Lúc bấy giờ Xá-lợi-phất tâm niệm, «Sắp đến giờ ăn. Các Bồ tát này sẽ ăn gì đây.» Duy-ma-cật biết ý đó, bèn nói:
«Phật
đã dạy tám pháp giải thoát.[1] Nhân giả đã thọ hành. Há lẫn lộn giữa
sự muốn ăn và nghe Pháp sao? Nếu ngài muốn ăn, xin chờ giây lát, sẽ
được bữa ăn hiếm có.»
Tức
thì, Duy-ma-cật nhập định[2] và dùng thần thông lực chỉ cho hội chúng
thấy ở phương trên, cách thế giới này vượt qua bốn mươi hai Hằng hà sa
số cõi Phật, có một nước tên là Chúng hương,[3] có Phật hiệu Hương
Tích[4] nay đang tại thế. Hương thơm của quốc độ này át hẳn mọi hương
thơm của chư thiên trong các quốc độ khắp mười phương. Trong quốc độ đó
không có tên gọi Thanh-văn và Bích-chi-Phật[5] mà chỉ có chúng đại Bồ
tát thanh tịnh nghe Phật giảng Pháp. Ở đó hương thơm tạo ra mọi thứ như
lầu các, đất đai, vườn tược và hoa viên khiến chúng tỏa mùi thơm ngát.
Còn thực phẩm thì có mùi thơm lan tỏa đến vô lượng thế giới khắp mười
phương. Ngay lúc bấy giờ Phật và chư Bồ tát ở đó vừa cùng ngồi lại để
thọ thực được dâng cúng bởi những người con của chư thiên thảy đều có
tên là Hương Nghiêm,[6] đều đã phát tâm cầu giác ngộ tối thượng. Hết
thảy hội chúng đều trông thấy cảnh này.
Duy-ma-cật nói với hội chúng:
«Trong chư tôn giả, ai có thể đến đó để xin phẩm thực của đức Thế Tôn?»
Nhưng do oai thần của Văn-thù-sư-lợi nên hết thảy chư Bồ tát đều im lặng. Thấy vậy, Duy-ma-cật nói:
«Nhân giả, đại chúng này há không thấy hỗ thẹn sao?»[7]
Văn-thù-sư-lợi đáp lại: «Phật có dạy, không nên khinh thường người chưa từng học.»
Khi
ấy, Duy-ma-cật vẫn không rời chồ ngồi, ở ngay trước đại chúng, dùng
thần lực tạo ra một vị hóa Bồ tát có thân tướng sáng ngời, oai nghiêm
thù thắng bao trùm cả chúng hội, rồi nói với vị này:
«Ông
hãy đi lên phương trên, vượt qua bốn mươi hai Hắng hà sa cõi Phật, có
quốc độ tên gọi là Chúng hương, có Phật hiệu Hương Tích, cùng với các
Bồ tát vừa mới ngồi lại để thọ thực. Ông hãy đến chỗ đó, mang lời tôi
mà thưa rằng, đảnh lễ Thế Tôn ở đó, thưa với ngài rằng: ‘Duy-ma-cật cúi
đầu lễ dưới chân Thế Tôn, vô vàn tôn kính, và thăm hỏi sức khoẻ Thế
Tôn, ít bệnh, ít não, khí lực an ổn chăng? Nguyện xin chút thức ăn dư
của Thế Tôn, mang về thế giới Ta-bà[8] để làm Phật sự; để cho những ai
hâm mộ Pháp nhỏ được mở rộng sang đường lớn, và cũng để cho cho danh
hiệu Như Lai được lan truyền khắp nơi.’»
Sau
đó hết thảy hội chúng đều nhìn thấy vị hóa Bồ tát ngay trước đại chúng
bay lên phương trên, đến cõi Chúng hương, quỳ lạy dưới chân Phật ở đó,
và lại nghe tiếng của hoá Bồ tát ấy nói, ‘Duy-ma-cật cúi đầu lễ dưới
chân Thế Tôn, vô vàn tôn kính, và thăm hỏi sức khoẻ Thế Tôn, ít bệnh,
ít não, khí lực an ổn chăng? Nguyện xin chút thức ăn dư của Thế Tôn,
mang về thế giới Ta-bà để làm Phật sự; để cho những ai hâm mộ Pháp
nhỏ[9] được mở rộng sang Đường lớn, và cũng để cho danh hiệu Như Lai
được lan truyền khắp nơi.’»
Chư
Bồ tát ở cõi đó trông thấy vị hoá Bồ tát này, tán thán là chưa từng
có, tự hỏi không biết Thượng nhân này từ đâu đến? Thế giới Ta-bà ở chỗ
nào? Thế nào gọi là những người hâm mộ pháp nhỏ? Các ngài liền hỏi
Phật. Phật nói:
«Có một thế
giới tên là Ta-bà, nằm ở phương dưới cách đây vô số quốc độ bằng số cát
của bốn mươi hai sông Hằng. Ở đó có đức Phật hiệu Thích-ca-mâu-ni hiện
đang ở giữa cõi đời xấu xa đầy năm điều uế trược[10] mà phô diễn đạo
giáo cho chúng sinh ưa thích pháp nhỏ. Ở đó còn có vị Bồ tát tên là
Duy-ma-cật đã an trụ giải thoát bất khả tư nghì đang giảng Pháp cho chư
vị Bồ tát. Cho nên ông ấy đã tạo ra một vị hóa sứ giả để tán dương
danh xưng và quốc độ này của Ta khiến các Bồ tát kia thêm phần công
đức.»
Chư Bồ tát lại hỏi:
«Vị đó là ai mà có thể biến hoa như vậy, có đức lực vô úy và thần túc lớn đến vậy?»
Đức Thế Tôn đáp:
«Lớn lao thay! Ông ấy thường gởi các hóa sứ giả đến khắp mười phương quốc độ để thi hành Phật sự vì lợi ích của chúng sinh.»
Nói
xong, đức Hương Tích Như lai lấy một cái bát làm bằng các loại hương
chứa đầy cơm thơm rồi trao cho vị hoá Bồ tát. Khi ấy, chín triệu Bồ tát
ở đó đều lên tiếng nói:
«Chúng con muốn đến thế giới Ta-bà để đảnh lễ Phật Thích-ca, thăm Duy-ma-cật cùng chư vị Bồ tát ở đó.»
Phật Hương Tích dạy:
«Có
thể đi. Nhưng hãy thu lại mùi hương nơi thân của các ông để chúng sinh
ở đó không sanh mê hoặc tham đắm. Các ông cũng nên thay đổi hình tướng
mình, chớ để cho những người cầu đạo Bồ tát ở quốc độ đó xấu hổ, tự
ty. Các ông cũng chớ có ý nghĩ khinh thường họ mà gây chướng ngại. Vì
sao? Vì mười phương quốc độ đều như hư không. Vả lại, hết thảy chư Phật
vì muốn giáo hóa người hâm mộ pháp nhỏ nên chưa hoàn toàn hiển bày
quốc độ thanh tịnh đó thôi.»
Lúc
ấy, vị hóa Bồ tát nhận bát cơm thơm rồi cùng chín triệu Bồ tát kia,
nương theo thần lực của Phật và của Duy-ma-cật, biến mất khỏi cõi thế
giới ấy, trong phút chốc đều về đến nhà Duy-ma-cật.
Duy-ma-cật dùng thần lực biến hoá nên chín triệu tòa sư tử, trang nghiêm như đã nói trước. Các Bồ tát đều ngồi lên đó.
Bấy
giới hóa Bồ tát trao cho Duy-ma-cật bát cơm thơm mà mùi hương lan tỏa
khắp thành Tỳ-da-ly, rồi lan khắp ba nghìn đại thiên thế giới.
Các
bà-la-môn, cư sỹ trong thành Tỳ-da-ly ngửi được mùi hương ấy đều thấy
thân ý thơ thới, đồng ca ngợi sự hiếm có này. Lúc ấy, vị đứng đầu các
trưởng giả tên là Nguyệt Cái[11] liền dẫn tám mươi bốn ngàn người đến
nhà Duy-ma-cật. Thấy có rất nhiều Bồ tát ngự trên các tòa sư tử trang
nghiêm, họ mừng rỡ, cung kính đảnh lễ chư Bồ tát và các vị đại đệ tử
của Phật, rồi đứng sang một bên. Chúng quỷ thần và chư thiên khắp các
cõi trời thuộc Dục giới và Sắc giới ngửi được mùi hương cũng tìm đến.
Lúc ấy, Duy-ma-cật mới nói với Xá-lợi-phất và các vị Thanh-văn:
«Các
Nhân giả, nay mời các vị dùng món cơm có hương vị cam lộ. Cơm này được
xông ướp bằng hương Đại bi của Như Lai. Đừng ăn cơm bằng ý hữu
hạn,[12] vì như vậy sẽ khó thể tiêu hóa được.»
Có một vị Thanh-văn nghĩ rằng, «Cơm này ít; mà đại chúng thì đông. Mỗi người đều ăn, làm sao đủ?» Vị hóa Bồ tát liền nói:
«Đừng
lấy đức nhỏ và trí nhỏ của Thanh-văn đo lường phước huệ vô lượng của
Như Lai. Nước của bốn đại dương còn có thể cạn, chứ cơm này vô tận. Nếu
mọi người[13] đều vo cơm thành viên lớn như núi Tu-di, ăn cho đến một
kiếp[14] vẫn chưa hết cơm. Tại sao? Vì đó là thức ăn còn dư của
người[15] đã thành tựu công đức của vô tận giới, định, huệ, giải thoát
và giải thoát tri kiến; do vậy, không bao giờ cùng tận.”
Bấy
giờ, bát cơm này khiến cho cả đại chúng đều no đủ mà vẫn không vơi.
Các Bồ tát, Thanh-văn, trời và người, những ai dùng cơm này đều cảm
thấy an lạc như chư Bồ tát ở hết thảy quốc độ Lạc trang nghiêm.[16] Từ
chân lông họ tỏa ra mùi thơm vi diệu như mùi thơm các loài cây trên cõi
Chúng hương.
Bấy giờ Duy-ma-cật hỏi các Bồ tát từ Chúng hương đến:
«Hương Tích Như lai giảng dạy bằng Pháp gì?»
Họ đáp:
«Như
Lai ở quốc độ chúng tôi không dùng ngôn tự để giảng thuyết mà chỉ dùng
các hương thơm khiến cho trời và người có thể thâm nhập luật hành.[17]
Mỗi mỗi Bồ tát ngồi dưới những cội cây hương, cảm nhận mùi hương vi
diệu của cây mà chứng tam-muội đức tạng.»[18]
Đoạn các Bồ tát lại hỏi Duy-ma-cật:
«Đức Thế Tôn Thích-ca-mâu-ni Phật giảng Pháp như thế nào?»
Duy-ma-cật đáp:
«Chúng
sinh trên cõi này cang cường, khó chuyển hóa, nên Phật thuyết bằng
ngôn ngữ cang cường để điều phục họ. Ngài nói răng, ‘Đây là địa ngục;
đây là súc sinh; đây là ngạ quỷ; đây là các nạn xứ;[19] đây là những
nơi tái sinh cho kẻ ngu muội;[20] đây là tà hành của thân; đây là quả
báo cho tà hành của thân; đây là tà hành của miệng; đây là quả báo cho
tà hành của miệng; đây là tà hành của ý; đây là quả báo cho tà hành của
ý; đây là sát sinh; đây là quả báo của sát sinh; đây là sự lấy của
không được cho; đây là quả báo của sự lấy của không được cho; đây là tà
dâm; đây là quả báo của tà dâm; đây là vọng ngữ; đây là quả báo của
vọng ngữ; đây là nói hai lưỡi; đây là quả báo của sự nói hai lưỡi; đây
là ác khẩu; đây là quả báo của ác khẩu; đây là sự nói lời vô nghĩa; đây
là quả báo của sự nói lời vô nghĩa; đây là tham lam; đây là quả báo
của sự tham lam; đây là thù hận; đây là quả báo của sự thù hận; đây là
tà kiến; đây là quả báo của tà kiến; đây là sự keo kiệt; đây là quả báo
của sự keo kiệt; đây là sự huỷ giới; đây là quả báo của sự huỷ giới;
đây là sự sân hận; đây là quả báo của sự sân hận; đây là sự lười biếng;
đây là quả báo của sự lười biếng; đây là loạn ý; đây là quả báo của sự
loạn ý; đây là sự ngu si; đây là quả báo của sự ngu si; đây là kết
giới;[21] đây là quả báo của kết giới; đây là trì giới;[22] đây là phạm
giới;[23] đây là điều nên làm; đây là điều không nên làm;[24] đây là
sự chướng ngại; đây là sự không chướng ngại; đây là đắc tội; đây là
không đắc tội; đây là dứt tội; đây là tịnh; đây là cấu uế; đây là hữu
lậu; đây là vô lậu; đây là tà đạo; đây là chánh đạo; đây là hữu vi; đây
là vô vi; đây là thế gian; đây là niết-bàn. Vì tâm tánh người khó
chuyển hóa giống như vượn khỉ nên phải bằng nhiều phương cách giáo hóa
để điều phục họ. Cũng như voi ngựa nếu không đánh đau thì không chế ngự
được, những người mê muội trong thế gian này chỉ có thể thâm nhập luật
bằng tất cả những lời gay gắt.»
Nghe xong, các Bồ tát đều khen:
«Thật
chưa từng nghe. Đức Thế Tôn Thích-ca-mâu-ni Phật đã ẩn đi vô lượng
năng lực tự tại, hoá độ chúng sinh bằng pháp mà người nghe ưa thích.
Các Bồ tát ở đây cũng nhẫn nại những khó nhọc, bằng vô lượng đại bi mà
sinh nơi cõi Phật này.»
Duy-ma-cật nói:
«Thật
đúng như vậy. Chư Bồ tát ở cõi này có tâm đại bi kiên cố đối với chúng
sinh. Việc làm lợi ích hết thảy chúng sinh của họ trong một đời hơn cả
những người ở các cõi khác đã làm trong hàng trăm ngàn kiếp. Vì sao
vậy? Vì họ đã thực hành mười thiện pháp mà các cõi Tịnh độ khác không
có. Mười thiện pháp đó là gì? Đó là: Lấy bố thí đối trị bần cùng. Lấy
trì giới đối trị phạm giới. Lấy nhẫn nhục đối trị sân nhuế. Lấy tinh
tấn đối trị giải đãi. Lấy thiền định khắc phục loạn ý. Lấy trí tuệ dẹp
tan vô minh. Nói pháp trừ nạn độ người khổ trong tám nạn. Dạy pháp Đại
thừa cho người còn chấp pháp Tiểu thừa. Lấy thiện căn giúp người vô
đức. Thường dùng bốn nhiếp pháp để thành tựu chúng sinh. Đó chính là
mười thiện pháp.»
Chư Bồ tát lại hỏi:
«Bồ tát thành tựu bao nhiêu pháp để ở trong thế giới này tu hành mà không ung nhọt, tái sanh tịnh độ?»
Duy-ma-cật đáp:
«Bồ
tát thành tựu tám pháp để ở trong thế giới này tu hành mà không ung
nhọt, tái sanh tịnh độ. Đó là: Làm lợi ích chúng sinh không cầu báo
đáp. Chịu thay chúng sinh hết thảy khổ não, và hồi hướng công đức đã
làm cho chúng sinh. Tâm bình đẳng với chúng sinh bình đẳng, khiêm hạ vô
ngại. Tôn kính chư Bồ tát như đối với chư Phật.[25] Khi nghe kinh chưa
từng nghe cũng không khởi nghi hoặc. Không đối nghịch với pháp của
hàng Thanh-văn. Không ganh tị vì người được cúng dường, không tự cao
lợi đắc của mình, trái lại ở đó tự chế ngự tâm mình. Thường tự xét kỗi
mình,[26] không tranh tụng sở đoản của người, nhất tâm cầu thành tựu
mọi công đức. Đó chính là tám pháp.»
Sau
khi Duy-ma-cật và Văn-thù-sư-lợi thuyết các pháp như vậy, hàng trăm
ngàn chư thiên đã phát tâm cầu giác ngộ tối thượng, và mười ngàn vị Bồ
tát đắc vô sanh pháp nhẫn.
[1] VCS (T38n1782_p1094a04): «Tiểu thừa tám giải thoat trừ tham dục. Đại thừa tám giải thoát trừ định chướng.»
[2] Nhập tam-muội. VCX: nhập vi diệu tịch định 入微妙寂定.
[3] Chúng hương 眾香. VCX: Nhất thiết diệu hương 一切妙香.
[4] Hương Tích 香積. VCX: Tối Thượng Hương Đài 最上香臺.
[5] VCX: không có danh xưng của hai thừa.
[6] Chi Khiêm: Hương Tịnh 香淨.
[7]
VCX: Duy-ma-cật nói nói Văn-thù, «Sao ngài không gia hộ đại chúng này,
khiến cho phải như vậy?» (để cho đại chúng phải im lặng)
[8] Ta-bà thế giới 娑婆世界. VCX: Kham nhẫn thế giới 堪忍世界. Skt. Saha-loka-dhātu.
[9] Lạc tiểu pháp giả 樂小法者; La-thập: «Biệt bản nói, lạc thiểu chi nhân 樂少之人.»
[10]
Ngũ trược ác thế 五濁惡世. Skt. pañca kaṣāyāḥ: āyus-kaṣāyaḥ (mạng trược),
dṛṣṭi-kaṣāyaḥ (kiến trược), kleśa-kaṣāyaḥ (phiền não trược),
sattva-kaṣāyaḥ (chúng sanh trược), kalpa-kaṣāyaḥ (kiếp trược).
[11]
Trưởng giả chủ Nguyệt Cái 長者主月蓋. La-thập: «Nước này không có Vua. Chỉ
có 500 cư sỹ cùng trị nước.» Theo tài liệu Pali, bộ tộc Licchavī, mà
thủ phủ là Vesāli (Tỳ-da-ly), tổ chức chính quyền của họ theo chế độ
Cộng hoà thị tộc. Các thủ lĩnh của họ đều được gọi là rājā (vương).
VCX: Ly-chiêm-tỳ vương Nguyệt Cái 離呫毘王月蓋 .
[12] Hạn ý 限意 . VCX: thiểu phần hạ liệt tâm hành 少分下劣心行 , tâm tư thấp kém hạn hẹp.
[13] VCX: «Nếu hết thảy hữu tình trong vô lượng đại thiên thế giới.»
[14] VCX: «Một kiếp hoặc một trăm kiếp.»
[15] VCX: «Thức ăn còn dư của Như lai, xuất sinh từ vô tận giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.»
[16]
Lạc trang nghiêm quốc 樂莊嚴國. Skt. Sukhāvati-vyūha, tức Thế giới Cực
lạc. VCS (T38n1782_p1096a27): “Đây không chỉ riêng thế giới Cực lạc ở
Tây phương, mà chỉ tất cả thế giới an lạc trong mười phương.”
[17] Đắc nhập luật hành 得入律行 . VCX: giai tất điều phục 皆悉調伏, thảy đều được chế ngự .
[18]
Nhất thiết đức tạng tam muội 一切德藏三昧. VCX: Nhất thiết đức trang nghiêm
định 一切德莊嚴定.Skt. sarvaguṇavyūha-samādhi. Chi Khiêm: Nhất thiết hương
đức định 一切香德定.
[19] Nạn xứ 難處. VCX: Vô hà sanh 無暇生. Đây chỉ 8 trường hợp không sinh gạp thời có Phật, không thể tu tập phạm hạnh.
[20] VCX: đây là căn khuyết (khuyết tật).
[21] VCX: những điều sở học và vi phạm sở học.
[22] VCX: trì biệt giải thoát.
[23] VCX: phạm biệt giải thoát.
[24]
Có nhảy sót trong bản La-thập; VCX: «Đây là du già; đây là phi du già;
đây là sự vĩnh viễn đoạn trừ; đây là phi vĩnh viễn đoạn trừ.»
[25] VCX: «Tự chế ngự tâm kiêu mạn, kính trọng chúng sinh như kính trọng Phật.»
[26]
VCX: điều 7: «Bồ tát chế ngự tự tâm, thường xét lỗi mình, không chê
bai vi phạm của người.» Điều 8: «Bồ tát luôn luôn không buông lung ở
trong pháp thiện; thường vui thú tầm cầu tinh tấn tu hành pháp Bồ đề
phần.»