Lúc ấy Đế Thích ở trong hội chúng, thưa với Phật:
«Bạch
Thế Tôn, con đã từng nghe hàng trăm ngàn kinh Pháp do Thế Tôn và
Văn-thù-sư-lợi thuyết giảng, nhưng thật chưa từng được nghe kinh điển
quyết định thật tướng, bất khả tư nghì thần thông tự tại như vậy.[1]
Theo con hiểu ý nghĩa mà Phật nói, nếu chúng sinh nào được nghe kinh
Pháp này mà tin hiểu, thọ trì, đọc, tụng, chắc chắn sẽ chứng đắc
Pháp[2] ấy không nghi; huống nữa theo Pháp đó mà tu. Người đó ắt sẽ
đóng kín các ác đạo, mở ra các cửa lành, sẽ được sự hộ niệm của chư
Phật, hàng phục ngoại đạo,[3] đánh bại ác ma, vun trồng bồ-đề,[4] thiết
đặt đạo tràng, đi theo bước chân Phật. Bạch Thế Tôn, con và các quyến
thuộc nguyện sẽ cúng dường, phụng dưỡng người nào thọ trì, đọc tụng và
như thuyết tu hành. Bất cứ nơi nào, thành thị hay thôn quê, núi rừng
hay hoang mạc, chỗ nào có kinh này, con và các quyến thuộc cũng nguyện
đến đó để xin nghe và lãnh thọ pháp. Nếu có ai chưa tin kinh này con sẽ
giúp họ phát lòng tin; ai đã có lòng tin con sẽ hộ vệ.”
Phật bảo:
“Lành
thay, Thiên đế, lành thay; như điều ông nói, Ta tán trợ tùy hỷ. Kinh
Pháp này quảng diễn A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề[5] bất khả tư nghị
của chư Phật quá khứ, vị lai, và hiện tại.
“Cho
nên, Thiên đế, nếu có thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào thọ trì, đọc
tụng và cúng dường kinh này, đó là cúng dường chư Phật quá khứ, vị lai,
và hiện tại.
“Này Thiên đế,
giả như trong đại thiên thế giới có đầy Như Lai nhiều như mía, tre,
lau sậy, lúa, mè; mà nếu thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào trải qua
trọn kiếp hay gần một kiếp[6] để cung kính, tôn trọng, tán thán, và
cúng dường chư Phật này, cho đến khi chư Phật đã diệt độ, lại xây bảo
tháp bảy tầng rộng lớn bằng bốn thiên hạ,[7] cao đến cõi Phạm thiên để
phụng thờ toàn thân xá lợi Phật, với đầy đủ biểu tượng trang nghiêm;[8]
với tất cả hoa, hương, chuỗi ngọc, cờ phướn, âm nhạc vi diệu bậc nhất,
trải qua một kiếp hay gần một kiếp cúng dường, này Thiên đế, người đó
có được nhiều phước đức không?”
“Bạch Thế Tôn, thật nhiều, đến mức đếm trong cả trăm ngàn kiếp cũng chưa kể hết phước đức ấy.”
Phật dạy:
“Này
Thiên đế, ông nên biết, nếu có thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào, khi
được nghe kinh giải thoát bất khả tư nghị này mà tin hiểu, thọ trì,
đọc tụng và theo đó tu hành, thì phước đức còn nhiều hơn những người
kia. Vì sao? Vì bồ-đề của chư Phật phát sinh từ kinh Pháp này Mà tướng
của bồ-đề thì chẳng thể định lượng, do nhân duyên ấy phước đức đó cũng
chẳng thể định lượng.”
Phật
nói tiếp: “Trước đây vô lượng kiếp có đức Phật hiệu Dược Vương Như Lai,
Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô
thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Thế giới
của Ngài có tên Đại trang nghiêm, kiếp tên là Trang nghiêm. Phật thọ
hai mươi tiểu kiếp. Thanh-văn tăng có ba mươi sáu na-do-tha. Bồ tát
tăng có mười hai na-do-tha.
“Thiên
đế, bấy giờ có vị Chuyển luân Thánh Vương tên Bảo Cái, có đủ bảy báu,
cai quản bốn thiên hạ. Vua có một ngàn con trai đoan chính, anh dũng,
hàng phục mọi oán địch.
“Thuở
ấy Thánh Vương Bảo Cái và quyến thuộc đã tôn kính cúng dường đức Như
Lai Dược Vương, bố thí các tiện nghi an lạc, cho đến hết năm kiếp. Sau
đó vua căn dặn một nghìn người con: ‘Các con nên bằng thâm tâm tôn kính
cúng dường Phật như ta đã làm.’ Một nghìn người con phụng mạng vua
cha, cúng dường đức Dược Vương Như Lai cho đến hết năm kiếp nữa, bố thí
tất cả phương tiện an lạc. Sau đó một trong những người con này là
Nguyệt Cái, lúc ngồi một mình, đã tự nghĩ: ‘Còn có sự cúng dường nào
cao quý hơn sự cúng dường chúng ta đã làm không?’ Thần lực của Phật đã
khiến một thiên thần trên không đáp: ‘Này thiện nam tử, cúng dường Pháp
cao hơn hết thảy mọi sự cúng dường.’ Nguyệt Cái liền hỏi: ‘Cúng dường
Pháp là thế nào?’ Thiên thần đáp: ‘Hãy đến hỏi đức Dược Vương Như Lai,
sẽ được giải thích đầy đủ.’
“Nguyệt
Cái lập tức đến Dược Vương Như Lai, cúi đầu đảnh lễ sát chân Ngài rồi
đứng sang một bên, hỏi Phật: ‘Bạch Thế Tôn, con nghe nói cúng dường
Pháp là cao quý nhất trong các cách cúng dường; vậy thế nào là cúng
dường Pháp?’
“Phật đáp: ‘Này
thiện nam tử, cúng dường Pháp là, đối với kinh điển sâu xa do chư Phật
thuyết giảng, khó tin và khó tiếp nhận đối với hết thảy thế gian, vi
diệu khó thấy, thanh tịnh vô nhiễm, không thể lấy tư duy phân biệt mà
hiểu được; nó là bảo vật trong kho Pháp tạng của Bồ tát, in bằng dấu ấn
đà-la-ni;[9] dẫn đến bất thối chuyển,[10] thành tựu sáu độ, khéo phân
biệt nghĩa, thuận với Pháp bồ-đề, là kinh tối thượng; giúp người vào
đại từ đại bi, xa lìa các ma sự và tà kiến, thuận với Pháp nhân
duyên,[11] vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ mạng,[12] không, vô
tướng, vô tác, vô khởi; hay dẫn chúng sinh đến ngồi nơi Đạo tràng mà
chuyển Pháp luân; được các Trời, Rồng, Càn-thát-bà, đồng ca ngợi; hay
đưa chúng sinh vào kho tàng Chánh Pháp của chư Phật,[13] thâu đạt hết
thảy trí tuệ của Thánh Hiền, chỉ dạy con đường sở hành của chúng Bồ
tát; y trên nghĩa thật tướng của các pháp mà thuyết minh nghĩa vô
thường, khổ, không, vô ngã và tịch diệt;[14] có thể cứu người hủy phạm
giới cấm; khiến cho chúng ma, ngoại đạo và người tham trước[15] sinh sợ
hãi; được chư Phật và Thánh Hiền ngợi ca; vì quét sạch nỗi khổ sinh
tử, chỉ niềm vui niết bàn mà chư Phật trong mười phương, ba đời từng
thuyết giảng.
“Nếu nghe xong
kinh này mà tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, vì chúng sinh diệu dụng phương
tiện để giảng giải cho họ tỏ tường, vì thủ hộ Pháp,[16] như vậy gọi là
cúng dường Pháp.
“Lại nữa,
theo các Pháp đã được thuyết giảng mà tu hành, tùy thuận mười hai nhân
duyên,[17] xa lìa tà kiến, thành tựu vô sanh nhẫn, khẳng quyết tính vô
ngã và vô hữu của chúng sinh mà đối với nhân duyên, quả báo, thì không
trái, không tranh cãi, lìa các ngã sở; y nghĩa lý chứ không y ngữ ngôn,
y trí chứ không y thức, y kinh liễu nghĩa chứ không y kinh không liễu
nghĩa; y Pháp chứ không y người thuyết Pháp;[18] tùy thuận theo Pháp
tướng, không chỗ sở nhập, không chỗ sở quy,[19] vô minh rốt ráo diệt,
cho nên các hành cũng rốt ráo diệt, cho đến sanh rốt ráo diệt cho nên
già-chết cũng rốt ráo diệt. Quán sát như thế, mười hai nhân duyên không
có tướng tận cũng chẳng có tướng khởi. Đó là pháp cúng dường tối
thượng.”
Đoạn Phật bảo Thiên đế:
“Sau
khi nghe Pháp này từ đức Dược Vương Như Lai, Vương tử Nguyệt Cái đắc
nhu thuận nhẫn,[20] liền cởi tấm bảo y và các bảo vật trang sức trên
người, dâng cúng Phật:
“Bạch
Thế Tôn, sau khi Ngài diệt độ, con sẽ cúng dường Pháp để giữ gìn bảo
vệ Chánh Pháp. Nguyện oai thần của Phật giúp con đứng vững, hàng phục
chúng ma, tu Bồ tát hạnh.”
“Phật Dược Vương biết rõ nhưng điều tâm niệm trong thâm tâm ấy nên đã thọ ký cho Vương tử:
“Sau này, cho đến tận cùng, ngươi sẽ là người bảo vệ giữ gìn thành trì Chánh Pháp.
“Này
Thiên đế, bấy giờ Nguyệt Cái được thấy sự thanh tịnh của pháp, nghe
Phật thọ ký, bèn với tín tâm mà xuất gia, tu tập thiện pháp, tinh tấn,
không lâu đã đắc năm thần thông lực, thành tựu Bồ tát đạo, đạt được
đà-la-ni, biện tài không đoạn tuyệt. Sau khi Phật Dược Vương nhập diệt,
Bồ tát ấy bằng các năng lực thần thông, tổng trì, biện tài đã chứng
đắc, trải trong mười kiếp tròn đầy, phân bố pháp luân mà Dược Vương Như
lai đã chuyển. Tỳ-kheo Nguyệt Cái, bằng sự thủ hộ Chánh pháp, ân cần
tinh tấn, liền ngay nơi bản thân ấy mà giáo hoá khiến trăm vạn ức người
không thối chuyển đối với Vô thượng chánh đẳng chánh giác, chuyển hóa
mười bốn na-do-tha người phát thâm tâm cầu quả vị Thanh-văn và
Bích-chi-phật, cùng vô lượng chúng sinh được tái sanh thiên giới.
“Này
Thiên đế, vua Nguyệt Cái thuở há là ai khác chăng? Hiện Ngài đã thành
Phật, hiệu là Bảo Diệm Như Lai, và một ngàn người con của Ngài là một
ngàn vị Phật trong Hiền kiếp này, mà vị đầu tiên là Phật
Ca-la-cưu-tôn-đà[21] và vị cuối cùng là Phật Lâu-chí.[22] Tỳ-kheo
Nguyệt Cái lúc ấy nay chính là Ta.
“Như
vậy, Thiên đế, nên biết điều cốt yếu này: bằng Pháp mà cúng dường, là
tối thượng, tối tôn, bậc nhất không thể so sánh trong các sự cúng
dường. Cho nên, này Thiên đế, hãy bằng Pháp mà cúng dường chư Phật.”
[1] VCX: bất khả tư nghị thần biến giải thoát pháp môn 不可思議自在神變解脫法門.
[2] VCX: “Nhất định người đó là pháp khí.”
[3] VCX: “hàng phục các tà luận của ngoại đạo.”
[4] La-thập nói, “Trong bản Phận, sau chữ bồ-đề có chữ đạo 道. Đạo, tức con đường dẫn đến Bồ đề.”
[5] La-thập nói, “Sau từ Bồ đề, có từ pháp 法 .”
[6] DMC: nhất kiếp giảm . VCX: nhất kiếp dư, hơn một kiếp 一劫餘
[7] VCX: “bốn châu thế giới.”
[8] VCX: biểu trụ luân bàn 表柱輪盤.
[9]
Đà-la-ni ấn 陀羅尼印. VCX: tổng trì kinh vương Phật ấn sở ấn 總持經王佛印所印.
La-thập: “Tổng trì có vô lượng. Thật tướng là một trong đó. Nếu kinh
nói thật twong; thật tướng ấy tức là ấn (dấu ấn).” Khuy cơ
(T38n1782_p1110c10): “Vô tướng chân như, gọi là Phật ấn.”
[10] VCX: phân biệt khai thị pháp luân bất thối (avivartika-dharmacakra).
[11] VCX: phân biệt xiển dương thậm thâm duyên khởi.
[12]
VCX: “Biện giải bên trong không ngã, bên ngoài không hữu tình, trung
gian của hai không thọ mạng, không kẻ dưỡng dục, rốt ráo không
bổ-đặc-già-la.”
[13] VCX:
“Dẫn đạo chúng sinh cúng dường Đại pháp. Giúp chúng sinh viên mãn sự tế
tự dối vơi Đại pháp.” Đại pháp từ tự 大法祠祀 (Skt. mahā-dharmayajña);
Khuy Cơ (T38n1782_p1111a08): từ tự, tức pháp thí hội.”
[14]
Ban Huyền Trang, theo Khuy Cơ, câu này tách thành hai đoạn riêng biệt.
Đoạn đầu, gồm ba phần: Hiền Thánh nhiếp thọ, khai phát diệu hành, pháp
nghĩa quy y. Đoạn sau, thuyết minh 4 ôn-đà-nam (dharmoddānam) của
pháp. Khuy Cơ (T38n1782_p1111a16): “Pháp ôn-đà-nam, là lược tập của
giáo pháp. Có bốn lược tập của pháp: các hành vô thương; hữu lậu thảy
khổ; các pháp vô ngã; niết-bàn tịch tĩnh.
[15]
VCX: “hết thảy ngoại đạo, tà luận, ác kiến chấp trước.” Rồi thêm một
đoạn nhảy sót trong bản La thập; “Khai phát thế lực tăng thượng của
thiện pháp của hết thảy hữu tình; trấn áp tất cả binh đội ác ma.”
[16] VCX: nhiếp thọ Chánh pháp, Skt. dharma-saṅgraha.
[17] VCX: tùy thuận duyên khởi.
[18]
Tứ y 四依. Bốn y chỉ , Skt. catvāri pratisaraṇāni, 1.
artha-pratisaraṇena bhavitavyam na vyañjana-pratisaraṇena, y nghĩa chứ
không y văn ; 2. dharma-pratisaraṇena bhavitavyam na
pudgala-pratisaraṇena, y pháp không y người ; 3. jñāna-pratisaraṇena
bhavitavyam na vijñāna-pratisaraṇena, y trí không y thức ; 4.
nītārthasūtra-pratisaraṇena bhavitavyam na neyārthasūtra-pratisaraṇena,
y kinh thấu triệt chân lý, không y kinh điển không thấu triệt chân
lý.
[19] VCX: “Nhập vô tàng,
diệt A-lại-da.” Khuy Cơ (T38n1782_p1111c05): “Ngộ nhập chân như vốn
không bị nhiếp tàng; diệt A-lại-da.”
[20]
Nhu thuận nhẫn 柔順忍; La thập nói: “Chưa có khả năng thâm nhập thật
tướng của các pháp; nhưng bằng trí nhu nhuyễn và tín nhu nhuyễn mà tùy
thuận, không trái nghịch; do đó nói là nhu thuận nhẫn.” VCX: thuận pháp
nhẫn 順法忍. Khuy Cơ (T38n1782_p1111c20), theo kinh Nhân vương, có 5 bậc
nhẫn: 1. phục nhẫn, trước thập địa; 2. tín nghẫn, sơ đến tam địa; 3.
thuận nhẫn, các địa thứ tư, năm, sáu; 4. vô sinh nhẫn, các địa bảy,
tám, chín; 5. tịch diệt nhẫn, thập địa, Phật địa.
[21] Ca-la-cưu-tôn-đà 迦羅鳩孫馱. VCX: Ca-lạc-ca-tôn-đà 迦洛迦孫馱. Skt. Krakucchanda.