì sẽ không giữ được nguyên vẹn những lời nói, ý tưởng ban đầu. Người ta gọi
hiện tượng này là: “Tam sao thất bổn”.
Phát minh ra chữ viết là một tiến
bộ vượt bậc của xã hội loài người. Khi có chữ viết, con người giao tiếp với nhau
phong phú hơn, tiện lợi hơn. Lúc đầu, người ta viết trên thẻ tre, sau đó là viết
trên giấy dó ( một loại giấy thô làm bằng vỏ cây), rồi giấy lụa… Chữ viết đã trở
thành một phương tiện giao tiếp quan trọng giữa con người với con người. Những
người không biết chữ sẽ cảm thấy lạc lõng giữa xã hội. Trong thời đại bùng nổ
thông tin hiện nay, không biết chữ là một thiệt thòi rất lớn của con người. Bởi
vậy, Nhà nước ta đã có chủ trương xoá nạn mù chữ, đem “cái chữ” về vùng sâu,
vùng xa; đưa ra chương trình phổ cập cấp 2 cho người dân ở các Quận , Huyện
trong thành phố vv…
Ngày nay, máy vi tính cũng đã trở thành một phương
tiện giao tiếp hiện đại, quan trọng trong đời sống con người. Vào thời điểm này,
phương tiện giao tiếp trên computer còn mới mẻ, nhưng đến một lúc nào đó, nó sẽ
được sử dụng phổ biến. Người ta nói chuyện điện thoại, gởi Fax, E-mail, Chat,
truy cập thông tin, tính toán sổ sách… đều bằng computer. Nếu ai không biết sử
dụng computer, người ấy sẽ trở nên lạc hậu, sẽ đứng ra ngoài xã hội.