Vipassana là một môn khoa học vĩ đại, môn khoa học tâm thức để hiểu biết về hiện
tượng vật chất. Đây là một quá trình thanh tịnh tâm thức, không bị bó buộc bởi
môn phái, giai cấp hay niềm tín ngưỡng. Hơn nữa, vipassana hoạt động dựa theo
mức độ kinh nghiệm, và xuyên qua quá trình thanh tịnh hóa tâm thức một cách bền
bỉ sẽ mang lại một cuộc sống hạnh phúc.
Biết rằng phần lớn tâm thần là
tiềm thức hoặc tâm thức không tự giác. Thông thường thật là khó khăn để tiếp xúc
với phần này, tiềm thức luôn phản ứng theo những điều kiện của quá khứ. Phần tâm
thức có tính chất phản ứng này là một nhà kho chứa những ấn tượng (samkhaaraa)
ham muốn và chán ghét, và nó làm cho phản ứng của chúng ta đối với những sự việc
xảy ra từ bên ngoài bị chệch đi, và như vậy thiếu tính khách
quan.
Vipassana giúp chúng ta phá bỏ rào cản giữa ý thức và tâm thức.
Xuyên qua quá trình quan sát, không phản ứng lại, tâm thức được tẩy rửa bớt
những gì tiêu cực. Với phương thức Vipassana, một người đi đến tận cùng sâu thẳm
của tâm thức, và kinh nghiệm rõ những cảm thọ của thân thể mà không cần phải
phản ứng lại. Luật thiên nhiên là bất cứ hành động nào của chúng ta cũng tạo nên
một dấu ấn riêng và được thu nhập vào trong tâm thức. Sự thu lượm những dấu ấn
này (saizkhari – 7) không phải chỉ trong đời sống này, mà luôn cả những đời sống
trước kia nữa.
Nơi lưu trữ này là sách chỉ dẫn cho những phản ứng của
chúng ta đối với sự việc xảy ra từ bên ngoài.
Ở mức độ kinh nghiệm, phần
lớn những lợi ích là:
1. Khi tâm thức ngày càng tỉnh táo, một người trở
nên bén nhạy, có khả năng hiểu rõ những tình trạng ở nhiều mức độ khác nhau.
Trong kinh nghiệm cá nhân, tôi giải quyết được nhiều việc khó khăn xuyên qua
việc thực hành vipassanan (thiền minh sát).
2. Nhờ giảm bớt được sự chán
ghét và tham đắm, một người có khả năng đối diện với những tình huống trong cuộc
sống một cách khách quan hơn, và như vậy cải thiện được quá trình giải quyết các
vấn đề. Vipassana (thiền minh sát) làm giảm đi tình trạng bị chọc tức và thất
vọng.
3. Các doanh nhân, tùy vào mức độ rắc rối của công việc, thường
phải đối diện với khá nhiều căng thẳng hay làm việc quá sức. Những căng thẳng
như vậy sẽ có sức tác động rất lớn về mặt sức khoẻ, và như đã nói, có hơn năm
mươi phần trăm căn bệnh liên quan về mặt sức khoẻ và tinh thần. Một tác dụng thứ
yếu của thiền định là sức khoẻ có thể được cải thiện xuyên qua quá trình thanh
tịnh hoá tâm thức.
4. Một người thường tìm kiếm quyền lực và địa vị
trong thương trường, nhưng lại không có khả năng hưởng thụ những thứ họ kiếm
được, vì những tác dụng tiêu cực mà họ đã tạo nên qua việc thổi phồng tự ngã. Tự
ngã chận đứng chúng ta không cho chúng ta phát triển những phẩm chất của con
người như tình thương yêu, lòng từ bi, sự an lạc và thanh thản. Thiền Vipassana
thật sự hữu ích cho thương mại, nhưng quan trọng nhất là Vipassana giúp chúng ta
kinh nghiệm được sự an lạc chân thật của tinh thần, và cảm nhận được hạnh phúc
xuyên qua việc giảm bớt tự ngã. An lạc và hạnh phúc chỉ xuất hiện khi chúng ta
hiểu rõ về tính chất vô thường của thân và tâm.
5. Thực hành liên tục
Vipassana sẽ gia tăng sự thanh thản và như vậy một người có khả năng sống một
cách hài hoà, và không bị ảnh hưởng bởi những áp lực của cuộc sống hàng
ngày.
6. Những nhà thương mại có quyền lực ghê gớm trong vấn đề chỉ huy
tài chính, quản lý và kỹ thuật. Xuyên qua việc phát triển một hệ thống giá trị
tốt hơn, Vipassana khiến chúng ta làm việc với mục đích phụng sự nhân loại.
Trong thương trường, Vipassana giúp chúng ta cải thiện phẩm chất của sản phẩm,
và cách phục vụ xã hội, khuyến khích một định hướng phục vụ quy mô hơn hầu đáp
ứng các nhu cầu của xã hội.
Một người bất thần « được » thúc đẩy để bắt
đầu Chương Trình Lupin Ủng Hộ Nông Thôn (Lupin Rural Support Programme) sau khi
học thiền. Chương trình này mang đến sự phồn vinh và hạnh phúc cho khoảng
200.000 người, nơi chúng tôi làm việc, và lần lượt việc này cũng mang đến hạnh
phúc cho chúng tôi. Chúng tôi được thúc đẩy để phát triển thêm nhiều cuộc thực
nghiệm phục vụ nhân loại như trên, vài cuộc thực nghiệm đang được chúng tôi tiến
hành. Vipassana là môn thanh tịnh hoá tinh thần, và một tinh thần sáng suốt sẽ
tìm kiếm hạnh phúc xuyên qua việc cải thiện cách thức phụng sự xã
hội.
Nghe nói rằng Vipassana là một môn khoa học lâu đời của Ấn Độ. Đức
phật Gotama là người đã phát hiện lại Vipassana và nhờ vào Vipassana mà đức Phật
đã tìm ra chân lý tột đỉnh, và Ngài đã truyền dạy phương pháp này vì lợi ích của
nhân loại. Sau đó, quốc vương Ashoka đã khuyến khích việc truyền bá, giảng dạy
phương pháp này cho thần dân của mình, theo sắc lệnh được ghi lại trên cột đá.
Chúng tôi rất biết ơn ngài Goenkaji đã mang kiến thức xa xưa này đến xứ sở của
chúng tôi.
Bởi vì Vipassana vượt xa rào cản giai cấp, giáo phái, chủ
nghĩa cộng đồng, và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, Vipassana mang đến sự cải thiện
về mặt đạo đức, như vậy song song với sự ích lợi về mặt vật chất, còn có niềm
hạnh phúc chân thật.
Hơn nữa, Vipassana có thể là một công cụ hiệu lực
cho việc củng cố một hệ thống quốc gia hợp nhất, và tăng cường những nhân tố
hiểu biết có tính cách quốc tế; những điều này rất thích hợp với thời đại hiện
nay.
Chân thành cảm ơn
Phramaha Witoon Thacha đã chép lại bài giảng này.
Mỹ Thanh
10-25-2007
Bhikkhu Khantipalo
Khantipalo, thế danh
Laurence Mills, sinh năm 1932 tại Bắc Luân Đôn. Sau khi tốt nghiệp về ngành
trồng hoa quả, ông gia nhập quân đội ở vùng sa mạc của kênh Suez. Trong thời
gian này, ông được đọc một quyển sách về Phật giáo và ngay sau đó đã trở thành
một Phật tử.
Sau đó Khantipalo trở về Anh được vài năm, nhưng trong một
khóa tu thiền, ông đã quyết định xuất gia, trở thành một tu sĩ Phật giáo. Tiếp
theo ông đến tu học ở Ấn Độ ba năm và ở Thái Lan mười một năm dưới sự hướng dẫn
của Sư Sasana Sobhana và tu thiền trong các lâm tự viện với Sư Acharn Maha Boowa
và nhiều vị thiền sư khác. Năm 1973, ông cùng một sư người Thái –Pariyattikavee
- qua Úc và họ đã thành lập nên Wat Buddharangsee năm 1978, ở thành phố
Sydney.
Khantipalo đã lưu lại Wat Buddha Dhamma mười bốn năm. Năm 1991,
ông rời bỏ nơi này và trở lại đời sống thế tục.
Ông là tác giả của nhiều
đầu sách Phật giáo, trong đó có Calm and Insight (NXB Curzons) và Banner Of the
Arahants (NXB BPS).
Khi muốn thực tập thiền, chúng ta phải có những lý do
chánh đáng cho sự thực tập này. Thiền - một định nghĩa hay hơn từ Samadhi, là sự
bình thản - chỉ là một khái niệm thực tập Phật giáo, một điều cần thiết, để
thành công cần phải kèm theo những thực tập khác như lòng quảng đại, sự dịu
dàng, không bạo động, kiên nhẫn, vui vẻ và khiêm cung.
Nếu những điều
tốt này không có nơi một thiền sinh thì đúng là có điều gì không ổn, và chỉ có
một người dại dột mới ráng tiếp tục thực tập.
Sự bình thản tự chủ luôn
dựa trên nền tảng căn bản đạo đức (sila) và một người không thể nào thành công
nếu họ không chịu giữ gìn giới luật.
Những dấu hiệu của "sự tiến bộ" nơi
lòng tự chủ không phải là những cảnh tượng khác thường, những cảm giác kỳ lạ
(mặc dù những điều này có thể xuất hiện khi thiền sinh có sự tiến bộ trong việc
thực tập), nhưng mà là một sự bình an hài hoà trên con đường đạo. Nếu một người
thực tập không có thầy thì cần phải thật cẩn thận. Nếu không, một người không
bao giờ biết được mình đang đi trên con đường chánh pháp hay tà
pháp.
HAI DÒNG THIỀN
Có
hai dòng thiền Phật giáo, cho dù trong khi thực tập hai dòng thiền này được xem
là bổ túc lẫn nhau.
Rất lợi ích cho một số người có tư tưởng năng động,
luôn bị phân tán bởi những ý tưởng lăng xăng lộn xộn. Tư tưởng là một chuỗi sự
kiện tinh thần, xuất hiện và biến mất một cách nhanh chóng.
Mỗi một sự
kiện là một tư tưởng đầy đủ với những yếu tố tinh thần, cho nên trong lúc ban
đầu cái tư tưởng, cái tâm trí là "sự chú ý" và nó quan sát những "tư tưởng" khác
(tất cả chỉ là một sự tiếp diễn không ngừng nơi phần tinh thần của một người).
Nhờ vậy một người mới dần phát triển được khả năng quan sát tâm trí, tư tưởng,
để xem nó đi đâu. Đi về quá khứ, hiện tại hay tương lai. Có phải nó đang nghĩ
đến vật chất hay cảm giác, hoặc đang nhận thức, hay đang ham muốn, hoặc là nó
biến mất nơi ý thức?
Bằng phương thức đặt câu hỏi rằng “Nó đã đi đâu?”
Sự phân tán nơi tinh thần sẽ từ từ được kiểm soát cho đến lúc “sự chú ý” hay
“chánh niệm” trở nên nền tảng vững vàng cho việc hành thiền tiếp
tục.
Tâm trí cần được huấn luyện và phát triển theo cách thực tập này,
nhưng nó phải được quân bình bởi sự tĩnh lặng thấm nhuần. Khi tinh thần trở nên
yên tịnh thì một người nên bắt đầu thực tập thiền (jhana), và đây là bước đầu
cho trí tuệ xuất hiện. Phương cách này gọi là "trí tuệ đưa đến tĩnh
lặng”.
Những cách thực tập khác dành cho những người mà tinh thần ít bị
giao động, bao gồm bốn mươi đề tài cổ điển về thiền (xem phần phụ lục); và những
đề tài thiền này cộng với những cách thực tập khác phát triển hơn, dựa vào một
đối tượng để làm đề tài cho sự tập trung.
Có thể là thân thể của chúng
ta, hay một phần thân thể, màu sắc của một bức tranh, một chữ hay một câu, và sự
suy ngẫm trừu tượng, v.v và v.v. Tất cả những phương thức này kèm theo sự rèn
luyện về tinh thần một cách kỹ càng nhưng vừa phải. Lúc mà tư tưởng chạy sang
chỗ khác thì phải từ tốn kéo nó trở về (bằng chính niệm) để tiếp tục tập trung
vào vào đề mục đã chọn.
Nhiều người lầm tưởng và cho rằng thực tập như
thế này thì nhất định sẽ có được sự tĩnh lặng ngay lập tức. Họ sẽ ngạc nhiên khi
bắt đầu thực hành, vì họ sẽ nhận thấy có nhiều trở ngại hơn họ nghĩ. Lúc đầu là
như vậy, vì có bao giờ họ chịu kiểm soát tư tưởng của họ đâu. Kế đó, lúc bắt đầu
thực hành cũng giống như lấy một khúc cây khuấy nước đọng trong ao, hoặc khơi
đống lửa tro. Tư tưởng như con voi rừng, quen chạy rong trong khu rừng ham muốn,
sẽ không dễ gì để bị huấn luyện, không dễ gì bị cột lại. Nhưng với sự chuyên cần
và chú tâm, dần dần ta có thể dùng dây chính niệm để cột voi lại, và kết quả là
ta sẽ được sự tĩnh lặng.
Bốn mươi đề tài nói trên nằm trong cách thực
tập thứ hai, mà khi đã có được sự yên tịnh nhờ vào thực tập thì trí tuệ sẽ xuất
hiện. Vì thế được gọi là "tĩnh lặng đưa đến trí tuệ”, và các bài tập này rất
quan trọng trong thời buổi hiện tại điên cuồng ngày nay. Để hiểu rõ thêm, mọi
người nên tìm đọc Path of Purification (Con đường thanh lọc – Visuddhi-magga,
bản dịch), cho dù quyển sách này cho ta một kiến thức vĩ đại, nó cũng không thể
thay thế được sự liên hệ trực tiếp giữa thầy và trò.