Chương
5. Tối thượng và hạnh phúc nhất
(Kinh
Thiện Sanh Ưu Đà Di)
SƠ
LƯỢC CHỦ ĐỀ KINH
Chủ đề chính của bài kinh gồm
hai nội dung: tối thượng và hạnh phúc
nhất. Bài kinh xoay quanh cuộc đối thoại giữa hai nhà tâm linh: đức
Phật, bậc đạo sư tâm linh của đạo giác ngộ; và du sĩ thiện sanh Ưu-đà-di, một
nhà tâm linh của truyền thống Sa môn. Cuộc đàm đạo diễn ra trước sự chứng kiến
của tất cả tín đồ du sĩ Ưu-đà-di.
Thông qua cuộc đàm đạo, đức Phật
đã xác định rằng người được mệnh danh đạt “nhất
thế trí”, nghĩa là có được trình độ toàn trí trong lúc thức và ngủ,
theo sự tôn xưng và thần tượng hóa của dân gian không bằng một phần mười giá
trị người hiểu đạo lý nhân quả và duyên khởi.
Nội dung thứ hai, đó là sự khác
biệt quan điểm của đạo Phật và Sa môn về con đường dẫn đến hạnh phúc nhất. Sa
môn cho rằng, con đường hạnh phúc nhất là sự chấm dứt tất cả những hành vi phi
đạo đức, hay nói cách khác, con đường đạo đức là con đường hạnh phúc nhất.
Trong khi đó, đức Phật lại xác định rằng, con đường đạo đức chỉ là một phần bắt
đầu rất quan trọng và nền tảng, chứ không phải là tất cả của con đường hạnh
phúc, do đó những hành giả trên con đường tâm linh bên cạnh việc hoàn tất các
giá trị đạo đức bản thân, cần phải hoàn tất luôn các giá trị thiền định. Đó là
hai nội dung căn bản được nêu ra trong bài kinh này.
Từ bài kinh thứ 75 trở đi, chúng
ta thấy có sự đồng nhất về lối dẫn nhập vào nội dung bằng những cuộc đối thoại.
Đặc biệt, những cuộc biện luận về tất cả các vấn đề thế sự một cách sôi nổi
bỗng dừng lại khi đức Phật có mặt để mở đầu cho cuộc đàm đạo giữa đức Phật và
các vị du sĩ diễn ra. Từ đó chúng ta gián tiếp nhận biết rằng các nhà du sĩ
ngoại đạo theo truyền thống Sa môn có tinh thần tôn trọng những gì thuộc về tôn
giáo ở mức độ khá cao. Điều họ được học từ truyền thống của mình và những gì
nghe đồn đại từ truyền thống tâm linh của đạo Phật có những điểm tương đồng
nhưng cũng có những điểm dị biệt. Tuy nhiên khi có cơ hội tiếp xúc với những điểm
dị biệt đó thì họ mở lòng một cách rất thoải mái, không hề mang theo định kiến,
thành kiến về những gì khác với mình.
Có thể nói phong trào Sa môn
giáo, bao gồm đạo Phật, là một phong trào tự do dân chủ thật sự về phương diện
tâm linh. Vì điểm xuất phát của phong trào Sa môn giáo là sự kháng cự về phương
diện nhận thức luận và tôn giáo, không muốn thừa nhận tất cả những giá trị chân
lý được định đặt và tuyên bố trong hệ thống kinh điển Vệ Đà, ly khai từ truyền
thống Vệ Đà vốn đặt nặng vấn đề giai cấp và tất cả các định chế xã hội xoay
quanh chủ nghĩa giai cấp này. Các nhà Sa môn giáo đã trở thành những con người
tự do thật sự, phóng khoáng và nỗ lực tìm kiếm con đường tâm linh mới, bù đắp
lại những khoảng trống trong con đường tâm linh của Bà la Môn giáo nói chung.
Nhờ thái độ không hài lòng, không thỏa mãn với những định chế tôn giáo có sẵn
cho nên phần lớn đi theo con đường Sa môn giáo, học và tiếp thu được tinh thần
phóng khoáng này. Đây chính là điểm xuất phát của con đường tâm linh.
Đến với con đường tâm linh, nếu
chỉ đơn thuần thông qua tín ngưỡng thì giá trị đạt được chỉ là những định chế.
Giá trị chân lý đúng sai của nó lệ thuộc hoàn toàn vào các định chế này. Thông
qua góc độ tiếp cận tín ngưỡng, nếu các định chế đó thuận với đạo đức, hợp với
tâm linh thì sự quy ngưỡng của chúng ta thông qua góc độ tiếp cận tín ngưỡng sẽ
mở ra chiều hướng tích cực. Bằng ngược lại chúng ta sẽ trở thành những người
tích tập thêm những quan niệm tôn giáo mà sự dấn thân sâu sắc vào nó có thể làm
cho mình bị trói buộc, đánh mất hạnh phúc đích thực.
Đức Phật Thích Ca là một trong
những nhà Sa môn giáo. Con đường tâm linh của Ngài khác hoàn toàn ở chỗ, Ngài
đã trải nghiệm qua tất cả những gì được xem và đồn đại. Khi tự mình là bộ phận
đang trải nghiệm chất liệu và chất lượng tâm linh đó, thì Ngài đã đánh giá được
rằng giá trị đích thực của nó hoàn toàn khác với những gì đồn đại. Giã từ
truyền thống Sa môn giáo, Ngài bắt đầu đi theo cách riêng, tìm kiếm con đường
trung đạo, vượt ra hết tất cả mọi chấp trước về chủ nghĩa hưởng thụ vốn có thể
làm cho con người bị lún sâu trong con đường tha hóa; và con đường khổ hạnh ép
xác, vốn có thể làm cho con người trở nên bệnh tật, tuy đạt phần tâm an tĩnh
nhưng tuệ giác và sự sáng suốt không có cơ hội được thắp sáng. Dấn thân như
vậy, Ngài thấy rất rõ những hạn chế trong con đường tâm linh mới của Sa môn
giáo này. Mặc dù nó có giá trị đóng góp là kháng cự lại trên tinh thần tự do
dân chủ về những gì không nên, không đáng tin theo, dù nó có gốc rễ văn hóa
truyền thống mấy ngàn năm.
Đây chính là một trong những
tiền đề quan trọng mở ra sự cách tân và đổi mới, con đường tâm linh Phật giáo
khuyến khích khám phá những giá trị tâm linh hơn là chỉ thừa hưởng nó một cách
tiêu cực ở chỗ tất cả những gì được nêu ra, chúng ta tin theo một cách vô điều
kiện. Niềm tin vô điều kiện vẫn có giá trị xác lập tính thực tập vào giáo pháp
một cách nhanh chóng dẫn đến sau khoảng thời gian hành trì, trạng thái an lạc
của tâm có mặt ngay tức khắc. Tuy nhiên, với niềm tin vô điều kiện, sự phát
khởi tuệ giác như là con đường cứu cánh để tháo gỡ những bế tắc là vấn đề hoàn
toàn khác, đòi hỏi đến sự kiểm nghiệm tri thức xem có đích thực mang lại an lạc
lâu dài hay không.
Rất may mắn và thành công, đức
Phật đã tạo ra một thước đo mới cho con đường tâm linh. Khi Ngài có mặt thì
cuộc đàm luận sôi nổi đang diễn ra trở nên trang nghiêm yên lặng tuyệt đối. Ở
những bài kinh trước, các vị du sĩ chỉ gặp được những đệ tử của Ngài như Xá lợi
Phất, Mục kiền Liên, A Nan hoặc thỉnh thoảng gặp các vị cư sĩ Phật tử. Đây là
cơ hội rất hiếm có, mặt đối mặt với Như Lai Thế Tôn mà trước đó các dữ liệu về
giá trị tâm linh của Ngài được lan truyền và người ta bán tín bán nghi về những
lời đồn đại đó có đích thực hay chỉ là một lời tuyên truyền trống rỗng. Cho
nên, để xác quyết được nội dung, sa môn du sĩ Thiện Sanh Ưu-đà-di đã yêu cầu
tất cả du sĩ học trò của mình và những người cư sĩ có mặt lúc bấy giờ hãy giữ
sự trang nghiêm và im lặng tuyệt đối, vì đây chính là tông chỉ của đức Phật.
Nếu không gian bất yên tĩnh thì cuộc đàm đạo sẽ không được diễn ra. Nghe theo
lời khuyên, tất cả mọi người hướng tâm về đức Phật.
KHÔNG
CÓ TOÀN TRÍ TRONG MỌI LÚC
Câu hỏi đầu tiên mà du sĩ
Ưu-đà-di đặt ra với đức Phật là: “Thưa
Ngài, con rất thắc mắc và hoài nghi về những lời đồn đại về tính toàn trí của
Nigantha Nataputta khi ông tự nhận mình có tri kiến không dư thừa ‘khi ta đi,
khi ta đứng, khi ta ngủ và khi ta thức, tri kiến được tồn tại liên tục thường
hằng’, nhưng khi con hỏi về quá khứ thì ông lại tránh né, trả lời lạc đề và tỏ
ra phẫn nộ, sân hận?”.
Nigantha Nataputta, tiếng Việt
gọi là Ni Kiền Tử, giáo chủ của Kiền Na giáo. Người được hiểu là giác ngộ trước
đức Phật khoảng sáu năm, sống cùng thời và trước đức Phật khoảng vài năm. Cuộc
đàm đạo này là gián tiếp, thay vì nội dung câu hỏi đặt ra dành cho đức Phật
Thích Ca, du sĩ Ưu-đà-di lại đề cập đến một vị đạo sư khác. Đây là cái bẫy tâm
linh. Nếu lúc đó đức Thế Tôn phê bình, chỉ trích, tấn công và nói những điều
sai quấy của Ni Kiền Tử thì chắc chắn rằng vị sa môn khôn khéo này sẽ đánh giá
những lời đồn đại về đức Thế Tôn chỉ là sự trống rỗng. Bản chất của một bậc tuệ
giác, dù thấy rõ hạn chế của người khác nhưng không vạch lá tìm sâu, không tấn
công khi có người nào đó châm mồi, mà cố gắng trình bày vấn đề có tính cách xây
dựng và nội dung của nó hướng tới mục tiêu cao thượng hơn. Các nội dung tâm
linh giữa sự thực và lời đồn đại luôn được các vị du sĩ Sa môn giáo đàm luận
mỗi khi họ có cơ hội gặp nhau trong rừng sâu, trên núi cao v.v... và phần lớn
không được thỏa mãn. Vì là nhà tự do tư tưởng, các du sĩ Sa môn giáo thích rày
đây mai đó, mỗi khi nghe danh vị đạo sư nào có tầm vóc về tâm linh là họ đến
khẩn cầu để tìm kiếm những giá trị mới cho mình. Có những sự tầm cầu mang đến
thái độ thỏa mãn, nhưng cũng có những sự tiếp xúc dẫn đến thất vọng vô cùng.
Cái bẫy đưa ra ở đây rất sâu sắc
và câu trả lời của đức Phật cũng hết sức sâu sắc. Ngài nói: “Việc trả lời câu hỏi vừa nêu đảm bảo tính thỏa mãn
hay không phụ thuộc vào hai tiêu chí, đó là: cuộc đàm thoại đó phải diễn ra
giữa hai người đạt túc mệnh minh và sanh tử trí. Còn bằng không, nó sẽ trở nên
vô nghĩa”. Trong truyền thống tâm linh của đạo Phật, túc mệnh minh
là người có năng lực hồi ức về quá khứ, không chỉ đời kế cận mà trải về thời
gian xa tít, không thể tính đếm được. Người đó sẽ thấy chi tiết trên nền tảng
đại cương trong mỗi một kiếp sống như tên tuổi, họ tộc, hôn nhân, vị trí xã
hội, hạnh phúc khổ đau, giàu hay nghèo, các cảnh huống giao tế sinh hoạt của
chính mình. Trong khi đó định nghĩa về thiên nhãn minh được hiểu là năng lực
thấy rõ từ đại cương đến chi tiết các nhân quả của con người ở hiện tại nối kết
với tương lai. Làm những hành động A thì sẽ tiếp nhận các kết quả A+ hoặc A-,
đôi lúc nó có thể bị triệt tiêu và trở thành phản ứng nghiệp, trở thành trung
lập hay trung hòa. Tất cả cơ chế hoạt động của nhân quả được xem như biệt
nghiệp của một con người, và nhân quả như hệ thống cộng nghiệp của một cộng
đồng, một dân tộc, một quốc gia được các nhà có năng lực chứng đắc thiên nhãn
minh thấy rất rõ.
Nếu cuộc đàm đạo không được diễn
ra với những đối tượng như thế thì làm thế nào người nghe có thể kiểm nghiệm
điều được trình bày là đúng hay sai. Cho nên ý đức Phật muốn nói là, sẽ trở nên
vô ích khi đặt trọng tâm đề cập đến năng lực toàn trí của sa môn Ni Kiền Tử có
thật sự như lời đồn đại hay chỉ là một tuyên bố rỗng. Hơn nữa, những cuộc thảo
luận khi vắng mặt, người thứ ba sẽ trở thành vô nghĩa, thậm chí nếu không khéo
sẽ được hiểu như là sự khai tử hay nói xấu người mà người đó không có cơ hội
biện hộ cho mình. Như vậy, câu trả lời của đức Phật đã thoát khỏi cái bẫy tranh
luận mà du sĩ Ưu-đà-di đặt ra cho Ngài.
HIỆN
TẠI LÀ PHÉP MẦU
Sau đó, đức Phật lái chủ đề cuộc
đàm đạo qua một hướng rất có ý nghĩa thiết thực: “Điều quan trọng hơn cả mà tôi muốn chia sẻ với hiền hữu là hãy quên
quá khứ và cũng hãy quên đi tương lai, hãy nhớ rằng chúng ta đang sống ở hiện
tại”.
Dù đối với người nào đề cập đến
câu chuyện đã diễn ra tức là chúng ta đang bàn thảo về chuyện quá khứ. Giá trị
của quá khứ có mặt trong giai đoạn của quá khứ, với những người trực tiếp hay
gián tiếp liên hệ, trong khi đó chúng ta lại thảo luận với nhau về nội dung
không dính líu gì đến cả hai người, ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai, thì phỏng có
giá trị gì. Còn đề cập đến tương lai mà bản chất của nó biến dịch theo chuỗi
nhận thức của tâm dẫn đến sự phản ứng của các hành vi trong đời sống là chuyện
cũng không gì chắc chắn. Cho nên đức Phật đã kéo du sĩ Ưu-đà-di từ việc biện
luận như cái bẫy liên hệ đến một sự kiện, một con người đã qua trở thành phải
đối diện trực tiếp với Ngài; và nội dung trọng tâm của cuộc đàm đạo ở đây phải
xoay quanh những vấn đề như thế.
Ở đây, chúng ta có thể học tập
và áp dụng. Thường khi có dịp ngồi tâm sự trò chuyện với nhau, chúng ta không
nói chuyện của hai người mà nói chuyện thiên hạ. Càng nói chuyện về người thứ
ba thì khuynh hướng nhận xét, đánh giá nhân vật đó sẽ dẫn đến thái độ không hài
lòng của hai người đang có mặt, và từ tình bạn, tình thân có thể dẫn đến tình
trạng mâu thuẫn, đối nghịch. Chính vì thế mà việc đặt trọng tâm giữa hai người
đang có mặt như thực tại “đang là”
là yếu tố giải quyết gút mắc. Nói một cách khác, trọng tâm cuộc đối thoại theo
đề nghị của đức Phật phải là trọng tâm của “đang
là”, và phương pháp đối thoại: “nói
với” chứ không “nói về”.
Chúng ta nói với một người nào đó, người đó đang lắng nghe và ngược lại. Như
vậy, tính cách được lắng nghe làm cho người giãi bày thảo luận cảm thấy nội
dung trở nên nghiêm túc, hơn là nói về một người khác.
Bản chất một sự kiện thuộc về
quá khứ hay tương lai không thể tạo ra dưỡng chất nào cho tâm linh cũng như giá
trị thực tế của hai người. Do đó, khi có mặt sinh hoạt trong gia đình giữa quan
hệ vợ chồng, con cái, anh em và người thân quyến thuộc, thì chúng ta nên học
theo cách thức của đức Phật. Nếu ai đó đem câu chuyện phiền toái ở công sở cho
nhận thức của mình thì người Phật tử phải biết lái vấn đề về với những gì đang
diễn ra. Thay vì quan tâm đến chuyện con cái của thiên hạ, hãy quan tâm con cái
của mình; thay vì bàn đến chuyện người dưng nước lã, chúng ta nên bàn đến
chuyện của hai người; thay vì dẫn chứng chuyện này chuyện nọ mà tính chất liên
hệ hoàn toàn vô bổ, thì chúng ta hãy đưa ra những vấn đề đang trăn trở để tìm
giải pháp. Như vậy tính chất sinh hoạt gia đình được thiết lập trong nội dung
các cuộc đàm thoại với nhau, nhờ vậy an vui hạnh phúc sẽ đạt ở mức độ khá cao.
Học đức Phật, chúng ta cố gắng quay vấn đề trở về hiện thực giữa những người
đang có mặt hơn là những người đang vắng mặt, vì chân lý đúng sai liên hệ đến
người vắng mặt trong quá khứ hay những giả định người vắng mặt ở tương lai đều
không có cơ sở biện hộ và do đó việc đi sâu, tiến xa nội dung trở nên vô bổ.
Dừng quá khứ và dừng tương lai
rất quan trọng. Các nhà lịch sử, các nhà khảo cổ đang nỗ lực kéo chúng ta về
quá khứ để giúp chúng ta trau dồi kiến thức văn hóa, phong tục tập quán. Những
kiến thức này sẽ trở nên kinh nghiệm nếu sử dụng nó đúng đắn. Ý nghĩa hỗ trợ
cho việc xúc nhấn kiến thức rất cao, dĩ nhiên nó phải được phân tích có phương
pháp để tạo bài học lịch sử, hơn là chỉ nêu ra những sự kiện lịch sử thường
tình rồi định đoán phản ứng kéo theo sau. Do đó, nghiên cứu lịch sử là để đúc
rút kinh nghiệm, tránh vết xe sai lầm, phục vụ chính mình ở hiện tại hoặc tương
lai để không trở thành nạn nhân tương tự. Nếu đứng từ phương diện nhà Phật, giá
trị của lịch sử bao gồm khảo cổ và những vấn đề tương tự nằm ở chỗ này.
Ở đây, cuộc đàm luận của
Ưu-đà-di đi về khuynh hướng khác, bất mãn trở nên thất vọng vì những gì được
đồn đại liên hệ đến năng lực toàn trí của nhà đại tâm linh Ni Kiền Tử. Tuy
nhiên, thông qua cách ông đặt vấn đề, chúng ta thấy việc xác nhận ai là bậc
toàn trí nằm ở chỗ kiến thức hoàn hảo về quá khứ và tương lai có được thiết lập
đầy đủ với những minh chứng hay không. Nếu câu trả lời là không, thì lời đồn
đơn thuần chỉ là một lời đồn, tệ hơn nữa có thể dẫn đến chủ nghĩa thần tượng,
mê tín cá nhân và niềm tin mù quáng phần lớn có mặt trong rất nhiều tôn giáo
hữu thần, nhất thần hay đa thần nói chung.
Tuyên bố về một nhân cách toàn
trí đặt trên nền tảng người đó không phạm sai lầm, mọi thứ diễn ra trong cuộc
đời đều được người đó biết một cách chuẩn xác, tuyên bố thì dễ nhưng xác quyết
lại khó hơn. Ưu-đà-di đề cập đến quá khứ không phải của mấy mươi năm về trước
mà là của kiếp trước và câu trả lời của nhà đạo sư Ni Kiền Tử hoàn toàn bị bế
tắc, bởi ông không có năng lực này nên đã cố tình tránh né. Và khi đề cập đến
tiến trình tái sinh trong tương lai thì sự bế tắc của ông cũng diễn ra tương
tự. Cũng như thế, chúng ta áp dụng cho những người được gọi là tiên tri. Khi
hỏi đến bất kỳ sự kiện nào, đặc biệt những sự kiện liên hệ chính bản thân,
người đó hoàn toàn không biết; nếu chuyện bản thân ngày mai như thế nào mà
không trả lời được thì lời đồn đại rằng: “Tôi
có thể biết được chuyện của thiên hạ, chuyện của nghìn năm sau” là
điều không có cơ sở logic.
Đây chính là thước đo căn bản để
đong đo, tính đếm chiều sâu của một nhà được mệnh danh là toàn tri hay toàn
trí. Các tôn giáo thường đề cao và cường điệu hóa năng lực toàn trí của người
sáng lập ra đạo mình. Nhưng thực tế, nếu phân tích trên các sự kiện được mô tả
chính từ kinh Thánh của tôn giáo đó thì hai yếu tố quá khứ và tương lai không
đảm bảo cho niềm tin rằng đó là nhân vật có nhân cách như thế. Do đó, khi nghe
ai quảng cáo về năng lực này, chúng ta chỉ cần lấy hai điều về quá khứ và tương
lai là có thể xác minh được rằng họ thực sự có năng lực hay chỉ sử dụng nó như
một lời đồn che đậy cho mục tiêu nào đó. Vì vậy trong kinh, đức Phật đã khuyên
nhắc những vị xuất gia, dù đạt năng lực này cũng không nên biểu diễn, ngoại trừ
tình huống vì mục đích giáo dục, giúp con người tin nhân quả và hướng tâm về
con đường chân chính. Các mục tiêu thi thố tài năng xuất chúng của mình làm cho
quần chúng quay về nương tựa mình và xa lánh những người còn lại là điều cấm
kỵ. Ai cố tình vi phạm là phạm luật Đột kiết la, tức là đáng quở trách. Cho nên,
ai tự xưng mình chứng Thánh, có năng lực siêu nhiên, siêu phàm, có những sở
trường đặc biệt thế này thế nọ thì chúng ta biết những tuyên bố như thế không
đúng với tinh thần nhà Phật. Nhà Phật dạy, hãy thực thi hơn nói. Hạn chế sử
dụng phép mầu càng nhiều càng tốt, vì điều đó dẫn đến chủ nghĩa thần tượng cá
nhân. Mê tín dị đoan cũng phát sinh theo nó rất cao.
GIÁO
HÓA LÀ PHÉP MẦU
Đức Phật đã đưa ra khái niệm mới
trên nền tảng của chơi chữ: “Giáo hóa
thần thông được xem như phương pháp giáo dục có giá trị nhất mà tất cả những
nhà giáo dục và các nhà hoằng hóa Phật giáo cần phải thực tập theo”.
Giáo hóa thần thông không có nghĩa là sử dụng thần thông của mình để lôi kéo
người khác tin vào năng lực siêu nhiên, siêu phàm. Giáo hóa là năng lực dùng
phương pháp thấy rõ sở trường, sở đoản, căn tánh, những phiền não cũng như tiềm
năng giải quyết phiền não của người nào đó đang đến với mình như một nhu cầu.
Nhờ nắm rõ tâm lý cũng như cá tính của người đó mà việc hướng dẫn họ trở về với
đạo Phật có kết quả ở mức độ khá cao. Ai làm được công việc giáo dục như thế
thì được xem đang thi thố phép mầu. Tức là bản thân việc giáo dục là một phép
mầu. Việc chuyển hóa con người từ tiêu cực đến tích cực, từ khổ đau đến hạnh
phúc, từ suy sụp trở nên phấn chấn vươn lên là một phép mầu. Mà việc giáo dục
này đòi hỏi rất nhiều kỹ năng khác nhau. Có người chỉ mất vài ngày, vài ba
tháng là có thể đạt được hiệu năng của sự giáo dục, nhưng cũng có người mất đến
cả một kiếp người mới có thể chuyển hóa được đối tượng của mình. Cho nên giáo
dục, đặc biệt giáo dục thiện, đạo đức và tâm linh là phép mầu. Chính vì thế nhà
Phật bao gồm những vị có năng lực sáu phép thần thông hiếm khi sử dụng nó.
Trong truyền thống tâm linh nhà
Phật, chỉ có ngài Mục Kiền Liên sử dụng thần thông trong một vài tình huống rất
hy hữu. Mặc dù có năng lực thần thông vào bậc nhất, vượt trội hơn rất nhiều nhà
tâm linh Bà La Môn giáo, nhưng ngài không hề muốn sử dụng nó mà dùng cách giảng
kinh, thuyết pháp để giúp con người quay về với đạo lý có ý nghĩa hơn. Đây là
điều mà chúng ta cần phải suy nghĩ, nó có thể vất vả nhưng mỗi khi chuyển hóa
thành công thì giá trị của nó rất lâu bền.
Quần chúng Phật tử lại không
thích như thế, phần lớn đến với chùa thông qua sự huyền bí hoặc những phép mầu.
Nghe đồn đại ở đâu có phép mầu là đổ xô nhau đi, chẳng hạn niềm tin Bà Chúa Xứ
ở Châu Đốc có năng lực phù hộ bình an, làm ăn khấm khá. Trước đây, mỗi năm chỉ
có một ngày vía Bà, sau đó kéo thành một tuần, đến nay có mùa vía Bà đến sáu
tháng, đến độ một vài chùa phải đặt tên Châu Đốc 2, Châu Đốc 3. Thay vì đi
xuống Châu Đốc mất sáu tiếng đồng hồ, chỉ cần đi vài quận ở TP. Hồ Chí Minh,
chúng ta có được Châu Đốc 2, Châu Đốc 3 với giá trị tương đương. Ưa chuộng năng
lực phép mầu siêu nhiên gia hộ phản ánh chúng ta có quan điểm không muốn nỗ lực,
muốn làm ít mà đạt kết quả nhiều, nên nơi nào nhiều hứa hẹn, chúng ta đến nơi
đó hơn là những nơi nói về giá trị nhân quả.
Ngoài ra còn một lý do dễ hiểu
rằng, trong đời sống, nhiều người đã từng nỗ lực hết mình nhưng không thành
công; thất điên bát đảo rồi phải bị đau đớn, thất bại cho nên họ mất niềm tin
vào năng lực chính mình. Do đó nghe nói nơi nào có phép mầu, có sự gia hộ,
người ta đến nhiều hơn.
Phép mầu trong đạo Phật chính là
nhân quả. Năng lực tri thức để hiểu và sống với nhân quả một cách có phương
pháp không rơi vào chủ nghĩa định mệnh, chủ nghĩa ngẫu nhiên, thái độ đổ thừa,
trách trời, trách đất, than mình, than người
v.v… chính là phương pháp giải
quyết vấn đề trên nền tảng nhân bản trong đạo Phật.
Đức Phật đã quay Ưu-đà-di trở về
với hiện tại và yêu cầu giải quyết các vấn nạn trong nội dung của hiện tại. Nội
dung đó là gì? Đức Phật nói tiếp: “Này
Ưu-đà-di, điều mà ta muốn chia sẻ với ông đó là học thuyết liên kết. Mối liên
hệ được xem là biện chứng giữa các sự vật, sự kiện, giữa con người với con
người, giữa con người với môi trường, giữa con người với các loài động vật và
giữa chúng với nhau. Hễ cái này có tạo tiền đề cho cái khác có mặt; hễ cái này
không có, tạo tiền đề cho cái khác vắng mặt”.
Nhân quả là đa chiều của hình
học không gian, thay vì chúng ta chỉ hiểu đơn thuần như mặt phẳng. Nhân quả mặt
phẳng là nhân quả ngớ ngẩn chỉ có giá trị khuyến tấn đạo đức theo kiểu: “Giết một con gà thì kiếp sau đầu thai thành con gà
và bị giết lại”, hoặc “trộm
cắp của người khác thì kiếp sau hay đời này bị người ta trộm cắp lại”.
Nghĩ như thế là phá hoại nhân quả. Dụ ngôn trong kinh Tương Ưng có chiều sâu cần suy nghĩ.
Đức Phật nói: “Một hoàng tử và một thường
dân phạm luật pháp của triều đình, ai sẽ bị xử tội nặng hơn?” Rõ
ràng tội của hoàng tử sẽ được bưng bít, che đậy, nếu xử lý cũng chỉ là nội bộ,
đôi lúc ém nhẹm đi. Còn là kẻ thường dân, tội đó sẽ bị phanh phui, thậm chí có
thể dẫn đến tru di tam tộc. Hiện tượng nhân quả như vậy làm cho người ta không
tin nhân quả là cán cân công bình.
Đức Phật phân tích tiếp, bởi vì
nền tảng phước báu ở từng con người gắn liền với vai trò, vị thế xã hội mà
người đó có. Cho nên cùng là đồng phạm nhưng có người bị xử nặng, người bị xử
nhẹ. Xã hội nào không đặt trên chế độ pháp trị dẫn đến ô dù và cách thức xử lý
nội bộ sẽ tạo tiền đề cho người ta vi phạm pháp luật nhiều hơn. Lúc nào thế
thần và dù che của người đó không còn nữa thì người đó bị đem ra “thí chốt” trong những cuộc thanh trừng
giữa các đảng phái, hoặc trong một đảng có hai thành phần cấp tiến và thủ cựu.
Thành phần cấp tiến sẽ cố gắng phanh phui những điểm sơ hở của những kẻ thủ cựu
bằng cách đem xử lý một người nào đó nhằm dẫn đến tình trạng liên đới trách
nhiệm lẫn nhau. Do đó, tính chất liên hệ về nhân quả phải được hiểu là liên hệ
đa chiều. Cũng là một tình huống, nếu có phước báu, vấn đề sẽ trở nên nhẹ hơn
bởi sự triệt tiêu giữa nhân quả với nhau là một quy luật. Làm việc xấu, nếu
không có phước báu nào gieo trồng trước đó thì việc xấu này sẽ trổ quả nhãn
tiền. Còn nếu chúng ta có bề dày lịch sử của thành tích, công trạng về điều
thiện thì luật pháp cũng sẽ rất cẩn trọng, đặc xá trong một vài tình huống.
Như vậy, phước này tạo ra năng
lực triệt tiêu về hành động xấu mà chúng ta đang làm ở hiện tại. Nhân quả đó
được gọi là nhân quả đa chiều, nhân quả của hình học không gian. Thực tế là như
vậy. Sự kéo theo của cái này dẫn đến cái khác là sự kéo theo đa chiều tương tác
lẫn nhau. Dĩ nhiên trong bối cảnh cách đây 26 thế kỷ, lời tuyên ngôn như vậy là
tiếng sét đánh. Bởi vì từ xưa đến nay người ta hiểu rằng mọi thứ từ con người,
sơn hà, vũ trụ, chuyện lớn, chuyện nhỏ, năm, tháng, ngày, giờ, no hay đói, hạnh
phúc hay khổ đau đều do Chúa an bài, đấng Phạm Thiên sắp xếp cả. Các tôn giáo
nhất thần có mặt đồng thời, trước hay sau Bà La Môn giáo, dù ở Châu Á, Châu Âu,
Châu Phi, hay bất cứ nơi nào trên hành tinh cũng đều có quan niệm tương tự.
Trong khi đó, đức Phật nói rằng nó là một mối tương tác đa chiều giữa các sự
vật, sự kiện, giữa con người, môi trường, sự sống với nhau tạo ra hệ quả tất
yếu trong tự thân của nó. Không ai đứng cán cân phân định đúng sai theo kiểu
suy nghĩ của nhân dân Trung
Hoa rằng có thần chứng giám hành
động, lời nói, suy nghĩ của chúng ta rồi phân định tốt xấu và cho chúng ta đầu
thai tái sinh làm thế này thế nọ.
DUYÊN
KHỞI VÀ TƯƠNG TÁC
Tính tương tác N chiều với nhân
quả sẽ tạo dựng mọi thứ trên cuộc đời này một cách mầu nhiệm, đôi lúc chúng ta
nghĩ rằng phải có bàn tay siêu nhiên nào đó mới làm được. Câu hỏi đặt ra, nếu
có năng lực siêu nhiên đó thì ai đã tạo ra năng lực này? Bế tắc, không có câu
trả lời. Đã là siêu nhiên thì phải là phi tạo, phi duyên khởi. Cái gì không bị
tạo tác thì không thể bị hoại diệt, tức là chúng ta tạo ra một chân lý tuyệt
đối như là nguyên nhân đầu tiên khởi tạo ra mọi thứ và chúng ta chấp nhận đó là
điều bất khả xâm phạm không thể sai lầm, không được quyền đặt vấn đề. Trả lời
như vậy là chúng ta đang “cả vú lấp miệng
em”.
Chân lý trong thực tế không cho
phép như vậy. Nó cho phép chúng ta truy gốc theo công thức duyên khởi “cái này tạo tiền đề cho cái kia, cái kia có mặt tạo
cơ sở xúc tác cho cái nọ”, quy luật kéo theo là sự tương tác đa
chiều và do đó không có nguyên nhân đầu tiên. Nó có nhiều nguyên nhân: nguyên
nhân chính, nguyên nhân phụ, nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp chứ
không hề có một nguyên nhân duy nhất. Đây là điểm khác biệt căn bản mà đức Phật
muốn du sĩ Ưu-đà-di cùng nhiều đồ chúng nắm và hiểu được vấn đề. Mặc dù các nhà
Sa môn kháng cự lại tinh thần áp đặt của Bà la môn giáo như là một định mệnh,
nhưng họ bị bế tắc trong việc giải quyết và tìm kiếm những câu trả lời thỏa
đáng, trả lời cho nhân quả, trả lời cho sự khác biệt một cách rất khó hiểu về
thế giới sinh hoạt, đặc biệt là con người. Cho nên họ phủ định cái họ không
chấp nhận, nhưng lại không tạo ra cái mới thuyết phục hơn. Đó chính là điểm bế
tắc của các nhà Sa môn. Đức Phật đã kéo Ưu-đà-di trở về vấn đề này hơn là biện
luận về chuyện của người A trong quá khứ, hoặc suy luận đến một giả tưởng trong
tương lai vốn không có giá trị thiết thực trên con đường tâm linh tìm kiếm giá
trị an vui hạnh phúc.
Ưu-đà-di nói: “Thưa Ngài, bản thân con từ những chuyện đại cương
cho đến chi tiết còn không nhớ, chuyện hôm qua còn không nhớ hết huống hồ là
của một đời, hai đời đến nhiều đời quá khứ. Thế nên khi nghe Ngài nói về tính
duyên khởi tương tác đa chiều của nhân quả con càng cảm thấy không rõ bội phần”.
Đây là lời tâm sự chân thành và
liêm khiết về tri thức. Thông thường, các nhà tâm linh được quần chúng tô trét
bằng vầng hào quang sáng chói, và được thần thánh hóa bằng nhiều cách thức khác
nhau, nhưng ở đây chúng ta thấy nhân cách của Ưu-đà-di rất đáng kính trọng. Ông
không muốn thừa nhận những gì được người ta ca tụng về mình, ông rứt ra hết bởi
vì nó không giúp ông an vui hạnh phúc. Ông muốn sống với thực tại, với sự mời
gọi của đức Phật là hãy quên đi quá khứ, quên tương lai. Phải sống với hiện tại
rằng: tôi và ông đang đối thoại về tâm linh, đạo đức, hạnh phúc, an lạc và giải
quyết nó như thế nào. Nhờ vậy họ đã nhập cuộc với nhau một cách rất tâm đắc.
Dám rũ bỏ vầng hào quang được tô
trét lên mình và thừa nhận rằng mình đang bị bế tắc, thái độ đó mở cửa cho trí
tuệ được phát sinh. Trong đối thoại, vấn đề đúng sai, thắng bại không quan
trọng, mà quan trọng là cơ hội để tiếp cận chân lý hay phát minh ra chân lý mới
là cốt lõi. Ưu-đà-di là con người có nhân cách như vậy. Ông không mặc cảm cũng
không cảm thấy bị xúc phạm hay tự ái vặt, vì những thái độ đó là tiến trình tự
sát về phương diện lương tri và tri thức.
Cho nên ông thừa nhận vấn đề mà
đức Phật vừa nêu hoàn toàn ngoài tầm hiểu biết của ông, và mong cầu được lắng
nghe đức Phật về vấn đề này.
Như vậy, giữa toàn trí và duyên
khởi, chúng ta thấy duyên khởi có giá trị quan trọng hơn. Toàn tri, toàn trí
theo lời đồn đại gắn liền với sự tôn trọng, cung kính, tô trét hào quang của
tha nhân vốn không có lợi ích gì cho bản thân. Giả sử có năng lực toàn trí thực
sự đi nữa thì đức Phật cũng không khuyên chúng ta khuyến cáo theo kiểu sơn đông
mãi võ. Bậc có chiều sâu tâm linh không cần phải nói ra lời, khi tiếp xúc người
khác có thể cảm nhận được.
Hiểu duyên khởi, hiểu nhân quả N
chiều, giải quyết và giúp chúng ta tháo gỡ rất nhiều bế tắc của bản thân, người
thân, gia đình, cộng đồng, thế giới, thậm chí là của liên thế giới không chỉ ở
đời này mà còn ở quá khứ, tương lai. Cho nên hiểu nhân quả là phải hiểu trên
nền tảng của những gì đang ở hiện tại. Lấy hiện tại làm trục xoay chứ không
phải là quá khứ.
Hiện nay, người ta làm giàu trên
quá khứ và rất nhiều nghề nghiệp trưởng thành từ quá khứ. Ví dụ những cuộc bán
đấu giá bức tranh của danh họa Picasso có thể làm giàu đến hàng triệu đô la,
trong khi bản thân Picasso còn sống thì nghèo xơ nghèo xác, không ai coi ra gì,
tranh của ông cũng không ai để ý đến. Nhưng sau khi ông chết, người ta mới tô
hồng giá trị của những bức tranh đó như thượng đế, thần linh. Ai có cơ hội treo
bức tranh của ông trong nhà thì cảm thấy mình là người có tri thức. Dĩ nhiên,
chúng ta không phủ định giá trị của nó mở ra một trường phái với phong cách rất
ấn tượng mà trước đây chưa từng có, nhưng nó không đến mức như người ta đã từng
ca tụng. Hàng triệu đô la cho một bức tranh trong khi thực tế hàng trăm triệu
con người đang chết đói, chết khát hàng giờ hàng giây không ai giúp. Treo bức
tranh đó để được khen tặng rằng mình có năng lực thưởng thức giá trị tri thức
của quá khứ. Nhà Phật thấy những vấn đề đó chỉ phục vụ cho rất ít các đối tượng
trong cuộc đời, nó không phục vụ cho số đông, trong khi sự có mặt của đức Phật
được miêu tả trong kinh là mang lại hạnh phúc cho số đông, tức là giá trị thực
tiễn của nó rất cao. Do đó phải dám thừa nhận những bế tắc và sở đoản của mình
thì chúng ta mới có cơ hội đạt được sở trường, dù không ở hiện tại thì cũng
trong tương lai, vấn đề là phương pháp và thời gian.
CÁI
GÌ LÀ TỐI THƯỢNG
Sau khi phân tích học thuyết
duyên khởi, đức Phật bắt đầu xoay cuộc đối thoại qua nội dung khác để giúp
Ưu-đà-di nhận ra rằng ông cần phải cập nhật tiềm năng tuệ giác, bằng không, bế
tắc sẽ vẫn là bế tắc. Đức Phật hỏi: “Đạo
sư của ông có dạy thế nào là tối thượng nhất trong cuộc đời hay không? Và nếu
có thì đối tượng đó là cái gì?” Ưu-đà-di trả lời: “Thưa ngài Gotama, bậc đạo sư của con cho rằng sắc
này là tối thượng. Khi không có thứ nào tối thượng hơn thì nó là tối thượng”.
Ưu-đà-di chỉ nói như vậy mà không giải thích gì thêm.
Chúng ta thấy trong cách thức
định nghĩa một vấn đề thỉnh thoảng rơi vào vòng luẩn quẩn. Gọi là định nghĩa
nhưng lại không nói thêm một cái gì mới giữa chủ từ và thuật ngữ, cụm từ được
giải thích chỉ là một đồng cách với nhau, ví dụ: định nghĩa thiện tức là không
ác, không ác tức là thiện, ngoài ra không nói được điều gì hơn.
Trong rất nhiều tôn giáo, nhiều
triết học thậm chí các học thuyết chính trị chỉ nêu ra được sản phẩm hấp dẫn mà
nội dung của nó lại chẳng có gì. Khi được đề cập và yêu cầu định danh nội dung
của sản phẩm hấp dẫn đó, người ta tránh né bằng nhiều cách. Họ chỉ dùng những
mỹ từ gây mê quần chúng, còn nội dung của nó ra sao chẳng quan trọng. “Tiền nào của đó” là mỹ từ. Một sản phẩm
được nâng giá trị lên gấp mười lần và tiền của giá trị đó cũng phải được nâng
lên gấp mười lần, trong khi giá trị thực tế chỉ là một. Nhưng vì là những người
giàu có, chúng ta thích chứng tỏ mình, thay vì sản phẩm A chỉ đáng giá 10.000$
nhưng chúng ta sẵn sàng bỏ ra 100.000$ rồi nói: “Tiền nào của đó”, cuối cùng chúng ta bị mắc lừa. Có những
giá trị sản phẩm tương đương nếu biết khai thác, chúng ta không phải tốn số
tiền quá cao. Hiểu được vấn đề này, chúng ta sẽ không chạy theo danh và tướng.
Kinh Kim Cang, đức Phật tuyên bố
một câu rất sâu sắc “phàm sở hữu tướng,
giai thị hư vọng”, tất cả mọi tướng trạng, mọi danh xưng, thậm chí
những mỹ từ trong tướng trạng và danh xưng này đều là hư vọng, không có thực
trong tính chất và giá trị của nó. Tuy nhiên, xã hội lại thích chỗ này, sản
phẩm tốn gần như từ 50 đến 70% chi phí quảng cáo, giá trị thực của nó chỉ
khoảng 10%. Cho nên chạy theo chủ nghĩa danh tướng là “tiền mất tật mang”. Phải lấy những
thước đo cụ thể về tính giá trị, chúng ta mới biết nó có thực hay chỉ là một
lời tuyên bố rỗng.
Ưu-đà-di hoàn toàn không định
danh thế nào là sắc tối thượng, nên khi được hỏi tiếp thì ông nói rằng nếu
không có cái gì tối thượng hơn thì nó được gọi là sắc tối thượng. Tạo ra một ma
trận của ngôn ngữ mà người đối thoại khi dấn bước vào ma trận này không có lối
thoát. Dùng thuật từ những nội dung mà việc định nghĩa không được rõ ràng làm
chúng ta bị luẩn quẩn từ chỗ này qua chỗ khác, cuối cùng chúng ta buộc phải
chấp nhận cái mà người đó không định danh được. Trong logic của triết học, các
phán đoán mang những nội dung luẩn quẩn như thế là một điều cấm kỵ, vì nó không
đưa chúng ta đi đến đâu. Khi nói rằng: tôn giáo nào cũng dạy con người lánh ác
làm lành, thì vấn đề quan trọng không phải là danh từ “lánh ác làm lành”, mà cái nội hàm trong
khái niệm lánh ác làm lành này là cái gì? Nếu lánh ác được hiểu là không làm
những việc ác và làm lành được hiểu đơn thuần, không làm ác được gọi là làm
lành, thì khái niệm như thế quá sơ đẳng, không có chiều sâu. Cho nên không nên
đẳng thức hóa những khái niệm đồng nhau về phương diện hình thức, đến việc chấp
nhận và cho rằng nội dung của nó là một.
Nhân dân Việt Nam có những
câu đi ngược với quan điểm đó như là một trí tuệ “mía sâu có đốt, nhà dột có nơi”. Đừng vì một đốt mía sâu
mà bỏ cả cây mía, cũng đừng vì chỗ dột mà bỏ cả căn nhà. Quy nạp cảm tính đặt
trên nền tảng của mặc cảm, thành kiến, cố chấp, bảo thủ để đồng hóa từ một hiện
tượng cá lẻ dẫn đến phổ quát hóa rồi nâng nó lên thành quy luật, xem tất cả mọi
thứ đều giống như nhau, đó là sự sai lầm về phương pháp luận mà nhận thức cần
phải tránh.
Đức Phật nói rất nhẹ nhàng với
du sĩ Ưu-đà-di rằng: “Điều mà ông vừa
giải thích là vô nghĩa, nó không làm cho ai hiểu được. Cũng như cách nói: tôi
yêu say đắm một người thiếu nữ đẹp, nhưng khi được hỏi thiếu nữ đó đẹp như thế
nào? Đẹp về ngoại hình hay đẹp về tâm tính, vai trò vị thế xã hội thì đều không
trả lời được. Nói người đó đẹp, mình yêu say đắm mà không biết gì về người đó.
Lời định nghĩa như vậy không dẫn chúng ta đi tới đâu, mà còn chứng tỏ rằng mình
là kẻ hời hợt trong tiếp xúc, đánh giá một con người và một vấn đề. Nếu nội
dung của sự đánh giá đã được thần tượng hóa thì những niềm tin đó trở thành mù
quáng, chẳng mang lại giá trị gì cho đời sống thực tế”.
Ưu-đà-di đưa ẩn dụ chứng minh
việc định danh cái tối thượng là “sắc”,
tuy nhiên ẩn dụ ông đưa ra lại “gậy ông
đập lưng ông”. Đức Phật thường tuyên bố: “Người trí nhờ ví dụ,
so sánh mà hiểu biết”, không
cần phải nói huỵch toẹt từ đầu đến cuối, vì như thế sẽ không có chiều sâu và
không tạo ấn tượng. Chỉ nên nói hàm nghĩa để người có kiến thức hiểu và để tự
người đó tham gia phát minh nội dung mà chúng ta muốn ám chỉ. Chỉ khi nào họ
phát hiện sai thì chúng ta mới chỉ điểm mà thôi . Đây cũng là phương pháp giáo
dục ở thế giới phương Tây hiện tại. Nếu thầy cô giáo giảng rõ mọi thứ thì học
trò chỉ là một bản sao hay nói cách khác, bộ não học trò trở thành thư viện
tích tập kiến thức, thay vì phải sử dụng tri thức của mình xử lý các dữ liệu,
phát minh những cái mới. Phương pháp giáo dục của đức Phật rất hay ở chỗ tạo cơ
hội để người khác tham dự vào với những suy nghĩ có thể phát minh ra một cái gì
đó mới hơn.
Ưu-đà-di cũng đưa ra ví dụ như
sau: “Ví như một hạt ngọc lưu ly đẹp đẽ
có tám mặt trong suốt khéo dũa khéo mài đặt trên một tấm màn màu nhạt, tự nó
sáng lên; với sắc như vậy, tự ngã là không bệnh sau khi chết”. Ông
nói hoàn toàn lạc đề.
Trong khi đức Phật hỏi cái gì
nhất đối với ông, thì ông trả lời là sắc, hỏi sắc đó nhất như thế nào thì ông
trả lời nếu trong đời không có cái gì đặc biệt hơn thì cái đó được gọi là nhất.
Ông trả lời những điều hiển nhiên ai cũng biết. Đến khi hỏi nội dung của nó thì
ông so sánh như viên ngọc lưu ly đặt trên một tấm vải xoàng xĩnh, cái đẹp nổi
bật trong tình huống này là chuyện thường. Ở đây, Ưu-đà-di đưa hình ảnh viên
ngọc là định danh sắc, nhưng nghĩa tối thượng thì lại không nói được, và vế thứ
hai hoàn toàn lạc đề. “Tự ngã hoàn toàn
không có bệnh sau khi chết”, dĩ nhiên chúng ta vẫn hiểu ý ông muốn
nói sắc, cái tối thượng trên cuộc đời này, chính là tự ngã, là “cái tôi”, là hãnh diện, tự hào… được
trân trọng như viên ngọc lưu ly. Nếu như thế thì còn gì là tâm linh nữa? Bởi vì
“cái tôi” đó là hàng rào đinh
gai, sỏi đá. “Cái tôi” là vực
thẳm chứ không phải là tối thượng. Ai xem nó là tối thượng thì sau khi chết, “tự ngã” của mình được khỏe mạnh không
có bệnh hoạn, nghĩa là biết tôn nó thì không có bệnh, còn ngược lại, sẽ bị nó
nghiêm trị ở một cách thức nào đó.
Thấy rõ Ưu-đà-di đang dùng công
thức “gậy ông đập lưng ông”
rằng người trí nhờ ví dụ mà hiểu biết, đức Phật cũng dùng cùng công thức này và
xoáy vấn đề về phương pháp so sánh hấp dẫn hơn. Đức Phật hỏi: “Màu sắc của con đom đóm so với màu sắc của ngọc lưu
ly thì cái nào hơn?”. Ưu-đà-di nói: “Dĩ nhiên ngọc lưu ly phải hơn”. Phật hỏi tiếp: “lửa của con đom đóm so với lửa của đèn dầu thì cái
nào sáng hơn?”. Ưu-đà-di đáp đèn dầu sáng hơn. Tương tự như thế,
sau mỗi lần so sánh, ông thừa nhận sao mai sáng hơn đèn dầu, mặt trăng sáng hơn
sao mai, mặt trăng rằm sáng hơn mặt trăng khuyết, mặt trời sáng hơn mặt trăng,
mặt trời đứng bóng giữa trưa sáng hơn mặt trời buổi sáng và chiều. Dĩ nhiên khi
dẫn dụ như vậy, đức Phật đang tạo ra bài toán so sánh giữa một cái nhỏ so với
một cái lớn, cái lớn vừa sẽ nhỏ hơn cái lớn hơn. Cứ như thế cuối cùng cái lớn
nhất là độ sáng của mặt trời đứng bóng. Sau đó đức Phật xoay Ưu-đà-di vào chỗ
so sánh ánh sáng mặt trời và ánh sáng trí tuệ của con người, cái nào hơn.
Ưu-đà-di không trả lời.
Trong ngữ cảnh của bài kinh, đức
Phật dùng chữ Deva, tức là chư Thiên, nghĩa gốc của “Deva” là người phát quang. Từ đó chủ
nghĩa giai cấp Ấn Độ đặt nặng màu sắc làn da, ai có nước da đen bị xem là không
có trí tuệ, hạng cùng đinh mạt hạng trong xã hội và chỉ xứng đáng làm công việc
nặng nhọc tay chân, do đó cơ hội tiến thân bị bế tắc. Còn những người có nước
da trắng được xem là tượng trưng cho hào quang sáng chói cho nên mức độ tri
thức của họ cũng được tỷ lệ thuận và tăng dần. Thay vì hiểu trên nghĩa đen và
nghĩa bóng như Bà La Môn giáo đã hiểu, đức Phật sử dụng nó bằng ý nghĩa của
biểu tượng và triết lý, hào quang không phải là ánh sáng mà là trí tuệ. Trí tuệ
con người sáng chiếu không biên giới, không bị giới hạn bởi năm tháng ngày giờ.
Người có trí tuệ lúc nào cũng có thể soi sáng cả cuộc đời, làm cho mọi người
xung quanh có cơ hội đến với mình để cùng hưởng giá trị tâm linh tương tự. Cho
nên, nếu có một thứ chói sáng và đẹp nhất, đó không phải là ngọc lưu ly mà
chính là trí tuệ, là nhận thức đạo đức, ứng xử phù hợp nhân quả, giải quyết mọi
vấn đề không trách người, trách trời, trách đất, trách phận, không chấp nhận
vận mệnh, không chấp nhận sự ngẫu nhiên. Người như thế được gọi là người sáng
chói nhất, sáng chói hơn cả mặt trời, huống hồ chỉ là thứ ánh sáng lấp lánh lòe
mắt của viên ngọc lưu ly đơn thuần.
Như vậy, theo định nghĩa của đức
Phật, thì trí tuệ là tối thượng. Nhờ nó mà mọi bế tắc được giải quyết. Người
trí tuệ có thể là người dư tài sản, hay không có một tấc đất trong tay nhưng
lời nói, việc làm, suy nghĩ, giao tế ứng xử và những gì phổ biến chắc chắn phải
mang lại lợi lạc và hạnh phúc nhất.
YẾU
TÍNH HẠNH PHÚC
Năm điều đạo đức đưa đến hạnh
phúc theo lời dạy của đức Phật và quan điểm của Sa môn giáo.
Sau khi Ưu-đà-di im lặng không
trả lời được câu hỏi giữa ánh sáng trí tuệ và ánh sáng mặt trời đứng bóng, cái
nào sáng hơn, thì đức Phật bắt đầu xoay vào nội dung quan trọng, đó là con
đường hạnh phúc. Trí tuệ không phải chỉ được sử dụng ngay trong hiện tại để tạo
hạnh phúc vốn là niềm mong mỏi của con người. Hạnh phúc liên hệ đến hiện tại
chứ không phải ở cảnh giới xa xôi nào đó sau khi chết.
Đức Phật hỏi Ưu-đà-di: “Con đường duy nhất dẫn đến hạnh phúc là gì?”
Ưu-đà-di trả lời: “Đạo sư của con từng
dạy phải từ bỏ sát sinh, không lấp liếm bàn tay vào trộm cắp, cũng không nên
ngoại tình, không nên nói dối, đồng thời phải thực hành khổ hạnh ép xác”.
Đây là năm điều đạo đức được các nhà Sa môn chủ trương lúc bấy giờ. Bốn điều
đạo đức đầu hoàn toàn phù hợp và đồng với đức Phật về phương diện khái niệm
nhưng có phần khác nhau về nội dung.
Trong việc từ bỏ sát sinh, đối
tượng nhắm đến của các nhà Sa môn giáo chính là con người, chứ không nội hàm
theo nghĩa quan trọng và tích cực hơn là yêu chuộng hòa bình và xây dựng hòa
bình. Một số loài thú có khả năng tạo ra chiến tranh nhưng đó là chiến tranh
bản năng không tính toán, chiến tranh đó chỉ dẫn đến sự tồn vong và vật thực
không bằng chiến tranh mà con người tạo ra, có thể hủy hoại cả chủng loại loài
người. Các cuộc chiến liên quốc gia hay liên minh các chủ nghĩa học thuyết,
liên minh thế giới hay liên con người, với mấu chốt vẫn nằm trong điều không
tôn trọng chủ quyền độc lập và những vấn đề liên hệ trực tiếp đến nó. Cho nên
đức Phật dạy, bên cạnh việc giữ đời sống đạo đức thì cần phải xây dựng hòa
bình, bên cạnh việc không sát hại cần phải phóng sinh và tạo mạng sống, bên
cạnh không hủy hoại môi trường phải làm và xây dựng môi trường một cách hài
hòa, phù hợp giá trị chân lý mà chúng ta đang cần.
Thứ hai, ngoài việc không trộm
cắp thì phải làm từ thiện, bố thí, giúp đỡ. Không trộm cắp phải đính kèm theo
là làm từ thiện.
Thứ ba, bản thân không vi phạm
luật một vợ một chồng mà còn phải tán dương người khác như mình và tạo cơ hội
cho những sinh hoạt đó được diễn ra.
Thứ tư, bên cạnh không nói dối,
cần thực tập tuyên bố
chân lý, nói những lời mang tính
xây dựng hài hòa từ những đổ nát, và nói những điều có ích cho xã hội cộng
đồng.
Chúng ta thấy nội dung hoàn toàn
vượt lên trên. Bốn điều đạo đức này chỉ đồng nhất ở phần nêu ra cái ác, nhưng
xây dựng và hướng dẫn về thiện thì các học thuyết đạo đức của các tôn giáo khác
không nhấn mạnh.
Điểm khác biệt thứ năm là khổ
hạnh ép xác như con đường dẫn đến hạnh phúc nhất thì theo đức Phật xác quyết
không phải như thế. Đức Phật đã từng là nạn nhân của phương pháp thực tập này,
tuy nhiên, Ngài chưa vội phân tích cho Ưu-đà- di thấy điều đó. Đức Phật hỏi
tiếp: “Kết quả thực tập năm điều đạo đức
như vừa nêu có thể mang lại con đường hạnh phúc đích thực hay nó là một sự tổng
hợp giữa cảm xúc khổ đau?”. Suy nghĩ một lúc, Ưu-đà-di trả lời: “Theo con, nó không phải là hạnh phúc thuần nhất mà
nó có tình huống khổ và tình huống vui”.
Chúng ta thấy rõ đây là nhận
thức rất chuẩn xác. Không làm bốn điều ác: Sát sinh, trộm cắp, ngoại tình và
nói dối thì chúng ta sẽ có được niềm vui không bị luật pháp trừng trị, bị
nguyền rủa hay bị ray rứt lương tâm. Niềm vui đó rất tự nhiên, nhưng điều chúng
ta cần quan tâm là câu trả lời về vế thứ năm: khổ hạnh. Quả thực như thế. Có
đầy đủ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà không hưởng thụ nó theo nghĩa tích cực
hướng thượng, có đạo đức, giúp mình và người được an vui thì phỏng có giá trị
gì? Các nhà khổ hạnh cảm nhận được sự đau khổ nhưng họ tự an ủi rằng trải qua
sự đau khổ này họ sẽ được hạnh phúc vĩnh viễn. Mặc cả về nhân quả như thế là
sai lầm.
Điều sâu sắc là đức Phật gợi ý
chúng ta phải tự suy nghĩ để tự đưa ra kết quả dẫn đến phán đoán chân lý đúng
sai. Nếu đức Phật nói huỵch toẹt rằng phương pháp này sai lầm, không nên theo
thì chắc gì Ưu-đà-di tin nghe. Cho nên Ngài phải làm cho Ưu-đà-di tự nhận định
đánh giá. Chỉ khi nào chúng ta tự bản thân cảm nhận với sự nghiêm túc và liêm
khiết về tri thức thì lúc đó chúng ta mới bắt đầu mở mắt lần thứ hai, và tái
sinh bằng tuệ giác lần thứ hai trong cuộc đời.
Đức Phật nói, con đường đích
thực dẫn đến hạnh phúc không chỉ dừng lại ở những hành động không làm ác mà bên
cạnh đó phải gieo trồng những hạt giống thiện. Nhiều bài kinh trong kinh Trung Bộ cũng đã nói, con đường thiện
dẫn đến hạnh phúc trong nhà Phật bao gồm ba vế. Vế đầu: Dứt ác hoàn toàn; vế
thứ hai: Xây dựng thiện một cách tuyệt đối; vế thứ ba: Phải thanh lọc tâm thông
qua việc huấn luyện động cơ và thái độ trong khi thực hành điều thiện. Nếu hành
thiện với dụng tâm cầu danh, cái tôi mà làm một cách bất đắc dĩ thì đó là tâm
không cao thượng, dù cho việc thiện có diễn ra đi nữa thì ý nghĩa xã hội của nó
cũng không cao.
Con đường tâm linh của Sa môn
giáo chỉ đạt được vế đầu là dứt ác, nhưng chưa đề cập đến làm lành. Làm lành
được họ hiểu là khổ hạnh ép xác, tự hành hạ cơ thể của mình, cho nên việc thanh
lọc tâm khó được thực hiện. Khi tâm đang khổ do thân bị khổ thì làm sao tìm
được an vui. Phương pháp tâm linh đó hoàn toàn bế tắc.
CON
ĐƯỜNG HẠNH PHÚC
Đức Phật nói: “Con đường hợp lý để đưa đến hạnh phúc chính là thiền
thứ nhất, thiền thứ hai và thiền thứ ba”. Ở đây đức Phật đã dùng
khái niệm tương đối “con đường hợp lý”
chứ Ngài không nói thực tập thiền một, hai, ba là tương đương và đồng hóa với
hạnh phúc.
Vừa rồi có một Phật tử tâm sự
với chúng tôi rằng cô bị ma nhập gần hai mươi năm. Khi nghe nói đây là con ma
thiện có thể giúp cô được hạnh phúc nên cô chấp nhận cho nó bên cô suốt mấy
chục năm. Nó bảo tụng kinh thì cô tụng kinh, bảo ngồi thiền thì cô ngồi thiền
và nó bảo dừng thì cô dừng. Chúng tôi liền hỏi “nếu là ma thiện sao lại bảo cô dừng tụng kinh, dừng ngồi thiền?”,
cô trả lời bởi vì khi đối thoại, con ma này nói “còn ngồi thiền, còn tụng kinh, còn tu tập là còn động niệm. Phải tu
làm sao vô niệm, vô tu, vô chứng mới tốt”. Từ đó cô sợ quá bỏ hết
tất cả mọi thứ. Cái bàn cơm với những thực phẩm tâm linh ăn hàng ngày hàng giờ
được hạnh phúc mà bây giờ chỉ vì bệnh tưởng với hình ảnh của một con ma chỉ đạo
chi phối rồi từ bỏ hết mọi thứ! Sau đó, phải mất gần hai tiếng chúng tôi mới
giúp cô nhận ra mình đang trong trạng thái bệnh tưởng.
Cho nên ở đây, đức Phật nói rất
tương đối và tương đối chính là chân lý. Vì bản chất của vũ trụ là duyên khởi,
mọi thứ đều tương đối cho nên đức Phật mới dùng cụm từ “đây có thể là con đường hợp lý”. “Hợp lý” và “dẫn đến” là hai điều kiện.
Thứ nhất nó phù hợp với sự thật
đang diễn ra. Thứ hai, nó có khả năng dẫn đến. Nếu hai yếu tố này không thành
tựu thì dù chúng ta có thực tập vẫn không đạt kết quả. Do đó, tính phương pháp
và điều kiện không thể tách rời nhau. Kết quả sự thực tập nào cũng phải lệ
thuộc vào phương pháp. Tu không có phương pháp, tuy vào chùa vài chục năm nhưng
chúng ta vẫn chỉ dậm chân tại chỗ, có chăng “cái
tôi” lớn dần. Không có trí tuệ, “cái
tôi” sẽ trưởng thành rất nhanh, thành tích công trạng nhiều chừng
nào, “cái tôi” lớn nhiều chừng ấy.
Thiền thứ nhất là ly dục và ly
bất thiện pháp. Dục, nặng nhất là dục tính và đơn thuần là dục
thân. Hai yếu tố này tác động cho lòng tham và lòng si phát triển. Nơi nào có
dục là nơi đó có lòng si, bảo thủ, cưỡng đoạt dẫn đến lòng sân. Tham sân si
đồng hành thì khổ đau có mặt. Bất thiện pháp bao gồm hành động, lời nói, ý
nghĩ. Hành giả muốn chứng đắc thiền thứ nhất, trước tiên phải thực hiện hai nội
dung: dứt ác làm lành; và chuyển hóa năng lực tính dục.
Thiền thứ hai là dứt tầm và tứ. Đây là
phương pháp vay mượn điều thiện nào đó làm đối tượng cho tâm mình đặt để, tạm
quên đi những phiền muộn, vượt qua những nỗi đau, không bám víu vào những điều
xấu và hướng tới con đường tâm linh tốt. Đây là phản ứng rất tất yếu, là phương
pháp thay thế như cái nêm để tâm dừng yên một chỗ, lắng dịu, nhẹ nhàng, vững
chãi thảnh thơi. Tiến trình mang các tính chất an lạc như vừa nêu luôn luôn
diễn ra trong lúc chúng ta thực tập cùng một đối tựơng.
Trong kinh điển nhà Phật, có
nhiều đối tượng chúng ta có thể nương vào như từ bi hỷ xả, vô tham, vô sân, vô
si… nói chung là các giá trị đạo đức dùng để quán chiếu và nhờ đó vượt qua được
phiền muộn. Hoặc chúng ta có thể nương vào hào quang ánh sáng, không gian năm
tháng, hay đất nước gió lửa… miễn là sở trường sở thích của mình hợp thì nó sẽ
trở thành công cụ và điều kiện giúp chúng ta đạt tịnh chỉ, vượt qua được những
nỗi đau.
Dựa vào công thức này, các thiền
sư Trung Hoa đã sáng tạo ra một công án sau khi chuyển hóa khai tâm mở trí cho
một thiền sinh đạt kết quả. Từ đó người ta đã áp dụng cho rất nhiều tình huống
khác nhau, và kết quả đạt được cũng tương tự. Còn những câu tham thoại đầu chưa
có điển tích, điển cố thì được sử dụng tùy theo khuynh hướng sở trường của các
vị thiền sư ứng với căn tánh của từng vị thiền sinh cụ thể, để giúp họ phá vỡ
cấu trúc chấp trước của mình. Như vậy, nếu câu thoại đầu đó có giá trị ở mức độ
cao và được nhiều người sử dụng thì nó bắt đầu trở thành một công án. Cho nên
tất cả mọi câu tham thoại đầu là bước đầu của một công án, và công án hay tham
thoại đầu cũng chỉ là phương tiện Tầm, tức là theo đuổi đối tượng và Tứ là đặt
lên trên một đối tượng.
Hơi thở, nụ cười quán chiếu danh
hiệu đức Phật A Di Đà, hay câu thần chú trong Mật tông cũng đều có giá trị
tương tự. Đó là một cái nêm cho tâm thức không còn loạn tưởng và vọng động.
Thực tập như vậy, hành giả sẽ bắt đầu thăng tiến từ thiền thứ nhất hướng đến
thiền thứ hai. Định nghĩa của thiền thứ hai là dứt bỏ Tầm và Tứ như những
phương tiện, tức là sau khi đã đạt được mức độ vay mượn và thành công trong sự
vay mượn thì chúng ta phải tháo gỡ sự vay mượn đó. Cũng như giàn giáo của một
căn nhà, muốn cất căn nhà hai tầng thì giàn giáo cũng phải cao hai tầng trở
lên. Sau khi hoàn tất căn nhà, chức năng căn nhà sẽ không có tác dụng nếu không
tháo gỡ giàn giáo. Cho nên các phương tiện cần được vượt qua, các công cụ sử
dụng như là phương pháp thay thế cần phải được buông bỏ. Kinh Kim Cang có câu:
“Chánh pháp còn phải bỏ huống hồ là phi
pháp”. Phi pháp gồm những việc sai quấy, bất thiện, phi đạo đức,
những chuyện hý luận, phiền não, hơn thua, thù hận trong cuộc đời đương nhiên
phải từ bỏ. Còn chánh pháp cũng phải bỏ là điều hơi khó hiểu, nếu không hiểu
đúng ngữ cảnh của nó. Sử dụng chánh pháp như một chiếc bè đưa người sang sông
và sẽ trở nên vô nghĩa nếu chúng ta đội chiếc bè đó trên đầu vì lòng biết ơn.
Phải buông bỏ nó sau khi đã đến bờ bên kia. Phải rũ bỏ các phương pháp, trả
phương pháp đó về bên bờ khổ đau cho nhũng người khác được đi qua. Nếu bám víu
sẽ trở thành bỏn xẻn về tri thức.
Người Trung Hoa rơi vào nạn bỏn
xẻn này khá nhiều. Gia truyền là một loại bỏn xẻn về kiến thức. Do đó phải từ
bỏ Tầm và Tứ như là phương tiện thiết lập tâm được an lành thì chúng ta mới có
cơ hội đang sống và an trú ở tầng thiền thứ hai.
Thiền thứ ba là ly hỷ diệu lạc. Phải
buông bỏ những hỷ lạc nho nhỏ, mặc dù nó chỉ mới bắt đầu lâng lâng nhẹ nhàng
thư thái trong tầng thiền thứ nhất, thứ hai. Lúc đó chúng ta mới đạt cái diệu
lạc, tức là hạnh phúc sâu lắng hơn, cũng như muốn lên lầu ba thì phải quay lưng
với lầu một, lầu hai. Hãy buông xả các hỷ lạc bên dưới thì mới đạt được tầng
thiền cao hơn. Ở đây đức Phật nói rất khiêm tốn và tương đối rằng “đây có thể là những con đường hợp lý để dẫn đến
hạnh phúc”.
Thiền thứ tư “xả niệm thanh
tịnh” là mục tiêu cốt lõi mà đức Phật muốn nhắm đến. Đức Phật
quay sang các bậc du sĩ và tín đồ của Ưu-đà-di đang có mặt lúc bấy giờ và hỏi
rằng: “Các vị có ý kiến gì không?”
Tất cả đồng loạt trả lời: “Chúng con
không biết gì hơn, ngoài những gì được nghe từ vị đạo sư của chúng con đang có
mặt tại đây, những gì đạo sư nói là thay lời chúng con muốn nói”.
Con đường tâm linh tôn giáo nhất
thần là như vậy. Kiến thức của người học trò là bản sao kiến thức của ông thầy
và không dám đặt bất cứ vấn đề nào dù có phương pháp, sáng suốt hay ít nhất là
tương quan. Hầu như họ không hề có cơ hội phát minh ra cái mới.
Đức Phật quay sang Ưu-đà-di,
Ưu-đà-di lắc đầu và xin thưa: “Thế nào
mới là con đường hướng tới hạnh phúc đích thực nếu như Ngài nói thiền thứ nhất,
hai, ba chỉ là phương pháp hợp lý?”. Đức Phật trả lời: “Cần phải an trú vào thiền thứ tư. Có cơ hội đạt
được tầng thiền này cũng như sống chung với những người đạt được tầng thiền này
thì lúc đó hạnh phúc đích thực mới thật sự có mặt”.
Thiền thứ ba, diệu lạc vẫn chưa
phải là hạnh phúc nhất bởi vì nó chỉ tồn tại trong lúc chúng ta đang ngồi
thiền. Trong công thức của thiền thứ tư có hai phần: Xả niệm và Thanh tịnh.
Xả là buông đối tượng của sự nắm
bắt hạnh phúc và khổ đau, hay trung tính giữa hạnh phúc và khổ đau. Khi thực
tập thiền, giữ lại hạnh phúc, buông bỏ khổ đau là tiến trình diễn ra một cách
bắt buộc. Nếu không nắm lấy hạnh phúc thì khổ đau không có cơ hội được buông.
Nhưng sẽ sai lầm nếu sau khi nắm lấy hạnh phúc để buông khổ mà lại an trụ vào
trong hạnh phúc đó, thì đó sẽ là hạnh phúc có điều kiện, là hạnh phúc đối lập
với khổ đau, không phải là hạnh phúc đích thực. Chính vì thế, chúng ta phải xả
niệm, đừng bám vào nó vì bám vào là một sự trở ngại. Khi không còn bám víu,
hành giả sẽ đạt được trạng thái thanh tịnh tuyệt đối về tâm thức. Tâm thức được
chuyển hóa thành trí, trí rũ bỏ tất cả mọi chấp trước giúp hành giả làm chủ
được dòng cảm xúc, nhận thức và làm chủ bản thân.
Đức Phật dạy: “Khi con người xả niệm được thanh tịnh, rõ ràng nó
không chỉ có giá trị tồn tại trong khi thiền hành mà còn luôn có mặt ở khắp mọi
nơi”, đây là điều đức Phật muốn chúng ta hướng đến. Đạt được trạng
thái thiền thứ tư với hai nội dung xả niệm và thanh tịnh, chúng ta mới thực sự
đang sống trong hạnh phúc chứ không phải đang hưởng bánh vẽ của hạnh phúc. Như
người đếm tiền ngân hàng là đang hưởng bánh vẽ của tiền bạc và giàu sang; người
đang nghe mô tả về các vật thực là đang ăn bánh vẽ của vật thực mà bản thân
người đó không hề có giá trị no nê nào để giải quyết đói khát.
Đức Phật muốn chia sẻ với
Ưu-đà-di không chỉ đơn thuần là đạt được tầng thiền thứ tư này, mặc dù đối với
người tại gia, nó là hạnh phúc lớn nhất. Đức Phật xác quyết rằng: “Các vị xuất gia chân chính trên con đường tâm linh
của đạo Phật không phải vì mục đích đạt được tầng thiền thứ tư như vừa nêu, mà
họ còn có những mục tiêu cao thượng hơn”. Phật nêu rất rõ các mục
tiêu đó: Túc mệnh trí, Sanh tử trí, Lậu tận trí. Ba mục tiêu này còn gọi là Tam
minh.
Túc mệnh trí là năng lực tri
thức quá khứ của bản thân cũng là chủ nghĩa kinh nghiệm đích thực nhất, nói có
sách mách có chứng và nó là bài học ở hiện tại cũng như tương lai để chúng ta
không tái phạm. Nó chính là cơ hội để mở cửa cho sự không lầm lỗi và cơ hội của
quay đầu.
Thiên nhãn trí là năng lực thấy
được nhân quả của tha nhân và tái khẳng định kiến thức nhân quả ở chiều sâu hơn
của tương lai. Trong khi nhân quả tự thân gọi là Túc mệnh trí, thì nhân quả của
tha nhân ở tương lai thuộc về Thiên nhãn trí. Như vậy người đạt hai trí tuệ vừa
nêu sẽ có được tri thức nhân quả của mình và người.
Lậu tận trí, tức là năng lực tuệ
giác thấy rất rõ phiền não nghiệp chướng trần ô uế nhiễm, tham, sân, si, cái
tôi vị kỷ đã không còn chỗ đứng trong bản thân. Đây chính là kết quả cuối cùng
của hành giả tâm linh theo đạo Phật.
Vì ba mục tiêu này mà những
người xuất gia trở thành tu sĩ, chứ không phải để được cung kính tôn trọng,
ngợi khen, phong chức tước trong một ngôi chùa hay một giáo hội. Khi đạt được
Tam minh, phản ứng kéo theo đó là hành giả sẽ có được trí tuệ về Tứ diệu đế
giải thoát tất cả lũ lụt của dục, lũ lụt của tái sinh và của vô minh. Đức Phật
khéo léo dùng từ “lũ” rất ấn
tượng biểu đạt hình ảnh cuốn trôi chúng ta chết chìm chết đắm.
Như vậy, mục tiêu căn bản nhất
và quan trọng nhất mà hành giả Phật giáo thực tập là làm thế nào để chứng đắc
được ba loại trí tuệ thì mới giải hết ách nạn trong cuộc đời. Thêm vào đó, mọi
ứng xử sau khi chứng đắc sẽ đặt trên nền tảng trí tuệ của Tứ diệu đế, tức là
hai lớp nhân quả, do đó chúng ta sẽ không bị lầm lỡ và tái phạm.
CHƯỚNG
NGẠI VÀ THỰC TRẠNG
Sau khi nghe đức Phật trình bày,
nhà đạo sư Ưu-đà-di cảm thấy thán phục vì những điều lần đầu tiên ông được
nghe. Là một người liêm khiết về tri thức, đang mong cầu tâm linh thật sự nên
ông có tinh thần rất khách quan trong nhận định đánh giá, không để những thành
kiến trong quá khứ lôi cuốn, chi phối, ảnh hưởng, tác động. Do đó ông muốn phát
nguyện trở thành đệ tử của đức Phật, mong trở thành vị xuất gia chân chính. Dĩ
nhiên theo mật ước, người nào xuất thân là một giáo sĩ của các tôn giáo khác
thì cần phải trải qua thời gian thực tập thử thách niềm tin, nhưng trong tình
huống này, đức Phật lại nhận lời ngay vì biết rằng Ưu-đà-di đến với đạo Phật
bằng thái độ tiếp cận chân lý và sống với chân lý, chứ không phải đi tìm một
cái gì đó hư vọng, danh tước. Khi nghe đức Phật chấp nhận Ưu-đà-di là đệ tử
xuất gia, các đệ tử du sĩ và cư sĩ của nhà tâm linh Ưu-đà-di vô cùng phẫn nộ.
Họ nói rằng: “Tôn giả Ưu-đà-di cũng giống
như cái ghè nước bị chọc thủng, không chứa được một hạt nước nào. Chính ông mới
là người trống rỗng chứ đạo sư của chúng ta, thầy tổ của chúng ta không phải là
người trống rỗng”. Khi nghe phản đối kịch liệt, Ưu-đà-di đã đánh
mất cơ hội trở thành đệ tử xuất gia của đức Phật, mặc dù đức Phật vẫn đang
trông chờ tiếp nhận ông.
Do bị giới hạn của nhận thức và
tri thức, thỉnh thoảng chúng ta thấy những người thân thương vì thương kính
mình, muốn bảo vệ, giúp đỡ mình mà cuối cùng lại trở thành hại mình. Cản ngăn
không cho tiếp xúc với giá trị cao sâu hơn vì họ không muốn mất chúng ta. Nhà
tâm linh Ưu-đà-di có đến hàng trăm ngàn đệ tử, nhưng ông không hề mặc cảm, hay
xấu hổ khi thừa nhận đức Phật là thầy của mình, vì ông đã tìm thấy được một nhà
tâm linh đích thực và bản thân ông chưa phải là nhà tâm linh. Cũng trong hành
động đó, ông muốn các đồ đệ của mình trở thành đệ tử của đức Phật tương tự.
Không ngờ phản ứng đó quá mạnh khiến ông chao đảo. Cuối cùng ông trở thành một
con người sống với chân lý, nhưng không trở thành một phần trong chân lý đó.
Tức là ông vẫn duy trì truyền thống tâm linh cũ, mặc dù ông đã được khai tâm mở
trí.
Nếu không may mắn phải sống
chung với những người thân như đồ đệ của Ưu-đà-di, ắt chúng ta sẽ khổ. Vì
thương yêu mà người thân bênh vực, sợ hãi mất chúng ta. Quan hệ thân thuộc
trong sự được và mất làm cho người ta phải trói buộc lẫn nhau. Cuối cùng, một
người mù dẫn một đoàn mù. Nó giống như khi chúng ta không biết chèo thuyền,
càng quẫy nước mạnh chừng nào, thuyền càng dậm chân tại chỗ và quay vòng vòng
chừng đó, nỗ lực vẫn không có kết quả.
Trong các khóa tu, rất nhiều câu
hỏi được đặt ra với chúng tôi: “Tôi muốn
đi chùa nhưng vợ hoặc chồng không đồng tình vì sợ mất tôi”. Tình
huống khác lại kể rằng: “Tôi muốn làm từ
thiện, nhưng chồng và cha của tôi không cho phép. Họ nói, làm như thế là dại
dột, tạo cơ hội cho kẻ khác lười biếng. Cứ để họ bị khổ đau, tự động họ tỉnh
thức rồi sẽ giàu sang trong tương lai”. Lý luận này có vẻ hấp dẫn
nhưng thực tế nó không đúng chỗ. Dĩ nhiên có một số phần tử lợi dụng vào tình
thương thiếu phương pháp của người làm từ thiện trở thành một kẻ lừa dối và
lười biếng. Nhưng vẫn có những con người nếu không tức thời và kịp lúc nhận sự
hỗ trợ thì họ vì khổ đau tiếc nuối tài sản bị mất do thiên tai mang đến, có thể
chọn lấy cái chết.
Trong vô thường, chúng ta còn
lại là tình thương. Khi mọi thứ bị mất hết thì tình thương được thiết lập. Sóng
thần
dạy chúng ta những tình thương
trong sự tang tóc tập thể mà phần lớn không ai muốn thừa nhận nó. Cuộc động đất
làm chết hàng loạt, các tai nạn máy bay, chìm tàu v.v… đều là những bài học cho
chúng ta ý thức vô thường và thiết lập tình thương. Theo cách nói tích cực,
chúng ta có cơ hội để tình thương được gắn kết với nhau. Như thế không có nghĩa
chúng ta van vái bất hạnh xảy ra để có tình thương, vì tạo tình thương trên nỗi
đau còn tệ hại hơn không có tình thương nào từ chỗ không có nỗi đau. Do vậy,
nếu không biết cách thương, chúng ta đang kéo lùi người thân của mình trở thành
một kẻ tụt hậu trong hạnh phúc và an vui.
Đi chùa là đến với môi trường
tâm linh cộng đồng, thực tập những điều thiện thì không có lý do gì phải sợ.
Càng sợ lại càng dễ mất, đôi lúc chúng ta vô tình xiềng xích người thân trong
ngục tù của cảm xúc mà mình không hay biết. Khi thấy người thân của mình làm
những công tác tốt, sợ tốn tiền, nhiều người đã than thở: “Trời ơi! Lúc này bà ấy ngu lắm, có bao nhiêu tiền
đem cho thiên hạ ăn hết”. Nghĩ như thế là nghĩ tiêu cực, một nhận
xét bằng lời lẽ thiếu chín chắn đó làm cho chúng ta sợ hãi mà không dám dấn
thân. Hoặc khi nghe nói: “Ôi! Việc đó
chẳng có nghĩa gì, phải vô tu, vô chứng, vô niệm mới là tu tối thượng. Còn tu
để có những thành quả phước báu công đức là tu tâm thường”. Phước
báu chưa có, tu sơ đẳng chưa có, làm sao có thể vô tu, vô chứng? Chúng ta phải
tu chứng nhiều, sau đó, khi muốn chứng ở mốc cuối cùng thì phải bỏ hết những
cái chứng trước đó. Chúng ta phải hướng đến cái vô chứng để giải phóng sự chấp
trước về thành quả. Còn chưa có gì mà tham vọng giải phóng thì giải phóng cái
gì? Do đó, những bài kệ trong kinh Pháp
Bảo Đàn như là con dao hai lưỡi, nếu không biết cách sử dụng sẽ “tẩu hỏa nhập ma”:
“Bồ đề bổn vô thọ
Minh
kính diệc phi đài
Bản lai
vô nhứt vật
Hà xứ
nhạ trần ai”.
Dịch nghĩa:
“Bồ đề vốn không cây
Gương
sáng chẳng phải đài
Xưa nay
không một vật
Chỗ nào
vướng trần ai”.
Dành cho những căn cơ đã tu rất
nhiều. Tu nhiều với nhiều thành quả bây giờ phải tâm niệm: “Tâm chúng ta không phải là đài gương cho nên không
cần phải nỗ lực mài chùi, miễn làm sao trở về “phản bổn hoàn nguyên” với tự
tính thì chúng ta đạt được”. Còn chưa đạt được tự tính thì vẫn phải
nỗ lực. Nỗ lực là thái độ chuyên cần vun trồng cây bồ đề; dấn thân làm tất cả
mọi thứ. Sau khi làm xong mới tâm niệm, chẳng qua là “ta trở về với ta” chứ không phải là đạt
một cái mới.
Do đó, bài kệ của ngài Huệ Năng
dành cho những người đã đạt trình độ tâm linh cao, còn bài kệ của ngài Thần Tú
là dành cho tất cả chúng ta, những người đang trên con đường thực tập. Mới bắt
đầu tu mà lấy theo tông chỉ của ngài Huệ Năng thì suốt cuộc đời chẳng có chút
phước báu nào, vì không làm gì thì sao có phước. Chính vì thế, chúng ta phải
ứng dụng lời kinh đúng tình huống. Sử dụng quá “đô” tâm linh cũng giống như sử dụng thuốc quá liều. Uống
thuốc mạnh để hết bệnh ngay tức khắc thì sau đó thuốc bình thường khác sẽ không
còn tác dụng. Con đường tâm linh cũng vậy, sử dụng “đô” vừa phải, hợp với căn tính.
Do đó, thương người thân đúng
phương cách thì chúng ta mới giúp họ đạt nhiều giá trị và làm cho họ xứng đáng
với chính mình. Bắt chước đồ đệ của nhà tâm linh Ưu-đà-di, chúng ta sẽ làm cho
thầy mình, người thân của mình bị bế tắc theo. Trong xã hội, không hiếm những
tình huống như vậy. Điều đáng buồn và đáng tiếc ở đây là một nhà tâm linh có
liêm khiết về tri thức, rất trung trực trong việc nhận định, đánh giá tầm vóc
tâm linh giữa mình và đức Phật, ấy thế mà lại bị chao đảo. Mặc dù kinh không đề
cập, nhưng có lẽ sẽ có một chút nuối tiếc khi nghĩ “mình là thầy của thiên hạ mà bây giờ lại trở thành đệ tử của người
khác thật uổng phí”. Trên thực tế, Ưu-đà-di đang sống với con đường
tâm linh mới của đức Phật, nhưng ông lại không dám thừa nhận nó. Ông từ bỏ con
đường mới này khi nghe có những người nói: “Tôn
giả là nhà đạo sư rồi thì đâu cần phải làm đệ tử của đức Phật, tôn giả chỉ là
một cái ghè nước bị chọc thủng”. Nghe đến đó, ông tự ái muốn chứng
tỏ mình không phải là cái thùng rỗng. Cho nên tiếc nuối chính là sự trở ngại,
là một hình thái của chấp trước, một bế tắc khiến chúng ta không có cơ hội
thưởng thức những gì chúng ta cần phải được.
Giảng
Kinh Trung Bộ 79 tại chùa Xá Lợi, ngày 07-10-2007
Phiên
tả: Đồng Quang