Quyển Thứ Nhất
Phẩm 1: Nhơn
Duyên
Kính lễ Đức Thế Tôn
Ứng Cúng Chánh Biến Tri
Giới Định Trí Tuệ
Vô thượng giải thoát
Tùy rõ pháp nầy
Nên gọi Cù Đàm
Có người nào thoát khỏi những sự khổ rồi,
được lìa các dính mắc, thành tựu tâm tối thắng; sợ sanh,
già, bệnh.
Vui việc lành,vui giải thoát, làm cho đến
được vui Niết Bàn. Nếu chưa đến
được
nơi kia, lại làm cho được tròn
đủ. Rộng hỏi kinh, luật, luận. Con
đường giải
thoát nầy nay ta sẽ nói; hãy lắng nghe:
Hỏi rằng: Giới có nghĩa là gì?
Đáp rằng: Giới nghĩa là oai nghi; định nghĩa là chẳng loạn; huệ
nghĩa
là trí giác; giải thoát nghĩa là lìa các sự trói buộc; vô thượng
nghĩa là
vô lậu; tùy giác nghĩa là được trí. Pháp nầy nghĩa là 4 Thánh
Pháp; Cù Đàm
nghĩa là tánh; gọi nghĩa là Thế Tôn; lấy giới,
định, huệ, giải thoát thù
thắng làm
công đức, hay đến được chỗ tối thắng;
nên
gọi là vô lượng.
Giải Thoát Đạo nghĩa là gì?
Giải Thoát ở đây có 5 nghĩa giải
thoát. Đó
là Phục giải thoát, Bỉ phần giải thoát,
Đoạn giải thoát, Y giải thoát và
Ly
giải thoát.
Thế nào gọi là Phục Giải Thoát? Nghĩa là những người
đang tu thiền, hàng phục các
việc che
đậy. Đây có nghĩa là Phục giải
thoát.
Bỉ phần giải thoát nghĩa là hiện tu đạt
đến phần định, các kiến giải thoát. Đây có nghĩa là Bỉ phần
giải
thoát.
Đoạn phần giải thoát là kẻ tu xuất thế gian đạo và hay diệt trừ
những
sự ràng buộc. Đây gọi là Đoạn giải thoát.
Y giải thoát nghĩa là như lúc đắc
quả, tâm
thường an vui. Đây gọi là Y giải thoát.
Ly giải thoát nghĩa là Vô Dư Y Niết Bàn.
Đây gọi là Ly giải thoát. Con đường
giải thoát nầy là làm cho được
giải
thoát. Ở đây là con đường đầy
đủ, lấy
giới, định, huệ làm con đường
giải
thoát. Con đường giải thoát ấy ta nay sẽ nói.
Hỏi rằng: Phải nói như thế nào về con
đường giải thoát đó?
Đáp rằng: Có người vui được giải thoát mà chẳng nghe nói giải
thoát
vậy; lại chẳng phục giải thoát vậy; lại chẳng chánh phục giải
thoát vậy.
Như người mù chẳng thấy đường mà đi chơi trong vườn của một nước.
Tuy anh
ta khổ, chẳng được giải thoát, muốn được giải thoát mà không có
chỗ nương
vào, Vì sao vậy? Như Phật đã
nói. Nếu
có chúng sanh, trần lao vi tế, chẳng nghe
được pháp, rồi cuối cùng lại thoái chuyển. Lại như Phật
cũng
đã nói. Nầy các Tỳ Kheo! Có 2
nhơn và
2 duyên có thể sanh chánh kiến. Thế nào là hai? Một là nghe từ kẻ
kia; hai
là tự mình chánh niệm; cho nên nói là giải thoát.
Bất phục giải thoát là làm cho chúng sanh xa lìa nên nói là
giải thoát.
Bất chánh phục giải thoát là trừ đi
con đường
không chân chánh sẽ được thiền giải thoát đạo; nên nói là
giải
thoát. Như người đi xa có người tốt
chỉ
đường. Đó là con đường phục
giải
thoát. Ba ấm đầy đủ. Thế nào là ba? Đó
là giới ấm, định ấm và
huệ ấm.
Thế nào gọi là giới ấm?
Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mệnh và các loại
được nhiếp; hoặc giới ấm là
các loại
công đức của giới hợp lại.
Thế nào gọi là định ấm?
Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định
và
những loại định ấm được nhiếp. Hoặc
nhiều
loại định công đức hợp lại.
Thế nào gọi là huệ ấm?
Chánh kiến, chánh tư duy và các loại được
nhiếp. Hoặc nhiều loại huệ công đức hợp lại. Đây gọi là ba
ấm
đầy đủ. Là Phục giải thoát
đạo nên học ba học. Nghĩa là: Tăng
thượng giới học; tăng thượng tâm học; tăng thượng huệ học. Hữu
giới hữu
tăng thượng giới học; hữu định hữu tăng thượng định học; hữu huệ
hữu tăng
thượng huệ học. Lại còn hữu giới giới học; hữu giới tăng
thượng giới học; hữu định tâm học; hữu định tăng thượng tâm học;
hữu huệ
huệ học; hữu huệ tăng thượng huệ học.
Hỏi rằng: Vì sao gọi là giới học?
Đáp rằng: Nghĩa là có giới tướng; gọi tên là giới học. Nghĩa là
đến
phần giới là tăng thượng giới học. Lại nữa phàm phu giới; gọi là
giới học.
Thánh giới gọi là tăng thượng giới học.
Hỏi rằng: Vì sao gọi là tâm học?
Đáp rằng: Đó là dục định.
Hỏi rằng: Vì sao gọi là tăng
thượng tâm
học?
Đáp rằng: Sắc định và vô sắc định. Đây nghĩa là tăng thượng tâm
học.
Lại nữa có tướng định tâm học, đạt phần định và đạo định; ở đây
gọi là
tăng thượng tâm học.
Thế nào gọi là huệ học?
Nghĩa là thế gian trí, gọi tên là huệ học. Trí tương tợ tứ
đế và trí
đạo; đây gọi là tăng thượng
huệ học.
Như Đức Thế Tôn vì những người căn
tánh thuần thục gọi là tăng
thượng
giới học. Vì kẻ trung căn, nói
là
tăng thượng tâm học. Vì người
lợi căn;
nói là tăng thượng huệ học.
Hỏi rằng: Học có nghĩa là gì?
Đáp rằng: Học là có thể học về học tăng thượng học; học vô học,
gọi là
học. Như vậy học ở đây có ba. Nghĩa là phục giải thoát đạo lấy 3
loại học
thành tựu thanh tịnh. Cho nên giới thanh tịnh, tâm thanh tịnh,
thấy thanh
tịnh. Đối với giới nầy là giới thanh tịnh.
Định đây là tâm thanh tịnh; huệ đây là
sự thấy thanh tịnh. Giới nghĩa là tẩy dơ việc phạm giới.
Định là tẩy
đi sự cột chặt dơ dáy. Đây có nghĩa là
tâm thanh tịnh. Huệ nghĩa là trừ đi
cái dơ vô
trí. Đây gọi là sự thấy thanh tịnh. Lại nữa giới trừ ác
nghiệp cấu;
định trừ triền cấu; huệ trừ sử cấu.
Như thế
lấy 3 sự thanh tịnh làm phục giải thoát
đạo. Lại lấy 3 loại thiện phục đạo.
Nghĩa là
đầu, giữa, sau. Lành lấy giới
làm
đầu; lấy định làm giữa và lấy
huệ làm
sau.
Thế nào gọi giới là sơ thiện?
Có kẻ tinh tấn thành tựu chẳng thoái; lấy sự chẳng thoái làm ý,
lấy hỉ
làm dũng dược; lấy dũng dược làm cho thân
đẹp; lấy sự vui nên tâm định.
Đây gọi
là sơ thiện.
Định làm trung thiện nghĩa là lấy định như thật tri kiến. Đây
nghĩa là
lành giữa.
Huệ làm hậu thiện là như thật tri kiến yểm xung rồi, lấy yểm
xung cho
nên ly dục. Vì ly dục cho nên giải thoát. Vì giải thoát nên thành
tự tri.
Như thế thành tựu 3 con đường lành.
Phục giải thoát đạo lại được 3 niềm
vui.
Nghĩa là vô quá lạc, tịnh diệt lạc và chánh giác lạc. Kia
lấy giới
được vô quá lạc; lấy định được tịnh
diệt lạc
và lấy huệ được chánh giác
lạc. Như
thế thành tựu được ba loại
lạc. Đây là
phục giải thoát đạo, xa rời hai bên,
được trung đạo đầy đủ. Lấy giới nầy
hay trừ
các dục trước. Đối với vô quá lạc tình, sanh hân lạc; lấy
định trừ thân trói buộc, đối với tịnh
diệt
lạc làm tăng thượng lạc. Lấy
huệ phân
biệt tứ đế trung đạo đầy đủ. Đối với chánh giác lạc, sâu mong ái
lạc; như
thế xa lìa hai bên được trung
đạo đầy
đủ. Đây là phục giải thoát đạo.
Lấy
giới trừ ác thú; lấy định trừ dục giới; lấy huệ trừ tất cả hữu.
Đối với
giới tu nhiều; đối với định huệ tu ít, thành Tu
Đà Hoàn, Tư
Đà Hàm.
Đối với giới Định tu nhiều; đối với huệ tu ít, thành A Na
Hàm. Tu 3
loại đầy đủ thành A La Hán vô
thượng
giải thoát.
*
Phẩm 2:
Phân Biệt Giới
Hỏi rằng: Thế nào là giới? Tướng gì? Vị gì? Khởi
lên như thế nào?
Ở chỗ nào? Công đức ra sao? Giới gì
gọi là giới hạnh? Khác nhau cái gì? Có bao nhiêu giới? Chỗ sanh
khởi ra
sao? Giới nào là đầu, giữa và
cuối? Có
bao nhiêu pháp chướng ngại giới đạo?
Có bao
nhiêu nguyên nhân của giới? Có bao nhiêu loại giới? Làm thế
nào
để cho giới được thanh tịnh? Có bao
nhiêu
nguyên nhân để làm giới trụ?
Đáp rằng: Về giới là thế nào? - Nghĩa là suy nghĩ về giáo, uy
nghi
giới, không qua khỏi giới.
Thế nào gọi là suy nghĩ về giới?
Ta chẳng làm ác, kẻ làm tự thọ.
Thế nào là uy nghi giới?
Lìa nơi phạm xứ.
Thế nào là không qua khỏi giới?
Nếu có giới không qua khỏi thân miệng của người. Lại nữa có
nghĩa là
đoạn lìa oai nghi, tất cả pháp
lành là
giới. Như A Tỳ Đàm nói: Lấy
pháp xuất
ly mà đoạn nơi ham muốn. Đây là
giới
hay lìa việc ác. Tư giới, hộ giới, uy nghi giới, lấy chẳng sân hận
đoạn diệt sân hận; lấy tướng quang
minh đoạn
nơi ngủ nghỉ. Lấy bất tán loạn đoạn nơi trác hí; lấy kiến pháp
khởi đoạn
nơi nghi hối; lấy trí đoạn vô minh; lấy hỉ đoạn vô khả lạc; lấy sơ
thiền
đoạn ngũ cái: lấy nhị thiền đoạn giác quán; lấy tam thiền đoạn hỷ;
lấy tứ
thiền đoạn lạc; lấy không nhập định đoạn nơi sắc tưởng cho đến sân
khuể và
các loại tưởng; lấy thức nhập định
đoạn hư
không; lấy vô sở hữu định đoạn thức nhập tưởng; lấy phi tưởng phi
phi
tưởng định đoạn sở hữu; lấy vô thường kiến, đoạn nơi thường kiến;
lấy khổ
kiến, đoạn lạc tưởng; lấy vô ngã kiến,
đoạn ngã tưởng; lấy bất tịnh kiến,
đoạn tịnh tưởng; lấy quá xung kiến, đoạn nơi thọ tưởng; lấy vô
nhiễm kiến,
đoạn nơi dục tướng; lấy diệt kiến, đoạn tập; lấy tiên kiến,
đoạn hậu; lấy phần kiến, đoạn tụ; lấy
sanh
diệt kiến, đoạn thường; lấy vô tướng kiến, đoạn tướng; lấy vô tác
kiến,
đoạn tác; lấy không kiến, đoạn nhập; lấy tăng thượng huệ kiến,
đoạn chấp
trước; lấy như thật tri kiến, đoạn vô minh chấp; lấy quá xung kiến
nhi,
đoạn cư chấp; lấy bỉ quán kiến, đoạn bất bỉ quán; lấy chuyển tán
kiến,
đoạn hòa hợp chấp; lấy Tu Đà
Hàm đạo đoạn kiến nhứt xứ phiền não;
lấy Tư Đà Hàm
đạo, đoạn thô phiền não; lấy A
Na Hàm
đạo, đoạn tế phiền não; lấy A
La Hán
đạo, đoạn nhứt thiết phiền não.
Đây gọi là bất việt giới, tư
giới, hộ
giới, uy nghi giới. Đây có nghĩa là
giới
Thế nào là giới tướng?
Là uy nghi, trừ phi uy nghi.
Hỏi rằng: Cái gì gọi là phi uy nghi?
Đáp rằng: Nghĩa là phá pháp. Phá pháp có 3 loại. Một là phá
pháp Ba La
Đề Mộc Xoa; hai là phá pháp duyên và ba là phá pháp căn.
Thế nào gọi là phá pháp Ba La Đề
Mộc Xoa?
Nghĩa là vô tàm (không xấu), vô quý (không hổ). Ở nơi Như Lai
lìa lòng
tin.
Thế nào gọi là phá pháp duyên?
Đáp rằng: Thân mệnh và hình thức tương ưng lìa khỏi tri túc.
Thế nào gọi là phá pháp căn?
Là chẳng đóng cửa 6 căn, lìa
nơi
niệm huệ, lấy 3 điều che đậy chẳng uy
nghi
nầy gọi tên là giới tướng.
Thế nào là vị? Là khởi? Là túc xứ?
Vô quá lạc tức là vị. Vô ưu tức là khởi. Ba thiện hạnh là túc
xứ. Lại
nữa duyệt thắng là vị; bất hối là khởi; che các căn
gọi là túc xứ.
Thế nào gọi là giới công đức?
Bất hối là giới công đức, như
ĐứcThế Tôn
dạy A Nan rằng: Chẳng hối giới lành; nghĩa là công
đức. Lại nữa tên giới là vô
quá lạc,
là chúng sanh thượng, là tài vi phú quý, là xứ vi Phật
địa, là tắm không nước, là mùi
hương
xông thơm, là ảnh theo hình, là tàn che có thể che, là thánh
chủng, là học
vô thượng, là con đường lành.
Nếu
người có giới, lấy có giới vậy, thành tựu vô úy, vinh hiển thân
hữu, chỗ
Thánh lân mẫn. Đây là nương
vào bạn
bè, là lành trang nghiêm, là lãnh vực các hạnh, là nơi công
đức, là chỗ cúng dường, là khả
quý
đồng học xứ. Đối với các pháp lành
chẳng sợ, chẳng thoái, thành tất cả ý nguyện thanh tịnh. Tuy chết
chẳng
quên, thành phục giải thoát lạc phương tiện. Như thế vô biên giới
công
đức.
Giới là nghĩa gì?
Đáp rằng: Nghĩa là lạnh, nghĩa tăng thượng, nghĩa hành, nghĩa
tự tánh,
nghĩa là khổ lạc tánh tương ưng. Lại cũng có nghĩa là đầu, nghĩa
là lạnh,
nghĩa là an.
Thế nào lại lấy cái đầu làm
nghĩa
của giới?
Đáp rằng: Như người không có đầu thì tất cả các căn chẳng có
thể giữ
lại; lúc ấy gọi là chết. Như thế các Tỳ Kheo lấy giới làm đầu. Nếu
đầu cắt
rồi thì mất tất cả các pháp lành. Đối với điều nầy Phật pháp gọi
là chết.
Nên giới có nghĩa là đầu.
Thế nào nghĩa của giới là lạnh?
Như Ma Thắng làm lạnh Chiên Đàn;
tức trừ thân nóng, thành tựu hoan hỷ. Như thế, giới làm lạnh hơn
Chiên
Đàn, hay làm diệt phạm giới,
tâm sợ
hãi nóng nảy, thành tựu hoan hỷ. Đây
nghĩa là
giới làm cho lạnh
Thế nào nghĩa giới là an?
Đáp rằng: Nếu người có giới thì phong nghi chỉnh tề, chẳng sanh
sợ hãi.
Đây nghĩa là giới làm cho an ổn.
Hạnh nào sai biệt vậy?
Tu hành tinh tấn, thọ trì đầu đà.
Đây là hạnh phi giới; giới lại
có tên
là hạnh; giới gọi là uy nghi thọ, lại có tên là hạnh.
Có bao nhiêu giới?
Nghĩa là có 3 loại giới. Đó là
thiện giới, bất thiện giới và vô ký giới.
Thế nào gọi là thiện giới?
Nghĩa là thiện thân khẩu nghiệp và chánh mệnh. Vô quá hoạn; nên
quả báo
dễ thương.
Thế nào gọi là bất thiện giới?
Nghĩa là ác thân khẩu nghiệp và tà mệnh. Có quá hoạn; nên quả
báo chẳng
dễ thương.
Thế nào là vô ký giới?
Vô lậu thân khẩu nghiệp và đời
sống thanh
tịnh. Chẳng có vô hoạn lại chẳng có quả báo.
Thế nào gọi là khởi giới?
Thiện tâm sở khởi thiện giới. Bất thiện tâm sở, khởi bất thiện
giới. Vô
ký tâm sở, khởi vô ký giới.
Thế nào là giới đầu, giữa và
sau?
Thọ giới là đầu tiên; chẳng
vượt
qua gọi là giữa; hoan hỷ là hậu giới.
Có bao nhiêu pháp chướng ngại? Và bao nhiêu nhơn của giới?
Đáp rằng có 34 pháp gọi là con đường chướng ngại và 34 pháp, đó
là nhơn
của giới.
Đó là phẫn, não, phú, nhiệt, khan, tật, huyễn, siểm, hận, cạnh,
mạn,
tăng thượng mạn, kiêu mạn, phóng dật, lại nọa, tham dục, bất tri
túc, bất
tòng tri, bất chánh niệm, ác khẩu, ác hữu, ác trí, ác kiến, bất
nhẫn, bất
tín, vô tàm, vô quý, doanh thân, khẩu vị, hiệp tục, thân cận nữ
nhơn, bất
kỉnh sư, học bất nhiếp chư căn ư
thực, bất
tiết sơ dạ hậu dạ, nọa bất thiền tụng. Đây là 34 pháp làm
chướng
ngại. Nếu 11 giới chướng ngại chẳng đầy
đủ.
Nếu chẳng đầy đủ, tất trở lại thối thất. Nếu ngược lại 34 pháp nầy
tức có
tên là nguyên nhân của giới.
Giới có bao nhiêu loại?
Nghĩa là có 2 loại, 3 loại, 4 loại.
Thế nào là 2 loại?
Đó là tánh giới và chế giới. Lấy thân khẩu là chỗ làm Phật,
đoạn trừ
việc chẳng làm. Đây có tên là tánh giới. Thân khẩu có thể làm
Phật, đoạn
trừ việc chẳng làm, đây có tên là chế giới. Tánh giới lấy tín,
tinh tấn có
thể làm cho đầy đủ. Chế giới lấy tín niệm trì có thể làm cho
đầy đủ. Lại nữa giới có 2 loại. Đó là
thoái giới và đắc giới.
Thế nào gọi là thoái?
Là có thể mất, không phải giới.
Thế nào gọi là được?
Được các pháp thiện. Trừ các phi giới như đoạn trừ quang ảnh
(ánh sáng
nơi hình); lấy đoạn phi giới, lìa nơi ác thú; lấy đắc chánh giới
có thể
vui nơi đường lành; lấy đoạn phi giới, thành tựu trụ phần. Lại nữa
giới có
2 loại. Đó là thế giới và xuất thế giới.
Thế nào là xuất thế giới?
Như giới có được nơi quả Thánh.
Đây gọi là
xuất thế giới. Ngoài ra thế giới là lấy thế giới thành tựu; nên có
đầy đủ; lấy xuất thế giới thành
tựu,
cho nên có giải thoát. Lại nữa có hai loại hữu lượng và vô lượng.
Bất cụ
túc giới gọi là hữu lượng. Nếu cụ túc giới lấy Phật làm chỗ
đoạn. Đây có tên là vô lượng.
Lại nữa
giới có hai loại. Đó là hữu
biên và vô
biên-
Thế nào là hữu biên?
Nếu người lấy thế lợi làm thắng; lấy thân hữu làm thân, làm
mệnh, làm
chỗ qua khỏi, chỗ nương tựa mà làm việc thọ giới. Giới kia vì lợi
dưỡng
nên gọi là biên. Gọi dự (khen) là biên; thân có là biên, mệnh có
là biên.
Thế nào gọi là vô biên?
Tỳ Kheo nầy! Vi xuất lợi, vi thắng, vi thân, vi mệnh. Như pháp
thọ
giới, chẳng khởi tâm phạm. Hà huống là cố phạm.
Đây gọi là vô biên giới. Lại
nữa giới
có 2 loại. Có y và vô y.
Thế nào là có y (chỗ nương vào).
Có tương ưng giới thích nương vào. Giới trộm cắp tương ưng với
giới
nương vào chỗ thấy. Tự khen mình chê người tương ưng với giới kiêu
mạng.
Đây là việc y cứ nương vào
giới. Nếu
dùng để thành tựu giải thoát
thì không
cần nương vào giới. Nếu nương vào giới, người chẳng trí huệ làm
chỗ vui.
Nếu không nương vào giới, người trí huệ làm chỗ vui. Lại nữa giới
có 2
loại, mà người phạm hạnh sơ học, gồm những giới nhỏ.
Thế nào gọi là điểm đầu của Phạm
hạnh?
Dùng chánh nghiệp, chánh ngữ, chánh mệnh
để nhiếp lấy giới. Đây nghĩa là việc
đầu tiên của Phạm hạnh. Đối
với hữu dư
học giới, đây có nghĩa là giới nhẹ. Lại nữa giới cũng có 2
loại.
Gồm hữu tâm tương ưng và vô tâm tương ưng.
Cái gì là hữu tâm?
Nghĩa là sơ học phạm hạnh
Thế nào là vô tâm?
Nghĩa là ngoài những giới nhẹ. Thinh Văn ở
nơi giới đầu cứng rắn của Phạm hạnh và giới trên.
Đối với giới nhẹ nầy được phạm, được
khởi. Vì
sao vậy? Vì Phật nói rằng điều nầy
không bị
chướng ngại đối với việc giải thoát. Lại cũng có 2 loại giới.
Nghĩa là
vô phạm giới và thanh tịnh giới.
Thế nào là vô phạm?
Nghĩa là giới Thanh Văn.
Thế nào gọi là thanh tịnh giới?
Đó là Phật và Duyên Giác giới.
Lại nữa giới cũng có 2 loại. Nghĩa là thời phần giới và tận
hình giới.
Thọ từ lúc nhỏ và tuổi chưa đủ lớn.
Nghĩa là
thời phần giới là đầu tiên từ
Thầy thệ
nguyện cho đến khi xả thọ. Nghĩa là
tận hình giới. Thời phần giới là quả báo có lúc; tận hình giới là
quả báo
chẳng có lúc.
Làm sao lại chia ba?
Đó là dừng ác không phạm, thọ chẳng phạm và đoạn chẳng phạm
Thế nào là dừng ác không phạm?
Tuy chưa thọ mà thọ đến; chẳng
phải chỗ làm;
tâm chẳng sanh phạm. Đây gọi là
dừng
ác chẳng phạm.
Thế nào là thọ chẳng phạm?
Từ thọ, thọ rồi, kết cuộc chẳng phạm lại.
Đây gọi là thọ chẳng phạm.
Thế nào là đoạn chẳng phạm?
Thánh nhơn lấy thánh đạo đoạn các
nguyên
nhơn của việc ác. Đây gọi là
đoạn chẳng phạm. Lại nữa giới có 3
loại.
Nghĩa là xúc giới, bất xúc giới và phạm giới.
Thế nào gọi là xúc?
Đầu tiên thấy tướng hữu vi liền thích nên chạm đến. Đây là phàm
phu
thiện giới. Dùng nơi đây để nhập đạo nghĩa là vô xúc giới.
Thế nào gọi là phạm giới?
Nghĩa là giới A La Hán. Lại nữa có 3 loại. Nghĩa là y thế giới,
y thân
giới và y pháp giới.
Y thế giới là gì?
Nếu có người lo sợ, muốn cần ý thế gian trừ các pháp ác.
Đây gọi tên là y thế.
Y Thân giới là thế nào?
Nếu có người lo ngại, muốn gìn giữ thân mệnh nầy
để trừ các pháp ác. Đây có tên
là y
thân.
Y Pháp giới là thế nào?
Nếu có người sợ hãi, muốn giữ chánh pháp
để trừ các việc chẳng lành thì đây
gọi
là y giới. Lại nữa giới có 3 loại. Đó
là sở nguyện bất đẳng; sở
nguyện đẳng,
vô sở nguyện.
Thế nào là sở nguyện bất đẳng?
Làm não người khác thọ giới. Đây
có nghĩa
là sở nguyện bất đẳng.
Thế nào là sở nguyện đẳng?
Việc thọ giới là hiện tại có niềm vui và vị lai vui giải thoát.
Đây có nghĩa là sở nguyện
đẳng.
Thế nào gọi là vô sở nguyện?
Giới thọ giới chẳng hối và làm nhiêu ích kẻ kia.
Đây gọi là vô sở nguyện. Lại
nữa giới
cũng có 3 loại. Đó là thanh
tịnh giới,
bất thanh tịnh giới và hữu nghi giới.
Thế nào gọi là thanh tịnh giới?
Lấy hai nhơn duyên giới, thành thanh tịnh. Một là chẳng phạm và
hai là
phạm rồi sau đó hối quá. Đây gọi là
giới thanh tịnh.
Lấy 2 nhơn duyên thành bất tịnh giới. Một là tự cố phạm; hai là
phạm mà
chẳng hối quá. Đây gọi là bất
tịnh
giới.
Thế nào gọi là hữu nghi giới?
Lấy ba nhơn mà thành tựu hữu nghi. Một là lấy bất phân biệt xứ;
hai là
bất phân biệt phạm và ba là bất phân biệt bất chánh hạnh.
Đây gọi là hữu nghi giới. Nếu
có kẻ
tọa thiền mà giới không thanh tịnh rồi sau đó
xấu hổ thành niềm vui thanh tịnh. Lại có giới nghi, làm cho
hiện
tại biết tội, được thành an
lạc. Lại
nữa giới có 3 loại. Nghĩa là học, vô học, phi học phi vô học.
Thế nào gọi là học?
Người học 7 loại giới.
Thế nào là vô học?
Tức là giới A La Hán.
Thế nào là phi học phi vô học?
Đó là giới của người phàm phu.
Giới có 3 loại. Đó là úy
giới, ưu
giới và tật giới.
Thế nào là úy?
Có người sợ tội chẳng dám làm ác. Đây
nghĩa là úy giới.
Thế nào gọi là ưu?
Nếu có người tính lìa bà con, dần sanh sầu khổ; lấy sự sầu khổ
mà khởi
lên các việc ác. Điều nầy gọi là
ưu
giới.
Thế nào gọi là tật giới?
Có người thọ giới bò, giới chó. Đây
gọi là
tật giới. Tật giới nếu thành, tức làm bò làm chó. Nếu chẳng thành
tức
đọa địa ngục. Lại nữa giới có 3 loại.
Nghĩa là
thượng, trung, hạ.
Thế nào là hạ?
Nghĩa là quá phiền não, quá quá phiền não,
đại phiền não sở thuộc. Nhẫn vào chỗ bất tri túc.
Đây gọi là hạ giới.
Thế nào là trung?
Phiền não vừa va chạm, tri túc chỗ nhiễm.
Đây gọi là trung giới.
Thế nào là thượng?
Chẳng xúc chạm, biết đủ chỗ nhiễm.
Đây gọi
là thượng giới.
Hạ giới thành tựu làm cho con người đầy
đủ. Trung giới thành tựu làm cho trời
đầy đủ. Thượng giới thành tựu làm cho
được giải thoát.
Lại nữa giới có 4 loại. Đó là
thoái
phần, trụ phần, thắng phần và đạt
phần.
Thế nào gọi là thoái phần?
Chẳng trừ con đường chướng ngại,
xa rời
người siêng năng. Biết mà
cố
phạm; phạm rồi che giấu. Đây gọi là
thoái phần.
Thế nào gọi là trụ phần?
Đối với giới thành tựu chẳng khởi phóng dật, chẳng sanh tịch
kiến,
thành tựu trụ phần. Đối với giới định thành tựu đầy đủ, chẳng khởi
phóng
dật, chẳng sanh thục kiến, thành tựu thắng phần. Đối với giới
định, thành
tựu đầy đủ chẳng khởi phóng dật, lấy sanh tịch kiến, thành tựu
đạt phần. Lại nữa giới có 4 loại. Đó là
Tỳ Kheo giới, Tỳ Kheo Ni giới, Bất Cụ Túc giới, Bạch Y giới.
Thế nào là giới Tỳ Kheo?
Đó là uy nghi của Ba La Đề Mộc Xoa. Đây gọi là Tỳ Kheo giới.
Tỳ Kheo Ni giới, Ba La Đề Mộc Xoa
oai
nghi. Đây là Tỳ Kheo Ni giới.
Sa Di, Sa Di Ni 10 giới; Thức Xoa Ma Ni giới.
Đây gọi là Bất Cụ Túc giới.
Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di ngũ giới và bát giới.
Đây là Bạch Y giới.
Lại nữa giới có 4 loại. Đó là
tánh
giới, hạnh giới, pháp chí giới và sơ nhơn giới.
Thế nào gọi là tánh giới?
Uất Đan Việt giới. Đây là
tánh
giới.
Thế nào là hạnh giới?
Như tánh tộc của vua và quốc thổ ngoại đạo
cùng các pháp, đầy đủ gọi là
hạnh giới.
Thế nào là pháp chí giới?
Bồ Tát nhập thai giới. Đây gọi là
pháp chí giới.
Thế nào gọi là sơ nhơn giới?
Bồ Tát và Ma Ha Ca Diếp giới. Đây
gọi là
sơ nhơn giới.
Giới lại có 4 loại. Đó là
giới,
giới tập, giới diệt và giới diệt đạo
cụ túc.
Thế nào gọi là giới?
Giới có 2 loại. Đó là thiện
giới và
bất thiện giới. Đây có nghĩa là
giới.
Thế nào gọi là giới tập?
Đó là thiện tâm tập thiện giới và bất thiện tâm tập bất thiện
giới.
Thế nào gọi là diệt giới?
Được thiện giới, diệt bất thiện giới. Được A La Hán, diệt thiện
giới.
Thế nào gọi là diệt đạo cụ túc
giới?
Nghĩa là Tứ Chánh Cần. Đây gọi là
diệt đạo cụ túc giới. Như thế phân
biệt rõ
4 pháp. Đây là tinh tấn phi
chơn trì
giới. Đây gọi là Chánh Cần.
Lại nữa
giới có 4 loại. Đó là Ba La
Đề Mộc Xoa uy nghi giới, mệnh thanh
tịnh
giới, căn uy nghi giới, duyên tu giới.
Thế nào gọi là Ba La Đề Mộc Xoa uy
nghi
giới?
Đối với Tỳ Kheo Ba La Đề Mộc Xoa uy nghi, ở chỗ che giấu, chỗ
ấy đầy
đủ, sợ nơi các tội nhỏ, chánh thọ học khả học giới. Đây là đối với
vị Sư
nầy là pháp Tỳ Kheo. Có phàm phu thiện. Lại nữa có học, vô học;
bất động
pháp Ba La Đề Mộc Xoa. Giới nầy là khởi. Việc
đầu tiên là hành việc giữ gìn nầy là uy nghi. Sự thoát ra
khỏi nầy
là không bị trói buộc. Đây là
các pháp
bề mặt, làm chánh thọ thiện pháp. Gọi nghĩa là Ba La
Đề Mộc Xoa; chẳng vượt khỏi thân,
khẩu,
nghiệp. Oai nghi nầy bị che giấu, lấy oai nghi Ba La Đề Mộc Xoa
nầy thành
tựu ở lại. Giữ gìn 4 oai nghi. Tất cả các hạnh
đều đầy đủ. Lại có hạnh và phi
hạnh.
Thế nào gọi là phi hạnh?
Nếu có Tỳ Kheo đối với một người
khác hoặc
cho cây gậy tre; hoặc cho hoa lá quả; hoặc cho que tăm, nước rửa
mặt; hoặc
bán đồ tốt xấu; hoặc làm trò cười; hoặc gièm pha
để tiến thân; hoặc tự giong ruổi đi
xa rồi
mới gặp. Như đây là các hạnh mà Phật đã
chế. Nghĩa là tà mệnh tự hoạt; đây là
phi hạnh. Lại nữa có 2 loại phi hạnh; thân khẩu phi hạnh.
Thế nào là thân phi hạnh?
Nếu có Tỳ Kheo lấy tâm khinh mạng để
đến
trong Tăng bài xích Đại Đức,
tham lam
trước mặt. Hoặc tự tiện, hoặc lấy chỗ ngồi ở trên lớn hơn,
xuống
phía dưới thấp. Hoặc ngồi rồi tự nói về mình và bài bác kẻ khác.
Hoặc bá
vai cười nói; chạy đến trước chỗ
ngồi; tự
mang giày dép, bước đi trên
đường, rồi đi lớn tiếng, làm
nhơn
duyên động chúng với tướng khinh não
ấy. Hoặc lấy hơn cho thua, so yếu cùng mạnh. Hoặc ở nơi nhà tắm
thiêu
đốt gỗ củi. Đóng mở cửa ngõ
đều chẳng hỏi han; hoặc lấy nước rồi
tự mình
vào trước lo cho thân, hiện ra tướng xấu. Nếu vào phòng khác, thao
túng
trước sau, đi đứng chẳng để ý; hoặc
tại chỗ
khuất cười giỡn với người nữ và các gái trẻ, rờ mó ở
đầu. Đây là tất cả những
điều sai trái gọi là thân phi
hạnh.
Thế nào gọi là khẩu phi hạnh?
Nếu có Tỳ Kheo tâm không cung kính, chẳng biết
đủ mà vọng cầu và tự thuyết
pháp; hoặc
thuyết về Ba La Đề Mộc Xoa; hoặc bá
vai mà
nói; hoặc vào nhà kia cố vấn cho người nữ, hỏi tên họ gì, có gì
để ăn không? Có ai đang cùng
ta muốn
ăn uống không? Như thế những lời nói
ấy là
khẩu phi hạnh. Tất cả sự phạm giới ấy đây
gọi
là phi hạnh.
Thế nào là hạnh?
Nghĩa là ngược lại với phi hạnh.
Lại nữa Tỳ Kheo, có cung kính tàm quý, thành tựu uy nghi chẳng
có chỗ
khiếm khuyết, nhiếp hộ các căn hay
tiết chế
sự ăn uống. Đầu đêm cuối đêm
không hề ngủ nghỉ, thành tựu trí huệ, thiểu dục tri túc. Chẳng
nhờn việc
đời, khởi tâm dõng mãnh.
Đối với kẻ đồng học chỗ sâu xa, sinh
ra kính
trọng. Đây gọi là hạnh.
Hành xứ có nghĩa là có hành xứ và có phi hành xứ.
Thế nào là phi hành xứ?
Nếu có Tỳ Kheo vào nơi phòng dâm, nhà phụ nữ ở, không có
đàn ông ở; nơi ở của Tỳ Kheo
Ni và các
nơi bán rượu; gần gũi quốc vương, đại
thần,
ngoại đạo, Sa môn chẳng phải là bạn lữ. Như thế những nơi
không có
lòng tin để làm cho tâm vui.
Thường ở
nơi tứ chúng chẳng sanh lợi lạc. Thật hay muốn lo.
Đây có nghĩa là phi hành xứ.
Như Phật
đã dạy: Các Tỳ Kheo nầy làm
việc phi
phạm hạnh.
Thế nào là làm việc phi phạm hạnh?
Nghĩa là buôn bán nữ sắc, do chỗ ấy biết.
Lại nữa có 3 loại hành xứ. Đó là
y
hành xứ; thủ hộ hành xứ và trói buộc hành xứ.
Thế nào gọi là y hành xứ?
Nghĩa là 10 xứ công đức, thành
tựu
thiện hữu. Nương vào công đức nầy
chưa nghe
được nghe. Nếu đã nghe rồi thì việc nghe nầy làm cho tăng
trưởng rộng lớn thêm ra. Dứt hết nghi hối, chánh kiến thanh
bạch.
Hay theo pháp học, sâu tin dũng mãnh. Lấy giới nghe
được thí huệ và niệm niệm tăng
trưởng. Đây gọi là y hành xứ.
Thế nào gọi là thủ hộ hành xứ?
Nếu có Tỳ Kheo muốn vào nhà kia nơi thôn ấp phải xem nơi ấy
trước chẳng
có nạn dữ, uy dung chỉnh đốn để người
cung
kính, chẳng xem xe, voi, ngựa hoặc nam nữ tụ họp. Chẳng xem nhà
cửa
phố xá hoặc trông ngóng 4 phía. Đây
gọi là
thủ hộ hành xứ.
Thế nào gọi là hành xứ trói buộc?
Như Phật đã dạy: Nếu có Tỳ
Kheo xem
xét gia cảnh người nầy. Đây gọi là
trói buộc hành xứ. Đây có tên
là hành.
Lấy hành xứ nầy để thành tựu
nên cũng
còn nói là cụ túc hành xứ. Sợ nơi tội nhỏ mà ta
đối với chỗ học thông rồi, dám tạo,
nghĩa là
sợ tội nhẹ. Lại nữa có nói. Nếu khởi tâm chẳng lành thì
đây gọi là sai nhỏ.
Đối với điều sai nhỏ nầy tâm sanh xa
rời.
Thấy sự sai trái đó sợ mà xa rời. Đây
nghĩa là đối với sự sai nhỏ
thấy sợ.
Chánh thọ học, có thể học.
Khả học là thế nào?
Nghĩa là 7 tụ uy nghi chánh thọ tất cả tùy toái.
Đây nghĩa là chánh thọ học khả
học.
Đây gọi là Ba La
Đề Mộc Xoa uy nghi giới.
Hỏi rằng: Thế nào là giới thanh tịnh?
Đáp rằng: Nghĩa là chẳng phạm tà mạng
Thế nào là tà mạng?
Giải đãi, xiểm khúc biểu
thị nơi
tướng. Lấy sân si biểu thị nơi tướng; lấy thí vọng thí.
Thế nào là giải đãi?
Giải đãi có 3 nơi. Tính kế
muốn
được, mong kia 4 việc, giả dạng uy
nghi tự
nói tốt về mình. Nếu có Tỳ Kheo tâm mong muốn ác, tham vui
tài lợi,
hay thích ăn mặc, vui cầu tiền bạc.
Như muốn
chẳng được. Nếu có thì yêu kẻ kia. Như vậy là 4 việc.
Đây gọi là duyên kế giải
đãi. Nếu có Tỳ Kheo, muốn ác
tham lợi,
bày biện oai nghi như ta vào thiền định,
chỉ
muốn cúng thí mà đọc tụng kinh
điển.
Đây gọi là uy nghi giải đãi.
Nếu có Tỳ Kheo, tham dục xiểm cuồng hướng người mà nói: Ta
được Thánh pháp, dừng chỗ tịch tịnh.
Có thiền
tập, chỗ nói sâu xa, biểu thị sai trái, tướng tham lợi, hướng về mình
và tự tuyên dương. Đây nghĩa là
giải
đãi, siểm khúc (lời nói dối
trá). Như
tâm niệm nầy chỉ bày cái tướng không thực và lấy lời lành
để xưng tụng, khoa trương tốt xấu chỉ
vì
muốn lợi. Bài bác nói ngoa để lợi về mình.
Đây gọi là siểm khúc.
Thế nào gọi là thị tướng?
Là kẻ nương nơi có lợi mà thuyết pháp.
Điều lợi chính yếu cho mình và chẳng cho ai.
Đây gọi là thị tướng.
Sân mạ thị tướng nghĩa là hoặc mạ lỵ kẻ kia, làm cho sợ hãi;
hoặc tướng
trống rỗng mà hủy báng; hoặc thêm vào đánh
chạm khiến người sợ và chủ yếu là việc lợi.
Đây gọi là sân mạ thị tướng.
Vì sao mà lấy thí vọng thí?
Thích cho ít mà muốn đền đáp
nhiều. Đây
gọi là lấy thí vọng thí, mà những điều
ác nầy nghĩa là thuộc về tà mệnh. Lại có tà mạng hoặc cho
gậy trúc
hoặc cho hoa lá quả; hoặc cho cành tăm,
nước
tắm; hoặc bói tướng đoán mộng, xem xét sao trời, hay giải thích về
tiếng
gáy của loài cầm thú về các nghiệp,
đoán biết tốt xấu, lời ác ly tán, lấy lửa đốt hoa, buôn bán kiếm
lời, lãnh
đạo quân binh, cầm súng gậy đao. Như
thế
những loại nầy thuộc về tà mệnh. Nếu người không phạm thì
gọi là
thanh tịnh giới.
Hỏi rằng: Thế nào là giới giữ gìn các căn
uy nghi?
Đáp rằng: Đối với việc thấy nghe đều rõ biết sắc thanh hương vị
xúc
pháp, là do đắm trước tướng phiền não và lãnh giữ chẳng phạm. Đây
gọi là
giới giữ gìn các căn uy. Đây là thủ hộ căn giới lấy 9 việc làm
được thành
tựu đầy đủ. Lấy ác làm tướng, đoạn các căn vậy.
Đối trị kia không tác ý nên
như cứu
đầu cháy, chung cuộc chẳng dần xả bỏ.
Như
thấy Nan Đà, lấy uy nghi mà phục tâm ác vậy.
Đối với tâm tưởng định, được tự tại
chăng?
Người giữ gìn các căn thì
xa lìa
vậy. Đối với người giữ gìn các
căn
hòa hợp vậy.
Hỏi rằng: Tu hành bốn giới là gì?
Đáp rằng: Lấy 8 việc làm nầy để quán và tu hạnh khất thực. Một
là chẳng
làm việc hung hiểm, chẳng làm việc tự cao. Hai là chẳng làm bộ
dạng, chẳng
làm trang nghiêm. Ba là làm cho thân nầy trụ lại vì tự điều hộ.
Bốn là vì
trừ đói khát. Năm là vì giữ gìn phạm hạnh. Sáu là thường hay suy
nghĩ về
việc ăn uống là
để trừ bịnh trước tiên, chứ
không khởi
sanh tật mới. Bảy là sẽ lấy ít làm đủ.
Tám là
không quá tham ở.
Hỏi rằng: Chẳng làm việc hung hiểm và chẳng làm việc tự cao là
thế nào?
Đáp rằng ta lấy sự tham ăn để được mạnh khỏe, hung hiểm vui bạo
cạnh
tranh lui tới. Đây là việc làm hung hiểm, cao mạng tự xưng chẳng
biết xa
lìa. Như kẻ sân đánh lộn, chẳng có oai nghi, làm cho thân thể,
diện mạo
khó coi, làm cho người vui theo tình đời không biết xa lìa.
Đây là người ham muốn vì thân
nầy gìn
giữ mà tự điều hộ như thế. Than thân ở
yên
như gạo trong lu. Để trừ đói khát,
thường nên
ăn ít, như thế kẻ tu hành
giống như
dùng thuốc chữa bịnh, là kẻ nhiếp thọ phạm hạnh vậy. Nhưng vào chỗ
ăn ít và vui
được nơi Thánh quả. Như thế kẻ tu hành
dụ việc ăn uống nầy là vì
trước tiên
để trừ bịnh, chứ chẳng khởi lên
tật
mới. Chẳng ít chẳng nhiều, như thế tu tập, như uống thang thuốc
bổ. Lấy ít
mà an vậy. Lấy ít công đức tự an thân
nầy,
thường hay tập làm, như người trông bịnh chẳng sai quấy,
lấy ít
để an. Như thế tu hành chẳng
làm cho
thần không ích lợi. Đây là chỗ
khó về
trí tuệ. Cho nên chẳng quá ở yên. Nếu có ăn
cũng chỉ để giữ gìn, không hề giải đãi.
Đầu đêm cuối
đêm chẳng hề ngủ nghỉ, thành
tựu an
ổn. Như thế lấy 8 việc làm nầy quán sát tu hành, xin
ăn và tu hành như thế.
Lại nữa 8 việc làm nầy lược nói làm 4 quán.
Đó là khả
đoạn quán, sự quán, lấy ít quán tự an, lấy ít quán công đức.
Hỏi rằng: Sao gọi là khả đoạn
quán?
Đáp rằng: Chẳng làm việc hung hiểm, chẳng tự cao, chẳng vì thân
mình
trước, chẳng làm việc nghiêm thủ. Đây nghĩa là khả đoạn quán. Vì
thân nầy
trụ, vì chánh điều hộ, vì trừ đói khát, vì nhiếp thọ phạm hạnh.
Sự quán nghĩa là ta sẽ trừ bịnh là điều
đầu tiên mà chẳng khởi lên tật mới.
Đây gọi là lấy ít quán tự an, nghĩa là ta lấy ít tự an, chẳng
quá,
thành ở chỗ an lạc.
Đây là lấy ít quán công đức.
Sau khi quán 4 quán nầy rồi sẽ lược bớt còn 3. Nghĩa là
đoạn nhị biên
được trung cụ túc. Lấy đoạn quán,
đoạn dục
lạc trước. Nghĩa là trừ đói
khát, đoạn
nơi bổn tật, không khởi lên tật mới. Lại lấy quán nầy
đoạn trừ thân bệnh. Ngoài ra
cụ túc
quán như thế mà tu hành. Lại quán về y phục, vì trừ gió lạnh,
nóng, gặp
trùng, kiến, muỗi mà sanh xấu hổ dùng để
che,
khỏi rách rưới. Lấy quán cụ túc mà tu hành như thế. Lại
quán thuốc
men cho đến tật bịnh. Nếu như thuyết
nầy thì
sẽ quán lúc nào?
Đối với khất thực phục dược, quán một miếng ăn. Đối với y phục
ngọa cụ
và quán lúc mới được. Lại đối với ngày ngày giờ giờ thì quán rằng
mệnh ta
là do kia nên quán. Như thế tất cả đều thành quán hạnh.
Như trước đã nói về 4 loại
thọ
dụng. Đó là
đạo thọ dụng (thọ dụng sự ăn cắp),
phụ trách
thọ dụng, gia tài thọ dụng và chủ thọ dụng.
Thế nào là đạo thọ dụng?
Nghĩa là người không xấu không hổ, tà mạng thọ dụng.
Thế nào là gia tài thọ dụng?
Nghĩa là người siêng năng thọ
dụng.
Thế nào là chủ thọ dụng?
Nghĩa là Thánh nhơn thọ dụng.
Lại có 2 loại thọ dụng. Nghĩa là uế ố thọ dụng và thanh bạch
thọ dụng.
Thế nào là ô uế?
Người có tàm quý mà chẳng nên quán. Đây có
tên là ô uế.
Thế nào là thanh bạch?
Người có tàm quý, quán biết tự điều
tiết,
có ý muốn xa lìa việc ác. Đây
gọi là
thanh bạch. Lấy sự trong sạch thường hay tụ tập 4 việc có thể
biết.
Đây gọi là giới tu hành 4
việc.
Đối với đây là luật nghi giới,
lấy chỗ
tin sâu, nên làm cho đầy đủ. Mệnh
thanh tịnh
giới là lấy chỗ siêng năng sâu
để làm
cho đầy đủ. Căn uy nghi giới là
lấy
chỗ tin sâu nên làm cho đầy đủ để tu hành
4 việc; lấy huệ sâu nên làm cho đầy
đủ. Đối
với mệnh nầy giới thanh tịnh. Điều này
đều theo luật nghi. Vì sao vậy? Chẳng vì thọ mạng mà
đoạn đi những việc an ổn, mà
làm cho
được uy nghi nơi thân khẩu nghiệp.
Đây là
2 loại giới, là theo căn uy nghi. Vì
sao vậy? Nghĩa là đối với việc thiện,
lấy tâm
thủ hộ, lành giữ gìn thân khẩu nghiệp, tu hành 4 việc, là căn
uy nghi. Vì sao vậy? Đã
biết
tập tướng y xứ, sai quấy chánh niệm, chánh
định như thế. Đức Thế Tôn cũng nói: Nếu có Tỳ Kheo hay biết nhịn
ăn và
biết ngũ dục, biết đủ nơi luật nghi
nầy và
mạng thanh tịnh thì giới nầy che chở và nhiếp lấy. Căn
luật nghi giới là định che chở
để
nhiếp. Tu hành 4 giới nầy là chỗ che chở huệ nhiếp.
Làm thế nào để việc thọ giới thanh
tịnh?
Nếu có Tỳ Kheo mới thọ pháp thiền, ở nơi 7 tụ trung quán
đối với tự thân, nếu đều phạm Ba La
Di, mất
hết phép Tỳ Kheo, chẳng ở trong giới Cụ Túc. Nếu ở trong giới Cụ
Túc
phải được pháp lành và đến
trước Thầy
để thưa. Nếu thấy phạm Tăng Già Bà Thi Sa, lấy những việc
ấy ra sám
hối. Nếu thấy phạm tội hữu dư thì đối
trước
một người để sám hối chỗ phạm. Nếu thấy phạm tà mạng thì
đối với chỗ phạm nầy làm việc
sám hối
với nhau. Như thế hối rồi, ta không được
làm
lại.
Thấy việc thọ trì như thế, phạm căn
uy
nghi, lại tu hành 4 việc, ta lại chẳng phạm. Nếu kẻ thọ trì
sẽ
được vị lai oai nghi tốt đẹp. Người
kia như
thế từ giới thanh tịnh. Cho nên thân khẩu nghiệp có thể tác
hiện
tác. Hãy quán về kia là kia đang làm
thiện trừ ác. Sẽ quán sáng tối ở nơi giới thanh tịnh. Nếu như kẻ
nầy
làm cho giới thanh tịnh.
Tướng giới thanh tịnh như thế nào?
Thành tương ưng và các phiền não chẳng khởi thoái hối,
được định đầy đủ. Nghĩa là
tướng giới
thanh tịnh.
Có bao nhiêu hành trụ?
Lấy 2 giới trụ. Một là xưng lượng phạm giới quá xung và 2 là
xưng lượng
giới công đức.
Những gì là xưng lượng quá xung?
Nếu người phạm giới thành chẳng công đức,
thành các ác xứ, sợ nơi 4 chúng; nghi nan người biết, có
giới bỏ
chạy. Chẳng thể dạy thiền, trời người chê trách, người người khinh
ghét,
do chỗ phạm giới. Thấy người tán thán trì giới công
đức, tâm hối chẳng tin, đối với trong
4
chúng, mỗi mỗi sanh phẫn hận tranh tụng. Đối với người thân, đa
phần khởi
lên ghét bỏ. Đối với kẻ giữ
giới thành
người bạn ác; chẳng thể nào được phép
định thù
thắng. Tuy giả nghiêm sức chỉ để dối
lừa,
giống như phẩn tiểu của người là chỗ hôi thối, như kẻ mô
phạm có
chỗ kham chịu. Như chỗ bùn lầy đối
với hiện
tại vị lai chẳng được lợi lạc. Thường sanh lo rầu. Nếu đã
tạo tội
rồi, lại sanh tâm xấu hổ hối hận, chẳng an ổn. Như tâm ở
địa ngục chẳng vui việc Thánh. Như
Chiên
Đà La không ham ngôi vua.
Người nầy có
nghe huệ lạc và nói công đức, người
chẳng quý
kính. Giống như lửa phân, sanh chẳng như xứ; lúc chết quên
mất,
thần thức đi vào
đường ác. Như những việc nầy quá lắm
gọi đây
là khả xưng lượng. Nếu biến hóa điều
ác nầy thành giới công đức,
lại gọi là
khả xưng lượng. Như thế xưng lượng, người phạm giới nầy tâm ý che
khuất,
tình chí thoái tán. Kẻ có giới nầy tin sâu siêng năng,
sanh tin kính gấp đôi, thành người siêng năng,
thành người tin kính, một lòng hộ giới như kiến giữ trứng,
như trâu
yêu đuôi, như giữ một con, như gìn
một
mắt, như người đồng cốt giữ thân, như
người
nghèo giữ của quý, như người cầm lái giữ thuyền. Ở trong
những sự
giữ gìn nầy ta sẽ tu giới, tối ưng kính hộ. Như thế tâm thọ trì
được bảo vệ, an trụ nơi thiền định và
giới được bảo hộ.
Luận về con đường
giải
thoát
Hết quyển một
-ooOoo-