Chương
6. Nghệ thuật chặt đứt mắc xích khổ đau
(TIỂU
KINH ĐOẠN TẬN ÁI)
XẢ
LY THAM ÁI
Ngày nay người ta dùng biểu ngữ
một cách phổ biến nhằm khuyên răn giới trẻ và mọi người trong xã hội từ bỏ con
đường nguy cơ đưa đến những cơn bệnh của HIV và AIDS với những câu rất ấn tượng
chẳng hạn “Đừng chết vì thiếu hiểu biết”.
Biểu ngữ phản ánh thái độ chấm dứt vĩnh viễn hoặc khuyên con người đừng nên
hưởng thụ các loại xì ke, ma túy bằng hình vẽ cái đầu sọ gạch chéo chữ x với
câu tiêu đề bên dưới “Đừng thử dù chỉ một
lần”. Một lần đủ mang đến cái chết, một lần đủ mang đến khổ đau,
hối hận khó có thể thể làm mới lại cuộc đời. Đó là những thái độ rất dứt khoát
giúp cho con người mạnh dạn chấm dứt khi thấy nó không phải là nhu cầu hạnh
phúc cần thiết cho đời sống.
Đức Phật trong kinh cũng vậy,
ngài đưa ra rất nhiều hình ảnh, biểu ngữ khuyên dạy hàng Phật tử đi đúng trên
con đường đạo đức nhằm đạt an vui theo chánh pháp.
Hình ảnh Như Lai khuyên là “hãy cài đặt yếu tố và thái độ buông xả trong bản
chất của dòng cảm xúc hưởng thụ các khoái lạc giác quan”. Chương
trình “xả ly tham ái” được
cài đặt có chức năng tìm kiếm nhu cầu của hoạt động tính dục, khống chế khoanh
vùng, chuyển hóa những nhu cầu này giúp hành giả đạt được sự tu tập một cách
lâu dài. Đối với những người tại gia, nhu cầu hoạt động tính dục được khoanh
vùng trong phạm vi của luật pháp và đời sống hôn nhân cho phép. Sự buông xả có
thể được hiểu như cách thức buông một gánh nợ, quẳng một gánh nặng trên vai,
hay thoát ách kéo xe. Trạng thái nhẹ nhàng thoải mái không còn vướng víu trói
buộc bởi bất cứ nhu cầu cảm xúc nào. Sự buông xả tạo giá trị thoải mái thong
dong không vướng víu.
Đối với người tại gia, có thêm
những bóng hồng ngoài hôn nhân sẽ tạo sự ràng buộc, lén lút, mỏi mệt và căng
thẳng. Còn đối với người xuất gia, có thêm nhu cầu của sự hưởng thụ khoái lạc
giác quan, người đó sẽ đánh mất tất cả những gì mình dấn thân cho đời sống tu
học mấy mươi năm trên một lý tưởng nhất định nào đó. Nhìn thấy chúng như gánh
nặng hay như sợi dây xiềng xích đè nặng có thể làm tan nát đời sống hạnh phúc
thì sự buông xả, thoát ly, chuyển hoá nó mới có thể diễn ra một cách nhẹ nhàng
mà không cần sử dụng bất kỳ một cưỡng lực nào để khống chế. Nhu cầu hưởng thụ
khoái lạc giác quan có thể khởi lên bằng ý thức; bằng chương trình tự điều
khiển, tự cài đặt với tỉnh thức cao độ; hoặc bằng sự hỗ trợ với những phương
pháp quán tưởng rất có nghệ thuật.
HẾT
DỤC CÒN GÌ?
Đây là câu hỏi lớn được đặt ra
bởi rất nhiều người tại gia hoặc những người không chấp nhận con đường xuất gia
của tu sĩ Phật giáo chuyển hoá năng lượng tính dục, trong khi các tôn giáo khác
vẫn cho phép các vị tu sĩ có đời sống gia đình. Đạo Phật là tôn giáo duy nhất
khuyên người xuất gia không nên bận tâm và để ý đến đời sống tại gia như vậy.
Do đó, câu hỏi được đặt ra “liệu sau khi
hết dục, con người còn giá trị sự sống hay không, vì đó là một bản năng rất tự
nhiên?”. Một câu hỏi khác tiếp tục được đưa ra: “Nếu tất cả người nam và người nữ đều đi tu theo đạo
Phật thì loài người có bị diệt chủng hay không?”.
Dù tất cả mọi người đều tu theo
đạo Phật, tình huống đó vẫn không tạo sự diệt chủng của con người. Vì trong
tiến trình tái sinh vô bờ bến, người tu được chuyển hoá năng lượng tính dục sẽ
trở thành những bậc thánh. Họ không tạo tiến trình nối tiếp hay nối dõi tông
đường. Nhưng chúng sinh, các loài động vật ở cõi Ta bà và các hành tinh khác
sau khi trả hết kiếp đày đọa do nghiệp dẫn dắt, sẽ tái sinh làm con người. Qui
trình chuyển hoá từ con người trở thành chư Thiên, những bậc thánh và từ các
loài động vật trở thành con người là qui trình diễn ra hàng ngày, hàng giờ,
hàng giây, hàng phút, mọi nơi mọi chốn. Có những chúng sinh ở hành tinh khác
tái sinh làm con người ở hành tinh này, và ngược lại con người hành tinh này
tái sinh làm con người ở hành tinh khác. Do đó, dù cả hành tinh này tu tập một
cách có nghệ thuật và đúng theo lời Phật dạy, cũng không bao giờ có tình trạng
bị diệt chủng nhân loại.
Đó là chưa kể đến số người xuất
gia đi tu đang là con số rất nhỏ bé. Nhiều nhất là ở Tây Tạng thì tỷ lệ người
xuất gia cũng khoảng 40%. Thái Lan khoảng 5 đến 6% dù người nam nào cũng phải
trải qua đời sống tu tập khi trưởng thành. Do đó không nên đặt ra câu hỏi không
bao giờ xảy ra trong hiện thực.
Quan điểm tiếp theo được đặt ra:
“Tôi cần nối dõi tông đường, việc đi tu
sẽ làm hạt giống chất xám trong tôi về kinh tế, nghệ thuật, và các lĩnh vực khác
không có cơ hội phục vụ xã hội?”. Bên cạnh đó, thế giới xuất hiện
nhiều ngân hàng hạt giống của người nam, đặc biệt của các nhà khoa học, bác
học, những nhân tài lỗi lạc. Người ta hy vọng những hạt giống tinh hoa đó khi
được cấy đặt vào cơ thể người nữ sẽ tạo chất xám cho xã hội. Thực ra, cấu trúc
và ảnh hưởng gien di truyền chỉ phát huy ở một mức độ giới hạn. Nghiệp lực
quyết định gien di truyền, nghiệp lực tạo ra sự thay đổi vượt cấu trúc và bản
chất của gien. Đó là điều không thể phủ định.
Có rất nhiều cha mẹ là nhà giáo
lại sinh ra con cái đốt sách. Nhiều bậc phụ huynh đạo đức sinh con cái là kẻ
bất trị. Cá tính con người liên hệ đến nghiệp lực. Nghiệp lực liên hệ trực tiếp
hay gián tiếp đến phong tục tập quán, truyền thống giáo dục, môi trường, hoàn
cảnh, cách thức ứng xử giao tế,… Chỉ gien thì chưa đủ .
Do đó không nên lo sợ tình trạng
diệt chủng. “Hết dục” rồi còn
lại cái khác, đó là năng lượng được chuyển hoá. Năng lượng được bản kinh nêu
rõ: “Đạt được sự cứu cánh về đời sống an
vui, thoát khỏi mọi khổ ách, tâm hành giả sẽ an ổn tuyệt đối. Hành giả sẽ đạt
được thành tựu về đức tính của một bậc Thánh, trở thành bậc số một giữa cõi
Người và cõi Trời”. “Hết dục”
không phải là mất đi, không phải bị diệt chủng, mà trở thành con người với giá
trị đóng góp cao hơn, vĩ đại hơn và bền bỉ hơn.
Nhân tài Phật giáo thường là
những đệ tử đến y chỉ mà không phải là những người xuất thân từ chính tông môn
pháp phái đó. Một tông môn pháp phái có thể có hàng trăm ngàn đồ đệ, nhưng
người kế thừa thường lại từ nơi khác đến. Trong đạo Phật, nhiều đệ tử đã ỷ lại
vào thầy mình có tên tuổi, ảnh hưởng, vị thế trong xã hội, tôn giáo hay cộng
đồng. Thái độ ỷ lại đó làm họ khó tiến thân lâu dài. Cho nên các vị cao tăng đã
sẵn sàng độ cho những đệ tử đến từ tông môn pháp phái khác, mà vẫn có thể mang
lại giá trị tương đương hoặc hơn đệ tử mình. Người tại gia cũng vậy, thông
thường người ta muốn truyền bí quyết ngành nghề nào đó cho con ruột mình hơn là
truyền cho người dưng nước lã.
Ngày nay khuynh hướng đó ở
phương Tây đã được thay đổi. Một số triệu phú, tỷ phú khi thấy con cái không có
lòng hiếu thảo, sự truyền trao gia tài có thể làm cho chúng hư đốn, nhiều bậc
cha mẹ đã giấu ngân khoản, tài khoản của mình. Họ lập di chúc khi còn khỏe mạnh
để nếu vô thường ập đến thì số tiền trong tài khoản mặc nhiên được chuyển vào
chương trình từ thiện hay ngân quỹ giáo dục, an sinh xã hội nào đó. Vì họ thấy
rõ giá trị của hạnh phúc không nằm ở việc “nối
dõi tông đường” mà nằm ở chỗ “phục
vụ cái gì? cho ai? như thế nào? và phạm vi ra sao?”.
Đến lúc nào đó, con người quan
niệm như vậy thì lòng từ bi bắt đầu được mở rộng. Không còn nhất nhất phải phục
vụ cho người thân mà mở rộng cho những người không thân. Tình trạng tranh
giành, lợi dụng, cạnh tranh hơn thua lẫn nhau sẽ giảm đi ở mức độ tối đa. Nếu
chỉ chăm chút cho người thân, thái độ vị kỷ, ích kỷ có mặt. Khi mở rộng đối
tượng, thái độ vị kỷ, ích kỷ đó sẽ được chuyển hóa.
CHUYỂN
HÓA NHU CẦU TÍNH DỤC
Bản kinh diễn tả nghệ thuật giúp
người đồng tu là thiên chủ Sakka được chuyển hóa. Sakka đã đưa ra lời thỉnh cầu
với đức Thế Tôn: “Xin Ngài giảng cho con
một bài pháp làm thế nào để chuyển hoá năng lượng tính dục ở người tu một cách
vắn tắt”. Ý ông muốn nói “con
không có nhiều thời giờ để nghe, con không đủ kiên nhẫn để học”.
Ngoài ra, ông không đến với đức Thế Tôn bằng thái độ tham cầu tu học như người
xuất gia, vì bản chất vai trò địa vị của ông là hưởng thụ các hoạt động tính
dục. Mặc dù bản kinh không nêu rõ dụng ý của ông, nhưng người ta có thể phán
đoán dựa trên cách thức đặt câu hỏi và thái độ tiếp nhận lời giảng dạy rằng có
thể Sakka muốn mình là người đồng tu của tôn giả Mục Kiền Liên, hoặc ông muốn
sự hưởng thụ tính dục không làm ông đắm chìm để rơi từ cõi trời Ba Mươi Ba
xuống những hành tinh thấp hơn.
Sau khi đức Thế Tôn trình bày
bài kinh ngắn, Sakka đã đảnh lễ và biến mất ngay tức khắc. Đây là cách thức né
tránh, Sakka sợ đức Thế Tôn giảng quá dài khiến ông bị chinh phục dẫn đến các
nhu cầu đời sống thế nhân của ông có thể bị đời sống xuất gia thay thế. Vì ông
biết rõ đã có nhiều người đến bằng thái độ muốn chinh phục đức Thế Tôn nhưng
chỉ sau một thời kinh hay một buổi đối thoại, người đó trở thành đệ tử của
Ngài. Khả năng thần biến thông qua giáo dục tuyệt vời làm cho Sakka ý thức
không muốn nán lại tiếp chuyện thêm với đức Thế Tôn. Nghe xong, ông biến mất
ngay lập tức.
Từ xa, nhìn thấy cảnh tượng đó,
ngài Mục Kiền Liên đã dùng sức thần thông thoắt bay khỏi giảng đường và có mặt
tại cõi trời Ba Mươi Ba. Ngài trông thấy Sakka đang hưởng thụ dục lạc với rất
nhiều tiên nữ và thị nữ tại vườn Nhất Bạch Liên. Bên cạnh có năm trăm nhạc khí
chư Thiên trỗi năm trăm loại nhạc du dương, trầm bổng để tạo cảm xúc tình cảm,
phục vụ kéo dài các sự hưởng thụ khác nhau.
Thấy tôn giả Mục Kiền Liên xuất
hiện, Sakka ngưng tất cả cuộc vui chơi và chào đón với lời lẽ rất lịch sự, quan
cách. Ông mời tôn giả ngồi vào ngai của mình, còn mình ngồi ghế thấp hơn để bày
tỏ lòng tôn kính, mặc dù tiền thân họ là bạn đồng tu.
Điều cần bàn thêm ở đây là dù
mang tước vị vua chúa, quan tước, hay có vai trò vị trí xã hội lớn mức nào đi
nữa thì đời sống tâm linh của người tại gia nói chung vẫn thấp hơn người xuất
gia chân chính. Tôn trọng giá trị tâm linh chân chính là để tu bồi cho hạnh
phúc của cuộc đời. Các chính thể nào muốn khống chế vai trò tâm linh, chính thể
đó khó tồn tại được lâu dài, bởi vì họ đánh mất cơ hội học được đời sống tâm
linh và đạo đức ở những người xuất gia.
Vua chúa Thái Lan và những nước
Phật giáo Nam tông đã quỳ và lạy người xuất gia, dù họ chỉ vừa xuống tóc vào
buổi sáng. Truyền thống tốt đẹp đó vẫn còn giữ đến nay. Bản thân vua Thái Lan
cũng từng xuất gia. Cứ vài năm một lần, nhà vua xuất gia ba tháng trong mùa an
cư. Hiện nay, vua
Thái Lan là người rất mẫu mực,
chỉ duy nhất một vợ. Khác với vị vua Mahidol, tại vị vào khoảng giữa thế kỷ 20,
người tạo ra truyền thống cách tân của Thái Lan trong việc tiếp xúc với văn hoá
phương Tây. Ông có rất nhiều vợ, gần trăm người con. Cuộc đời ông đã được
Hollywood dựng thành hai bộ phim đều đoạt giải Oscar rất ấn tượng: “The King and I” và “Anna and the King”.
Trở lại bản kinh, sau khi được
chào đón và nghinh tiếp, tôn giả Mục Liên giả vờ thăm dò tâm ý Sakka về bài
pháp của đức Thế Tôn. Tôn giả nói “thật
diễm phúc nếu tôi được nghe một phần lời pháp nhiệm mầu mà đức Thế Tôn đã giảng
vắn tắt cho ông khi nãy”. Đó là nghệ thuật bắt mạch tâm trước khi
hóa độ, hoặc nghệ thuật vận dụng tha lực, tha tâm thông để hiểu dòng cảm xúc
người cần được hoá độ. Trước câu hỏi của tôn giả, Sakka khó có thể chối từ. Nhưng
Sakka là người có chiều sâu và rất tâm lý, ông trả lời: “Thưa tôn giả, tôi là người rất bận rộn với nhiều
công việc khác nhau, bao gồm việc cho bản thân và cho cư dân ngôi trời Ba Mươi
Ba này”. Đây là lời biện hộ để nếu ông có quên thì đó cũng là sơ
sót có thể dễ dàng thông cảm.
Vế thứ hai, Sakka tán dương: “Lời Thế Tôn giảng tôi rất lắng nghe, nắm vững, suy
tư không thể nào quên được”. Lời nói khiêm hạ nhưng ngầm mong đợi
được ngợi khen rằng: Dù rất bận rộn với trăm công nghìn việc nhưng ông vẫn để
tâm ghi nhớ lời dạy của Thế Tôn mà kể lại cho tôn giả Mục Liên, đó là việc vô
cùng hy hữu.
Biện hộ cho tình huống “quên” là cách thông dụng để giải thoát
mình ra khỏi những nhu cầu cần phải tu tập. Khi con người có thái độ viện lý do
thì mọi việc làm trở nên ách tắc. Rất may ở vế thứ hai, Sakka đã thể hiện tấm
lòng lắng nghe, nhưng là sự lắng nghe có giới hạn, lắng nghe để tìm kiếm những
kiến thức chứ không để dẫn đến sự hành trì.
Sau đó Sakka biểu lộ niềm hãnh
diện, tự hào về những thành công ông đạt được. Dĩ nhiên ông biết rõ ông và tôn
giả Mục Kiền Liên là bạn đồng tu. Ngài Mục Liên đã trở thành Thánh giả A La
Hán, hỗ trợ đắc lực cho công trình hoằng pháp của đức Thế Tôn. Còn ông trở
thành thiên chủ cõi trời Ba Mươi Ba, từng dẫn các đồ đệ của mình đến nghe đức
Thế Tôn thuyết pháp. Nhưng niềm hãnh diện quá mức làm ông không thấy được giá
trị tâm linh của tôn giả Mục Liên, dù ông đã thỉnh mời ngài ngồi trên ngai vàng
của mình. Ông khoe: “Lâu đài Tối Thắng
Điện (Vessavana) mà tôi đã tạo ra là kết quả khải hoàn sau cuộc chiến quyết
liệt giữa cảnh giới chư Thiên và thế giới A Tu La”. Đây là hai cảnh
giới có mặt ở hai hành tinh khác nhau.
Kinh mô tả, trong thế giới của A
Tu La, người nam vốn rất xấu xí, trong khi người nữ lại rất xinh đẹp. Chư thiên
thường thích các nữ A Tu La. Do đó mà cuộc chiến tranh giành nữ A Tu La đã từng
diễn ra. Phần thắng thường thuộc về chư Thiên, vì trình độ khoa học, phương
tiện chiến lược chiến thuật của họ cao hơn. Lòng sân đã làm cho người A Tu La
trở nên nhỏ bé, xấu xí, mất hết trí khôn và sự sáng suốt.
Tiếp theo, ông mô tả “tòa lâu đài có đến một trăm vọng tháp khác nhau,
mỗi vọng tháp có bảy dinh thự hình tam giác, trong mỗi dinh thự hình tam giác
có bảy tiên nữ, mỗi tiên nữ lại có bảy thị nữ hầu hạ”. Nếu làm một
bài toán thì tại cung điện này có đến 4.900 tiên nữ làm vợ ông và
34.300 thị nữ hầu hạ. Sakka mời
tôn giả tham quan cung đài nguy nga tráng lệ, sáng rực sắc màu của bảy loại
ngọc báu khác nhau. Tôn giả Mục Kiền Liên im lặng nhận lời với mục đích thân
hành cùng ông để có cơ hội chuyển hóa thái độ cống cao ngã mạn. Niềm hãnh diện
tự hào đã làm Sakka đánh mất các tiềm năng, hạt giống của đời sống thoát tục mà
ông đã gieo trồng ở những đời trước với tôn giả Mục Kiền Liên.
Thiên chủ Sakka và đại vương
Vessavana nhường tôn giả Mục Kiền Liên đi trước. Bản kinh mô tả “khi bước qua từng dinh thự tam giác, các vọng tháp,
v.v…, rất nhiều tiên nữ và thị nữ cúi đầu một cách thẹn thùng, e lệ như cô dâu
khi gặp cha chồng”. Sự e lệ đó tạo vẻ đẹp kiều diễm thu hút nhu cầu
tình yêu và tính dục. Sống trong môi trường như vậy, con người khó có thể thoát
khỏi sự hưởng thụ. Tôn giả Mục Kiền Liên vì đã chứng thánh quả nên những ngôn
ngữ của tình yêu thể hiện tế nhị qua hình thái người nữ không đủ sức chinh phục
Ngài như đã chinh phục thiên chủ Sakka.
Chiến thắng thường làm con người
trở nên kiêu ngạo. Thông qua con đường thôn tín xâm lăng, các vị vua có tài
dùng binh thao lược mở rộng biên cương bờ cõi thường là những vị vua rất cao
ngạo, nghĩ rằng mình là thiên tài độc nhất vô nhị. Sakka cũng rơi vào trạng
thái cao ngạo đó. Khi nhìn ngắm sự nguy nga tráng lệ của cung điện, ông đã nói
với người bạn đồng tu: “Ở cõi Ta Bà, khi
con người có cơ duyên nhìn thấy được hành tinh nguy nga tráng lệ của chúng tôi
đều biết rằng đó là cõi trời Ba Mươi Ba do thiên chủ Sakka tạo dựng. Các vị
thiên chủ tiền nhiệm không thể làm được việc đó”. Thái độ cao ngạo
đã dẫn đến chủ nghĩa công thần, xem mình là người có công, đóng góp nhiều nhất.
Nếu tiền thân của Sakka không
phải là người tu thì có lẽ nhu cầu của việc hưởng thụ các hoạt dụng giác quan
sẽ còn lớn hơn rất nhiều. “Biết”
tạo ra “dừng”, “hiểu” tạo ra “sự kết thúc”. “Không biết, không hiểu” có thể tạo dây
mơ rễ má trong hưởng thụ. Ở đây Sakka vẫn còn biết thỉnh đức Phật giảng về nghệ
thuật chuyển hóa năng lượng tính dục ở người tu, vì ông đã thất bại trong kiếp
trước và ở đời sống hiện tại, ông cũng lại hoàn toàn thất bại. Lạc thú quá
nhiều dẫn đến khó tu.
Trước đây các nhà sư tu trên
núi, trong rừng, ít có điều kiện tiếp xúc với môi trường, điều kiện vật chất
nên các giác quan được khống chế, chăm sóc, và chuyển hóa rất kỹ lưỡng. Còn hiện
nay trong nền văn hóa lai tạp, hiệp chủng quốc đa dạng thì những yếu tố tương
tác qua lại làm cho các biến thái được phát sinh, vì vậy sự tu tập để chuyển
hóa nhu cầu cảm xúc khó có thể được thực hiện.
Tôn giả Mục Kiền Liên nhận thấy
Sakka quá cao ngạo. Để đánh đứt ông ra khỏi sự cao ngạo này và muốn ông trở về
đời sống không quá đam mê trong hưởng thụ, Mục Kiền Liên đã dùng thần thông tập
trung vào đầu ngón chân ấn xuống đất. Cả lâu đài Vessavana rung chuyển. Trong
khi thiên chủ Sakka và đại vương Vessavana hoảng hốt, tóc gáy dựng ngược, thì
thần dân reo hô tung tuế trước sức thần thông kì diệu hiếm có của tôn giả. Họ
càng thán phục thì Sakka lại càng hoang mang, vì sợ bị thay thế. Điều đó làm
ông phải đối diện trước sự khủng hoảng về đời sống nội tâm. Ông bắt đầu khởi
sinh tâm niệm rằng tất cả hạnh phúc giác quan có thể đối diện với vô thường. Ý
niệm đó xuất hiện khiến ông sợ hãi. Và đây là một trong những nghệ thuật mà tôn
giả Mục Kiền Liên đã cố tình cài đặt ý thức về vô thường vô ngã vào não trạng của
thiên chủ Sakka nhằm đánh thức hạt giống tâm linh mà vị thiên chủ này đã từng
gieo trồng ở kiếp trước với tư cách một hành giả tu tập. Cách thức đánh thức
như vậy rất cần thiết và ý nghĩa.
Sau đó, ngài Mục Kiền Liên liền
biến mất không lời từ biệt để lại sự ngạc nhiên vô tận của những người thán
phục và nỗi lo sợ của Sakka. Chưa bình tĩnh trở lại thì các tiên nữ đã hỏi
Sakka: “Có phải người ấy chính là Như Lai
Thế Tôn, bậc đạo sư của Thiên chủ, người mà Thiên chủ đã từng kể cho thiếp nghe
không?”. Sakka lắc đầu: “Đó
chỉ là người bạn đồng tu của ta”. Nhưng các tiên nữ không tin: “Thật là tốt lành nếu Thiên chủ có người bạn có sức
thần thông lớn, có oai lực nhiệm màu như vậy. Chắc chắn vị ấy chính là Như Lai
Thế Tôn, bậc đạo sư của Thiên chủ”. Thái độ ngờ vực càng thể hiện
sự giới hạn của Sakka trước bạn đồng tu.
MƯỢN
XA NÓI GẦN
Mục Kiền Liên trở về giảng đường
Đông Viên Lộc Mẫu, thế giới Ta bà, đảnh lễ quỳ bên đức Phật trước sự chứng kiến
của rất nhiều vị xuất gia và cư sĩ đang có mặt. Ngài kể lại toàn bộ sự việc rồi
thỉnh cầu đức Thế Tôn thuyết giảng lại bài kinh đó.
Cách thức “mượn chuyện trên trời để nói chuyện dưới đất” là
một trong những nghệ thuật hoằng pháp rất hay trong truyền thống kinh điển của
Như Lai. Ở đây, khái niệm “nói chuyện
trên trời” không phải là yếu tố hoang đường mà là chuyện rất hiện
thực. “Mượn chuyện trên trời để nói những
chuyện dưới đất” là một trong những nghệ thuật tạo sự so sánh. Sự
so sánh có thể dẫn đến cống cao ngã mạn, nhưng cũng có thể thôi thúc tiến lên
phía trước, nỗ lực làm những gì mình chưa đạt được. Mở cửa so sánh để không bao
giờ còn hãnh diện tự hào mình là số một. Tôn giả Mục Kiền Liên đã mượn chuyện ở
trên trời để nói chuyện ở dưới đất, dĩ nhiên ngài không nói, ngài chỉ kể. Tất
cả mọi người có mặt đều nghe. Tác dụng tâm lý thôi thúc để tất cả người xuất
gia chân chính thấy rằng, nhu cầu chuyển hoá khoái lạc giác quan có thể mang
lại hạnh phúc cho con người. Nếu không, con người có thể rơi vào hạnh phúc bấp
bênh, tạm bợ.
Hạnh phúc bấp bênh thường xảy ra
trong mối quan hệ tình yêu, hôn nhân khi cảm giác nhàm chán bắt đầu xuất hiện
sau thời gian gặp gỡ và chung sống. Khuynh hướng muốn tìm kiếm người nào đó hấp
dẫn hơn về ngoại hình, tài năng, kinh tế, và những nhu cầu khác có thể làm tan
biến cảm giác hạnh phúc. Hạnh phúc đó rất tạm bợ. Khi chứng kiến ngài Mục Kiền
Liên thi triển phép thần thông, các tiên nữ reo lên thán phục, đồng nghĩa với
hình ảnh người chồng trở nên lu mờ và tầm thường. Nhu cầu của sự thay thế, đòi
hỏi tạo thêm thế so sánh hơn thua với nhau. Đó là cách “mượn chuyện trên trời để nói chuyện dưới đất”.
Trong tình yêu và hôn nhân, nếu so sánh theo cách thức đó, con người sẽ rơi vào
trạng thái nuối tiếc, dẫn đến sống trong hoang tưởng, ảo giác không thừa nhận
hiện thực đang có sẵn.
Đức Thế Tôn thường không thuyết
giảng khi không có ai thỉnh cầu. Vì sự thỉnh cầu tạo ra hiệu ứng tâm lý ngóng
đợi, mong mỏi và giá trị sự mong mỏi, ngóng chờ đó làm cho người nghe dễ dàng
thâm nhập, sự tu tập mới diễn ra một cách tốt đẹp. Đức Thế Tôn đã kể lại bài
kinh, và tất cả những người có mặt, đặc biệt tôn giả Mục Kiền Liên, vô cùng
hoan hỷ, tin và hành trì theo.
Trong khi đó, đoạn đầu bản kinh
mô tả, Sakka chỉ hoan hỷ đảnh lễ đức Thế Tôn rồi biến mất, chứ không hề có tín
thọ. “Hoan hỷ” không có nghĩa
là “tín thọ”. Ông hoan hỷ sau
khi được nghe giảng, cám ơn rồi ra về. Còn việc tin và nghĩ rằng nó là triết lý
để dẫn đến sự hành trì lại là vấn đề khác. Ở đây, hiệu ứng tâm lý từ bài kinh
của đức Thế Tôn đối với Sakka, một Thiên chủ với nhiều phuơng tiện hưởng thụ,
khác hoàn toàn đối với tôn giả Mục Kiền Liên cũng như những vị xuất gia đệ tử
của đức Thế Tôn. Cái hiệu ứng tâm lý lớn nhất mà đức Thế Tôn cần, đó là sự hành
trì ở những vị xuất gia không chỉ là hoan hỷ, mà phải là “tín, thọ, phụng, trì”.
- “Tín” là tin bằng niềm tin chân lý, bằng lý trí, nhận thức,
phán đoán, và sự hiểu biết.
- “Thọ” là thực hành, tiếp nhận và đưa nó vào não trạng như
một phương châm.
- “Phụng” là vâng giữ với tất cả lòng tôn kính.
- “Trì” là truyền bá, giữ với mình và truyền cho mọi người để
mở rộng ra phạm vi lớn hơn.
Bài kinh đề cập hai hướng của
đời sống.
Khuynh hướng thứ nhất là đắm
chìm vào lạc thú, người nghe pháp chỉ nghe qua loa chiếu lệ, thiếu nghiêm túc
trong hành trì, không hướng đến lý tuởng giải thoát, vì đối tượng, vai trò vị
trí của họ không thể làm cho họ có nhu cầu lớn hơn. Giới hạn nghiệp thức tạo ra
giới hạn của kiếp người, giới hạn nhận thức tạo ra giới hạn của hạnh phúc và
khổ đau. Thiên chủ Sakka là người điển mẫu. Ông nghĩ rằng mình là người chiến
thắng. Tất cả những công trạng do ông tạo dựng làm ông trở thành người ba hoa,
“thấy sang bắt quàng làm họ”.
Nhớ lại câu hỏi mà các tiên nữ
dành cho ông: “Có phải đây là Như Lai Thế
Tôn mà chàng đã từng kể cho thiếp nghe không?”. Ông đã kể rất nhiều
về Thế Tôn cho các bà vợ của mình, thế nhưng, lại không bao giờ tạo điều kiện
cho họ được gặp gỡ. Điều đó nói lên rằng ông muốn chứng tỏ chỉ có ông mới đủ tư
cách cùng ngồi, nói chuyện, giao tế với những người sang trọng đặc biệt là vị
bậc nhất về tâm linh và đạo đức, còn những tiên nữ và thị nữ thì không bao giờ
có được cơ hội như thế. Đó là một cách thức tô vời bản ngã. Khi tiếp xúc và
giới thiệu tôn giả Mục Kiền Liên, một lần nữa thiên chủ Sakka muốn khoe mình có
những người bạn thần biến có năng lực phi thường. Nghệ thuật ba hoa đã làm cho
ông bắt quàng làm họ, tạo vị thế quan trọng ở mình mà người khác không có.
Ngày nay khi tiếp xúc với những
nhà tâm linh và đạo đức, những vai trò vị trí xã hội lớn, không nên để yếu tố “bắt quàng làm họ” xuất hiện. Hãy nghĩ
rằng đây là cơ hội đồng đều để ta đóng góp cho người kia và người kia có thể
giúp ta những việc cần. Người xuất gia không cầu cạnh chính quyền, không cầu
cạnh những người có vai trò vị trí xã hội, mà hãy xem họ như người bình thường.
Thực tế, đôi lúc người có vai trò vị trí xã hội đến chùa không được các vị trụ
trì tiếp đón nồng hậu thì không muốn đến lần thứ hai. Họ muốn bản ngã được tô
vời, còn các nhà sư muốn bản ngã của họ được chuyển hoá. Mục đích hai thái độ
ứng xử khác nhau dẫn đến kết quả khác nhau.
Khuynh hướng thứ hai, đức Thế
Tôn muốn người nghe giảng không phải để hiểu, để hãnh diện về kiến thức mình
đạt được mà để hành trì và truyền bá. Vì con đường giác ngộ được thiết lập trên
kiến thức đặt trên nền tảng của tư duy, thể hiện qua những biểu đạt của hành
động cụ thể.
Mặc dù bản kinh chủ yếu dành cho
người xuất gia nhưng người tại gia vẫn có thể học, đặc biệt những người quá
nặng về sắc dục, cơn nghiện có thể làm tán gia bại sản, vợ chồng con cháu khổ
đau. Áp dụng dù chỉ 30% lời dạy của Thế Tôn thì nhu cầu hưởng thụ đó sẽ giảm
đáng kể. Sự thành công của người tu là chuyển hoá năng lượng này. Sau khi năng
lượng tính dục được chuyển hoá, con người sẽ trở thành vô ngã vị tha, tấm lòng
từ bi vô biên không bị giới hạn trong bất kỳ hình thái nào. Học bài kinh này để
tăng cường thêm những hạt giống của sự tu tập, những hạt giống để gầy dựng hạnh
phúc trong hôn nhân, tình yêu và trong mọi lĩnh vực có thể liên hệ trực tiếp
hoặc gián tiếp đến các giác quan.
Giảng
Kinh Trung Bộ 37 tại chùa Xá Lợi, ngày 09-04-2006
Phiên tả: Hoàng Oanh