1. ĐỊNH NGHĨA.
Bản thân chữ Tự
tại khó có thể định nghĩa được một cách chính xác. Tuy nhiên, chúng ta có thể
hiểu Tự tại là những cách sống, biểu hiện của chính mình không còn lệ thuộc, chi
phối và lay động bởi ngoại cảnh. Đây cũng là bài quan trọng trong chuỗi bài nói
về đạo đức của một người tu theo Phật.
2.BIỂU HIỆN CỦA TỰ TẠI.
Ở các tôn giáo khác, người ta có thể ca ngợi những giá
trị nào đó của con người theo quan niệm của tôn giáo mình. Riêng trong đạo Phật,
chúng ta ca ngợi rất nhiều về tinh thần tự tại, ung dung trong đau khổ, trong
chết chóc và khi đối diện với những nghịch cảnh của cuộc đời. Tinh thần tự tại
được xem là một đạo đức rất cao của những người tu theo đạo Phật. Vì vậy, một
người khi gặp những nghịch cảnh đau lòng mà vẫn thản nhiên, không buồn khổ được
gọi là người đã tu tập rất cao, có thái độ ung dung, tự tại trong đời
sống.
Trong đạo Phật, chúng ta từng được nghe kể rất nhiều về gương sống
Tự tại của Đức Phật, chư Tổ, của các vị Thiền sư. Đó là những con người trước
muôn trùng sóng gió, đau khổ của cuộc đời vẫn đối diện một cách vững chắc và
bình thản. Họ không bị ngoại cảnh làm phát khởi đau khổ, làm cho phiền não.
Không chỉ riêng trong đạo Phật, ngay cả các Tôn giáo khác, nếu vị giáo Tổ hay vị
triết gia nào thể hiện được tinh thần ung dung trước nghịch cảnh cũng đều được
muôn đời sau ngợi ca, tin tưởng và xem như đó là một sự thành tựu vững chắc
trong triết lý, tư tưởng của họ.
Ví dụ, Khổng Tử - một chính trị gia,
một triết gia nổi tiếng của phương Đông- cũng được ca ngợi là người có tinh thần
ung dung, tự tại. Có lần, ở nước Trần, Khổng Tử rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, bị
người ta hất hủi, xua đuổi, không có gì để ăn nhưng ông vẫn ung dung ngồi đánh
đàn. Những đệ tử thấy vậy than phiền vì trong hoàn cảnh khốn cùng như vậy mà
Thầy vẫn coi như không có gì xảy ra. Khổng Tử đã nói với họ rằng: “Cuộc đời cứ
ung dung trôi đi, còn con người cứ bình thản mà sống”. Chính thái độ sống như
vậy đã khiến cho những người theo đạo Nho đến bây giờ vẫn tin tưởng vào vị giáo
Tổ của mình - con người không bị lung lay bởi ngoại cảnh. Mặc dù không giải
thích được nhưng người ta vẫn cho rằng đó là sự thành tựu rất cao của tư tưởng,
của tâm hồn, của nhân cách một con người.
Hoặc Lão Tử – một con người
siêu việt, một người có tâm linh đặc biệt – cũng được người đời ngợi ca. Ông đã
viết cuốn: Đạo đức kinh để lại cho đời sau một triết lý sống rất cao cả. Tuy
sống một cuộc đời đạm bạc nhưng Đạo đức của ông cao ngất khiến ai cũng khâm
phục. Phải là người chứng ngộ tâm linh rất cao, ông mới có thể vượt thoát mọi
ràng buộc, không màng đến danh lợi và để lại một triết lý thâm sâu như
vậy.
Chính sự xuất hiện của những người như Lão Tử, Khổng Tử đã làm
phong phú cho nền văn hóa cũng như cho triết lý của phương Đông mà đến muôn đời
sau, người ta vẫn còn phát triển và vận dụng. Triết lý ấy đã tạo nên một lối
sống vừa nghiêm cẩn vừa thanh thoát của người phương Đông. Vì vậy, khi đạo Phật
du nhập sang Trung Hoa, gặp gỡ hai tư tưởng ấy và đã kết hợp để tạo nên một nền
văn hóa thật tuyệt vời. Có thể nói, đỉnh cao trí tuệ, triết học của loài người
tụ hội lại nơi mảnh đất Trung Hoa. Là nước lân cận, Việt Nam chúng ta cũng tiếp
nhận được cả ba nguồn văn hóa đó nhưng hoàn chỉnh nhất và đầy đủ nhất vẫn là đạo
Phật. Chúng ta có thể xem đạo Phật như là cái nền có khả năng dung hợp được
những tư tưởng của các tôn giáo khác.
Nhắc đến những người nổi tiếng có
cuộc sống ung dung tự tại, chúng ta không thể không kể đến Socrate - một triết
gia Hy Lạp, người được xem là có công khai sáng nền triết học phương Tây. Ông là
một nhà tư tưởng, nhà triết học đồng thời cũng là một nhà giáo dục đã để lại cho
nhân loại nhiều tư tưởng quý báu. Thời ông sống, không có phương tiện truyền
thông như bây giờ. Vì vậy, ông chỉ truyền bá tư tưởng của mình bằng cách đi hết
nơi này đến nơi khác để nói chuyện. Những lúc như vậy, ông cảm thấy như đó là
một thiên chức, một sứ mạng cao cả nên rất hứng khởi và nói rất say sưa. Ông có
một nghệ thuật, một cách nói rất thuyết phục khiến nhiều người tin tưởng và đi
theo triết lý của ông. Đôi lúc, thấy ông không lo làm ăn, chỉ đi nói chuyện, vợ
ông cũng buồn và có vài phản ứng. Thậm chí, có lúc bà còn mắng ông, đuổi ông ra
khỏi nhà; có khi còn tiện tay tạt luôn ly nước vào mặt ông… nhưng ông vẫn coi
như không có gì xảy ra, không giận, không buồn. Nhiều lúc ông còn tự hào, nhờ có
bà vợ như vậy mà ông trở thành triết gia. Trong sự nhẫn nhịn trước những phản
ứng của vợ, ông đã tìm ra nhiều đạo lý sống.
Là nhà tư tưởng nhưng
Socrate có những biểu hiện khiến người đời không sao hiểu nổi. Một lần, khi đang
đi ngoài đường phố, ông đứng lại suy tư, trầm ngâm rồi nhập định luôn. Cứ thế,
suốt một ngày, một đêm ông đứng bất động ngoài đường phố, sáng hôm sau mới xuất
định và trở về nhà. Đó là những con người không đơn giản.
Ngày xưa, ở
phương Tây, người ta dùng chữ philosopher để chỉ những triết gia. Nhưng chính
xác, philosopher phải hiểu là đạo sĩ. Những người như vậy thường có năng lực tâm
linh rất lớn. Ngoài việc có tư tưởng, đạo lý để tryền bá cho mọi người, họ còn
có năng lực tâm linh rất phi thường. Càng về sau này, những người đuợc gọi là
philosopher chỉ còn khả năng thuyết giảng, không còn tâm linh phi thường như
những philosopher trước kia nữa. Điều này cũng có thể hiểu tương tự như trong
đạo Phật chúng ta. Thời Đức Phật, Ngài có trí tuệ, từ bi, thầân thông diệu dụng…
nhưng bây giờ chúng ta giảng về đạo Phật chỉ có triết lý chứ không còn những
biểu hiện siêu việt như Ngài.
Đệ tử của Socrate là Platon, đệ tử của
Platon là Aristote là những người được coi là những vị giáo Tổ, để lại bao nhiêu
tư tưởng quý giá cho nền triết học Tây phương. Sau đó, nền triết học Tây phương
có ảnh hưởng rộng khắp trên thế giới. Tuy nhiên, xét cho cùng, hiện nay người ta
vẫn thích triết học Đông phương hơn. Nhiều người đã học theo Tây phương rất
nhiều cuối cùng cũng tìm đến triết học Đông phương vì sự sâu sắc, thâm thúy của
nó. Triết học của người phương Tây không đi sâu vào tâm linh như người phương
Đông nên khả năng đứng bất động như Socrate không được truyền dạy lại và vì thế
cũng dần dần bị mai một đi.
Trở lại những câu chuyện kể về Socrate,
chúng ta thấy ông thường hay nói chuyện đạo với người khác và dĩ nhiên khi nói
chuyện đạo, ông có sửa những sai lầm của người này, người nọ nên đụng chạm đến
những người có thế lực đương thời. Xung đột ngày càng trở nên gay gắt. Trong khi
đó, quần chúng theo ông ngày càng đông. Một lần, do có người ganh ghét, vu
khống, ông bị bắt và bị buộc phải uống thuốc độc. Ông đã ung dung thanh thản đón
nhận cái chết bằng cách bưng ly thuốc độc uống và tiếp tục nói chuyện với các đệ
tử của mình trong khi họ đang đứng khóc chung quanh ông. Sau đó, ông mệt quá,
nằm xuống và nói với các đệ tử: “Bàn chân đã lạnh rồi, lạnh dần lên đầu gối rồi,
lạnh lên đến ngực là chết”. Khi cơ thể đã lanïh đến bụng, ông dặn dò đệ tử vài
điều rồi trút hơn thở cuối cùng.
Tất cả những điều đó đã để lại cho
chúng ta sự cảm phục. Rõ ràng, phải có sự thành tựu thật sự trong nội tâm, trong
tinh thần, họ mới nói được đạo lý và có những biểu hiện rất tự tại như vậy.
Chính sự tự tại đó làm cho họ có sức mạnh, có sức sống, niềm tin, niềm hạnh phúc
và có giá trị để không còn lệ thuộc bên ngoài nữa, khiến cho mọi người thán
phục.
3. NHỮNG ĐIỀU CẦN PHẢI NHÌN LẠI.
Một thời gian rất dài, khi đến với đạo Phật, nhiều người cũng hâm
mộ thái độ tự tại đó. Mấy chục năm trở lại đây, Thiền tông xuất hiện trở lại ở
Việt Nam. Những sách vở thiền luôn ca ngợi sự tự tại của thiền sư khiến những
người hậu học chúng ta đâm ra quá thích thái độ tự tại đó. Vì quá thích và ước
muốn đời sống tự tại trong khi công hạnh chưa dày, phước lực mỏng nên nhiều
người đã bị đổ vỡ. Đây là điều rất tai hại không chỉ cho cá nhân mà còn cho cả
Phật pháp. Thật ra tự tại là kết quả của bao nhiêu chuỗi công hạnh phía trước.
Khi đã có được chuỗi các công hạnh, tự tại mới xuất hiện như là một biểu hiện
rất tự nhiên. Nhưng vì vội vã tìm đến tự tại sớm quá nên tự tại bị mất căn bản,
phát sinh nhiều phản ứng phụ, làm đổ vỡ sự tu hành của chúng ta.
Chúng
ta biết rằng, Thiền định đưa đến trí tuệ. Nhờ công phu Thiền định sâu thẳm,
chúng ta cũng có được sự tự tại. Nghĩa là, tự tại chỉ là một nhánh nhỏ, một hệ
quả nhỏ của Thiền định. Nhưng nếu không biết, chỉ lấy tự tại làm mục tiêu để
hướng đến, chúng ta sẽ sinh ra ngông cuồng, làm tổn phước rất nặng. Khi đến với
chùa, không ít cư sĩ nghe người ta nói lõm bõm về một đạo Phật có các vị Thánh,
các vị Thiền sư sống một cách ung dung tự tại, có những biểu hiện lạ lùng, vượt
ra ngoài khuôn phép bình thường. Thế rồi họ cũng bắt chước, nhiều khi cũng nói
năng ngông cuồng. Những điều đó làm cho họ tổn phước. Vì vậy, tự tại cũng nguy
hiểm vì có những phản ứng phụ, chúng ta phải cẩn thận.
4. HIỂU SAI VÀ LẠM DỤNG.
Tự tại có rất
nhiều ý nghĩa nhưng có thể bị hiểu sai và lạm dụng.
Trước hết, tự tại có
thể bị hiểu sai trở thành ích kỷ. Bản thân chữ tự có nghĩa là chính mình. Trong
đạo Phật, chữ tự này xuất hiện rất nhiều. Trong Thiền tông, chúng ta thường nghe
câu: “Phản quang tự kỷ bổn phận sự”. Nghĩa là nhiệm vụ, việc làm gốc của người
tu là soi lại chính mình. Đặc biệt, danh từ Thiền giáo thường nhấn mạnh đến: tự
tánh, tự tâm, tự kỷ… Đó là những chữ nhắc nhở người tu thiền luôn luôn đi tìm
những giá trị tồn tại nơi chính mình. Nếu người nào hướng ngoại, đi tìm những
giá trị từ bên ngoài, đều bị các thầy lớn nhắc nhở: “ Kho báu trong nhà không
tìm mà lang thang ra bên ngoài”. Nghĩa là nơi chính mình có đầy đủ hạnh phúc,
trí tuệ, giá trị, trăng gió xưa nay chưa từng hết, cứ nơi đó mà tha hồ thưởng
ngoạn, không có gì phải sợ hết, không việc gì phải tìm ra bên ngoài. Chữ tự có
nghĩa là vậy. Nhưng chữ tự ấy cũng chính là tự ngã. Quả thật, khởi điểm của sự
tu hành phải chính nơi nội tâm của mỗi người, nhưng cứ đứng tại đó thì chúng ta
sẽ củng cố cái bản ngã của mình, củng cố cái chấp ngã của mình, dễ làm cho tự
ngã tăng trưởng.
Mặt khác, người tự tại không bận tâm gì đến ngoại cảnh
nên cũng không bận tâm gì đến những người chung quanh. Sống như vậy, vô tình họ
đánh mất đi sự vị tha mà không hay biết. Một khi không sống vị tha nghĩa là vị
kỷ đã xuất hiện. Bởi vậy, nếu không có gốc, cứ đi tìm tự tại trong khi bao nhiêu
công hạnh phía trước không thực hiện được, dần dần chúng ta sẽ rơi vào sai lầm.
Nhiều người khi đi tìm sự tu tập, khát khao giải thoát, khát khao giác ngộ, hết
sức tinh tấn, vào thất đóng cửa ngồi thiền định hoặc ở trong đại chúng mà sống
như giữa không người, không quan tâm đến ai, không lệ thuộc vào hoàn cảnh bên
ngoài… và cứ tưởng như vậy là sự giải thoát, tự tại. Không ngờ, lối sống đó làm
lòng ích kỷ lớn dần, không còn thông cảm đến những cảnh vui khổ của
người.
Chúng ta vẫn thường ước mơ về một thế giới mà ở đó con người luôn
luôn biết thương yêu nhau. Chưa nói gì đến những vấn đề cao siêu, nếu mọi người
đều thương yêu nhau thì thế gian này sẽ trở thành thiên đường, hạnh phúc sẽ tràn
ngập. Hiện tại, có thể chúng ta còn bị thiên tai, đói khổ, bệnh tật đe dọa nhưng
trong hoàn cảnh đó nếu con người ai cũng yêu thương nhau, cũng giúp đỡ nhau thì
hạnh phúc, niềm vui vẫn tràn đầy.
Mãi về sau tôi có viết những dòng thơ
để nói
Sẽ chỉ nói lên để ca ngợi tình thương
Của con người vì
nhân loại quê hương
Của hạnh phúc thoát ra ngoài tội lỗi
Mãi về
sau tôi có viết những dòng thơ để nói
Sẽ nói lên để ca ngợi sự an
nhiên
Hạnh phúc nào thong thả tựa thần tiên
Rất thanh thoát ung
dung và đỉnh đạc
Mãi về sau tôi có viết những dòng thơ để hát
Sẽ
đoàn kết mọi người trong một trái tim chung
Hạnh phúc thiêng liêng và vĩ
đại vô cùng
Một là tất cả và tất cả mọi người là một.
Khi công
phu tu hành đúng hướng, tâm chúng ta dần dần trở nên quan tâm đến những người
chung quanh nhiều hơn. Nhu cầu của huynh đệ, nét buồn trên gương mặt khách, vẻ
xanh xao của bạn… đều được ta nhận ra nhanh chóng và tìm cách giúp đỡ. Nếu dụng
công sai, chúng ta sẽ càng lúc càng tự tại mà quên dần người chung
quanh.
Đức Phật đã từng dạy, một giáo lý phải thực hành, phải xem xét tới
lui đến khi tin chắc đây là lẽ phải mới chấp nhận. Giáo lý về sự tự tại cũng
vậy, cũng phải được xem xét tới lui qua nhiều góc độ để thấy rõ ưu và khuyết
điểm của nó. Và rồi chúng ta đều sẽ thấy rằng người tu khi bớt lo cho bản thân
mình, nghĩa là bớt ngã chấp, thì vị tha sẽ xuất hiện rất tự nhiên. Lúc ấy, cuộc
sống của huynh đệ chung quanh hiện ra trước mắt để họ phải lo lắng, giúp đỡ và
đó cũng là một bổn phận, một đạo lý, một bước tiến nho nhỏ trên đường tu. Còn
người nào có thể tiến xa, vượt trội hơn để sống một cuộc đời vị tha trọn vẹn vì
tất cả chúng sinh thì điều đó quá lý tưởng, là niềm mong ước của tất cả mọi
người.
Cần lưu ý một điều, khi đi tìm sự tự tại, nhất là càng chứng tỏ
sự tự tại của mình bao nhiêu, người ta càng mất vị tha bấy nhiêu. Vì vậy, lúc
đầu có người hơi nghi ngờ về giáo lý của sự tự tại. Mãi đến sau này, trải qua
một thời gian dài tu hành, người ta mới củng cố lại được lý luận về sự tự tại để
hiểu thế nào là sự tự tại đúng và thế nào là tự tại sai.
Như vậy, biểu
hiện của tự tại sai trước hết là lệch qua ích kỷ vì điều gì cũng cho là do chính
mình, do nơi mình mà quên đi mọi người. Biểu hiện thứ hai là hiểu sai tự tại trở
thành thờ ơ, lãnh đạm. Cứ đi tìm và duy trì sự an nhiên tự tại của chính mình
nên đối với ngoại cảnh, chúng ta không còn trách nhiệm, chỉ sống bàng quan, dửng
dưng. Ngay đối với niềm vui và nỗi khổ của chúng sinh, chúng ta cũng thờ ơ để
trở thành người thiếu từ bi, thiếu tình người.
Sở dĩ chúng ta xem đây là
một lệch lạc của Tự tại vì người tu đúng sẽ bất động khi những nghịch cảnh như
khen chê, đau khổ, mất mát… ập đến với chính mình nhưng phải đồng cảm với khổ
vui của người, không được tỏ thái độ bàng quan, dửng dưng. Ví dụ, khi bị một
người nào đó mắng chửi, chúng ta không giận dữ là lúc ấy chúng ta bất động. Đó
là một thái độ rất đúng đắn. Nhưng khi có người nào đó đến nói với mình đêm qua
nhà họ bị cháy, tất cả tài sản không cứu được, chúng ta không được tỏ thái độ
lãnh đạm. Tất nhiên, chúng ta không khổ theo nỗi khổ của chúng sinh mà phải có
sự đồng cảm, tìm cách an ủi, giúp đỡ họ. Chúng ta phải hiểu, đồng cảm là vui với
niềm vui của người và sẻ chia nỗi khổ với họ khi họ tìm đến với mình. Đây là đạo
đức mà người tu không thể thiếu được.
Chúng ta còn nhớ câu chuyện một
người mù ca ngợi thiền sư Bankei. Ông bị mù, không nhìn thấy được nét mặt người
khác nên chỉ đánh giá con người qua tiếng nói của họ. Chẳng hạn, có người nghe
người khác khổ cũng tỏ ra tội nghiệp nhưng trong âm thanh lời nói vẫn có cái
mừng trong đó, mừng vì người ta sẽ thua mình. Có người thấy người khác thành
công cũng khen nhưng trong lời khen đó ông vẫn lắng nghe điều gì bực bội, đó là
cái bực bội vì người ta hơn mình. Với ông, chỉ có thiền sư Bankei mỗi khi san sẻ
nỗi buồn của người khác, trong âm thanh của lời nói có trọn vẹn nỗi buồn. Hoặc
khi Ngài khen sự thành công của người khác, ông nghe được trong âm thanh ấy trọn
vẹn nỗi vui mừng. Nghĩa là Ngài luôn đồng cảm, sẻ chia một cách chân thành với
niềm vui và nỗi khổ của chúng sinh.
Nếu muốn đạt đến Tự tại mà trước đó
không chuẩn bị một cách căn bản thì sự Tự tại của chúng ta sẽ kéo theo những sai
lầm. Đó là sự ích kỷ, lãnh đạm, thờ ơ. Vì vậy, đối với bản thân mình, người tu
không để khổ vui chi phối nhưng đối với khổ vui của chúng sinh phải có sự đồng
cảm. Tuy nhiên, sự đồng cảm của chúng ta không giống người đời. Nghĩa là không
có buồn khổ uỷ mị hay vui hả hê theo khổ vui của người khác. Sự đồng cảm, vui
buồn của người tu phải thật sự nhẹ nhàng nhưng sâu sắc.
Ví dụ, với người
đời, ghét là không ưa, trong lòng bực bội tức tối, ghét cay ghét đắng. Nhưng với
chúng ta, nếu nói ghét điều gì đó (người mặc áo dài mà mặc quần xà lỏn chẳng
hạn) có nghĩa là không bằng lòng, không thích như vậy chứ không tức tối, bực bội
hay phải ruồng bỏ. Nghe chữ ghét có vẻ nặng nề, cường điệu nhưng thật sự trong
tâm chúng ta rất nhẹ nhàng, chỉ là sự không bằng lòng mà thôi.
Sở dĩ
chúng ta không tỏ ra quá quắt khi đồng cảm vì khi người ta đến với mình, trong
sự bất động đó, chúng ta khởi được cái dụng. Nếu nghe người ta có chuyện buồn,
chúng ta có nỗi buồn cùng họ. Trước nỗi đau khổ ghê gớm của người, chúng ta vẫn
có tâm trạng buồn để chia sẻ nhưng nỗi buồn ấy không thành một cái xao động của
cảm giác quá mạnh ở phía trên. Đó chính là cái dụng của tâm, của sự đồng cảm do
Đạo đức của lòng từ bi phát ra chứ không phải là nỗi buồn bình
thường.
Những người hiểu lệch về tự tại, cố biểu hiện tự tại cũng sẽ trở
thành kiêu mạn. Vì sao như vậy? Vì người ấy lo đi tìm giá trị tự tại, chỉ sống
với chính mình không cần tôn trọng ai. Chúng ta biết rằng, khiêm hạ có được là
do mình biết tôn trọng người khác. Càng tôn trọng nhiều người, tâm khiêm hạ càng
lớn. Một khi không còn ai để tôn trọng, kiêu mạn sẽ phát sinh. Đây là điều rất
nguy hiểm.
Khi tu tập cũng vậy. Trước hết, chúng ta phải biết lạy Phật
với trọn lòng tôn kính để giữ gốc công đức. Công đức lễ Phật làm chúng ta được
phước rất lớn nhưng tâm khiêm hạ vẫn chưa nhiều. Vì Phật là một vị Thánh quá
tuyệt đối. Khi tôn kính Ngài, nơi tâm chúng ta sẽ dần dần xuất hiện những công
đức vi diệu, những tư cách của bậc Thánh nên công đức rất lớn. Nhưng tâm khiêm
hạ vẫn chưa nhiều vì trước một bậc Thánh quá vĩ đại như vậy, chúng ta có đảnh
lễ, tôn kính cũng là điều bình thường. Nhưng nếu tận trong thâm tâm có được lòng
cung kính, biết ơn đối với những vị có niên cao, lạp trưởng nhưng kém tài hơn
mình thì tính khiêm hạ lại càng lớn hơn.
Ví dụ, gặp một vị Thượng tọa,
một vị Hòa thượng tu trước dù vị đó chưa đắc đạo, có khi còn kém tài hơn mình,
chúng ta vẫn cúi đầu đảnh lễ, vẫn tôn kính thì tâm khiêm hạ của chúng ta rất
lớn. Dù sao họ vẫn là những người đi trước, thời gian tu hành tích lũy lâu, có
đức hơn chúng ta và là một trong những mắc xích quan trọng nối tiếp nhau giữ gìn
Phật pháp qua từng thời đại, qua từng thế hệ. Đảnh lễ những vị tôn túc ấy là
chúng ta biết ơn họ, tôn kính họ – những người đã có công giữ gìn Phật pháp. Tôn
kính được những người bình thường ấy chứng tỏ tâm khiêm hạ của chúng ta đã
vững.
Hoặc cung kính, biết ơn các huynh đệ ngang hàng với mình, tâm
khiêm hạ của chúng ta càng lớn hơn và có thể tiêu trừ được kiêu mạn. Ví dụ, khi
có lỗi lầm gì, chúng ta ra trước đại chúng sám hối, đảnh lễ một cách chân thành
dù đó chỉ là những huynh đệ ngang với mình, thì tâm khiêm hạ rất cao. Chính sự
khiêm hạ này là công đức gốc làm cho kiêu mạn không còn nữa.
Như vậy,
đối tượng kính trọng càng tầm thường bao nhiêu, tâm khiêm hạ của chúng ta càng
lớn bấy nhiêu. Hiện nay, người tu hành chúng ta đã đảnh lễ được đến đại chúng,
đến những huynh đệ ngang với mình. Nhưng lý tưởng trong đạo là chúng ta phải tôn
trọng những đối tượng thấp hơn nữa như lời một bài hát: “ Xin Phật dạy cho con
được lòng khiêm cung, hiểu mình như sương như bụi, xin quỳ lạy nơi nơi, dù cỏ
cây hay cánh chim bạt trời”.
5. TIẾN
TRÌNH ĐƯA ĐẾN TỰ TẠI.
Chúng ta đã biết, khởi điểm của sự tu hành
là ba công hạnh căn bản: Tôn kính Phật - Từ bi và Khiêm hạ. Từ ba công hạnh này
sẽ xuất hiện vô số những công hạnh khác mà chúng ta đã khảo sát trong những bài
trước.
Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là giới. Giới có hai mức: thấp
hơn Đạo đức và cao hơn Đạo đức. Thấp hơn Đạo đức là những giới điều bình thường,
những quy định bình thường như: đi chứ không được chạy. Giới cao hơn Đạo đức
chính là sự vô cấu, vô nhiễm. Phải có công đức rất vững mới đạt được sự vô nhiễm
này. Người nào muốn giữ được sự vô nhiễm phải thực hành kỹ ba tâm hạnh
trên.
Khi đã có đủ các yếu tố ấy, chúng ta mới thành tựu Thiền định,
nghĩa là trong tâm chúng ta mới xuất hiện được định lực khi ngồi Thiền. Khi đã
thành tựu Thiền định, trí tuệ và sự giải thoát mới xuất hiện. Người nào cứ hăm
hở tu Thiền mà không biết đến những công hạnh phía trước, người đó sẽ không
thành công.
Như đã nói ở phần trước, Thiền định có nhiều nhánh. Tự tại
là một nhánh quan trọng của Thiền định, là một biểu hiện tự nhiên của người tu
tập chứ không phải là đường đi chính của Thiền định. Tự tại sẽ xuất hiện song
song với Thiền định một cách tự nhiên chứ không phải là mục tiêu phấn đấu để đạt
được. Do vậy, cứ cố ý đi tìm tự tại, chứng tỏ tự tại là chúng ta đã hiểu sai về
Phật pháp. Khi nội tâm bất động, thái độ tự tại sẽ xuất hiện. Đó là cái chúng ta
không quan tâm, không cố ý đi tìm nhưng nó vẫn xuất hiện. Chúng ta nên nhớ điều
này.
Tương tự như vậy, trên con đường thẳng đi đến Thiền định, có vô số
những biểu hiện bất ngờ xuất hiện. Đó cũng là những cái chúng ta không quan tâm.
Nếu cứ chứng tỏ cho mọi người thấy mình sống trên đời này an nhàn, ung dung, tự
tại là chúng ta đã sai. Đó chỉ là sự khoe khoang.
6. TỰ TẠI ĐÚNG BAO GỒM CÁC HẠNH KHÁC.
Tự tại đúng phải bao gồm những đức hạnh khác. Trước hết, đó là sự
nhẫn nhục trước nghịch cảnh. Khi đã tự tại, chúng ta không có sự sầu khổ vì
những chuyện buồn phiền xảy đến với mình, nhưng vẫn có lòng bi mẫn đối với nỗi
khổ của chúng sinh. Đây là sự đồng cảm mà chúng ta đã đề cập ở phần trước. Ví
dụ, khi bị mất một chiếc xe, lòng chúng ta vẫn bất động, không có sự lo lắng,
buồn phiền hay chán nản. Đó là tự tại nhẫn nhục. Nhưng khi người khác bị mất xe,
chúng ta laiï xót xa, đồng cảm với họ. Điểm này gọi là trung đạo. Hai thái độ
này trái ngược nhau nhưng hỗ trợ, làm nên sức mạnh cho nhau. Cái này xuất hiện,
cái kia sẽ không có và ngược lại. Hay nói cách khác, khi vị tha xuất hiện thì vị
kỷ sẽ vắng mặt và ngược lại, vị kỷ tồn tại thì vị tha sẽ biến mất. Trong cuộc
sống, nếu đồng cảm, quan tâm đến những vui, buồn của người khác thì tự nhiên
chuyện của mình sẽ không còn nữa, chúng ta trở thành người tự tại mà không hay.
Nếu cứ quan tâm, buồn vui sướng khổ theo chuyện của mình thì chuyện của người,
chúng ta không quan tâm được. Vì vậy, tự tại đúng nghĩa phải là không bận tâm vì
chuyện của mình nhưng rất bi mẫn, rất đồng cảm với chuyện của người. Chính sức
mạnh của lòng thương yêu, đồng cảm với những khổ vui của người người (vị tha) đã
làm cho vị kỷ tan biến và tự tại xuất hiện.
Một biểu hiện khác của tự tại
là không có tham vọng, không lo toan, chạy vạy đi tìm danh lợi cho mình. Người
có tham vọng là người luôn bận tâm và khổ sở vì những mưu mô, tính toán, tranh
thủ lấy lòng người này, người khác. Họ có những nỗi sầu khổ, bận tâm do tham
vọng thúc đẩy. Trong khi đó, người tự tại là người không còn ham muốn đó nữa,
không còn tham vọng đối với danh lợi thế gian nữa. Tuy nhiên, họ không phải sống
một đời an nhàn, ung dung, giải thoát mà suốt đời tận tụy hy sinh vì Phật pháp,
vì chúng sinh. Với khả năng của mình, lúc nào họ cũng hết lòng hỗ trợ cho Chánh
pháp.
Trước đây, nhiều người đã hiểu sai về vấn đề này. Họ cứ nghĩ đi tu
là tự tại, là vô tác - không làm gì cả. Người tu chỉ cần một cái cốc đầy đủ tiện
nghi và suốt ngày ở trong đó tụng kinh, ngồi thiền là đủ. Một triết gia Trung
Hoa ảnh hưởng tư tưởng “Vô vi” của Lão Tử đã phát biểu rằng: “Bạt nhất mao lợi
thiên hạ bất vi” (Nhổ một sợi lông để làm lợi cho khắp thiên hạ cũng không làm).
Ông chủ trương :“vô tác vô vi”- không làm gì hết - và xem đó là đạo lý. Người
hiểu đạo như vậy là sai lầm. Tuy cũng đi tìm sự ung dung, tự tại, nhưng do hiểu
lệch nên họ không còn tận tụy, hy sinh vì người khác. Ở đây, người có thái độ
đúng là người trong thẳm sâu tâm hồn không còn mong ước, đấu tranh, tìm kiếm lợi
ích cho bản thân mình nhưng lại tận tụy, vất vả một đời vì cuộc sống của mọi
người.
Nói đến điều này, chúng ta cần tránh hai cực đoan: Thứ nhất,
người không còn ý niệm mong cầu cho riêng mình nên thích sống ẩn dật, xa lánh
mọi người. Thứ hai, người có quá nhiều tham vọng nên trong công việc chung luôn
tranh giành, thủ đoạn rất vất vả.
Người tu chúng ta không cầu mong điều
gì cho mình. Trong tận đáy sâu tâm hồn, thấy ai hơn mình, chúng ta vui mừng
nhưng lúc nào cũng bận rộn, tận tụy, giúp được ai điều gì chúng ta cũng sẵn
sàng. Ví dụ, sau này, chúng ta có thể làm giáo thọ, về dạy ở một làng quê nào đó
trong khi người huynh đệ cùng lớp với mình lại về một Huyện lớn làm Chánh đại
diện. Khi người huynh đệ nhờ phụ giúp một số việc vì họ quá bận, nếu sắp xếp
được chúng ta cũng sẵn sàng về phụ. Có thể đó là công việc lo giấy tờ giúp cho
huynh đệ rất vất vả, không ai biết đến nhưng chúng ta vẫn vui vẻ. Vì là người có
đạo đức, chúng ta không nề hà bất cứ việc gì miễn là việc ấy có lợi cho Phật
pháp, có lợi cho chúng sinh. Chúng ta làm mà không hề mong cầu điều gì khác cho
mình. Đó mới là thái độ đúng. Nếu có năng lực, có sức khoẻ nhưng cứ ngại cuộc
đời danh lợi, bon chen mệt mỏi mà tìm đến nơi nào vắng vẻ để tu, không đóng góp
vào Phật pháp là chúng ta đã có thái độ sai lầm.
7. NHỮNG ĐỨC HẠNH CẦN THIẾT ĐI KÈM VỚI TỰ TẠI.
Đức hạnh thứ nhất là không bận tâm về sự đánh giá, khen chê của
người (vượt lên trên dư luận) nhưng vẫn chân thành lắng nghe và học hỏi cái hay
của người.
Người tự tại không bận tâm về sự khen chê của người khác. Khi
ra làm việc hoặc đi thuyết giảng, nếu có người khen hoặc chê điều gì, chúng ta
cũng không bị động tâm. Đó chính là sự không động tâm vì dư luận bên ngoài. Tuy
nhiên, chúng ta cũng không phải như cỏ cây, sắt đá vô tri vô giác, không biết
nghe ý kiến người khác. Trước lời khen chê của người, chúng ta phải xét lại bản
thân mình, xem lời khen tiếng chê đó đúng sai ở mức độ nào mặc dù không để lòng
mình buồn vui theo điều đó.
Ví dụ, khi người khác khen mình giảng hay,
rất cảm động, chúng ta phải xét xem những điều người ta nói có thật hay không.
Nếu lời khen ấy là đúng, chúng ta phải tìm ra nguyên nhân vì sao giảng hay,
thuyết phục để có thể truyền kinh nghiệm cho những người khác. Hoặc khi người ta
nói về cái sai của mình, chúng ta phải bình thản. Nếu những điều họ nói là đúng,
chúng ta phải tìm lỗi mà sửa. Nếu lời phê bình của họ sai, chúng ta cũng không
vì thế mà giận. Đó chính là thái độ đúng của người tự tại. Nếu cứ bỏ mặc ngoài
tai những ý kiến của người khác, chúng ta sẽ trở thành người lì lợm, bướng bỉnh.
Điều này không phù hợp với chủ trương của đạo Phật.
Chúng ta phải tinh ý
quan sát cái hay của người để học hỏi một cách chân thành. Nếu biết nhìn vào
cuộc đời, nhìn vào con người để học, chúng ta sẽ tránh được những sai lầm của
người khác đồng thời học hỏi được những cái hay, cái tốt đẹp của họ. Người xưa
đã từng dạy: “Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên” (Trong số ba người cùng đi
với ta chắc hẳn có một người là thầy ta). Cứ học hỏi cái hay của người, chắc
chắn chúng ta sẽ thành công. Có người không được học nhiều, chỉ học một số giáo
lý căn bản của Đức Phật, chư Tổ, chư Thánh nhưng biết quan sát trong cuộc sống
kết hợp với kinh nghiệm bản thân mình nên đã thành công.
Một điều nữa
chúng ta phải để ý là người tự tại có nội tâm bình lặng, không lăng xăng nhưng
tràn đầy lòng thương yêu chúng sinh. Nói như vậy nghĩa là người có nội tâm trống
rỗng, không còn điều gì, không lăng xăng điều gì không phải là người tu đúng. Ví
dụ, một mảnh đất đầy gai góc, cỏ dại, chúng ta dọn cho sạch rồi để đó, mảnh đất
vẫn chưa có lợi. Mảnh đất tốt phải là mảnh đất được dọn sạch cỏ dại, gai góc,
cày xới và được con người trồng lên đó những hàng cây ăn quả, những khóm hoa,
những loại cỏ đẹp v.v… Tâm hồn con người cũng vậy. Lúc đầu, trong tâm hồn ấy có
đầy đủ tham, sân, si, hận, thù, thương, giận, ghét… Khi biết đạo, chúng ta dọn
sạch những xấu xa, tội lỗi, những sai lầm, mê muội nhưng phải lấp đầy trong đó
lòng từ bi, lòng thương yêu chúng sinh. Vì vậy, nội tâm đúng phải là một nội tâm
thanh tịnh mà tràn đầy tình thương yêu.
Ở đây, nếu đừng bị tà kiến tấn
công thì khi có được một chút định nào, từ bi sẽ tự nhiên theo đó mà nảy nở.
Nhưng khi đã bị tà kiến xâm nhập vào tâm (do mới tu chúng ta đã học một giáo lý
gì đó sai lầm), lúc nào chúng ta cũng sẽ giữ tâm khô khan, bất động, không
thương không ghét một ai. Lúc ấy, càng định bao nhiêu, tâm chúng ta càng trống
bấy nhiêu, không có một chút từ bi nào trong đó. Hiểu được điều này, khi khởi
điểm cho sự tu hành, chúng ta phải chuẩn bị trước tâm từ bi để khi việc tu tiến
dần, tiến dần về phía trước, từ bi cũng sẽ theo đó mà nảy nở suốt cuộc đời
mình.
Tất nhiên, lòng từ bi không phải dễ dàng có được. Thông thường,
người nam (quý Thầy) ít có tình cảm hơn người nữ (quý Cô). Người nữ vốn nhạy
cảm, dễ thương yêu dù sự thương yêu của họ có thể nhỏ bé, ích kỷ. Nhưng nếu bỏ
đi sự ích kỷ nhỏ nhặt, họ sẽ phát triển lòng từ bi nhanh hơn người nam. Ngược
lại, quý Thầy được ưu điểm là không cố chấp nhỏ nhặt nhưng lòng lại khô khan
hơn, tu tập từ bi khó hơn. Nếu muốn từ bi trong tâm mình xuất hiện tràn đầy, quý
Thầy phải quán tâm nguyện và từ bi ít nhất từ ba năm trở lên. Ngay cả những
người thường ca ngợi lòng thương yêu con người cũng đã thú nhận cả một thời gian
dài tu tập mà vẫn thấy lòng mình trơ như sỏi đá. Phải qua nhiều năm, họ mới bắt
đầu thấy tâm từ bi dần dần xuất hiện. Và khi nó đã xuất hiện, chúng ta mới tin
được Phật pháp có sự vi diệu.
Nói chung, những vấn đề về lòng từ bi vốn
vô hạn, không thể diễn tả hết được. Mỗi người tự tu tập đồng thời vẫn tin vào
Phật pháp sẽ thấy được điều đó. Khi chưa có từ bi mà nói về nó, chúng ta cũng
chỉ nói một cách hời hợt. Phải quyết tâm tu tập từ bi trong một thời gian dài,
có thể ba năm, năm năm hay mười năm, chúng ta mới thấy được giá trị của tâm
này.
Một đức hạnh nữa đi kèm với tự tại là có tinh thần phóng khoáng
nhưng không phóng túng. Chúng ta không cố chấp nhỏ nhặt nhưng nghiêm túc, ung
dung, kỹ lưỡng, nhẹ nhàng. Cố chấp nhỏ nhặt sẽ trở thành người khó tính một cách
vô lý. Nhưng chúng ta cũng đừng bao giờ nghĩ rằng người tự tại sống không cầøn
điều gì, không cố chấp rồi buông tuồng, phóng túng. Đó là suy nghĩ lệch lạc,
không phải tự tại đúng nghĩa.
Chúng tôi có gặp một Ni sư ở nước ngoài
về. Qua câu chuyện, chúng tôi biết bà làm phước rất nhiều, luôn luôn giúp đỡ
người khác. Khi về già có tiền hưu, bà cũng để dành mang về Việt Nam làm phước.
Nhưng trên gương mặt Ni sư ấy xuất hiện những nét khó chịu. Quả thật, bà là
người rất khó tính. Cái khó tính của bà là do cố chấp nhỏ nhặt. Điều này, người
Ni rất dễ mắc phải vì họ có đến ba trăm bốn mươi tám giới. Làm gì cũng thấy tội
phước nên họ rất lo sợ và giữ thật kỹ. Khi giữ được, họ lại muốn mình hơn thiên
hạ nên hay bắt bẻ người này, người kia và đâm ra khó tính. Thực ra, không phải
như vậy. Đạo Phật rất kỹ lưỡng nhưng có những cái rất bao dung, tha thứ, không
xem là quan trọng.
Chẳng hạn, luật có quy định người xuất gia không được
ăn cơm chung với người tại gia để giữ nề nếp, tôn ti trật tự. Nhưng thực tế, có
những lúc chúng ta vẫn ăn cơm với họ rất bình thường. Vì sao vậy ? Vì trong
hoàn cảnh nào đó, ngồi ăn cơm chung với cư sĩ là chúng ta thể hiện tình thương,
sự hòa đồng, không phân biệt, không thấy mình hơn thiên hạ. Đúng là khi không ăn
cơm chung, chúng ta giữ được nề nếp nhưng nếu cứ giữ mãi nề nếp ấy, chúng ta sẽ
thấy mình hơn thiên hạ, nghĩa là người tu mình hơn người tại gia. Đó là quan
điểm kiêu mạn. Nghĩ như vậy, kiếp sau chúng ta sẽ không được làm người xuất gia
nữa. Thực ra, có nhiều cư sĩ đời trước là người xuất gia nên bây giờ rất giỏi,
kinh điển rất thông nhưng không bao giờ xuất gia được. Đơn giản là vì đời trước
khi xuất gia rồi, người ấy cứ nhìn thấy thiên hạ thua mình.
Vì vậy, giữ
được nề nếp, giữ được sự cách biệt giữa Tăng và tục, làm cho người tục có được
niềm tin với người xuất gia cũng là điều hay. Nhưng không cẩn thận, có khi chúng
ta trở nên phân biệt, tự cao và thiếu tình thương. Cho nên, tùy trí tuệ của
mình, đôi lúc chúng ta cũng nên ăn cơm chung để thể hiện tình thương, sự hòa
đồng.
Mặt khác, sở dĩ Phật quy định người xuất gia không ăn cơm chung
với người tại gia vì đề phòng đôi khi người xuất gia còn những sơ xuất, khi quá
gần gũi với cư sĩ sẽ bị họ nhìn thấy. Một khi thấy những sơ xuất của người tu,
cư sĩ sẽ mất niềm tin với Phật pháp. Vì vậy, phải giữ khoảng cách với cư sĩ cũng
là điều cần thiết. Sự thật, điều này đã xảy ra. Có người từng làm việc với quý
Thầy trong các chùa đã tâm sự là không muốn đi chùa nữa, vì từ khi làm việc
chung với quý Thầy, họ thấy được những lỗi của người tu và bất mãn, mất niềm tin
với Phật pháp. Nghe những lời tâm sự ấy, chúng ta rất đau lòng. Nhưng đây cũng
là một thử thách đối với tất cả chúng ta. “Thiệt vàng chẳng sợ chi lửa”, trong
hoàn cảnh phải gần gũi với Phật tử, chúng ta cố gắng chứng minh được bản lĩnh,
được đạo lực của mình.
Ví dụ, có thể trên một chuyến hành hương xa hoặc
trong một chuyến ủy lạo từ thiện nào đó, chúng ta cùng đi chung với Phật tử.
Hoặc có khi người cư sĩ đến chùa làm công quả. Hằng ngày, họ làm việc, tụng
kinh, ăn uống… với chúng ta. Những lúc như vậy, chúng ta không bao giờ để họ tìm
thấy lỗi của mình. Đó chính là vàng thật không sợ lửa. Chúng ta phải tu tập nội
tâm vững chắc để khi sống gần gũi với mình, Phật tử càng có niềm tin vào Phật
pháp. Như vậy là chúng ta đã thành công.
Tóm lại, chúng ta không được cố
chấp giới điều, phải tùy nghi ứng xử cho thích hợp.
8. TỰ TẠI LÀ BIỂU HIỆN CỦA THIỀN ĐỊNH VÀ UY ĐỨC.
Chúng ta vẫn giữ oai nghi rất kỹ lưỡng vì tự tại là một biểu hiện
của thiền định và uy đức. Người có thiền định tự nhiên rất có uy. Khi đến gần
họ, dù chưa nghe nói tiếng nào, chúng ta cũng có sự nể phục. Đó là một trong
những biểu hiện của thiền định. Nhưng dù tự tại, họ vẫn có uy đức, nhìn vào
chúng ta thấy mọi cử chỉ của họ đều nghiêm trang, cẩn trọng. Đó là sự dung hòa.
Nếu tu tập thiền định, đi tìm tự tại mà không có uy đức là chúng ta đã sai. Đó
là tự tại không có gốc.
Khi xét về tự tại, chúng ta thấy có nhiều mức
độ khác nhau.
Mức độ thứ nhất: Nhờ ba tâm hạnh Kính Phật – Vị tha –
Khiêm hạ thuần thục, chúng ta xuất hiện tự tại. Ví dụ, khi có được đời sống vị
tha, không lo cho mình, không bận tâm vì mình nữa, ai nói gì cũng không làm mình
động tâm, chúng ta sẽ đạt được sự tự tại.
Có một vị Thầy kể lại chuyện
mình đỡ đẻ cho một sản phụ khiến rất nhiều người khâm phục. Trên đường đi, vị
Thầy ấy gặp một sản phụ đang lên cơn đau đẻ. Lúc ấy, ông đành phải xuống xe và
đỡ đẻ cho bà một cách rất bình tĩnh. Không phải ai cũng làm được điều này. Nếu
lúc nào cũng giữ nề nếp, oai nghi, giữ giới luật, chúng ta sẽ không dám giúp
người ta điều đó. Khi đã vị tha, tự nhiên chúng ta sẽ có sự tự tại, không sợ
hãi, không mắc cỡ cũng không sợ bị người ta dèm pha, dè biũ. Đó cũng là sự tự
tại do tâm vị tha tạo thành. Như vậy, chỉ ở mức độ đạo đức thôi, vị tha cũng đã
tạo thành tự tại.
Mức độ thứ hai: Khi tu thiền định, xuất hiện được
trạng thái chánh niệm tỉnh giác, tâm hồn chúng ta càng ung dung, tự tại. Lúc đó,
những phiền não mới chớm nhẹ trong tâm sẽ được hóa giải. Nhờ chánh niệm tỉnh
giác thu phục tất cả tạp niệm lăng xăng mà chúng ta đạt được tâm bất hối. Điều
này chúng ta đã đề cập khi nói về năm triền cái .
Ví dụ, khi làm điều gì
sai, được mọi người cho biết đó là lỗi, chúng ta không hối hận nhưng quyết không
bao giờ tái phạm. Đó là bất hối của người được chánh niệm tỉnh giác.
Mức
độ thứ ba: Khi chứng Sơ thiền, người tu không còn dụng công nữa, tâm vào định
một cách tự nhiên, vô cùng thanh tịnh, tham dục biến mất. Mức độ tự tại lúc này
cao hơn trước.
Càng chứng những bậc thiền cao hơn, thân và tâm càng ung
dung tự tại hơn nữa. Khi đã đạt đến trình độ như Đức Phật hoặc bằng các vị
Alahán thì tự tại đó thoát ra ngoài sự ràng buộc của ba cõi, sáu đường và hoàn
toàn giải thoát.
Còn một mức tự tại mà chúng ta hay nghe kể là muốn
sống, chết tùy theo ý mình. Một Thiền sư muốn tịch giờ nào có thể tịch giờ đó.
Nhưng chỗ này chúng ta cần hiểu thêm: Tự tại trên sống chết cũng chưa hẳn là đạt
mức tuyệt đối của Thiền định, chưa phải là chứng ngộ hoàn toàn. Có người chỉ mới
đắc đạo một phần cũng có thể làm được điều đó.
Có chuyện kể rằng, ông
Tri sự trong ngôi chùa nọ nghe nói có một vị Tăng tu hành có công phu đặc biệt
nên đến hỏi một câu Thiền ngữ. Vị Tăng đó không trả lời, sau đó bước vào phòng
ngồi kiết già và tịch luôn. Sau khi vị Tăng tịch, chùa đem thiêu và được mấy
chục viên xá lợi. Đại chúng rất ngạc nhiên khi một người tu có thể tịch tự tại,
thiêu có xá lợi như vậy lại không trả lời được câu Thiền ngữ khi người khác hỏi.
Vị Tri sự kia đã nói:“Dù cho ông được ba đấu xá lợi cũng không bằng lúc đó ông
hạ một chuyển ngữ, trả lời một câu Thiền ngữ cho sắc bén, cho độc đáo”. Cho nên,
dù đã tịch tự tại, dù thiêu có xá lợi nhưng người Tri sự vẫn chê vị Tăng kia tu
chưa đúng với đạo Phật, chưa đúng với Phật pháp thật sự, chưa đạt đến mức chứng
ngộ chuẩn mực của Thiền.
Như vậy, người tu đạt đến sinh tử tự tại cũng
là điều quá tuyệt vời. Nhưng đó cũng chỉ là một mức độ tự tại tương đối mà
thôi.
Nói đến tự tại, chúng ta nhận xét lại một vài trường hợp gọi là tự
tại trong nhà Thiền. Chúng ta từng nghe chuyện kể về ngài Đơn Hà. Ngài Đơn Hà
lúc đầu đến với Mã Tổ, sau Ngài đến với ngài Thạch Đầu. Ở đó, ông đắc đạo lúc
nào không ai biết, chỉ có ngài Thạch Đầu biết. Sau đó, Ngài từ giã ngài Thạch
Đầu trở về Mã Tổ, đi vào trong chùa cưỡi lên cổ Phật. Mã Tổ ra nhìn, thấy đệ tử
mình đắc đạo, Ngài nói: “Con ta, Thiên Nhiên” (Ngài đã đặt cho ngài Đơn Hà pháp
danh là Thiên Nhiên. Về sau, người ta gọi là ngài Đơn Hà Thiên Nhiên). Có lần,
mùa đông đến, chùa lạnh quá, Ngài Đơn Hà đã chẻ tượng Phật ra sưởi ấm. Ông còn
nói: “Tượng gỗ làm gì có xá lợi” và càng đốt thêm nữa.
Nếu giải thích,
phân tích kỹ, chuyện cũng có nhiều ý nghĩa. Người xưa có nói một câu rất hay:
“Linh tại ngã, bất linh tại ngã”. Mọi vật linh hay không là do tâm của chúng ta.
Khi người thợ tạc tượng nghĩ đây là tượng Phật thì trong tượng ấy đã có cái linh
rồi. Sau đó, người ta thỉnh về đưa lên đảnh lễ như đảnh lễ Phật thì tượng còn
linh hơn nữa. Vì vậy, khi lạy Phật với lòng tôn kính (dù chỉ là lạy tượng), công
đức của chúng ta cũng gần bằng lạy Phật lúc còn tại thế. Tất nhiên, nếu gặp Đức
Phật còn tại thế, lòng tôn kính của chúng ta càng lớn, không thể tưởng tượng
được. Thời Đức Phật, hễ gặp Ngài là người ta đi theo đạo Phật liền, vì uy đức
của Phật quá mãnh liệt nên mặc dù Ngài đã tịch sáu, bảy trăm năm, cả ngàn năm
sau, Phật pháp vẫn cực thịnh, vẫn nề nếp, quy cũ như thời Ngài còn sống. Nếu mỗi
ngày vẫn lễ lạy Phật nhưng tâm hời hợt, phước chúng ta sẽ không được bao nhiêu.
Lòng tôn kính Phật vô biên chính là công đức nền. Có người cho rằng không cần
lạy Phật nữa vì đó chỉ là cục xi măng, là cục gỗ thôi. Nói như vậy là một tà
kiến vì không tạo cho chúng sinh có công đức.
Như vậy, điều quan trọng
chúng ta phải hiểu là linh hay không linh là do tâm của mình. Đúng đó là một cục
gỗ nhưng nếu đã quy định là tượng Phật, ai cũng công nhận đây là tượng Phật mà
chúng ta nói chỉ là cục gỗ nghĩa là cặp mắt của mình không nhìn thấy được cái
tâm linh vi diệu, cái tâm cảm ứng mà Phật đã chứng từ lòng thành của con người.
Những người nói tượng Phật không có gì hết, không có linh thiêng, chỉ là cục gỗ,
cục đá là người tà kiến, hiểu không thấu vấn đề mà gieo rắc tai họa cho chúng
sinh.
Hơn nữa, tùy mức độ tâm lắng như thế nào, chúng ta sẽ nhìn mọi vật
trên đời này như thế đó. Ví dụ, khi cầm viên phấn vẽ lên bảng một hình người đầu
trọc, ở mức độ thứ nhất, thô nhất, chúng ta thấy đây là phần đầu của một vị
Tăng. Nếu lắng tâm đó xuống, chúng ta chỉ thấy đó là những nét phấn. Hoặc nhìn
lại bức tranh trên tường, chúng ta thấy đó là tranh vẽ hoa sen. Nhưng lắng xuống
một chút, chúng ta chỉ thấy đó là màu sơn. Nếu lắng xuống một chút nữa, chúng ta
chỉ còn thấy đó là miếng vải có phết màu… Như vậy, tùy mức độ lắng xuống của tâm
mà chúng ta thấy được bản chất của sự vật, sự việc.
Tương tự như vậy,
trở lại chuyện của ngài Đơn Hà Thiên Nhiên chúng ta thấy, khi Ngài leo lên tượng
Phật, chẻ tượng Phật đem thiêu là Ngài muốn biểu thị mức Thiền định sâu thẳm của
mình. Nghĩa là Ngài muốn chứng tỏ Ngài đã lắng tâm xuống tới đáy, thấy rõ thực
tướng của vạn vật, thân tâm và vũ trụ vốn đồng thể tan hòa vào nhau. Tuy nhiên,
đó là lúc Ngài cần chứng tỏ cho Thầy mình biết, còn những lúc bình thường, Ngài
có thể khởi tâm thấy ngay đó là tượng Phật và vẫn luôn tôn kính. Tự tại nhưng
phải tùy mức độ như vậy, nếu không sẽ trở thành cuồng ngạo.
Câu chuyện
một vị Tăng bế cô gái đi qua đường lầy cũng vậy. Đường lầy lội quá, cô gái lại
đang mặc quần áo đẹp nên không dám băng qua. Vị Tăng đã bế giúp cô gái qua
đường. Khi sư huynh đi cùng tỏ ra giận dữ, vị Tăng đã trả lời một cách rất thản
nhiên: “Trời, tôi đã bỏ cô gái xuống đó rồi sao huynh còn mang theo tới đây”.
Điều này không đánh giá theo tướng mà theo tâm. Vị Tăng làm việc đó mà trong
lòng không ham muốn, không lay động. Đó chính là tự tại.
Hoặc chúng ta
cũng đã nghe chuyện Tế Công Phật sống (Tế Điên Hòa thượng). Chuyện về Ngài có
rất nhiều và được người ta thêu dệt thành những thiên tiểu thuyết hấp dẫn. Nhưng
sự thật, lịch sử của Ngài có một số chuyện rất độc đáo. Ví dụ, có một lần ông
đang tắm trong khi trong nhà giảng, Thầy đang giảng đạo. Khi nghe thầy hỏi một
câu về đạo lý rất quan trọng, ông vội quấn khăn và chạy ra nói với Thầy: “Con
trả lời được”. Thầy hỏi: “Trả lời sao?”. Ông lộn nhào một cái, tấm khăn quấn
trên người bỗng rơi ra nên tất cả hiện bày trọn vẹn trước mắt mọi
người.
Một lần khác, chùa ông bị cháy. Đêm đó, Hoàng Thái Hậu nằm mơ
thấy một vị Alahán đến kêu bà cúng tiền cất chùa. Bà đến chùa kể lại giấc mơ.
Khi gặp ông, bà quỳ xuống lạy: “Đây mới chính Ngài”. Sau đó bà hỏi: “Xin Ngài
cho con biết về sau con sẽ như thế nào ?”. Ông không nói gì, tuột quần xuống và
bỏ đi vào trong. Mọi người trong chùa ai cũng kinh ngạc vì đó là tội phải bị
chém đầu. Quân sĩ tức giận định hành động nhưng Hoàng Thái Hậu cản lại: “Không,
ta hiểu ý Ngài. Ngài muốn nói ta kiếp sau chuyển thân thành nam giới”. Ngài cũng
ăn thịt uống rượu rất dữ nhưng thần thông diệu dụng, phi thường. Có thể Ngài có
một đạo lý gì đó rất lạ để dạy người, chúng ta không dám phê bình vì Ngài đắc
đạo quá cao siêu.
Trong cuộc đời giáo hóa của mình, Đức Phật cũng gặp
nhiều sóng gió, tai ương nhưng Ngài quá tuyệt vời, lúc nào cũng tự tại. Có
chuyện kể rằng: Một hôm, vua Bình Sa mời Ngài về kinh đô để an cư. Khi Ngài về
đến nơi, ông ta lại quên mất sự có mặt của Ngài. Thế là Ngài phải ở luôn ngoài
trời. Nhưng lúc ấy Ngài vẫn tự tại như không có gì xảy ra. Chư Thiên Long thấy
vậy không cho trời đổ mưa mặc dù lúc bấy giờ đang là mùa mưa. Thấy trời luôn
nắng, nhà vua vừa ngạc nhiên vừa kinh hoảng bèn hỏi Đại thần. Một người tự nhiên
sáng ý trả lời: “Hay là Đại Vương mời Thế Tôn về đây rồi quên lo chỗ ở cho Ngài
nên trời không dám mưa”. Lúc đó, nhà vua giật mình chạy lại thỉnh Phật về, dựng
tinh xá cho Ngài ở. Sau đó trời mưa trở lại.
Như vậy, dù rơi vào hoàn
cảnh nào, Ngài vẫn tự tại nhưng không phải tự tại để chứng tỏ bản lĩnh của mình
mà để cho người khác đừng khổ tâm. Đó là sự tự tại vị tha rất cao
quý.
Một điều nữa cần lưu ý là chúng ta không nên cố ý chứng tỏ mình tự
tại. Người tu theo Phật hay ca ngợi sự tự tại và nhiều khi ca ngợi quá đáng nên
đâm ra ngông cuồng. Có khi phạm lỗi, được người khác chỉ lỗi lại không biết sửa
vì cho là mình tự tại. Đó là bệnh lớn của người tu theo đạo Phật. Chúng ta phải
nhớ một điều: Biểu hiện tự tại là do người khác nhìn thấy và nhận xét cho mình,
còn bản thân chúng ta không nên quan tâm đến điều đó. Cái chúng ta cần quan tâm
là thương yêu muôn loài. Nếu cứ cố ý biểu hiện ra vẻ tự tại, chúng ta dễ trở
thành người khoe khoang, lập dị.