Chương
7. Nghệ thuật chặt đứt mắc xích khổ đau
(ĐẠI
KINH ĐOẠN TẬN ÁI)
NHẬN
DIỆN MẮC XÍCH
Đại Kinh Đoạn Tận Ái thứ 38,
thuộc kinh Trung Bộ đề cập
nghệ thuật chặt đứt “mắc xích của khổ đau”.
Việc vận dụng hình ảnh “mắc xích khổ đau”
để thay thế một cách chuyển thể khái niệm Tanhasankhaya trong Pali vốn được
dịch là “đoạn tận ái” là do
động tác “đoạn tận” gợi lên
hình ảnh chặt đứt từ ngay gốc rễ; “ái”
là thái độ ái trước về bản chất nỗi khổ niềm đau và tất cả những hình ảnh liên
hệ trực tiếp hay gián tiếp đến nó. Thay vì nói “chặt đứt các mắc xích tham ái”, người ta có thể nói “chặt đứt mắc xích khổ đau”, vì bản chất
của tham ái là dẫn đến khổ đau.
Bản kinh bắt nguồn từ sự kiện
một vị xuất gia tên Sati quan niệm sai lầm rằng “Thần thức luân chuyển qua các cõi luân hồi không hề có một hình thái
gì của sự thay đổi”. Từ đó, đức Phật đã phân tích về thuyết “duyên khởi”, giải thích bản chất các
điều kiện ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến trật tự hoạt động của thân tâm.
Qua đó, ngài hướng dẫn phương pháp chặt đứt tiến trình và mắc xích của khổ đau.
Từ bài kinh “Người bắt rắn” thứ 22, đức Thế Tôn đã
giải thích về thái độ cho rằng “sự hưởng
thụ các hoạt động tính dục không làm cản trở con đường và đời sống tâm linh của
người giải thoát”, nhưng nói lên được đó là bản chất của dục hữu,
chấp trước về tính dục. Ở bản kinh này, đức Thế Tôn dạy và phân tích bản chất
của kiến thủ, thái độ chấp trước về sự sai lầm trong tu tập và quan niệm cũng
không kém phần quan trọng dẫn đến nỗi khổ niềm đau trong tiến trình sinh tử
luân hồi. Sự chấp trước được quan niệm trong nhà Phật như là một mắc xích của
trói buộc. Bám víu vào bất kỳ quan điểm nào, sự trói buộc bắt đầu có mặt.
Nếu nói rằng “sống mà không có lập trường, cuộc sống trở nên vô
nghĩa”, thì “lập trường”
ở đây cũng có thể được hiểu như một trong những thái độ “chấp”, chấp về cái đúng, chấp về đạo
đức, về những giá trị tinh thần v.v… Mặc dù đó là những cái đúng, cái tốt, cái
giá trị, nhưng sự bám víu vào nó cũng dẫn đến mắc xích của hệ lụy. Nhà Phật
không bao giờ sử dụng khái niệm “lập
trường” mà chỉ sử dụng “con
đường chân chính”, “đạo lý
tâm linh” có giá trị chuyển hoá mang lại an vui hạnh phúc cho con
người. Nói cách khác, “con đường chân
chính” và “đạo lý tâm linh”
không phải để chấp trước, bám víu mà được sử dụng như một công cụ. Bản chất của
công cụ mang tính điều kiện, có thể rất thích ứng trong tình huống này nhưng có
thể trở nên vô nghĩa trong tình huống khác. Có thể trở thành sự lựa chọn rất lý
tưởng của một người, nhưng cũng có thể trở nên rất vô nghĩa cho những người còn
lại. Nó ứng với tính cách và trình độ nghiệp thức của con người. Vấn đề ở chỗ
nhà Phật không bao giờ dạy các hành giả bám víu vào bất cứ cái gì dù đó là con
đường, là đạo lý, mà hãy sử dụng con đường và đạo lý như phương tiện hiệu
nghiệm có thể mang lại giá trị an vui hạnh phúc.
HAI
KHUYNH HƯỚNG TÂM LINH
Khuynh hướng truyền thống Bà La
Môn. Lấy khởi điểm từ kinh điển Vệ Đà, đồng hóa những gì được
nêu trong bản kinh này là giá trị chân lý, mà tác giả của nó không ai khác hơn
Thượng đế hay Phạm Thiên. Do đó, định chế xã hội tập cấp gồm nhiều thành phần
đã bắt đầu có mặt dưới sự áp đặt quan điểm, làm cho mọi người không dám đặt vấn
đề thay đổi chúng. Khuynh hướng đó mang lại nỗi khổ niềm đau cho rất nhiều
người bên cạnh những nỗi niềm hạnh phúc của thượng tầng kiến trúc xã hội, bao
gồm những thành phần thượng lưu trí thức thuộc trường phái truyền thống Bà La
Môn, cũng như truyền thống của vua chúa. 80% còn lại của cấu trúc xã hội Ấn Độ
trở thành nạn nhân của quan niệm sai lầm. Quan niệm đó là thái độ kiến thủ, bám
víu vào truyền thống sai, dẫn đến những hệ lụy cho thần dân của một quốc gia.
Truyền thống Bà La Môn được xem
như thành trì vững chãi, có thời gian khá dài bị thách thức bằng truyền thống
tâm linh mới, đó là truyền thống của Sa môn. Khái niệm Sa môn lúc đầu được sử
dụng như một từ ngữ ám chỉ tất cả những người tu hành, không chấp nhận truyền
thống tư tưởng của kinh điển Vệ Đà, thách đố lại những giá trị chân lý được nêu
ra trong kinh điển này, không thừa nhận vai trò của Phạm Thiên sáng thế, không
thừa nhận cấu trúc xã hội bất bình đẳng bốn giai cấp, không chấp nhận thái độ
bất bình đẳng giữa nam và nữ, và nhiều tệ nạn xã hội khác. Những người tu hành
đã đi tìm kiếm con đường tâm linh khác với truyền thống áp đặt lên họ. Nổi
tiếng nhất có bốn truyền thống Sa Môn.
Truyền thống Sa Môn tự nhiên: Là những
nhà tu hành vân du rày đây mai đó, sống cuộc đời kham khổ với niềm hy vọng nhờ
đó, các giác quan mất đi khả năng thích ứng và không hề có những nhu cầu đòi
hỏi về sự hưởng thụ. Con đường của tâm linh bắt đầu được bén mảng và xuất hiện.
Truyền thống Sa Môn tu khổ hạnh: Chẳng
hạn đứng không nằm, ngồi; hoặc nằm trên gai, mỏm đá gồ ghề tạo cảm giác khó
chịu trên toàn thân để đoạn trừ tất cả đam mê hứng thú. Truyền thống Sa Môn này
cũng được liệt vào truyền thống Sa Môn tự nhiên.
Truyền thống Sa Môn thuộc đạo Kỳ
Na: Là những nhà tu hành khổ hạnh ép xác không ăn mặn, không
sát hại chúng sanh nhưng lại rơi vào trạng thái rất cực đoan: trở về nguồn với
nguyên ủy thiên nhiên khi con người mới vừa được ra đời, họ không mặc áo, cũng
không sử dụng bất kỳ vật liệu nào để che thân.
* Ba truyền thồng tâm linh đã mở
ra con đường mới thay thế và thách thức lại với truyền thống Bà La Môn giáo. Dĩ
nhiên, trong tiến trình thay thế và thách thức, nội dung của nó không hoàn toàn
được chấp nhận vì nhiều hạn chế. Chẳng hạn truyền thống Bà La Môn chủ trương về
xã hội “tập cấp” trong khi
truyền thống Sa Môn phủ định chế độ “tập
cấp” này nhưng lại không đưa ra được cơ sở lý lẽ về phương diện đạo
đức, phương diện tâm linh, phương diện xã hội và những phương diện khác có sức
thuyết phục. Mặt khác, một số nhà “Sa Môn
tự nhiên” bày tỏ thái độ chủ trương về duy vật cổ sơ, không thừa
nhận có đời sống kiếp sau. Tiến trình của đời sống bị chặt đứt sau khi con
người trở về với đất, nước, gió, lửa tạo ra quan niệm hết sức nguy hại cho đời
sống đạo đức. Vì khi con đường nhân quả đạo đức giữa đời sống hiện tại và tương
lai không được thiết lập, con người có thể trở nên bị ám độn, mất hết trách
nhiệm cần thiết về hành vi của mình. Từ đó sự cám dỗ có thể len lỏi vào não
trạng và hành vi dẫn đến tiến trình làm băng hoại tư cách đạo đức của bản thân
và ảnh hưởng tạo ra nỗi khổ niềm đau cho cộng đồng.
Truyền thống Sa Môn của Như Lai
Thế Tôn: Xuất hiện với nhiều giá trị và tạo sự thu hút mạnh mẽ về
đời sống tinh thần. Ngài cũng là nhà Sa Môn nhưng vượt trội về phương pháp thực
tập và giá trị hiện thực của phương pháp thực tập, đạt kết quả ấn tượng lâu dài
bền bỉ mang lại sự chuyển hoá có thể nhổ tận gốc nỗi khổ niềm đau. Truyền thống
đó trở thành mảnh đất tâm linh, thực phẩm tâm linh mới của Ấn Độ. Nhưng vì
trong thời gian ngắn lại kết nạp quá nhiều vị xuất gia vào giáo đoàn của đức
Thế Tôn nên dẫn đến tình trạng nhiều người chưa quên được các quan niệm sai lầm
lúc còn là tu sĩ của truyền thống Sa Môn và Bà La Môn. Các quan niệm sai lầm đó
tiếp tục ảnh hưởng và làm chao đảo quan điểm chân chính của những vị xuất gia
đúng phương pháp, nhưng thiếu niềm tin và kiến thức vững chãi để nhận biết quan
điểm phi truyền thống Phật giáo tác hại đến đời sống tâm linh tu tập. Một trong
những người đó là Tỳ Kheo Sati. Phương pháp tu tập thường bắt nguồn từ nhận
thức của tâm. Khi nhận thức của tâm sai lầm, tất cả mọi sự kéo theo, dù trực
tiếp hay gián tiếp, đều có thể bị ảnh hưởng.
NHẬN
DIỆN SAI LẦM
Bản kinh vừa mang tính giáo dục,
vừa mang yếu tố của hoằng pháp mà các bậc phụ huynh có thể áp dụng nhằm giúp đỡ
con em và người thân khi phát hiện ở họ có những yếu tố chưa được hoàn thiện về
nhận thức, tính tình, khuynh hướng và đời sống. Đối với đức Thế Tôn, không hề
có sự áp đặt và nâng vai trò chân lý trở thành một cái gì đó buộc người khác
phải theo trong cách thức xác quyết và chuyển hoá quan điểm sai lầm.
Tỳ Kheo Sati, vốn xuất thân từ
giai cấp thấp trong một gia đình làm nghề đánh cá, có quan niệm rằng “thần thức là tiến trình dong ruổi trong sáu cõi ba
đường nhưng không có sự thay đổi về phương diện bản chất, nhận thức cũng như
tâm lý dẫn đến hành vi hằng ngày”. Quan niệm này được xem là quan
niệm trọng tâm và cốt lõi của triết học Bà La Môn giáo. Họ cho rằng “tâm thức con người không hề thay đổi”,
ai mang thân phận của Bà La Môn, thì nghìn đời kiếp sau sinh ra sẽ là Bà La
Môn; ai mang thân phận xuất thân từ gia tộc vua chúa, các nhà chính trị cầm cân
nẩy mực một quốc gia, thì con cháu nhiều đời của họ sẽ tiếp thu truyền thống
tâm linh đó. Ngược lại, người xuất thân từ giai cấp thấp, thần thức này mang
yếu tố, mang não trạng, khuynh hướng, hạt giống và năng lực của những gì thấp
kém, cho nên vận mệnh của họ được gắn liền ngay thời điểm họ có mặt trong phôi
thai của người mẹ. Đó là quan niệm dẫn đến chủ nghĩa định mệnh về cấu trúc xã
hội và định mệnh an bày trong sinh hoạt thường nhật của người Ấn Độ đến nay vẫn
diễn ra như một nỗi đau của kiếp người.
Tất cả những vị đồng tu khi biết
Tỳ Kheo Sati có quan niệm sai lầm đã dùng rất nhiều phương pháp, ngay cả phương
pháp chất vấn, phản biện nhằm chứng minh đó là quan niệm phi chính thống của
nhà Phật.
Là người xuất gia theo Phật
giáo, đừng bao giờ tuyên truyền và cho rằng giá trị của những cái phi Phật giáo
là chân lý. Mỗi người được quyền tự do ý chí, tự do quan điểm và tự do học
thuyết. Điều đó đức Phật tương cần nhưng khi nhân danh Phật tử và nói đây là
lời dạy của đức Phật thì nội dung lời tuyên bố đó phải ứng với những gì đức Thế
Tôn đã dạy. Không thể mạo nhận, đánh đồng hai quan điểm, hai học thuyết khác
nhau giữa Bà La Môn giáo hay tôn giáo tiền thân trước khi có mặt trong giáo
pháp của đức Như Lai rồi cho rằng nó chính là một phần giáo huấn của Ngài. Điều
đó sẽ dẫn đến sự hiểu lầm lẫn lộn của hai nội dung hoàn toàn khác biệt.
Các vị đồng phạm hạnh đã khuyên
Tỳ Kheo Sati không nên bám víu, chấp nhận và duy trì quan điểm sai lầm đó. Đức
Thế Tôn đã từng tuyên bố “Mọi sự vật hiện
tượng trong đời này đều do nhân duyên hình thành. Thần thức con người cũng vậy.
Nó là một tập hợp các điều kiện. Không có duyên hoặc thiếu duyên thì thức không
thể nào tồn tại và hiện khởi”. Ấy thế, Tỳ Kheo Sati vẫn cố chấp bảo
thủ quan điểm. Đại chúng thấy rằng mình không đủ sức thuyết phục người đồng tu
nên đã kính tường trình lại sự việc cho đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn mời gọi Tỳ Kheo Sati
đến xác quyết có quan niệm đó không, hay vì bất đồng quan điểm, hiềm khích hoặc
không thích nhau mà các vị đồng tu đã cố tình dựng chuyện không thật. Dĩ nhiên,
với tha tâm thông và tuệ giác, đức Thế Tôn biết rất rõ ai có quan niệm gì, não
trạng ra sao, khuynh hướng thế nào. Dòng tâm tưởng của tâm với những bước đi và
cách thức của nó đều được Ngài nhìn thấy một cách rõ ràng. Nhưng về phương diện
xã hội, Ngài vẫn dùng luật pháp trong đời sống để xác quyết minh bạch.
Như Lai biết Tỳ Kheo Sati có
quan niệm sai lầm. Nhưng để nhân cơ hội thông qua sự giáo dục đó nhằm giúp
người khác có quan niệm sai lầm tương tự tránh được khuynh hướng sai lầm lớn
hơn, nghiêm trọng hơn, đức Thế Tôn đã tập hợp những vị đệ tử xuất gia và tại
gia đến nghe Ngài giải thích cho Tỳ Kheo Sati.
Khi được hỏi, Tỳ Kheo Sati xác
định rằng tất cả những gì được tường trình là sự thật. Đức Thế Tôn xác quyết
rằng: “Do nhận thức sai lầm, chưa hiểu
trọn những gì đức Thế Tôn dạy về luân hồi, nghiệp báo, về tiến trình nhân quả
và về trách nhiệm đạo đức của con người đối với các hành vi, mà Sati đã có quan
niệm sai lầm. Nếu quan niệm sai lầm này không được chuyển hoá thì chẳng những
Sati tự phá hoại đời sống hạnh phúc của mình mà tệ hơn nữa là tạo ảnh hưởng bất
hạnh và đau khổ lên người khác. Đó là một trong những cách thức tự làm tổn đức
cho bản thân”.
Tỳ Kheo Sati tuyên bố một học
thuyết và cho rằng đức Thế Tôn là người chủ trương của học thuyết này, tức là
gán dựng một sự kiện mà đức Phật không hề có quan điểm, không hề giảng dạy và
không hề truyền bá để mọi người hiểu sai học thuyết của Ngài. Từ đó, con đường
tiếp cận tâm linh thông qua lời dạy của Ngài bị bế tắc. Vấn đề ở chỗ khi đẳng
thức hóa hai quan điểm khác nhau từ hai truyền thống tôn giáo khác nhau, thì
người có truyền thống tâm linh Bà La Môn giáo lâu đời sẽ không thể nhìn thấy
được những đặc điểm từ lời dạy của Ngài và không thể đi theo con đường mới này.
Cho nên, khi tuyên bố và phổ cập một quan điểm sai lầm gán cho danh hiệu đức
Thế Tôn thì ảnh hưởng và tác hại của nó rất lớn. Ngài nói, “nếu dụng ý và cố tình xuyên tạc quan điểm của đức
Thế Tôn, đó là một sự tổn đức”. “Tổn
đức” ở chỗ là mất lối trên con đường tuệ giác, kéo người khác không
nhìn thấy đạo lý cao siêu huyền diệu. Ngài xác định rất rõ “không thể nào có một tia lửa lóe lên từ ánh sáng
nhận thức sai lầm rằng bản chất thần thức là cố định không hề thay đổi trong
tiến trình sinh tử”.
Quan niệm đó rõ ràng trong thời
đại ngày nay, ai cũng có thể xem là đúng, bởi vì ngày nay người ta đã được trải
qua rất nhiều tiến trình của sự giáo dục, được học hỏi đúc kết kinh nghiệm từ
những người đi trước, từ tôn giáo, triết học, đạo làm người v.v… Nhưng trong
thời đại của đức Thế Tôn, đó là một cái gì đó rất xa lạ.
Trong tiến trình sinh tử, thần
thức được thay đổi khi con người làm con người, chư thiên, các loài động vật,
hay loài ngạ quỷ, chịu rất nhiều nỗi khổ niềm đau về cảm xúc, về nhận thức,…Tất
cả những cái đó ứng với khuynh hướng lời nói, ý nghĩ, việc làm ngay trong thời
gian sống với hình thức con người hay các loại hình sự sống khác nhau. Tâm tư,
ý niệm, tình cảm, khuynh hướng, cảm xúc, thái độ, lý tưởng và ý thức hệ thay
đổi liên tục. Ngay cả những người có khuynh hướng, có lập trường bền vững nhất
hay bảo thủ nhất vẫn có sự thay đổi trước hoặc sau, nhiều hoặc ít. Huống hồ
trong tiến trình sinh tử, làm thế nào con người có thể duy trì được bản chất cố
định đó. Như Lai muốn nhấn mạnh, “nếu ta
thấy
được rằng thần thức của con
người luôn luôn thay đổi thì không thể có định mệnh của cảm xúc, định mệnh của
nhận thức. Từ đó, không thể chấp nhận định mệnh của xã hội, định mệnh của con
người”. Mấu chốt của lý luận, đức Thế Tôn muốn mọi người, đặc
biệt những người chịu ảnh hưởng quá nhiều từ truyền thống tâm linh Bà La Môn
giáo, thấy được điều này để các bất công trong xã hội có cơ hội được chuyển hoá
và thay đổi.
VAI
TRÒ CỦA TÂM THỨC
Đức Thế Tôn yêu cầu Sati trình
bày để trên cơ sở đó ngài sẽ phân tích giảng giải về bản chất của nhận thức.
Tỳ Kheo Sati cho rằng “chính tâm thức là tác nhân của nói, của cảm xúc,
của tiếp nhận ở chỗ này, chỗ kia và cũng chính tâm thức là tác nhân làm con
người chịu đựng tất cả mọi hành vi khổ ác hay những hành động nói chung”.
Quan điểm này rất khó xác quyết
về sự giống và khác giữa Phật giáo và Bà La Môn giáo. Thông thường khi nói “trách nhiệm về hành vi đạo đức”, người
ta dễ hình dung có một tác nhân tạo nỗi khổ niềm đau hay an vui hạnh phúc. Con
người là “kiến trúc sư” của
nỗi khổ niềm đau hay an vui hạnh phúc, và cũng chính con người tự cảm nhận tất
cả mọi hành vi tạo tác của mình. Về phương diện truyền thông, để hiểu tính
trách nhiệm đạo đức, thì lời tuyên bố đó là một sự thật cần thiết giúp định vị
giá trị hành vi và ảnh hưởng của nó trong đời sống con người. Nhìn từ góc độ
triết lý sâu xa hơn, khái niệm “tác nhân”
chỉ là khái niệm tạm mượn không có giá trị thật. Đức Phật chủ trương vô ngã,
không có nghĩa là phủ định yếu tố con người mà nhằm xác quyết “con người là tổ hợp tâm vật lý”. Khi
quan niệm con người là một tổ hợp tâm vật lý, thì dòng cảm xúc nhận thức, sự
vận hành của nghiệp và ý niệm hóa liên hệ trực tiếp hay gián tiếp đến nó có thể
được thay đổi. Do đó, bản chất của cuộc sống không cố định mà là một dòng chảy
của cảm xúc, nhận thức, hành vi; sự tác tạo hành vi là một dòng chảy; và kết
quả tiếp nhận hành vi ảnh hưởng đến đời sống con người cũng là một dòng chảy.
Nó là tiến trình biến dịch không dừng. Quan niệm đó giúp con người làm mới lại
cuộc đời khi trong quá khứ đã từng làm điều xấu, từng tạo những hạt giống không
vui, mang nỗi khổ niềm đau cho người khác. Còn việc cho rằng tác nhân đó là cố
định, hành vi ảnh hưởng tác nhân không bao giờ thay đổi là tạo ra vận mệnh,
định nghiệp cho con người, cho xã hội, và cho cộng đồng.
Theo quan niệm của Bà La Môn
giáo, Tỳ Kheo Sati cho rằng “thần thức
dong ruổi không có sự đổi khác”. Đức
Thế Tôn nêu ra sự khác nhau giữa quan điểm nhân quả của Ngài và của Bà La Môn
giáo.
Sati đại diện cho quan điểm Bà
La Môn giáo: Khi làm việc A thì kết quả phải là A, không hề thay đổi, không
tăng, không giảm, dù tâm lý tình cảm con người có thể thay đổi. Quan niệm định
mệnh này tạo ra cấu trúc: “Bắt phong trần
phải phong trần/ Cho thanh cao phải đặng phần thanh cao”, hoặc “Con vua thì lại làm vua”. Đức Thế Tôn
thấy rất rõ quan niệm định mệnh này tạo ra bản chất của xã hội tập cấp Ấn Độ cổ
đại. Chế độ tập cấp của Ấn Độ cổ đại là chế độ tinh vi, được lý giải dưới góc
độ phân công lao động. Họ cho rằng mỗi người sinh ra trên cuộc đời có một chức
nghiệp. Tâp hợp các chức nghiệp đó sẽ tạo ra cơ cấu vận hành. Mỗi người đóng
một vai trò, một chức năng. Giá trị vai trò chức năng đó hỗ trợ bổ sung cho
nhau. Không thể có tình trạng một người đa năng quán xuyến tất cả mọi tình
huống. Vì vậy khi sinh ra là người lao động tay chân thì người đó cứ tiếp tục
vai trò của mình, người có năng khiếu về chính trị, có sở trường về giáo dục
hay có những hạt giống của tu tập thì tiếp tục con đường và lý tưởng đó. Không
thể thay đổi từ vai trò này sang vai trò khác. Ai ở vai trò vị trí nào cứ giữ
nguyên vai trò vị trí đó.
Thời gian đầu, quan điểm học
thuyết trên được xem như một chân lý. Mỗi người sinh ra có cá tính và năng lực
khác nhau. Vai trò của giáo dục có thể làm thay đổi một phần nhưng khó có thể
thay đổi một cách trọn vẹn vì chủ nghĩa định mệnh từ lâu đã áp đặt lên não
trạng người Ấn Độ. Sự áp đặt đó được nâng thành giá trị chân lý nên họ túc thủ
chấp nhận, không dám đặt vấn đề.
Quan điểm của đức Thế Tôn: “Thức
do duyên khởi. Không có yếu tố môi trường hoàn cảnh thì thức này không bao giờ
có mặt”.
Ngài đưa ra ẩn dụ ngọn lửa tùy
theo nhiên liệu mà có tên gọi khác nhau: Lửa phát xuất từ củi thì được gọi là “lửa củi”; lửa phát xuất từ rơm gọi là “lửa rơm”; lửa phát xuất từ nhiên liệu
của phân bò, trong truyền thống Ấn Độ được gọi là “lửa phân bò”; lửa do sấm sét gọi là “lửa sấm sét”,… Tùy theo phương tiện tạo
ra mà chúng có tên gọi khác nhau, nhưng tất cả nói lên một điều: “Bản chất của thức luôn luôn thay đổi cũng như hình
ảnh của lửa”. Không thể có sự vận chuyển từ hình thức lửa rơm với
tro bụi do rơm bị cháy rụi tạo thành. Nếu có sự cố định thì lửa này không bao
giờ tắt và rơm đó không bao giờ bị thiu rụi. Đức Thế Tôn muốn nhấn mạnh: Giả sử
thần thức con người cố định trong tiến trình sinh tử thì không thể có tình
trạng con người sinh ra bị già, rồi chết hoặc từ ngôi vị vua chúa bị lật đổ trở
thành những thường dân, tù tội. Tất cả những điều đó nói lên sự vận chuyển thay
đổi của điều kiện.
Đức Thế Tôn nói, thần thức của
con người cũng vậy. Nếu có sự tiếp xúc giữa mắt với màu sắc, hình thái lớn nhỏ,
vuông tròn…, thì cơ quan nhận thức đó được mệnh danh là nhãn thức, tức là sự
nhận thức của mắt. Tương tự, tai với âm thanh được gọi là nhận thức của tai.
Các giác quan khác và đối tượng nhận thức của chúng còn lại cũng có giá trị
tương tự. Từ đó, con người có nhãn thức, nhĩ thức, thân thức, ý thức, thiệt
thức,... Hình dung một căn nhà có năm cửa sổ và một cửa cái. Ban đêm, thắp một
ngọn nến hay một ánh đuốc, lập tức bốn phương bên ngoài của căn nhà tỏa màu
sáng hửng lan từ cửa cái và năm cửa sổ. Người ta có thể nói: “Đây là ánh sáng của cửa cái, ánh sáng của cửa sổ,
cửa trái, cửa phải, cửa trong, cửa ngoài…”. Điều đó không sai,
nhưng bản chất trong ngôi nhà này chỉ có một ngọn đuốc hay một ngọn nến. Nói
cách khác, đức Thế Tôn đưa ra ẩn dụ để minh chứng một điều: Khi gọi là nhãn
thức, không có nghĩa là nó có một thần thức riêng, hoàn toàn độc lập với cái
gọi là nhĩ thức. Tương tự, đối với thiệt thức, thân thức, ý thức, v.v… Chỉ có
một tâm thức chung với các chức năng khác nhau liên hệ với các giác quan mà con
người và các loài động vật vốn có. Mỗi loài động vật có chức năng nhạy cảm giác
quan khác nhau. Con người có thể phát triển khả năng giác quan của nhận thức
thông qua tai mắt, sau đó ứng dụng từ các giác quan này để tạo tiến trình của
giáo dục liên hệ đến lao động, truyền thông, kinh nghiệm, và sự tiếp nối các
hạt giống năng lực. Trong khi đó, các loài động vật mặc dù có nhạy cảm giác
quan, đôi khi nhạy bén gấp nhiều lần so với con người, nhưng chúng không thể
tạo ra những tiến trình của giáo dục như con người. Vẫn có những giới hạn nhất
định, dù là nhận thức của giác quan con người hay loài động vật. Tất cả không
khác nhau mà chúng có một dòng tâm thức được thể hiện ra sáu cơ quan giác năng.
Có thêm hai cơ quan nhận thức,
đó là cơ quan bảo thủ chấp trước dẫn đến nỗi khổ niềm đau là Mạt Na thức; và
kho tàng tất cả các năng lực hạt giống được tích tụ nhiều đời nhiều kiếp là
thức Alaya, còn gọi là kho tàng tâm thức. Chính kho tàng tâm thức này là nơi
chứa đựng tất cả hạt giống của hành vi, thái độ con người trải qua nhiều đời
nhiều kiếp. Đó là kho tàng phi vật lý, một dòng chảy của tâm, liên tục có mặt
với con người và các loài chúng sinh qua tiến trình sinh tử luân hồi.
Quan niệm về sự có mặt lâu dài
từ đời này sang kiếp nọ giữa Bà La Môn giáo và đạo Phật khác nhau ở chỗ: Đức
Phật cho rằng nhận thức con người lệ thuộc vào tính điều kiện. Trong khi đó, Bà
La Môn giáo cho rằng nó cố định bất biến, không thể thay đổi vận mệnh con
người. Mỗi giác quan có chức năng nhận thức đánh giá riêng biệt. Các chức năng
đó hỗ trợ cho hạnh phúc, nhưng đồng thời cũng tạo ra nhiều rắc rối khi giá trị
của hạnh phúc vượt qua mức yêu cầu vốn có của nó.
“Thức không phải là một thực tại vĩnh hằng mà là một dòng chảy”.
Truyền thống kinh điển Đại Thừa cho rằng nó là thác nước, nhìn từ xa như một
mặt phẳng, một khối, nhưng nhìn gần, nó được nối kết bởi rất nhiều nguyên tử,
phân tử của H2 và O. Con người, cấu trúc vật lý, cấu trúc nhận thức cũng vậy.
Tất cả những gì thuộc về tâm vật lý con người là một tổ hợp được hình thành bởi
nhiều điều kiện và yếu tố khác nhau. Khi các giác quan gặp trục trặc, chẳng hạn
đui, mù, cận thị hay viễn thị thì khả năng nhận thức của mắt bị giảm. Các giác
quan còn lại như tai, mũi, lưỡi, thân và não trạng cũng tương tự. Nghĩa là,
giác quan tốt thì khả năng nhận thức tốt. Khả năng nhận thức tốt còn lệ thuộc
vào điều kiện môi trường xung quanh như ánh sáng, khoảng cách, bản chất phát
quang trong nội tại của các vật chất v.v… thì nhận thức mới được thiết lập một
cách khác nhau. Không thể nói “có một
nhận thức không thay đổi trong khi điều kiện ánh sáng thay đổi”.
Cũng là một vật, chẳng hạn đoá hoa màu vàng, dưới ánh sáng của đèn neon, màu
vàng này không thật rực rỡ, nhưng dưới ánh sáng của đèn tròn, màu vàng sẽ nổi
bật hơn. Nếu tắt tất cả ánh sáng, màu vàng có mặt nhưng không thể tạo ra cảm
giác nhận thức rằng nó là màu vàng, thậm chí không ai nhìn thấy nó. Do đó, bản
chất của nhận thức luôn luôn thay đổi tùy thuộc vào điều kiện ánh sáng, vị trí
góc độ, tầm nhìn, điều kiện nhận thức của mắt, các giác quan, sức khỏe v.v…
Thấy rõ bản chất nhận thức là
một dòng chảy cho phép người ta tin tưởng những gì trong cuộc đời có thể được
cách tân. Sự cách tân diễn ra theo hai chiều hướng tiêu cực và tích cực. Quan
niệm tích cực dẫn đến chiều hướng tích cực, ngược lại quan niệm tiêu cực dẫn
đến chiều hướng tiêu cực. Cho nên đừng ỷ lại vào thành quả tốt trong quá khứ. Muốn
tương lai tốt đẹp thì ngay hiện tại phải nỗ lực phấn đấu không ngừng. Tình
trạng suy thoái đạo đức, suy thoái nhận thức có thể diễn ra, tài năng con người
có thể bị mai một. Việt Nam có câu: “Lão
lai tài tận”. Khi tuổi cao, khả năng thích ứng với môi trường và
phát minh mới chậm dần. Những kiến thức cũ trở thành một khối bám víu, làm con
người khó tiếp thu những gì khác với mình, khác với truyền thống của mình. Họ
trở nên lạc hậu và mất khả năng tiếp nhận những giá trị tốt hơn, cao hơn có thể
có.
Đức Phật phân tích về tiến trình
diễn ra từ nhận thức thông thường đến đời sống tuệ giác cũng là một dòng chảy
lệ thuộc hoàn toàn vào nhận thức của tâm. Khi nêu bản chất của nhận thức và tâm
thức nói chung không phải là một khối cố định bất biến, đức Thế Tôn muốn ám chỉ
và đưa ra phương châm cho con người hướng đến là biến đời sống thông thường trở
thành đời sống tuệ giác. Tức là chuyển hóa nhận thức phàm phu trở thành tuệ
giác của bậc thánh. Bản chất của giáo pháp đức Thế Tôn nằm ở điểm này. Ngài
không lập học thuyết triết học thông thường để bình luận, nhận thức, đánh giá,
so sánh, đối chiếu và đối thoại hơn thua. Học thuyết của Ngài phá vỡ mọi sự
chấp trước của con người. Nó có thể được quan niệm như một truyền thống triết
học, nhưng bản chất triết học của Ngài là triết học của sự chuyển hóa. Từ cách
nhìn này, người ta có thể trở nên rất bình thản trước mọi áp đặt, định danh,
dán nhãn của người khác về mình, vì bản chất nhận thức của người khác không
phải là một. Người ta có thể có một cách, trăm cách, nghìn cách khác nhau để
nhận thức nhưng bản chất của người được nhìn nhận cũng chỉ là một. Sự nhận thức
và nội dung của cái bị nhận thức có thể khác nhau hoàn toàn. Do đó, đừng ngại
khi bị dán nhãn, áp đặt những gì không đúng sự thật. Cũng không cần phải bận
tâm làm những công việc thanh minh thanh nga, trừ khi có điều kiện và được
người khác yêu cầu trình bày. Tiếp nhận sự trình bày ấy đúng hay không thuộc về
người khác.
VẬT
CHẤT VÀ TINH THẦN
Đức Thế Tôn đã hỏi Tỳ Kheo Sati
và những người có mặt: “Các vị có thể
nhìn thấy các đối tượng đang diễn ra trước mắt các vị hay không? Chẳng hạn, một
con vật đang đi, đứng, nằm, ngồi”. Tất cả mọi người trả lời “có”. Đức Thế Tôn xác quyết tiếp quan
điểm thứ hai: “Các loài động vật trong đó
có con người, tạo dựng ra mạng sống là nhờ nương vào các điều kiện, đặc biệt là
thực phẩm. Không có thực phẩm, đời sống con người có thể kéo dài thêm vài năm,
vài tháng là hết. Sự cấu thành đời sống con người nương tựa vào thực phẩm. Đời
sống có hai dạng: Đời sống vật lý và đời sống tâm lý. Thực phẩm cũng có hai
dạng: Thực phẩm vật chất và thực phẩm tinh thần”.
Đời sống vật chất: Liên hệ đến
cấu trúc thân thể này được tạo ra bởi bốn yếu tố: Chất rắn, chất lỏng, chất
không khí và chất vận chuyển, còn gọi là Tứ đại (đất, nước, gió, lửa). Đời sống
vật lý và tuổi thọ của nó nương tựa vào thực phẩm: Cơm ăn, nước uống và các
loại dưỡng chất khác liên hệ đến thực phẩm này. Trong khi đó, đời sống tinh
thần rất quan trọng, đôi lúc không ai quan tâm.
Đời sống tinh thần: Bao gồm cảm
xúc, nhận thức, ý niệm hóa, tinh thần tâm linh, đạo đức, các ý niệm, nghệ thuật
v.v… Thực phẩm của nó là những cái thuộc về tinh thần. Đời sống tinh thần và
vật chất hòa quyện nhau như bóng đèn và luồng điện. Tách luồng điện ra khỏi
bóng đèn thì luồng điện vẫn hiện hữu, nhưng hiệu ứng của nó không cao. Nếu công
tắc cầu dao hay tim bóng bị đứt, dòng điện vẫn truyền vào nhưng ánh sáng không
được tỏa ra từ nó. Tương tự, muốn nhận thức “luồng
điện và ánh sáng” có mặt thì thân thể vật chất “bóng đèn” và các yếu tố liên hệ trực
tiếp với nó phải còn trong tình trạng tốt. Chính điều kiện này cho phép người
ta tin tưởng một điều: Đừng bao giờ chủ trương chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa
duy tâm. Cả hai đều cực đoan nếu đứng từ góc độ một nguyên nhân khởi thủy dẫn
ra mọi sự vật hiện tượng còn lại.
Khi cho rằng “vật chất là nguồn gốc của mọi sự vật hiện tượng”
là quá đề cao vai trò của vật chất. Từ đó, dẫn đến khuynh hướng sống hưởng thụ,
xem vật chất, tiền bạc, gia tài, sự nghiệp là tất cả. Trong khi đó, bản chất
của hạnh phúc thuộc về dòng cảm xúc. Vật chất chỉ là một điều kiện, một phương
tiện.
Khi cho rằng “tâm là tất cả” là rơi vào trạng thái
cực đoan đối lập. Triết học nhà Phật không chủ trương duy tâm như người ta gán
ghép. Đức Phật chủ trương duyên khởi, chủ trương điều kiện, tính tương thuộc
tác động qua lại không có nguyên nhân khởi thuỷ, dù nó là tâm hay là vật. Cho
rằng duy tâm hay duy vật là nhận thức sai lầm, tách rời mọi sự vật ra khỏi sự
tương tác của nó. Đức Thế Tôn nói “khi có
nhận thức thông thường đi từ quan niệm cho rằng nó liên hệ đến tiến trình của
các điều kiện, con người có thể sống một cách rất thoải mái”.
Đức Thế Tôn nói “đời sống tuệ
giác bắt nguồn từ nỗ lực chuyển hóa tâm hoài nghi”. Hoài
nghi làm cho con người có cảm giác sợ hãi. Từ sợ hãi dẫn đến chế độ an ninh
không cần thiết, những ràng buộc, những quy định, pháp quy, cách thức bảo hộ
mạng sống v.v… Từ đó, người ta có thể có những thái độ khác chẳng hạn như sự
đối lập, loại trừ, xung đột lẫn nhau. Tất cả cái đó đều bắt nguồn từ tâm lý
hoài nghi: hoài nghi về bản thân, về người khác, về tôn giáo, triết học, tóm
lại hoài nghi về bản chất của đời sống. Hoài nghi là thái độ tâm lý tạo năng
lượng bám víu giống như tình trạng trói buộc người lại, thả xuống sông rồi bảo
người đó phải bơi về tới đích. Làm sao tiến về phía trước được! Vì thế, hoài
nghi là năng lực lôi kéo làm con người dậm chân tại chỗ trong cơn lốc của sự
bảo thủ một quan điểm nhất định nào đó. Ai có nhiều thái độ hoài nghi, người đó
khó có thể tu tập. Và nỗi khổ niềm đau mỗi khi được thiết lập sẽ có cơ hội được
nuôi dưỡng, bảo bọc và chăm sóc, cho nên tiến trình của hạnh phúc là cái gì đó
rất xa vời. “Con đẻ” của hoài
nghi là lòng do dự, thái độ không dứt khoát bất kỳ một quan điểm nào. Trạng
thái “dậm chân tại chỗ” làm
cho người đó đánh mất cơ hội tiếp xúc với những cái khác hay hơn, tốt đẹp hơn.
Khi con người đã chuyển hoá tâm
hoài nghi, trí tuệ bắt đầu được gieo mầm, lớn mạnh. Người có nhận thức sáng
suốt sẽ có niềm tin vững chãi vào hạnh phúc bản thân, không mang tâm vọng cầu
theo kiểu “đứng núi này trông núi nọ”.
Nếu vọng cầu với thái độ hoài nghi thì những năng lực, tiềm năng, điều kiện vốn
có đủ sức làm người đó hạnh phúc, nhưng họ lại không tin mà nghĩ rằng phải đi
nơi nào thật xa, tìm kiếm nghề thật mới, nương tựa kẻ này người nọ thì mới có
hạnh phúc lâu dài. Từ đó họ tự đánh mất sở trường, chạy theo sở đoản, là một
sai lầm rất lớn từ tâm hoài nghi. Cần phải xác quyết những gì đang có với các
điều kiện, tận dụng những cái đó để tạo lợi ích cho bản thân.
Giai đoạn sau năm 1975, rất
nhiều thuyền nhân đã vượt biên tìm kiếm mảnh đất hứa. Đến xứ người, họ không
còn sự lựa chọn nào, từ hai bàn tay trắng, họ phải dựng cơ nghiệp bằng tất cả
sự nỗ lực tích cực. Cuối cùng, sau mười năm, hai mươi năm, họ có cơ ngơi sự
nghiệp, giàu sang phú quý, có người thành công hơn người bản địa. Điều đó rất
đáng tán thán! Vì khi ấy, họ chỉ có một con đường duy nhất là tiến tới phía
trước, dù phía trước là núi cao vời vợi, nhưng nếu lui về sau sẽ rơi xuống vực
sâu. Dĩ nhiên, leo núi không khéo có thể bị ngã, nhưng nếu khéo léo có phương
pháp sẽ đạt tới đỉnh cao. Nhờ ánh sáng Phật pháp soi đường, rất nhiều Phật tử
đã thành công sau nỗi đau của quá khứ với những ám ảnh của sự dằn vặt do môi
trường điều kiện chính trị xã hội đã tạo ra cho họ.
Sau đó, rất nhiều người Việt Nam
cũng muốn tìm kiếm đời sống hạnh phúc tương tự. Họ vượt biên bằng con đường hôn
nhân, hợp tác lao động hoặc nhiều phương tiện khác. Có người thành công nhưng
cũng không ít người thất bại. Thậm chí nhiều người đã có công ăn việc làm, giàu
sang phú quý tại Việt Nam nhưng nghĩ rằng Hoa Kỳ, Pháp, Canada, Úc,.. là thiên
đường nên bỏ tất cả sự nghiệp của mình để mong tìm kiếm một thiên đường mới.
Sang đến nơi, sự thích ứng diễn ra rất chậm, vì bản thân họ là những người giàu
có quen hưởng thụ. Cuối cùng nỗi khổ niềm đau tràn về mỗi khi hồi tưởng những
gì đã có. Nếu trở về Việt Nam thì sợ xấu hổ. Chỉ vì lý do sĩ diện mà họ phải
chôn vùi cả cuộc đời mình. Ở đây điều được nhấn mạnh là: Thái độ xác quyết
không do dự theo kiểu “đứng núi này trông
núi nọ” sẽ giúp con người trở nên sáng suốt, không bị chi phối, ảnh
hưởng, tác động từ bên ngoài để cuối cùng không đi tới đâu.
Đức Thế Tôn gợi nhắc: “Muốn tâm
không bám víu, chấp trước vào chân lý thì hãy hình dung và nhớ về dụ ngôn
‘chiếc bè’ mà Như Lai đã dạy trong bài kinh thứ 22 ‘Người bắt rắn’” .
Bản chất của chánh pháp được
giảng là để vượt qua nỗi khổ niềm đau, không phải để tôn thờ và nắm lấy. Tương
tự, hình ảnh chiếc bè giúp vượt qua sông. Nếu sau khi qua sông, không chịu lên
bờ, cùng chiếc bè rày đây mai đó thì chắc chắn giá trị hạnh phúc sẽ không được
đảm bảo. Hoặc nếu tôn thờ khuân vác nó trên vai, đội nó trên đầu, phỏng chẳng
có giá trị gì mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến những người đang cần chiếc bè để
vượt qua sông. Nói cách khác, đừng bao giờ tôn thờ kinh điển trên bàn thờ, mà
hãy tôn thờ nó bằng giá trị ứng dụng hành trì trong đời sống.
Tiến trình khởi thủy của tuệ
giác bắt nguồn từ xác quyết của tâm trên nền tảng nhân quả, nhận thức, hiểu
biết, và kinh nghiệm. Đức Thế Tôn xác định: Bản chất của tuệ giác là tạo thanh
tịnh, an vui và hạnh phúc. Sẽ là một sai lầm, nếu ai đó có tâm lý muốn sở hữu
giá trị tâm linh mình đạt được. Bản chất tâm linh là của chung, con đường an
vui giải thoát cũng là của chung. Đừng bao giờ sở hữu nó cho tông phái, ngôi
chùa, gia đình hay cho bản thân mình. Ai muốn sở hữu hoá chân lý, người đó sẽ
bị khổ đau. Lòng hãnh diện tự hào bắt đầu có mặt trong thái độ sở hữu hoá này.
Bản chất của sự tu tập theo nhà Phật là chuyển hoá các ngóc ngách, gai góc của
cái tôi bao gồm sự hãnh diện, sĩ diện, tự hào, mặc cảm tự ti, thái độ rụt rè,
lòng do dự, sự nghi kỵ, sự sợ hãi, chủ trương độc nhất, thái độ độc quyền
chuyên chế v.v…Cho rằng mình là đỉnh cao của chân lý, tất cả mọi cái, mọi người
là phụ thuộc. Những quan điểm đó tạo ra gai góc của cái tôi. Chấp trước và bám
víu chân lý cũng dẫn đến thái độ hãnh diện tự hào tương tự, rằng “tôi tu đúng, người khác tu sai, pháp môn của tôi là
số một, pháp môn còn lại là sai lầm”. Từ đó huynh đệ cùng một bậc
thầy tâm linh tuệ giác đức Thế Tôn lại trở thành những người xa lạ với nhau.
Rất may trong truyền thống tâm linh nhà Phật, có nhiều tông môn pháp phái, pháp
môn hành trì nhưng hành giả Phật tử chưa bao giờ xem nhau là kẻ thù, tôn vinh
mình là chân lý duy nhất.
THỰC
PHẨM CHO LUÂN HỒI
Cách thức ngừng cung cấp thực
phẩm của luân hồi cho đời sống theo lời dạy của đức Thế Tôn. Có bốn
loại thực phẩm được xem là dưỡng chất của sinh tử, dưỡng chất của khổ đau. Nó
là cơ sở dữ liệu giúp chúng sinh trưởng thành lớn lên khi có mặt. Nó là yếu tố
và điều kiện cần thiết để giúp chúng sinh sẽ bắt đầu có mặt sau tiến trình qua
đời ở một cảnh giới, một sự sống nhất định nào đó.
* Đoàn thực, Kabalinkàro: Đoàn thực là thực phẩm được đưa
vào cơ thể thông qua miệng và cơ thể vật lý nói chung. Chẳng hạn ăn, truyền
nước biển, tiêm thuốc bổ vào cơ thể v.v… đều được gọi là đoàn thực.
Khái niệm “đoàn thực” xuất phát từ văn hoá Ấn Độ.
Nền văn hoá này người ta ăn bốc, không dùng đũa muỗng. Các thực phẩm muốn đưa
vào miệng dễ dàng mà không lem luốc, người ta thường trộn thức ăn rồi dùng tay
nghiền nát, sau đó vò thành viên rồi đưa vào miệng. Bản chất của “đoàn thực” giúp con người lớn mạnh,
trưởng thành. Nơi nào thiếu thực phẩm nơi đó bị còi xương, sự sống giảm, bệnh
tật gia tăng. Cho nên, chăm sóc tuổi thọ con người phải chăm sóc từ thực phẩm.
Phải biết sử dụng những thực phẩm cần thiết cho đời sống, từ đó, giảm thiểu chủ
nghĩa tiêu thụ ảnh hưởng đến thể chất, thể trí và tinh thần của con người. Đức
Thế Tôn nói: “Chỉ trong cách thức ăn
uống, con người có thể giảm đi bệnh tật mấy mươi phần trăm”. Ai đã
từng bị bệnh cũng cảm nhận được điều này. Các bác sĩ, dược sĩ cũng thường yêu
cầu bệnh nhân thực hiện chế độ ăn uống tùy theo từng tình trạng bệnh để làm
giảm, khống chế, và khoanh vùng cơn bệnh. Bản chất của “đoàn thực” là tạo sức khoẻ cho tuổi thọ
được kéo dài.
* Xúc thực, Phassàhàro: Xúc thực là loại thực phẩm tiếp xúc
các giác quan với đối tượng trần cảnh của nó. Dĩ nhiên, nó không có giá trị kéo
dài mạng sống như “đoàn thực”,
nhưng nó làm thăng hoa các giá trị cuộc đời, tạo thêm những ý vị, chẳng hạn nhu
cầu giải trí. Xem phim là “xúc thực”
của mắt. Đi du lịch ngắm cảnh cũng thuộc về “xúc
thực”. “Xúc thực”
có thể được hiểu như các hương liệu, gia vị. Quan trọng nhất, nguy hại nhất đến
tiến trình sinh tử đó là đời sống sinh hoạt vợ chồng với nhu cầu xúc thực là
thực phẩm. Thiếu loại thực phẩm này, đời sống hạnh phúc vợ chồng có thể bị tan
vỡ. Vì bản chất của nó tạo ra những thói quen và cơn nghiện. Ai đầu tư hoặc quá
lệ thuộc vào thực phẩm “xúc thực”
liên hệ đến các giác quan và đối tượng trần cảnh của nó thì người đó sẽ trở
thành nô lệ của những thói quen, những sự ràng buộc, ức chế, và những cái không
thể nào vùng vẫy nổi.
* Tư niệm thực, Manosancetanàhàro: Tư niệm thực liên hệ đến
ý chí, tác ý, ý niệm của con người, như một loại thực phẩm kéo dài mạng sống,
tuổi thọ của con người. Ý chí có thể kéo dài tuổi thọ. Chẳng hạn, một người
bệnh nằm liệt trên giường, nếu có một sự kiện, một sự việc nào đó chưa được
hoàn tất thì lòng mong mỏi muốn thực hiện nó sẽ làm cho họ sống dài thêm một
khoảng thời gian. Hoặc việc thương tưởng đứa con thơ trẻ sẽ giúp người bệnh kéo
dài tuổi thọ thêm vài tháng. Khi giá trị của tuổi thọ đã hết, bản chất của sự
níu kéo về ý chí, nguyện vọng,… sẽ kéo dài tuổi thọ thêm một thời gian ngắn.
Hiểu được nguyên tắc tâm lý này,
muốn ra đi một cách nhẹ nhàng thì hành giả và những người đang bị cơn bệnh
khống chế, chi phối, cần phải từ bỏ nó một cách có nghệ thuật và đừng tiếc
nuối.
Giảng
Kinh Trung Bộ 38 tại chùa Xá Lợi, ngày 09-04-2006
Phiên tả: Hoàng Oanh