1. ĐỊNH NGHĨA. 
 Hối hận là nỗi 
buồn khi nhận ra mình đã làm nên chuyện sai lầm về mặt Đạo đức. 
Trong 
cuộc đời, chỉ có hai hạng người không biết hối hận. Đó là những vị Thánh đã giải 
thoát, không còn lỗi lầm và những người cực kỳ ác độc, không hề biết tội phước 
là gì. Ngoài hai hạng người trên, những người bình thường sở dĩ không hối hận là 
do họ không biết lỗi. Nếu biết lỗi của mình, trong lòng ai cũng đều có sự hối 
hận thầm kín. Nhìn lại bản thân mình, chúng ta sẽ thấy không ít lần trong đời, 
chúng ta đã buồn và hối hận thật sự về những sai lầm mình đã gây 
nên. 
Tùy mức độ lỗi lầm lớn hay nhỏ mà sự hối hận của chúng ta sẽ nhiều 
hay ít. Có khi đó là những lỗi lầm của thuở còn thơ. Khi theo chúng bạn đi chơi, 
bạn xúi mình làm điều không tốt ( hái trộm quả chín trong vườn người ta hay bắt 
trộm gà về làm thịt…), chúng ta cũng làm theo. Chuyện đã trôi qua trong dĩ vãng. 
Cho đến ngày biết Phật pháp, tin được luật Nhân Quả, chúng ta mới hiểu rằng việc 
làm thuở nhỏ của mình là sai lầm. Vì không những phạm tội trộm cắp, chúng ta còn 
phạm tội sát sinh. Cả hai tội đều nặng. Khi đã hiểu được đó là một điều xấu, 
lòng chúng ta cứ ray rứt, hối hận, buồn phiền vì chúng ta biết đó là tội và sẽ 
có quả báo về sau.
 Hối hận của buồn phiền hoàn toàn khác với tâm tiếc rẻ 
vì không đạt được mục tiêu bất kỳ trong cuộc sống, nhất là những hành vi bất 
thiện. Thực tế, có những người luôn tỏ ra buồn phiền sau một việc làm bất thiện 
nào đó nhưng không phải là buồn vì hối hận mà buồn vì không thực hiện được mục 
đích của mình. Ví dụ, một người nọ có tính tham lam, hay lấy cắp của người khác. 
Một lần vì không lấy cắp được món đồ quý của ai đó nên người ấy cứ tiếc mãi 
trong lòng. Tâm lý đó gọi là tâm tiếc rẻ.
Trường hợp thứ hai chúng ta 
cũng thường gặp là hối tiếc vì đã đánh mất một cơ hội để đạt được lợi ích cho 
bản thân mình. Chẳng hạn, khi đi trên đường, bất ngờ thấy người ta đánh rơi một 
gói tiền, chúng ta vội vã chạy nhanh đến để nhặt nhưng không ngờ người khác 
nhanh chân hơn đã chộp mất. Về đến nhà, chúng ta vẫn còn hối tiếc vì lỡ mất cơ 
hội làm giàu.  Sự hối tiếc đó cũng không phải là hối hận. 
Như vậy, chúng 
ta cần phân biệt rõ ba loại tâm lý ấy. Trong đó, sự hối tiếc do tâm muốn làm 
việc bất thiện mà không làm được thuộc về tâm ác độc. Sự hối tiếc do đánh mất  
đi cơ hội cho cá nhân thì thuộc về người sống không thanh thản, tâm còn bị ràng 
buộc. Còn trường hợp hối hận, ray rứt, buồn phiền vì biết mình đã phạm phải lầm 
lỗi thuộc về người có Đạo đức.
2. TÂM HỐI 
HẬN LÀ DẤU HIỆU CỦA ĐẠO ĐỨC. 
Chúng ta là những người có nhiều 
thiện căn nên tuổi đời vừa lớn đã vào chùa xuất gia. Dựa vào điều đó có thể đánh 
giá lúc còn nhỏ chúng ta không từng làm việc gì quá đáng để đến nỗi hối hận 
nhiều. Và cũng chính vì thế, chúng ta không nhìn rõ được tâm hối hận. Nhưng 
trong cuộc sống, trong quá trình tu hành từ nay cho đến mãi về sau, chúng ta sẽ 
có rất nhiều cơ hội tạo lầm lỗi. Nếu không cẩn thận giữ mình, sẽ có lúc chúng ta 
gây nên những tội lỗi lớn để phải thấm thía thế nào là hối hận. 
Tâm hối 
hận là dấu hiệu của Đạo đức. Vì thế, khi đã mắc phải lỗi lầm, chúng ta phải chân 
thành nhận thấy điều đó để hối hận và sửa chữa. Chúng ta biết rằng, khả năng tự 
biết lỗi là căn bản của Trí tuệ. Người tự biết lỗi của mình phải là người có Trí 
tuệ. Khi tu đến mức độ cao, chúng ta có thể biết nhiều điều nhờ có Trí tuệ, 
nhưng điều quan trọng là phải biết được lỗi của mình. Tâm vừa khởi nhẹ một niệm 
tiện hay ác là chúng ta phải thấy ngay, phải đánh giá chính xác ngay về ý niệm 
đó liền. 
Trong cuộc sống, con người thường có chung một nhược điểm là 
hay tự biện hộ, tự bênh vực cho mình khi làm điều gì sai trái. Ở đây, chúng ta 
không tự biện hộ mà phải tự trách mình, tự biết lỗi của mình. Vì thế, chúng ta 
nói rằng, hối hận là dấu hiệu của Đạo đức, cũng là chỗ căn bản của Trí 
tuệ. 
Như vậy, phải tự nhận lỗi rồi mới hối hận, mới có nỗi buồn. Tiến 
trình ấy bắt đầu từ việc chân thành nhận lỗi nhưng tất cả đều xuất phát từ chỗ 
có Trí tuệ. Có thể còn một chuỗi tâm lý xuất phát tiếp theo rất vi tế mà chỉ có 
chúng ta mới nhận ra được. Chẳng hạn, khi trao đổi với huynh đệ về đạo lý Thiền, 
chúng ta cảm thấy không vừa ý nên phủ nhận ý kiến của huynh đệ và khẳng định 
những ý kiến của mình là đúng. Người ngoài nhìn vào chỉ thấy đó là một cuộc đàm 
đạo bình thường giữa hai tu sĩ với nhau về vấn đề Thiền học, nhưng nhìn sâu vào 
lòng, chúng ta chợt nhận ra mình đã phô trương kiến thức, tỏ ra hơn thua với 
huynh đệ. Tâm tỏ ra khoe khoang, hơn thua ấy không ai nhìn thấy, chỉ tự chúng ta 
nhận thấy. Khi biết mình vừa phạm lỗi khoe khoang, vừa phạm lỗi hơn thua- dấu 
hiệu của sự sa sút Đạo đức- chúng ta cảm thấy hối hận ngay. 
Như vậy, 
chúng ta phải nhận ra được lỗi của mình chứ không chờ dư luận bên ngoài đánh 
giá. Người ngoài có thể không thấy lỗi của mình hoặc có khi lại đánh giá quá 
đáng, thiếu chính xác. Thử lấy một ví dụ rất đơn giản, chúng ta sẽ thấy rõ điều 
này. Một lần, vì cảm thấy mệt mỏi, chúng ta vào bếp xin một ly nước chanh. Nhưng 
lúc ấy nhà bếp không có ai nên chúng ta tự pha lấy. Vậy mà, có người để ý và nói 
với mọi người là ngày nào chúng ta cũng xuống bếp lục đồ ăn. Tự chúng ta biết là 
mình không có lỗi ấy nhưng người ta đã nói quá cho mình. Ở đây, chúng ta chỉ có 
lỗi là không nói qua với người có trách nhiệm một tiếng để có người làm chứng là 
mình đã không tự ý. Nhưng thực ra, lỗi đó cũng không đáng kể. 
Như vậy, 
trong việc đánh giá lỗi lầm, chúng ta không bỏ qua dư luận vì có khi người ta 
gợi ý hoặc chỉ ra lỗi mình rất hay nhưng cũng không quá coi trọng dư luận. Tốt 
nhất là chúng ta tự biết lỗi mình để hối hận và vượt qua.
Một khi đã xuất 
hiện nỗi buồn hối hận về một lỗi lầm mình đã gây nên, chúng ta sẽ tâm niệm, ước 
ao rằng mình đã không làm điều sai lầm đó. Thậm chí, chúng ta còn ước ao thời 
gian quay lại để mình không làm việc sai lầm đó nữa. Đây chính là Nhân lành để 
về sau chúng ta không bao giờ lặp lại lỗi lầm cũ. Chúng ta không thể quay ngược 
thời gian, trở về quá khứ để làm lại từ đầu, nhưng nếu tâm vẫn hướng về quá khứ 
và ước mình chưa bao giờ làm chuyện không hay đó thì tâm niệm ấy sẽ thành Nhân 
tốt cho vị lai và chắc chắn chúng ta sẽ không phạm lỗi lầm ấy nữa. 
Ví 
dụ, khi còn nhỏ, chúng ta đã từng nói dối cha mẹ xin tiền mua sách vở nhưng lại 
mang tiền đi chơi, ăn uống với bạn bè. Khi lớn lên, biết Phật pháp, nghĩ lại 
chúng ta thấy thương cha, thương mẹ vô cùng. Từ chỗ hối hận, chúng ta ước ao giá 
như lúc đó mình đừng nói dối, giá như lúc ấy mình lo học nhiều hơn, thương cha 
mẹ nhiều hơn… Chính ý nghĩ về quá khứ đó đã biến thành cái Nhân của vị lai. Qua 
kiếp sau, chắc chắn chúng ta sẽ trở thành một người con ngoan, một người con 
hiếu thảo.
Có những người sống một đời mà chưa từng hối hận. Đó thường là 
những người ác độc. Vì sao như vậy ? Vì chỉ có những bậc Thánh, những người đã 
giải thoát mới không có lỗi lầm để không hối hận. Còn tất cả chúng ta, sống trên 
cuộc đời này không ai không từng có lầm lỗi. Chỉ có những người có tâm ác độc 
mới không biết được phải trái, đúng sai, không biết tội phước nên chưa bao giờ 
hối hận.
3. GIÁC NGỘ ĐƯỢC ĐẠO LÝ MỚI CÓ 
THỂ HỐI HẬN LẦM LỖI CŨ 
Sở dĩ có thể hối hận được lầm lỗi cũ là do 
chúng ta giác ngộ được đạo lý. Chẳng hạn, trước đây, khi chưa biết được tội 
phước, chúng ta có thể phạm tội sát sanh khá nặng ( sẵn sàng giết heo, giết bò 
phục vụ cho đám cưới, đám tang… khi có người nhờ đến ). Khi học được đạo lý, 
chúng ta mới thấy rằng muôn loài đều cần sự sống và cũng hiểu được nỗi đau đớn 
của con vật khi bị giết. Vì thế, chúng ta cứ hối hận không nguôi. 
Như 
vậy, nhờ biết được đạo lý, biết được nhân quả mà chúng ta biết  hối hận. Khi 
hiểu được đạo lý, chúng ta sẽ biết so sánh cái thiện của đạo lý đã học với cái 
bất thiện mình đã phạm phải. Vì thế, mỗi khi học được những điều hay, lẽ phải, 
chúng ta thường xuất hiện tâm hối hận. Không ít người trong chúng ta khi bắt đầu 
biết Phật pháp cứ buồn phiền, hối hận mãi vì trước đây đã có sự đối xử không 
đúng với mọi người; với cha mẹ, anh chị em trong gia đình... Khi đã đi tu, mỗi 
ngày trôi qua, khám phá ra được một đạo lý, chúng ta quay  nhìn lại quá khứ, 
càng hối hận hơn vì những lầm lỗi cũ. Cứ thế, trong suốt cuộc đời dài dặc này, 
con người đã vấp không biết bao nhiêu lầm lỗi nên cứ phải hối hận 
hoài. 
Chúng ta còn nhớ trường hợp vua Asoka ( vua A Dục ) vì tin sự cao 
cả của Phật pháp đã biết hối hận và tạo nên công đức. Trước kia, ông là một 
Hoàng tử ác độc. Vua cha có nhiều Hoàng tử nhưng trong đó Asoka là người hung dữ 
nhất. Nghĩ rằng Asoka là người hung dữ sau này sẽ làm loạn hại những người anh 
em khi ông qua đời nên nhà vua đã sai Hoàng tử cầm quân ra ngoài trấn biên giới. 
Nghe lời vua cha, Asoka lên đường. Khi trấn quân biên giới, với tính tình nóng 
nảy, ác độc, ông đã muốn đem quân xâm chiếm nước người. Nhưng vì chưa có lệnh 
vua cha, hơn nữa, đạo quân vua cha giao cho cũng không đủ mạnh nên Asoka không 
dám làm loạn. Đó cũng là dụng ý của nhà vua. Đưa Asoka ra biên giới, vua cha 
cũng đã tính kỹ mọi đường. Khi ông nằm xuống, Asoka sẽ không về kịp, Hoàng tử 
được chọn kế vị ngôi vua sẽ đăng quang kịp thời. Khi về đến nơi, mọi việc đã đâu 
vào đó, Asoka sẽ không dám làm loạn. Vua cha tính toán thật chu đáo nhưng không 
ngờ Asoka còn nhanh hơn ông tưởng. Nghe tin cấp báo vua cha hấp hối, ông ta kéo 
quân về ngay lập tức. Về tới kinh thành, ông giết sạch các anh em của mình một 
cách dã man và lên làm vua. 
Một ông vua lên ngôi bằng hành động độc ác 
như vậy chắc chắn không thể “trị quốc, bình thiên hạ” được vì người dân nghĩ 
rằng ông ta lên làm vua được là nhờ giết bao nhiêu anh em mình. Như vậy, để cuộc 
đời sung sướng, họ cũng phải giành giật với người này, phải giết hại người kia. 
Vì thế, khắp nơi trong nước, dân chúng đã nổi loạn. Cuối cùng, vua Asoka đã tỉnh 
ngộ và quay về với Phật pháp. Có hai thuyết nói về sự tỉnh ngộ của 
ông.
Thuyết thứ nhất kể rằng: Vì ông là con người có hành động nổi tiếng 
tàn bạo nên trong nước dân cứ nổi loạn liên tục. Nơi này trộm cướp nổi lên, nơi 
kia xảy ra lừa đảo, giết người… Ông bèn xây một nhà ngục giao cho một tay chủ 
ngục ác độc có nhiều thuộc hạ hành hình tội nhân cai quản. Hồi đó, xã hội không 
có sự công bằng. Người phạm tội gì cũng bị quăng vào ngục hành hạ cho đến chết. 
Ông cho chủ ngục quyền sinh, quyền sát. Tay chủ ngục cũng là kẻ độc ác nên ai đã 
vào ngục, không mong ngày được trở ra. Trong khi đó, nhà vua chỉ lo đem quân đi 
xâm lược các nước láng giềng. Ông cất quân đánh nước này, thôn tính nước kia, mở 
rộng đế quốc Ấn Độ. Lúc bấy giờ, lục địa Ấn Độ trở thành một vương quốc thống 
nhất là nhờ tài cầm quân, nhờ sự tàn bạo của vua Asoka.
Một lần, có một 
Sa môn - một nhà sư Phật giáo- không hiểu thế nào lại vào thẳng trong ngục. Tên 
cai ngục tưởng là tội nhân mới được bên ngoài gởi vào để trừng phạt. Nhưng khi 
được hỏi đến, ông ta ngơ ngẩn không biết cách trả lời, hắn bực mình ném ông vào 
chảo dầu đang sôi. Trong chảo dầu, ông vẫn giặt giũ, tắm rửa, kỳ cọ thoải mái. 
Tên chủ ngục kinh ngạc đứng nhìn. Hắn thấy nhà sư thỉnh thoảng bay lên không 
trung rồi lại hụp xuống tiếp tục tắm. Cai ngục chạy vào báo cho vua Asoka biết 
chuyện kỳ lạ và mời nhà vua ra xem. Vua A Dục vội vàng chạy đến xem và vô cùng 
ngạc nhiên khi thấy vị Tỳ kheo nghiêm trang cất mình giữa hư không. Lúc đó, tâm 
hồn ông bỗng nhiên bị lay động. Từ trước đến nay, ông không tin trong cuộc đời 
này có những chuyện thần thánh nên đã đối xử tàn bạo với mọi người. Hành động 
tàn bạo đầu tiên là giết anh em mình để giành ngôi vua, sau đó là đem quân xâm 
lược khắp nơi, chém giết con người một cách tàn bạo để giành đất đai. Hôm nay, 
chứng kiến sự kiện lạ ấy, ông tin rằng cuộc đời có chuyện thần thánh và cảm thấy 
lòng mình xao động. Ngay lúc đó, vị Tỳ kheo đã thuyết pháp cho ông. Nhà vua bừng 
tỉnh, thấy được lỗi lầm của mình và quỳ xuống xin sám hối. Vị Tỳ kheo khuyên nhà 
vua nên dùng đạo đức để cai trị dân, không nên dùng những hình phạt nghiêm khắc, 
tàn bạo như vậy. Vua thỉnh vị Tỳ kheo về cung điện và dần dần ra lệnh sửa đổi 
luật pháp cho khoan thư  hơn. 
Khi thấy vua cùng vị Tỳ kheo đi khỏi ngục, 
tay chủ ngục níu vị Tỳ kheo lại và nói: 
-           Tâu Đại Vương, Đại 
Vương có luật là ai vào đây là không thể ra.
 Vua Asoka 
nói:
-           “Đúng. Và ngươi phải là người như vậy. 
Nói xong, 
ông túm lấy tay chủ ngục quăng vào chảo dầu. Đó là hành động độc ác cuối cùng 
của ông khi bắt đầu gặp được Phật pháp. Sau đó, ông thỉnh vị Tỳ kheo về cung để 
học hỏi Phật pháp. Đây cũng là duyên may cho đạo Phật vì Asoka truyền bá Phật 
pháp mạnh mẽ sau khi ông đã dùng bạo lực đánh chiếm các nước khác và xây dựng 
một đất nước thống nhất. Bởi vậy, cả lục địa Ấn Độ thời đó đều theo Phật. Có thể 
nói, bạo lực đi trước, Phật pháp đi sau. Dựa vào uy lực của vua mà đạo Phật tràn 
lan khắp Ấn Độ và người đạo Phật cũng tùy hỷ trước việc ông xâm lăng cũng như 
trước những chiến công của ông. Và quả báo cũng đã tới. Vào thế kỷ thứ XIII, 
quân Hồi vào giết hết người theo đạo Phật tại Ấn Độ. Nhà sư bị giết, đền đài bị 
đập phá nên đạo Phật biến mất. Chỉ còn những nước lân cận như Tây Tạng, Tích 
Lan, Hồi giáo không đặt chân tới được nên Phật pháp còn tồn tại. Đó cũng là Nhân 
quả vì người ta đã truyền bá đạo Phật bằng con đường bạo lực mà người theo đạo 
Phật vẫn tùy hỷ. 
Thuyết thứ hai nói về Kalinga. Sau một trận chiến khủng 
khiếp, xác người chết đầy đồng, đàn bà trẻ con chết đầy đường…, chợt có đội quân 
cưỡi ngựa đến báo tin cho nhà vua biết Hoàng hậu ở nhà hạ sinh được một Hoàng 
tử. Nghe tin báo, ông vui mừng khôn xiết. Tình cha con trỗi dậy đã làm cho những 
tình cảm khác sống dậy trong ông. Nhìn những đứa trẻ chết trên bãi chiến trường 
cùng với những người mẹ của nó, rồi những cụ già chết la liệt trong chiến tranh, 
ông hối hận và kéo quân về. Trên đường về, ông gặp một vị Tỳ kheo. Vị Tỳ kheo đã 
thuyết pháp, giáo hóa cho ông. Từ đó, ông hồi đầu về với Phật pháp. Thuyết này 
không có sức thuyết phục lắm nhưng cũng cho chúng ta biết vào thời đó đã có một 
vị Thánh nhân, một vị Tỳ kheo chứng Đạo đủ sức cảm hoá một ông vua bách chiến, 
bách thắng như vua A Dục để ông ta trở về với đạo Phật. 
Như vậy, khi tin 
được sự cao cả của Phật pháp, chúng ta mới biết hối hận. Nếu không cúi đầu trước 
sự cao cả của Phật pháp, chúng ta sẽ không thấy được những lỗi lầm mình đã phạm 
trước đây. 
Đọc lại một câu chuyện trong Góp nhặt cát đá, chúng ta sẽ 
thấy hối hận còn xuất phát từ đâu. Chuyện kể rằng, một vị Thiền Sư đang tụng 
kinh thì một tên cướp xông vào. Hắn gí dao vào cổ Thiền Sư và bảo ông đưa tiền. 
Ông cũng bình tĩnh tụng kinh, không nhúc nhích gì và chỉ cho tên cướp biết tiền 
để trong tủ. Sau đó, ông vẫn tiếp tục tụng kinh. Khi tên cướp lấy tiền xong quay 
đi, ông mới ngừng tụng kinh và nói: “Nhận tiền xong phải cám ơn”. Hắn nói :“Cám 
ơn”, rồi đi thẳng. Ông vẫn tiếp tục tụng như không có gì xảy ra. Sau khi cướp 
tiền của vị Thiền Sư, tên cướp lại đến cướp thêm ở nơi khác và bị công an bắt. 
Hắn cũng hối hận và thật lòng khai ra những vụ trộm cướp hắn đã thực hiện, trong 
đó có vụ cướp tiền của vị Thiền Sư. Công an giải hắn đến chùa và hỏi vị Sư : 
“Thưa Ngài, có phải là tên này đã vào đây chỉa dao vào cổ Ngài và lấy tiền của 
Ngài không?”. Vị Thiền Sư trả lời: “Không. Tôi có cho và nó có cám ơn”. Nhờ câu 
nói ấy nên tên cướp được giảm án vì người ta nghĩ hắn chưa đến độ táng tận lương 
tâm dám vào chùa cướp của. Khi ra tù, hắn đã đến chùa xin xuất gia, làm đệ tử vị 
Thiền Sư ấy. 
Trong trường hợp này, điều gì đã làm cho tên cướp hối hận 
?  Đó chính là lòng từ bi, cao thượng của vị Thiền Sư. Trong cuộc đời, có những 
người làm việc ác vì họ chưa từng gặp điều cao cả, cao thượng, chưa gặp được 
tình thương yêu. Họ thấy xung quanh mình luôn tồn tại những điều ác độc, con 
người chỉ biết tranh giành nhau mà sống; kẻ mạnh, lắm mưu mô xảo quyệt sẽ thắng 
kẻ yếu đuối, lành hiền. Họ không tin có nhân quả. Sống như vậy cho đến khi bắt 
gặp tình thương yêu, sự cao thượng từ người khác, họ cảm thấy hạnh phúc và chợt 
nhận ra thế gian này đâu chỉ toàn là điều ác độc, quanh họ vẫn còn đầy tình 
thương yêu. Sống trong tình thương yêu của con người, họ hối hận và muốn mãi mãi 
được tắm trong tình thương yêu đó. 
Trong cuộc sống, có thể chúng ta sẽ 
gặp rất nhiều người xấu. Qua câu chuyện này, chúng ta hiểu được họ vẫn có thể 
còn biết khởi tâm hối hận và cố gắng dùng tình thương để cảm hóa họ. Lúc nào 
chúng ta cũng phải giữ tâm thương yêu. Chỉ có tâm thương yêu, không ganh ghét đố 
kỵ, không hơn thua kiêu kỳ mới có thể cảm hoá được người xấu. Chính lòng thương 
yêu của chúng ta sẽ làm cho họ có niềm tin vào cuộc sống, con người và biết hối 
hận để quay về với nẻo thiện. Để làm được điều đó, chúng ta phải huân tập tâm Từ 
bi thật sâu đậm. Ngoài những lời nói, trong tâm chúng ta phải thật sự có tình 
thương yêu. Chúng ta phải hiểu rằng, cho người khác niềm tin vào sự cao cả, niềm 
tin ở điều thiện, niềm tin vào tình thương yêu để họ biết hối hận, là một công 
đức lớn.
Một điều rất hay nữa là hối hận có thể rửa được tội. Có Thầy kể 
rằng, khi còn nhỏ chưa biết Phật pháp, đọc sách của ông Krisnamurti - người Ấn 
Độ từng đi giảng khắp Tây Phương- người ấy không hiểu gì cả nên tỏ ra không 
thích. Sự không hiểu ấy một phần do người viết, một phần do người dịch chuyển 
ngữ  không thích hợp với văn Việt nên câu văn tối nghĩa. Sau này, khi lên Đại 
học, học qua lý thuyết dịch, Thầy mới hiểu ra điều ấy. Nghĩa là người dịch phải 
dịch nghĩa chứ không phải dịch chữ. Chẳng hạn, I go to school ( dịch theo chữ là 
Tôi đi tới trường ) nhưng nghĩa lại là Tôi đi học. Một câu văn theo nguyên văn 
có khi dài dòng, phức tạp, người dịch phải tìm ra nghĩa rồi chuyển sang câu văn 
tiếng Việt cho dễ hiểu. Đó cũng là lý do khiến Thầy không hiểu và không thích 
ông Krisnamurti. Khi nói chuyện trao đổi đạo lý với mọi người, Thầy đã bài bác 
ông ta. Cho đến khi gặp được Phật pháp, học được Thiền, Thầy mới chợt tỉnh là 
mình đã bài bác nhầm một bậc Thánh. Ông quả thật là một bậc Đạo Sư đã giác ngộ. 
Khi hiểu ra điều đó, vị Thầy ấy cứ hối hận, ray rứt mãi. Khoảng được nửa năm, 
một đêm trong giấc mơ, Thầy thấy ông hiện ra, gương mặt sáng như ánh trăng rằm 
nhìn mình cười tha thứ rồi biến mất. Khi thức giấc dậy, sự hối hận giày vò Thầy 
suốt nửa năm qua đã tan biến. Thầy hiểu rằng, tâm hối hận của mình đã được chứng 
minh và Thầy đã rửa được tâm bất thiện trong quá khứ. 
Như vậy, Hối hận 
là một tâm niệm vô cùng quý giá. Nếu sống mà không biết hối hận, chúng ta không 
bao giờ rửa được sự bất thiện mình đã gây ra trong quá khứ.
Cách đây 
không lâu, trong một tài liệu giảng về Phật giáo Nam Tông, một vị Sư Nam Tông đã 
cho rằng : Tâm hối hận là tâm bất thiện. Và ông đã kể ra một câu chuyện để chứng 
minh điều đó. Thời Đức Phật, có một vị Tỳ kheo vì mến mộ Phật pháp nên đã xuất 
gia. Vị Tỳ kheo này là con một, xuất thân từ một gia đình giàu có, đã có vợ 
nhưng chưa có con. Khi gặp Phật, người ấy  đã theo Phật đi tu. Một hôm, khi trở 
về thăm lại gia đình, cha mẹ ông nói cho ông biết tài sản của gia đình rất lớn. 
Ông là con một, nếu đi tu mà không để lại một đứa con nào nghĩa là gia đình coi 
như tuyệt tự. Theo luật pháp Ấn Độ thời bấy giờ, khi cha mẹ ông chết, tài sản 
của gia đình sẽ bị sung vào công quỹ nếu như ông không để lại đứa con nối dõi. 
Cha mẹ ông muốn ông phải để lại một đứa con. Thương cha mẹ và bị thuyết phục 
quá, vị Tỳ kheo xiêu lòng ăn ở lại với vợ được một đứa con rồi ra 
đi. 
Thời đó Phật chưa có chế giới, chỉ có người đi tu tự biết làm Sa môn 
là phải giữ phạm hạnh. Người tu phải sống theo lương tâm mình. Bởi vậy, khi để 
lại một đứa con, vị Tỳ kheo không thấy mình phạm quy. Nhưng thẳm sâu trong lương 
tâm, ông biết mình đã phạm sai lầm nên vô cùng hối hận. Nỗi buồn phiền ấy day 
dứt mãi trong lòng ông lúc trở lại Tăng đoàn. Sau đó, ông lâm bệnh rất nặng. 
Nghe tin ông bệnh, Đức Phật đến thăm và hỏi rõ sự tình (thực ra, Ngài đã biết 
hết mọi điều). Vị Tỳ kheo thành thật trình bày sự việc và sám hối. Lúc bấy giờ, 
Đức Phật thuyết một bài pháp để vị Tỳ kheo hiểu được lỗi lầm và ca ngợi đời sống 
phạm hạnh. Sau đó, Đức Phật cũng chế ra giới luật. Nhờ Phật thuyết pháp, an ủi 
nên tâm hối hận của vị Tỳ kheo biến mất. Ông trở lại tiến tu và về sau cũng 
chứng Đạo.
Kể chuyện này, vị Sư Nam Tông muốn kết luận: Tâm hối hận là 
tâm bất thiện. Chúng ta biết rằng, Phật giáo Nam Tông vốn có truyền thống bảo 
thủ, người trước nói sao, người sau nói vậy, nếu nói trái sẽ bị phê bình là 
ngoại đạo. Vì vậy, bên Nam Tông Nguyên thủy nhìn các thầy Đại Thừa như là người 
ngoại đạo Bà La Môn, không phải đạo Phật, mặc dù họ vẫn thờ Phật. Cho nên, có 
thể câu kết luận tâm hối hận là tâm bất thiện ấy không phải của vị Sư kia mà của 
một vị Sư trước đó. Vị Sư này nghe người trước mình nói như vậy nên nói lại. 
Cũng có nghĩa là điều đó đã được truyền qua mấy ngàn năm rồi. Điều đáng ngạc 
nhiên là câu kết luận sai lầm này đã được giữ cho đến ngày hôm nay. 
Thật 
ra, đạo Phật có nhiều Tông phái. Tông phái nào cũng cho mình là chân lý, là đúng 
đạo Phật. Đây là điều mà chúng ta phải tỉnh táo xét lại. Dù đi theo bất cứ Tông 
phái nào( Nam Tông, Bắc Tông Đại thừa hay Khất Sĩ…), chúng ta cũng không bao giờ 
được tin một cách mù quáng. Chẳng hạn, dù Bắc Tông Đại thừa không sử dụng cuốn 
Chân lý của Đức Minh Đăng Quang bên Khất Sĩ vì có nhiều điểm không hợp với Tam 
Tạng Kinh điển, nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, đạo hạnh của Đức Minh 
Đăng Quang rất tuyệt vời và cuốn Chân lý cũng có nhiều điểm hay. Thời đó, Ngài 
không có dịp tham khảo hết Tam Tạng Kinh điển nên có những điều Ngài đoán giảng 
theo suy nghĩ của mình, không phù hợp với Tam Tạng Kinh điển. Hơn nữa, lúc bấy 
giờ đạo Phật chưa chấn hưng nên sách chưa nhiều, ai hiểu thế nào cứ giải thích 
thế ấy nên có khi không phù hợp với Giáo điển. Đó cũng là điều dễ 
hiểu. 
Ở đây, chúng ta xem nỗi buồn là một hệ quả, nỗi buồn của hối hận 
là nỗi buồn vô cùng cao đẹp. Nếu nỗi buồn do ích kỷ là sự xao động tầm thường, 
thì nỗi buồn vì lỗi lầm là nỗi buồn có khả năng thanh lọc, làm sáng tâm mình và 
rửa được những tội lỗi. Chúng ta phải hiểu rằng, trong con người vốn có nhiều 
tình cảm. Nếu tình cảm được sử dụng đúng chỗ sẽ làm tăng trưởng được thiện pháp, 
giúp con người đi dần về phía giải thoát. Ngược lại, những tình cảm được đặt 
không đúng chỗ sẽ đưa chúng ta đi dần về phía ràng buộc. 
Ví dụ, tâm xót 
xa vốn thuộc trạng thái động. Khi thấy một người nào đó khổ, chúng ta khởi tâm 
xót xa thì sự xót xa đó gọi là bi, là thương xót trước nỗi khổ của người khác. 
Đây là một tình cảm động, nhưng lòng bi ấy cho thấy thiện pháp trong chúng ta 
đang tăng trưởng, tâm hồn chúng ta trở nên cao thượng và đang đi dần về phía 
giải thoát. Trong trường hợp này, nếu giữ tâm cho tịnh, chúng ta lại rơi vào tâm 
ích kỷ. Còn trường hợp xót xa cho chính bản thân mình (như than thân trách phận) 
là tình cảm động nhưng khiến ta đi về phía ràng buộc luân hồi, vì đó là cái động 
của sự ích kỷ.
Hoặc tình thương yêu cũng là tình cảm “động”. Nếu vướng 
vào tình yêu đôi lứa, chúng ta sẽ bị ràng buộc, phiền não rồi đi về phía sinh tử 
luân hồi. Nhưng cũng tình thương yêu ấy nếu đem ra chan rải khắp thế gian, 
thương yêu tất cả chúng sinh, chúng ta sẽ đi về phía giải thoát. Bởi vậy, nếu 
được sử dụng đúng chỗ, tình cảm sẽ giúp cho tâm hồn thăng hoa, cao thượng hơn. 
Chúng ta đừng sợ những tình cảm ấy làm tâm mình xao động. Không phải lúc nào 
cũng giữ tâm mình phẳng lặng, yên tĩnh như cát, như đá là chúng ta đã tu tốt. 
Thấy người khác khổ mà không xót xa, nhìn thấy chúng sinh mà không khởi lòng 
thương yêu, đó không phải là người tu theo đạo Phật. Chúng ta dám khẳng định 
chắc chắn như vậy. 
Tương tự như thế, người tu hành phải sống hiền lành, 
không bao giờ được hung dữ nhưng sự hung dữ nếu sử dụng đúng chỗ cũng là một 
điều hay. Nếu có duyên, chúng ta sẽ tìm hiểu chữ “dữ” này và như thế nào là “dữ” 
đúng chỗ trong Phật pháp. 
Khi biết so sánh đạo lý cao xa với việc làm 
sai lầm của mình, chúng ta sẽ xuất hiện tâm hối hận. Cứ mỗi ngày tìm ra được 
điều gì mới, chúng ta càng hối hận vì trước đây mình đã không biết được điều 
này, đã ứng xử sai lầm. Khi đã hối hận, ngoài việc xảy ra tâm niệm ước ao mình 
đừng làm điều ấy trong quá khứ, chúng ta còn phát sinh một tâm lý khác là muốn 
tạo công đức. Hối hận lỗi cũ có thể giúp chúng ta tạo nên công đức mới như một 
sự chuộc lỗi. 
Nói đến điều này, chúng ta không thể không nhắc đến câu 
chuyện người kiếm sĩ đào con đường hầm trong Góp nhặt cát đá. Vì đây là câu 
chuyện tiêu biểu cho việc muốn tạo công đức để chuộc lại lỗi lầm sau khi hối hận 
của con người. Chuyện kể về một kiếm sĩ theo tinh thần võ sĩ đạo của Nhật. Vì 
phải lòng người vợ của một viên quan, ông ta đã giết viên quan đó và mang người 
vợ đi. Khi sống gần nhau, ông mới phát hiện ra người đàn bà mà ông thương yêu 
bấy lâu để phải làm nên tội lỗi ấy lại là một người đàn bà tầm thường, tham lam 
và ích kỷ. Ông đã từ bỏ người đàn bà đó và ra đi trong nỗi hối hận khôn nguôi. 
Đểø chuộc lại tội lỗi của mình, ông đã phát tâm đục một con đường hầm đi xuyên 
qua núi để người dân địa phương qua lại không phải bỏ mạng trên đường 
đèo.
Người con trai của viên quan nọ sau một thời gian học kiếm thuật đã 
tìm đến ông để trả thù. Cuối cùng, người thanh niên gặp được người đàn ông ấy 
trong lúc ông ta đang ngồi đục đá trong hang núi. Người con trai của viên quan 
nói: “Ngươi hãy quay lại cầm kiếm đấu với ta, ta không muốn giết kẻ thù từ phía 
sau lưng”. Người học kiếm thuật thường quân tử như vậy. Họ không muốn làm việc 
hèn hạ. Ông già vẫn tiếp tục ngồi đục đá, không quay lại mà trả lời: “Cậu hãy 
đợi tôi đục xong con đường hầm này, tôi sẽ dâng mạng sống của tôi cho cậu”. 
Người kia không biết làm sao vì giết người ta sau lưng thì không phải là người 
quân tử. Hơn nữa, việc đục con đường hầm này cho mọi người đi của ông ta cũng là 
điều tốt, không nên ngăn cản. Anh ta cầm gươm ngồi chờ ông già đục xong con 
đường. Ban ngày, ông đi xin ăn, chiều tối lại về đục. Người thanh niên cứ lẽo 
đẽo cầm gươm đi theo. Thời gian trôi qua, cảm thấy ngồi chờ ông già đục đường 
như thế cũng buồn, người thanh niên bèn làm phụ ông. Hai người cứ sống với nhau 
như vậy suốt bao nhiêu năm. Khi đường hầm được hoàn thành, người kiếm sĩ già cầm 
cây gươm đưa cho người thanh niên và nói: “Đầu tôi đây, cậu hãy cắt đi !”. Người 
kia quỳ xuống: “Làm sao con có thể cắt đầu Thầy được”. Câu chuyện đã kết thúc 
một cách rất cảm động. 
Như vậy, nhờ tâm hối hận, qua bao nhiêu năm làm 
phước, ông đã tẩy sạch hết tội lỗi, tẩy sạch hết tâm bất thiện của mình trong 
quá khứ khiến người từng coi ông là kẻ thù đã nhận ông làm Thầy.
Chúng ta 
biết rằng, tội lỗi được cấu thành phải có hai yếu tố: Bên ngoài là tội làm tổn 
hại chúng sinh, bên trong là tâm bất thiện. Cái hay của tâm hối hận là vừa xóa 
được sự bất thiện trong tâm vừa xóa được phần tội bên ngoài. Trường hợp ông kiếm 
sĩ già trong câu chuyện này là một ví dụ tiêu biểu. Bao nhiêu năm trời hối hận, 
lại tạo được phước nên sự bất thiện trong tâm ông đã bị xóa sạch và tội bên 
ngoài, tội giết viên quan ngày xưa cũng được xoá đi phần lớn. Người con trai 
viên quan kia không giết ông để trả thù đã chứng minh điều đó. Có thể kiếp sau 
ông sẽ bị trả quả báo nhưng chắc chắn sẽ trả một cách nhẹ nhàng. 
Tin 
Nhân Quả cũng giúp cho chúng ta biết hối hận, nhất là khi thấy mình gặp nghiệp 
quả không may. Vì tin Nhân Quả, khi gieo Nhân, chúng ta suy luận được quả báo 
nên biết hối hận, biết nhận ra được lỗi của mình. Do đó, trong suốt cuộc đời làm 
việc đạo, chúng ta cố gắng truyền cho người khác niềm tin về Nhân Quả. Đó cũng 
là cách làm cho đạo đức tăng trưởng trong cuộc đời này và làm cho mọi người được 
lợi ích. 
Trường hợp nhận quả báo, chúng ta suy luận ngược lại cái Nhân 
mình đã gieo và cũng phát sinh tâm hối hận. Ví dụ, một người nọ không may gặp 
tai nạn phải mất một cánh tay. Khi ngồi suy luận Nhân Quả, người ấy nghĩ đời 
trước chắc mình đã làm điều gì ác với  người khác nên đời này mới gặp quả báo 
như vậy. Vì tin Nhân Quả nên bây giờ người ấy hối hận và chắc chắn suốt quãng 
đời còn lại, họ không dám làm điều ác nữa. 
4. NHỮNG CÁCH CHUỘC 
LỖI. 
Thông thường, người ta có ba cách chuộc lỗi:
Thứ nhất 
là chuộc lỗi với đối tượng mà mình đã phạm. Chẳng hạn, khi lỡ nặng lời với người 
nào đó, chúng ta đến gặp họ để xin lỗi. Hoặc một lần nào đó không kiềm được lòng 
tham, lỡ lấy cắp của người ta một vật gì đó, chúng ta hối hận tìm đến họ xin 
lỗi. Như vậy, chúng ta đã chuộc lỗi với đối tượng mà mình đã phạm. Khi chuộc lỗi 
với họ, lỗi trong tâm chúng ta sẽ hết. 
Trong cuộc đời có rất nhiều tình 
huống để chúng ta phạm lỗi. Có những trường hợp đối tượng mình đã phạm không còn 
nữa để mà xin lỗi. Lúc ấy, chúng ta cũng có thể chuộc lỗi bằng cách phát lồ 
trước Đại chúng. Đây là một nghi thức rất hay trong đạo Phật. Khi có lầm lỗi, 
chúng ta ra trước Đại chúng nói lên lỗi của mình, tâm bất thiện về lỗi đó sẽ 
không còn nữa. Phát lồ với Đại chúng là biểu hiện rất cao lòng can đảm của người 
phạm lỗi. 
 Cách thứ ba là chuộc lỗi bằng cách lễ Phật. Có những lỗi lầm 
không tiện nói với người mình đã phạm lỗi, cũng không có cơ hội để phát lồ với 
Đại chúng, chúng ta chỉ có thể thiết tha trình bày lỗi và ăn năn sám hối với 
đấng tối cao là Đức Phật. Ví dụ, khi phát hiện ra trong mình còn tồn tại tính 
tham lam, chúng ta không biết thổ lộ, sám hối cùng ai. Những tâm niệm rất tế đó, 
chúng ta chỉ có thể quỳ lạy trước Phật mà sám hối. Vì Đức Phật là đấng tuyệt đối 
hoàn hảo về công đức, trí tuệ, từ bi… Lòng tôn kính Phật, công đức lạy Phật sẽ 
làm phước của chúng ta tăng trưởng và tội lỗi của chúng ta vơi đi rất nhiều. Khi 
lễ lạy Phật, chúng ta luôn hướng về tội lỗi của mình, lỗi sẽ được xóa đi rất 
nhanh. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải biết đúng lỗi, có tác ý đúng lỗi 
và hướng về lỗi đó mà ân hận. Có như vậy, chúng ta mới vượt qua được lỗi 
lầm. 
Ngoài ra, trong đạo Phật còn có nghi thức sám hối định kỳ, mỗi 
tháng sám hối hai lần. Đây cũng là nghi thức rất có ý nghĩa. Vì không ai sống mà 
không có lầm lỗi. Mỗi ngày trôi qua, chúng ta đều có thể phạm lỗi lầm. Nếu cứ 
nửa tháng được sám hối một lần, tâm hồn ta sẽ trở nên thanh thản. Nhưng vấn đề 
là sử dụng nghi thức sám hối như thế nào. Hiện nay, có nhiều nghi thức sám hối : 
Hồng Danh, Lương Hoàng sám, Thủy sám… Ở một số chùa, các vị Thầy lớn cũng đặt 
thêm những nghi thức sám hối khác. 
Nhìn chung, nghi thức sám hối đều có 
hai ý nghĩa: kể lỗi và lạy Phật. Hai việc làm này rất đúng trong việc sám hối 
nên hầu hết các vị Tổ đặt ra các bài sám đều dựa trên hai ý nghĩa này. Trong đó, 
bài tụng Lương Hoàng sám rất hay. Khi tụng, người sám hối phải kể tội từng li, 
từng tí. Như vậy, họ sẽ nhìn lỗi mình kỹ lưỡng hơn. Ví dụ, xung quanh việc ăn 
cắp, chúng ta phải thấy rõ: ăn cắp là môt cái tội, xúi người ta ăn cắp cũng là 
một cái tội, thấy người ta ăn cắp mà mình tùy hỷ cũng là một cái tội… Trong tâm, 
chúng ta phải nhìn thấy từng lỗi như vậy để sám hối, lạy Phật rất 
nhiều. 
Nghi thức chung đang sử dụng hiện nay chỉ sám hối lỗi tổng quát 
rồi lạy Phật. (sám hối Hồng Danh, người sám hối phải lạy 89 lạy, còn phần kể 
tội, kể lỗi không nhiều). Hơn nữa, văn kinh bài sám hối lại bằng chữ Nho nên rất 
khó hiểu. Sở dĩ nghi thức sám hối này được phổ biến vì không quá dài như những 
bài sám khác, vừa đủ thời gian cho Phật tử tụng. Trong cuốn Những bài kinh tụng 
do chùa Phật Quang ấn hành có soạn một bài sám hối ngắn để Phật tử có thời gian 
tụng. Trước hết, bài sám hối ca ngợi Đức Phật. Mỗi đoạn ca ngợi một đức tính của 
Phật trong sáu câu (như trí tuệ, từ bi, sự thanh tịnh… ). Sau mỗi đoạn ca ngợi 
Phật, người tụng lạy Phật một lạy. Cứ thế, khi ca ngợi Phật xong, chúng ta đối 
chiếu lại lỗi của mình, kể lỗi mình và tiếp tục lạy Phật. Ví 
dụ,
            Từ chấp ngã ban đầu
            Biến thành tâm ích 
kỷ
            Chỉ nghĩ lợi phần mình
            Mà quên đi tất 
cả
            Bây giờ con ăn năn
            Xin nguyện chừa lỗi 
trước.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (1 lạy)
Như vậy, suốt 
bài kinh, chúng ta lạy khoảng mười lăm lạy. Bài sám hối vừa gọn vừa dễ hiểu, dễ 
tụng lại được phước. 
Nói tóm lại, có nhiều cách chuộc lỗi. Nhưng áp dụng 
nghi thức phát lồ hàng tháng cho từng người sẽ hiệu quả hơn. Vì khi Đại chúng 
tập trung, từng người có lỗi lên phát lồ sám hối, họ sẽ có dịp nhìn thẳng vào 
lỗi của mình.
5. TÂM HỐI HẬN TẠO NÊN CÔNG 
ĐỨC. 
Trong chúng ta, không ai vừa hối hận lại vừa kiêu mạn. Vì 
hối hận chỉ phát sinh khi chúng ta đã phạm lỗi lầm. Bởi vậy, tâm hối hận sẽ giúp 
chúng ta phát khởi tâm khiêm hạ. Ngoài việc xóa lỗi, hối hận còn tạo nền tảng 
đạo đức cho tâm khiêm hạ.  Đây là một lợi ích lớn của tâm hối hận. 
Ví 
dụ, một người tài giỏi dễ phát sinh tâm kiêu mạn. Hệ quả tất yếu của tâm kiêu 
mạn là ô nhiễm. Do tâm bị ô nhiễm nên chúng ta tạo ra lỗi lầm. Khi đã phạm lỗi 
lầm và thấy được lỗi lầm, chúng ta sẽ hối hận. Khi đã biết hối hận, trong chúng 
ta sẽ xuất hiện tâm khiêm hạ. Đó là quá trình tất yếu. Nhưng từ tâm kiêu mạn, 
một người tài giỏi học được tâm khiêm hạ phải trải qua quá trình gần cả một đời 
người. Trong suốt quá trình đó, đôi khi chúng ta phải trả bằng sự đau khổ, tan 
vỡ, phải trả bằng những giá rất đắt mới học được sự khiêm hạ. Đôi khi thấy người 
tài giỏi mà kiêu mạn, chư Phật, chư Bồ Tát đẩy họ vào lầm lỗi để họ học được đức 
khiêm hạ. Đây là điều rất đáng sợ. Bởi vậy, ngay từ đầu chúng ta phải cẩn thận 
kiểm soát tâm mình, đừng để kiêu mạn phát sinh. Đó cũng là lý do vì sao khi học 
môn Tâm lý Đạo đức, chúng ta lại bắt đầu bằng bài Khiêm hạ. 
Những người 
kiêu mạn sau này thường bị phạm phải lỗi lầm. Nhờ có lỗi lầm, họ biết hối hận và 
nhờ hối hận, họ học được hạnh khiêm hạ. Đó là điều đáng quý. Lỗi lầm có thể 
nặng, có thể làm chúng ta đau khổ, ray rứt nhưng điều quan trọng là cuối cùng 
chúng ta đã học được hạnh khiêm hạ từ lầm lỗi ấy. Chúng ta biết rằng, với con 
người, kết quả đạt được sau khi đã trải qua bao đắng cay, chấp nhận bao nhiêu 
điều mất mát là điều quý giá nhất. Bởi vậy, đôi khi chúng ta cũng nên “cảm ơn 
lầm lỗi”. 
Khi chưa có lỗi lớn, chúng ta phải biết sám hối những lỗi nhỏ 
để ngăn ngừa dần. Lỗi nhỏ mà không được nhìn ra, không hối hận, không sám hối sẽ 
đưa chúng ta đến lỗi lớn. Như vậy, cách tốt nhất để tránh lỗi lớn là biết cẩn 
thận sám hối từng lỗi nhỏ.
6. BẤT HỐI. 
Bất hối là không còn hối hận. Khi Thiền định, sắp vào sơ thiền, 
phá được năm triền cái ( tham ái, sân hận, thùy miên, trạo hối, nghi ngờ), chúng 
ta sẽ không còn bị tâm hối hận giày vò nữa vì lúc này, tâm được thanh tịnh. Như 
vậy, tâm bất hối có được là do Thiền định. Mặt khác, người không lầm lỗi cũng sẽ 
không còn hối hận. Vậy, Thiền  định đưa đến bất hối và không có lỗi cũng đưa đến 
bất hối. Ở đây, chúng ta phải hiểu một điều là Thiền định có nghĩa là không còn 
lỗi. Người muốn đạt được Thiền định phải là người có đạo đức rất chuẩn mực, 
không có lỗi lầm. Chính đời sống trong sạch như băng tuyết mới giúp chúng ta đạt 
được Thiền định. Lâu nay, nhiều người lầm tưởng cứ ca ngợi một pháp môn nào đó, 
thực hiện được pháp môn nào đó sẽ đạt được Thiền định. Thực ra, muốn có được 
Thiền định, chúng ta phải bắt đầu bằng đạo đức. 
Thiền định đưa đến bất 
hối. Chính Đức Phật đã nói điều này. Phá được năm triền cái để vào Sơ thiền, 
chúng ta sẽ đạt được bất hối. Khi phạm lỗi lầm, chúng ta liền biết lỗi và không 
tái phạm nhưng trong tâm không có hối hận. Ngay bây giờ, khi chưa chứng được nội 
tâm vắng lặng, chúng ta phải cố gắng tẩy sạch lỗi. Trong việc tẩy sạch lỗi có 
một điều quan trọng là chúng ta phải sống một đời hết sức vị tha, không vì bản 
thân mình. 
Trong cuộc đời, không ai thật sự đã hết lỗi, trừ những vị 
Thánh giải thoát. Vì vậy, chúng ta nên khéo giữ gìn tâm hối hận để giữ được Đạo 
đức. Điều ấy mới nghe qua tưởng chừng vô lý nhưng đó là sự thật. Vì hối hận là 
một nỗi buồn, nhưng là một nỗi buồn rất đẹp và cao cả. Chúng ta đừng nghĩ mình 
học Đạo, sống trong môi trường Đạo thì không có lỗi. Hãy nhìn sâu vào tâm mình, 
chúng ta sẽ nhìn thấy tất cả những vô minh trong đó. Đó chính là lỗi. Khi hiểu 
rằng lỗi mình chưa hết, chúng ta phải cố gắng giữ tâm hối hận để giữ được Đạo 
đức. Giữ tâm hối hận cũng như giữ một pháp môn Thiền định: giữ một câu niệm 
Phật, giữ phương pháp điều hòa hơi thở… Lúc nào chúng ta cũng xét lỗi mình để 
hối hận. Hễ lỗi này tan rồi, chúng ta tìm lỗi khác để tiếp tục hối hận. Cứ như 
thế cho đến khi tội lỗi tan ra, tan ra, chúng ta sẽ đạt được cái bất hối của 
Thiền định. Như vậy, hối hận cũng có thể được xem là một pháp môn để chúng ta 
nhập được vào định. 
Những lỗi lớn, tâm hối hận dễ thấy. Nhưng những lỗi 
vi tế, tâm hối hận khó thấy hơn. Tuy nhiên, chúng ta cố gắng giữ tâm hối hận vì 
tham, sân, si, mạn chưa bao giờ thật sự đã được nhỗ sạch gốc. Trong chúng ta, 
không ai dám khẳng định là mình đã chấm dứt được tham, sân, si. Khi tin rằng 
mình còn tham, sân, si, mạn, chúng ta luôn luôn hối hận về bốn điều này để dần 
dần tẩy rửa chúng. Chúng ta biết rằng, lỗi chỉ tiếp tục tồn tại và phát triển 
khi chúng ta không hối hận về nó. Một khi đã biết lỗi và hối hận, lỗi sẽ không 
phát triển được nữa. Đó cũng là một cách để xóa được tội.
Chúng ta đã 
từng nghe bài kệ: “Tánh tội vốn không do tâm tạo, tâm nếu diệt rồi tội sạch 
trong, tội trong tâm diệt cũng là không, như thế mới là chân sám hối”. Bài kệ 
còn nhiều điểm phải bàn. Trước hết, nói “tánh tội không do tâm tạo” cũng có thể 
chấp nhận được. Thực ra, tội làm ra bên ngoài không có thật nhưng do tâm bất 
thiện khởi lên nên mới tạo tội ra bên ngoài. Nhưng cho rằng: “tâm nếu diệt rồi 
tội sạch trong”- diệt cái bất thiện bên trong rồi thì cái tội bên ngoài mất- là 
điều cần phải xem lại. Có khi tâm bất thiện đã rửa được nhưng tác hại đã gây ra 
cho người khác vẫn còn nguyên vẹn. Người tạo tội vẫn phải chịu trả quả báo. 
Chúng ta phải hiểu tội làm bên ngoài và tâm bất thiện có sự khác nhau. Tâm thanh 
tịnh nghĩa là cái bất thiện bên trong không còn nữa nhưng tội mình đã gây ra cho 
chúng sinh bên ngoài vẫn còn đó, quả báo vẫn còn chờ đó. Bởi vậy, câu nói : “Tâm 
nếu diệt rồi tội sạch trong” là không chính xác. Người viết câu này muốn đi tìm 
chân sám hối bằng cách giữ tâm thanh thản. Sợ hối hận là cái “động”, không phù 
hợp với Đạo nên họ đưa ra một bài kệ giúp người học đi tìm tâm thanh thản mà 
không tìm tâm hối hận. Thực ra, đi tìm tâm thanh thản sớm quá mà bỏ qua hối hận, 
buồn phiền là một điều tai hại. Nếu không có hối hận, tội của chúng ta sẽ không 
bao giờ hết. Chừng nào trả xong quả báo, chừng đó tội tác hại chúng sinh bên 
ngoài mới hết. Vậy, không có con đường nào làm hết tâm bất thiện bằng con đường 
hối hận. Phải nhìn thấy lỗi và hối hận vì mình đã gây ra lỗi ấy thì bất thiện sẽ 
không còn. 
Như vậy, đừng bao giờ chủ quan tin mọi điều mình đã học là 
đúng. Chúng ta phải cảnh giác với điều bài kệ đã nêu, đừng vội tìm sự thanh thản 
khi tâm bất thiện chưa thật sự hết. Trong cuộc đời tu hành, chúng ta cứ mạnh dạn 
đi tìm sự buồn phiền của hối hận. Vì đó là một nỗi buồn rất đẹp, nỗi buồn làm 
sáng lên nhân cách của mình, làm cho tâm mình trở nên cao thượng hơn. Nhờ vậy mà 
chúng ta sẽ được giải thoát. Có nhiều pháp môn dạy chúng ta vội vàng đi tìm sự 
thanh thản, bỏ qua việc tẩy trừ tâm bất thiện. Đó là điều nguy hiểm. Chúng ta 
phải ghi nhớ một điều: Cái tội của tâm được xem là hết khi sự hối hận được cố ý 
giữ gìn cho đến khi tự tan biến. Nhưng quả báo vẫn phải trả. 
Ví dụ, khi 
đã lỡ tay tát huynh đệ một cái, chúng ta biết mình sân và hối hận hết ngày này 
sang ngày khác. Nỗi hối hận cứ giày vò mình mãi, không lúc nào buông. Đến một 
ngày nào đó, chúng ta cố gắng giữ mà không giữ được nữa. Đó là lúc hối hận đã tự 
tan biến, cũng là lúc tội mình đã hết. Cái bất thiện đã tan, cái tội đối với 
huynh đệ bên ngoài cũng xóa được một nửa. Tâm hối hận rất hay. Vì thế, khi có 
lỗi, chúng ta cố gắng giữ tâm hối hận cho kỹ, đừng buông, đừng quên nó. Đến khi 
không giữ được nữa nghĩa là tội đã tan và chúng ta đã thành công. 
7. KHI CHỈ LỖI CHO NGƯỜI. 
Sau này khi 
lớn lên, chúng ta sẽ có sư đệ hoặc đệ tử. Khi thấy họ phạm lỗi lầm, chúng ta 
phải chỉ dạy. Chừng nào nhận thấy người có lỗi thật sự khởi lên niềm hối hận, 
chừng đó chúng ta mới tin họ đã nhận lỗi. Để nhận biết điều này, chúng ta phải 
dựa vào kinh nghiệm. Khi chỉ lỗi, phân tích lỗi cho đệ tử, nhìn trên nét mặt họ 
thấy nỗi buồn của hối hận hiện lên, chúng ta biết ngay người ấy đã nhận ra lỗi. 
Ngược lại, khi phân tích lỗi cho đệ tử nghe, họ chỉ vâng dạ và chắp tay cung 
kính nhưng nét mặt vẫn tỉnh, không có vẻ gì buồn bã hay xúc động, chúng ta biết 
rằng người ấy chưa nhận ra lỗi, chỉ giả vờ cho qua chuyện. 
Khi phân tích 
lỗi rất kỹ, rất khéo mà người có lỗi vẫn không nhận ra lỗi, không hối hận, chúng 
ta phải xem lại. Một là do thiện căn của người có lỗi ít quá. Nếu có thiện căn 
lớn, họ sẽ nhận lỗi rất nhanh. Ngược lại, nếu thiện căn ít, họ khó nhận ra lỗi 
của mình. Hai là do cách chỉ lỗi hoặc do đức độ, trí tuệ của mình. Nếu có đức 
lớn, chúng ta sẽ giúp người ta nhận ra lỗi nhanh hơn. Nếu đức độ và trí tuệ kém, 
sự chỉ lỗi của mình không những không thuyết phục được người có lỗi thậm chí còn 
gây cho họ sự chán nản, bất bình. 
 Bởi vậy, khi chỉ lỗi cho người mà 
không đem lại kết quả, chúng ta phải xét lại hai nguyên nhân để khắc phục. Nếu 
đức độ, trí tuệ của mình còn kém, chúng ta phải tu tập thêm tâm từ bi, phải lạy 
Phật thật nhiều để tăng đức độ. Nếu cảm thấy mình đã có đủ những điều kiện ấy 
nhưng người có lỗi vẫn không chịu hối hận, chúng ta biết họ thiện căn thấp quá 
nên khó tu. Với những người như vậy, chúng ta khoan độ cho xuất gia, giữ họ tu 
tại gia thêm. Nói tóm lại, sự cảm hoá lệ thụôc vào thiện tâm của người có lỗi và 
đức độ của người chỉ lỗi.