Quyển thứ 11
Phẩm 11.2: Ngũ
Phương
Tiện
Hỏi: Thế nào là Thánh Đế phương
tiện?
Đáp: Đó là Tứ Thánh Đế, gồm khổ Thánh Đế, khổ tập Thánh Đế, khổ
diệt
Thánh Đế và khổ diệt đạo Thánh Đế.
Hỏi: Sao gọi là khổ Thánh Đế?
Đáp: Sanh khổ, lão khổ, tử khổ, ưu khổ, ưu bi khổ não khổ, khổ
khổ, oán
tắng hội khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ. Lược nói là ngũ thọ
ấm khổ.
Sanh khổ nghĩa là đối với chúng
sanh trồng
các loại ấm khởi lên. Đây là
tất cả nghĩa của khổ tập.
Lão khổ nghĩa là sự sanh nơi các giới đã
chín muồi và bị mất mát sức lực cũng như nơi các căn
niệm huệ.
Tử khổ nghĩa là thọ mạng đã
hết,
tạo ra sự sợ hãi.
Ưu khổ có nghĩa là cho đến khổ xứ,
tâm
phải suy nghĩ. Trong nầy có nghĩa thiêu
đốt.
Ưu bi khổ nghĩa là khổ cho đến lời
nói.
Nghĩa là trong ngoài đều bị
thiêu
đốt.
Khổ khổ nghĩa là thân khổ. Đây là
nguyên nhơn khổ của thân.
Não khổ nghĩa là tâm khổ và nguyên nhân nầy làm cho tâm khổ.
Oán tắng hội khổ nghĩa là cùng với chúng sanh ưa thích mà phải
sống
chung nhau. Đây nghĩa là tạo
nên khổ.
Ai biệt ly khổ nghĩa là cùng với chúng sanh ưa thích nhưng bị
phân tán
ly biệt. Đây nghĩa là tạo ra
sự ưu
khổ.
Cầu bất đắc khổ nghĩa là
vui
được và chẳng thể vui về ái
biệt ly,
vui có thể yêu thích cùng hòa hợp. Đây
nghĩa
là chẳng được, mất niềm vui.
Ở đây nói lược là ngũ thọ
ấm khổ,
nghĩa là chẳng lìa ngũ thọ ấm khổ. Cho nên lược nói ngũ thọ ấm
khổ.
Hỏi: Những gì là ngũ thọ ấm?
Đáp: Sắc thọ ấm, bịnh thọ ấm, tưởng thọ ấm, hành thọ ấm và thức
thọ ấm.
Như ấm phương tiện đã nói rộng, như thế nên biết. Đối với đây 2
loại khổ,
xứ khổ và tự tánh khổ. Với đây là sanh khổ, tử khổ, oán tắng hội
khổ, ái
biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ. Ở đây lược bớt gọi là ngũ thọ ấm
khổ.
Đây nghĩa là xứ khổ. Còn ưu
khổ, ưu bi
khổ não khổ gọi là tự tánh khổ.
Có 3 loại khổ; đó là khổ
khổ, hoại
khổ và hành khổ. Đối với thân khổ và
tâm khổ. Đây gọi là khổ khổ.
Thọ niềm
vui hữu lậu và nơi kia hoại đi. Đây
gọi là
hoại khổ. Ngũ thọ ấm hành khổ. Đây
nghĩa là
khổ tập đế.
Hỏi: Những gì là khổ tập Thánh Đế?
Đáp: Ái làm cho sanh lại và cùng với dục khởi lên, nơi nơi khởi
lên.
Như thế dục ái, hữu ái, bất hữu ái và ái nầy làm cho sanh trở lại.
Nhiều
hữu ái sẽ làm cho yêu thích việc sanh ra.
Khổ tập nghĩa là duy chỉ có ái chẳng cùng nên nói là khổ tập.
Cùng với dục cộng khởi, nghĩa là chỉ có ái làm cho sự vui thích
khởi
lên, làm cho nhiễm ô, gọi là nhiễm. Cùng với sự nhiễm ô, khởi lên
niềm
vui.
Khởi có nghĩa là nơi nơi làm cho thân tánh khởi lên, nơi nầy
vui thích;
nơi nầy có thể yêu mến sắc màu; nơi nầy thích thú. Như thế dục ái,
hữu ái,
phi hữu ái; trừ hữu ái và bất hữu ái. Ngoài ái ra là dục ái. Hữu
ái là
cùng với sự thấy thường cùng khởi lên. Phi hữu ái nghĩa là cùng
với
đoạn kiến cùng khởi lên.
Đây nghĩa là khổ tập Thánh
Đế.
Hỏi: Sao gọi là khổ diệt Thánh Đế?
Đáp: Duy chỉ có ái diệt vô dư. Xa rời, xả bỏ, giải thoát không
nơi. Đây
gọi là khổ diệt Thánh Đế.
Hỏi: Như thế không đúng, điều nầy
lại như
tập diệt. Vì sao Đức Thế Tôn
lại nói
khổ là nguyên nhơn diệt?
Đáp: Khổ là nguyên nhơn diệt nên thành bất sanh diệt, ứng với
nghĩa là
chứng. Cho nên tập diệt, nên Đức Thế Tôn nói khổ diệt.
Hỏi: Những gì là khổ diệt đạo
Thánh Đế?
Đáp: Đây là Bát Thánh Đạo. Đó là chánh kiến, chánh tư duy,
chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mệnh, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
Chánh kiến nghĩa là Tứ Đế trí.
Chánh tư duy nghĩa là tư duy 3 việc lành.
Chánh ngữ nghĩa là lìa 4 việc nói ác.
Chánh nghiệp nghĩa là lìa 3 nghiệp làm ác.
Chánh mệnh nghĩa là lìa đời sống tà.
Chánh tinh tấn nghĩa là tứ chánh cần.
Chánh niệm nghĩa là Tứ Niệm xứ.
Chánh định nghĩa là Tứ
Thiền.
Lại nữa nếu kẻ tu hành Thánh Đạo
thì
với Niết Bàn rõ thấy. Đây nghĩa là
chánh kiến. Chỉ có rõ biết Niết Bàn thì đây là
chánh tư duy. Đoạn bỏ lời nói tà,
đó là chánh ngữ.
Đoạn bỏ tà nghiệp,
đó là chánh nghiệp.
Đoạn bỏ tà mạng kia,
đó là chánh mệnh.
Đoạn bỏ tà tinh tấn,
đó là chánh tinh tấn.
Đối với Niết Bàn nhớ nghĩ,
đó là chánh niệm.
Đối với Niết Bàn chuyên tâm,
đó là chánh
định.
Đối với kẻ huệ căn, huệ lực và như ý túc thì trạch pháp giác
phần trở
thành và vào bên trong chánh kiến. Tinh tấn căn, tinh tấn lực,
tinh tấn
như ý túc, dục như ý túc. Tinh tấn giác phần, tứ chánh cần trở
thành nhập
vào bên trong tinh tấn. Niệm căn, niệm lực, niệm giác phần, tứ
niệm xứ
thành nhập vào bên trong chánh niệm. Định
căn, định lực, tâm như ý túc; tín căn, tín lực, định giác phần, hỷ
giác
phần, ỷ giác phần, xả giác phần thành nhập vào bên trong
chánh
định. Như thế 37 pháp giác ngộ trở thành
và nhập vào bên trong của Bát Thánh Đạo.
Đây
nghĩa là khổ diệt Đạo Thánh
Đế. Đây
nghĩa là Tứ Thánh Đế.
Hỏi: Sao gọi là Tứ Thánh Đế mà
chẳng phải 3 hay chẳng phải 5?
Đáp: Tất cả nghi, vì thế gian, xuất thế gian, quả và nhơn nên
thành ra
bốn.
Hỏi: Những gì là Thế Đế quả, khổ
tập thế
đế nhơn quả?
Đáp: Diệt xuất Thế Đế quả. Đạo xuất Thế Đế nhơn, rồi duyên vào
nhau mà
làm 4. Chứ chẳng phải 3 hay 5. Lại nữa nên biết, nên đoạn, nên
chứng, nên
tu. Dùng 4 câu ấy nên trở thành 4. Đây là Tứ Thánh Đế lấy 11 hành
có thể
khá biết rõ hơn. Như thế dùng câu nghĩa, dùng tướng và lần lượt bỏ
đi, lấy thí dụ, dùng phân
biệt, dùng
đếm số, dùng một rồi nhiều,
rồi lần
lượt rộng ra để tương nhiếp nhau.
Hỏi: Những gì là câu nghĩa?
Đáp: Đó là Thánh Đế vậy. Thánh nhơn hay nói; nên gọi là Thánh
Đế vậy.
Chỗ kia thông đạt, thành Thánh Đế. Đế ở đây có nghĩa là như thật,
chẳng có
nghĩa khác. Là tự tướng chẳng phải nghĩa khác. Khổ có nghĩa là cái
quả,
còn tập mới là nguyên nhơn. Diệt nghĩa là tùy theo
đó mà mất.
Đạo chính là thấy
được nghĩa đệ nhất. Như thế là
câu
nghĩa có thể rõ biết.
Hỏi: Cái gì lấy làm tướng?
Đáp: Khổ chính là tướng của sự lo toan. Tập chính là nguyên
nhơn của
tướng. Diệt chính là tướng bất sanh. Đạo ấy là tướng phương tiện.
Lại nữa
khổ nghĩa là tướng bách não, tướng ưu sầu, tướng hữu vi, tướng hữu
biên.
Tập chính là tướng tụ họp, tướng nhơn duyên, tướng hòa hợp, tướng
chấp
trước. Diệt chính là tướng xuất ly, tướng tịch tĩnh, tướng vô vi,
tướng
đề hồ. Đạo chính là tướng của
sự
chuyên chở làm cho đến được, tướng
thấy,
tướng nương nhờ. Như thế những tướng khác nên rõ biết.
Hỏi: Những gì là thứ đệ?
Đáp: Dùng nghĩa thô và nghĩa chứng. Đầu tiên nói khổ đế. Đây là
khổ,
đây là sanh, là phần 2 của tập. Đây là tập diệt, là khổ diệt. Đệ
tam diệt.
Đây là phương tiện làm thật diệt. Lần thứ 4 nói về đạo. Như một vị
thầy
thuốc rõ biết. Đầu tiên thấy rõ nguyên nhân của hạnh, sau
đó liền hỏi bịnh duyên. Vì
muốn cho
lành bịnh; nên theo bệnh ấy nói để
bốc thuốc.
Như vậy bịnh ấy theo khổ, khá nên rõ biết. Như vậy bịnh ấy
là nhơn
duyên như tập, phải nên rõ biết. Như vậy bịnh hết, như thoát khỏi,
nên rõ
biết. Như vậy thuốc men chính là con đường,
phải nên rõ biết. Như thế dụ cho sự thuận theo, nên rõ
biết.
Hỏi: Những gì lược bớt đi?
Đáp: Sanh là khổ, làm cho sanh ra ấy là tập. Khổ dừng chính đó
là diệt.
Làm cho dừng lại ấy là đạo. Phiền não chính là khổ. Phiền não
chính là
tập. Đoạn trừ phiền não chính là diệt. Đoạn trừ phương tiện chính
là đạo.
Khổ hay khởi lên đóng các cửa nơi thân. Tập có thể khởi lên, khai
mở và
đoạn diệt nơi các cửa. Diệt có thể
khởi, khai
mở thường thấy nơi các cửa. Đạo có thể khởi, khai mở cửa tà
kiến.
Như thế gọi là lược, phải nên rõ biết.
Hỏi: Những gì là thí dụ?
Đáp: Như cây độc, chính là khổ, nên rõ biết. Như trồng cây ấy,
chính là
tập, nên rõ biết. Như vậy đốt cây ấy đi, chính là diệt, nên rõ
biết. Lửa
ấy chính là đạo, nên rõ biết. Như ở bờ nầy có khổ, có sợ hãi; khổ
như thế,
nên rõ biết. Như lưu chảy, chính là tập, nên rõ biết. Như ở bờ kia
không
khổ, không sợ hãi. Như vậy là diệt, nên rõ biết. Như thuyền bè có
thể chở
người qua. Như thế chính là đạo, nên
rõ biết. Như cái vạc là khổ, nên rõ biết. Như giữ lấy cái vạc là
tập, nên
rõ biết. Như đã yêu cái vạc ấy
chính
là diệt, nên rõ biết. Như dùng phương tiện để
yên cái vạc ấy chính là đạo, nên
rõ biết. Như thế dùng thí dụ, nên rõ biết.
Hỏi: Phân biệt thế nào để rõ
biết
được?
Đáp: Bốn chủng đế, ngữ đế, các các đế, đệ nhất nghĩa đế, Thánh
Đế. Ở
đây chỉ nói lời chơn thật, chẳng hề hư dối. Đây nghĩa là ngữ đế.
Đối với
các các đế tức vào trong sự thấy to lớn. Đây nghĩa là các các đế.
Đế kia
nếu Tỳ Kheo mà nói dối, tức là ngu si pháp. Nếu kẻ kia chẳng vọng
ngữ ngu
si pháp, chính ấy là chân lý. Niết Bàn đệ
nhất nghĩa đế vậy. Đây là chỗ tu hành của Thánh nhơn. Ấy
chính là
Thánh Đế với đây là chỗ lạc
Thánh
Đế. Như thế nên phân biệt
để rõ biết.
Hỏi: Những gì là số khả tri?
Đáp: Trừ ái, nơi Tam Địa Thiện và bất thiện, vô ký pháp chính
là khổ
đế. Ái chính là tập đế. Đoạn cái kia chính là diệt đế. Nhập vào
tám con
đường, ấy chính là Đạo Đế. Lại nữa trừ ái và ngoài ra là phiền
não. Nơi đệ
tam địa thiện và bất thiện, vô ký pháp chính là khổ
đế. Ái và ngoài ra phiền não
chính là
tập đế. Đoạn trừ cái kia chính là
diệt
đế. Đạo chính là
đạo đế. Lại nữa trừ ái và
ngoài ra là
phiền não, tất cả đều là bất
thiện.
Đối với Tam địa thiện, hữu ký pháp
chính là
khổ đế. Ái lại cùng với phiền
não, tất
cả bất thiện đều là tập
đế. Đoạn cái kia đi, chính là
diệt
đế. Đạo chính là
đạo đế. Lại nữa trừ ái và
phiền não và
tất cả là bất thiện. Đối với tam địa
bất
thiện, đối với tam địa vô ký pháp ấy chính là khổ
đế. Ái và ngoài ra là phiền
não cùng
tất cả bất thiện. Đối với Tam địa
thiện, đây
là tập đế. Đoạn trừ cái kia đi
là
diệt đế. Đạo chính là
đạo đế. Đối với chỗ khí vị, ấy chính là
ái. Tập có nối kết sự sai sử. Ngoài ra phiền não chính là tập, mà
có thể
đoạn được, rồi làm cho khởi
lên có ý
nghĩa. Tất cả những việc bất thiện là tập, rồi làm cho có nghĩa.
Đối với Tam địa, Thiện pháp chính là
tập. Đối với ái nầy và ngoài
ra là
phiền não, chính là tập. Tất cả bất thiện nơi tam
địa và thiện; hoặc khổ
đế; hoặc tập đế, bức não, ưu,
hữu vi,
hữu biên tướng, cho nên thành ra khổ đế.
Tụ
họp chính là nhơn duyên đắm
trước với
tướng hòa hợp; nên thành tập đế.
Như
thế dùng số có thể rõ biết được.
Hỏi: Những gì là nhứt khả tri?
Đáp: Bốn đề nầy cùng 4 hành làm một, mà nghĩa của đế là như
nghĩa, là
pháp nghĩa và là nghĩa không. Như thế dùng một để có thể rõ biết.
Hỏi: Những gì là chủng chủng khả tri?
Đáp: Hai đế. Đó là thế đế và tục đế. Thế đế có nghĩa là hữu
lậu, hữu
kết, có cột ràng, có sự lưu chuyển, có xoay vần, có che đậy, có
thể chạm
vào. Có chấp thủ, có phiền não; cho nên có khổ và tập. Xuất thế đế
nghĩa
là: Vô lậu, vô kết, không trói buộc, không lưu chuyển, không xoay
vần,
không chịu che, chẳng thể chạm vào, không chấp giữ và không phiền
não. Cho
nên đây gọi là diệt
đạo. Tam đế là hữu vi còn diệt
đế là vô vi. Tam
đế vô sắc; khổ đế hữu sắc và
vô sắc.
Tập đế bất thiện. Đạo đế là
con
đường lành. Diệt
đế là vô ký. Khổ
đế gồm thiện, bất thiện, vô ký. Khổ
đế có thể
rõ biết. Tập đế có thể đoạn;
diệt đế
có thể chứng, đạo đế có thể tu. Như thế đủ loại có thể rõ
biết.
Hỏi: Những gì là thứ đệ quảng?
Đáp: Dùng một loại, thân có thức chính là khổ. Tập ngã mạn;
đoạn trừ
cái kia tức là diệt. Thân niệm chính là đạo. Dùng 2 loại thì danh
sắc tức
là khổ, mà vô minh, hữu ái chính là tập. Đoạn cái kia đi chính là
diệt. Xa
Ma Tha, Tỳ Bà Xá Na chính là đạo. Dùng 3 loại
để thành; cho nên khổ khổ chính là khổ
đế. Ba bất thiện căn chính là tập.
Đoạn trừ cái kia đi,ấy là diệt. Giới,
định, huệ chính là Đạo. Dùng
4
loại để thành thì tứ thân tánh
xứ, ấy
là khổ. Bốn điên
đảo ấy là tập.
Đoạn trừ sự điên
đảo đi, chính là diệt. Tứ niệm
xứ, ấy
là Đạo. Dùng 5 loại
để thành,
đó là 5 cõi chính là chỗ khổ. 5 sự che
đậy ấy là tập; đoạn trừ những
che đậy
ấy đi gọi là diệt. Ngũ căn
chính là
Đạo. Dùng 6 loại
để thành thì lục xúc nhập
chính là
khổ. Lục ái thân chính là tập. Đoạn
trừ ái
thân kia đi, chính là diệt. 6 pháp xuất ly chính là
Đạo. Dùng 7 loại
để thành gồm bảy thức trụ,
chính là
khổ. Bảy sử ấy chính là tập. Đoạn trừ
7 sử ấy
chính là diệt. 7 phần Bồ Đề
chính là
Đạo. Dùng 8 loại
để thành, ấy là 8 pháp thế
gian chính
là khổ. 8 tà biên chính là tập. Đoạn
trừ 8 tà
biên ấy là diệt. Bát Chánh Phần, ấy là Đạo. Dùng
9 loại để thành như nơi 9
chúng sanh
cư trú, ấy là khổ. Cửu ái căn pháp
chính là
tập. Đoạn trừ cái kia đi, ấy là
diệt.
Cửu chánh tác ý căn pháp, ấy là
Đạo. Dùng 10 loại
để thành gồm thập phương hành,
đấy là khổ. Thập kết sử,
đó là tập.
Đoạn trừ kết ấy đi, chính là
diệt.
Thập tưởng chính là Đạo. Như thế lần
lượt nói
rộng ra để rõ.
Hỏi: Nhiếp là những gì?
Đáp: Có 3 loại nhiếp. Đó là ấm nhiếp, nhập nhiếp và giới nhiếp.
Đây đối
với khổ đế ngũ ấm sở nhiếp. Tập đế và đạo đế hành ấm sở nhiếp.
Diệt đế phi
ấm sở nhiếp. Khổ đế 12 nhập sở nhiếp. Tam đế pháp nhập sở nhiếp.
Khổ đế
thập bát giới sở nhiếp. Tam đế pháp giới sở nhiếp. Như thế lấy sự
nhiếp
phục có thể rõ biết. Dùng hành nầy nơi Thánh
Đế đễ rõ biết và làm cho khởi lên. Đây
nghĩa là Thánh Đế Phương Tiện.
*
Phẩm 12.1: Phân
Biệt Chân
Lý
Lúc ấy kẻ tọa thiền rõ biết nơi ấm giới, nhập vào chơn lý nhơn
duyên,
rồi được nghe giới, hoặc Tu Đà
Thiền.
Đối với kẻ phàm phu chưa rõ
được chỗ giải thoát nơi cõi ác
sợ hãi,
rồi xem thấy chỗ xấu ác, nên sợ hãi. Rồi quán xem về sanh tử trong
vô thủy
nên lo. Rồi quán trong một sát na chẳng thể
được. Rồi quán 300 mũi kim châm, rồi quán về sự thiêu
đốt nơi đầu về ái dục, chưa phân biệt
rõ
Tứ Thánh Đế rồi vì
đó mà phân biệt Tứ Thánh
Đế, nên làm phương tiện, rồi
tạo ra
dục, rồi tạo ra sự dũng mãnh, tinh tấn. Chuyên tâm duyên niệm
đầy đủ và làm cho sung mãn.
Hỏi: Đương tác những gì?
Đáp: Người tọa thiền kia đầu tiên sẽ nghe về Tứ Thánh Đế; hoặc
lược bớt
đi; hoặc nói rộng ra; hoặc vừa lược vừa nói rộng. Dùng sự nghe,
nghĩa ấy
và đọc tụng để thọ trì. Lúc ấy chính là lúc người tọa thiền nhập
vào sự
tịch tịnh. Ngồi nơi đâu tâm cũng không loạn và không có tâm
đến đi. Tứ Chánh Đế làm cho
khởi lên.
Đầu tiên làm cho khổ
đế khởi lên; hoặc là ấm; hoặc
là nhập;
hoặc là giới ấm pháp. Dùng tự tướng, dùng ấm tướng và làm cho khởi
lên.
Như ấm phương tiện đã nói
rộng. Như
thế nên biết rõ.
Nhập có nghĩa là nhập tương ưng làm cho khởi lên, như nhập
phương tiện
đã nói rộng. Như thế phải nên
rõ biết.
Giới có nghĩa là giới tương ưng làm cho khởi lên. Như giới phương
tiện
đã nói rộng. Như thế nên rõ
biết. Kẻ
tọa thiền kia như thế dùng ấm nhập giới. Chỉ có hữu ấm nhập giới;
chẳng có
chúng sanh, không có mạng sống. Rồi làm cho khởi lên rồi
được hành tưởng. Lúc ấy lược
bớt chỉ
làm cho 2 loại khởi lên. Cho nên gọi là danh sắc.
Đối với sắc ấm đây là 10. Rồi
vào 10
giới sắc. Tứ ấm ý nhập thất giới. Đây
tên
là Pháp nhập pháp giới; hoặc danh; hoặc sắc; dư danh; dư sắc. Dư
sắc dư
danh nghĩa là không có sắc. Sắc ấy chính là không tên gọi. Danh ấy
chính
là sắc chẳng lìa. Sắc ấy chính là danh chẳng lìa. Như nghe tiếng
trống tuy
chỉ nương vào danh sắc để sanh rồi
nương vào
sắc mà danh sanh ra. Như người mù què chân đi
xa.
Hỏi: Danh sắc sai biệt như thế nào?
Đáp: Danh chính là không có thân. Sắc chính đó là có thân. Danh
nghĩa
là hữu sở trí. Sắc tức là vô sở trí. Danh nghĩa là chuyển nhanh.
Sắc nghĩa
là chuyển trì trệ. Danh nghĩa là không tụ họp. Còn sắc là chỗ tụ
họp. Danh
nghĩa là giác trí, rõ thức. Còn sắc thì không
được điều nầy. Sắc nghĩa là đi,
đứng,
nằm, ngồi có hình dáng. Còn danh không phải như
điều nầy. Danh nghĩa là biết
ta, hành
ta, vui nơi ta, ta ngồi, ta nằm, ta khuất, ta là giáp ất v.v...
Sắc thì
không phải điều nầy. Sắc chính là
sự
uống ăn tùy thích. Còn danh
không có
điều nầy. Danh chính là biết
ta, ta
ăn, ta uống, ta vui, ta ưa thích. Sắc
lại
chẳng có điều nầy. Sắc là tiếng cười vui,
đủ loại lời nói. Còn danh
không có
điều nầy. Danh chính là biết
ta vui,
ta vỗ tay, ta nghe và vô số ngôn ngữ như thế. Sắc thì chẳng có
điều nầy. Đây chính là sự sai
biệt của
danh sắc. Kẻ tọa thiền kia như thế danh sắc và duy chỉ là danh
sắc, không
có chúng sanh và không có mạng sống, rồi làm cho khởi, rồi
được hành tưởng. Lúc bấy giờ
tất cả
đều giảm lược. Khổ đế sẽ làm
cho khởi
lên như thật tri kiến thanh tịnh, làm cho danh sắc khởi lên.
Đây là tổng cả lời nói về khổ
đế làm cho khởi lên có thể rõ
biết. Kẻ
tọa thiền kia như thế làm cho khởi lên khổ đế
nầy rồi, tạo ra tưởng của chúng sanh và từ
đây, khổ là nhơn duyên phải
nên quán.
Hỏi: Khổ nầy là nhơn duyên gì? Là tập gì?
Đáp: Người tọa thiền kia như thế mà rõ biết. Khổ nầy sanh do vì
nhơn
duyên. Sanh ấy chính là nhơn duyên hữu vi. Hữu tức do thủ làm nhơn
duyên.
Thủ là do chính ái làm nhơn duyên. Ái ấy chính do thọ làm nhơn
duyên. Thọ
ấy do xúc làm nhơn duyên. Xúc ấy do lục nhập làm nhơn duyên. Lục
nhập ấy
do danh sắc làm nhơn duyên. Danh sắc ấy do thức làm nhơn duyên.
Thức ấy do
hành làm nhơn duyên. Hành ấy do vô minh làm nhơn duyên. Như vậy vô
minh
duyên vào hành, hành duyên vào thức, sanh duyên vào lão tử, trở
thành ưu
bi khổ não. Như vậy tất do khổ ấm khởi lên. Kẻ tọa thiền kia,
đây là do nhơn duyên trói
buộc, phải
quán rộng ra. Bấy giờ chỉ nói lược.
Thọ nầy duyên vào ái và khổ, tập kia làm cho khởi lên; hoặc
pháp trụ
trí; hoặc thanh thủ nhân duyên trí; hoặc lìa nghi thanh tịnh.
Những lời
nói nầy tập đế làm cho khởi
lên trí.
Kẻ tọa thiền kia làm cho khởi lên sự khổ tập.
Đối với 3 thời gian trải qua chỗ nghi. Lúc ấy quán về khổ diệt là
ai diệt và khổ diệt là ai? Diệt chính là khổ diệt nầy. Kẻ tọa
thiền kia
như thế mà rõ biết. .Từ vô minh diệt hành diệt. Từ sanh, diệt khổ
diệt
nầy. Từ sanh, diệt hữu diệt. Từ hữu diệt thủ diệt. Từ thủ diệt ái
diệt. Từ
vô minh diệt hành diệt. Như vậy từ vô minh diệt hành diệt. Từ hành
diệt,
thức diệt. Từ sanh diệt, lão tử ưu bi khổ não diệt. Như thế
đây là tất cả khổ ấm thành
diệt. Kẻ
tọa thiền kia như vậy nhơn duyên là chỗ trói buộc sự diệt kia.
Rộng ra và
nên quán. Lúc bấy giờ chỉ lược nói.
Thọ nầy duyên vào ái, từ khổ diệt diệt kia làm cho khởi lên
diệt
đế. Kẻ tọa thiền kia như thế làm
cho
khởi lên diệt đế. Lúc bấy giờ quán về
con
đường khổ diệt. Con đường nào cho đầy
đủ để làm cho ái diệt. Kẻ tọa thiền kia phải rõ biết rằng
điều ấy do quán về sự lo lắng của ngũ
thọ ấm.
Đây là đạo; đây là sự
đầy đủ. Vì ái diệt nên làm cho
khởi
lên Đạo đế. Như chân lý ấy là
phương
tiện nói rộng ra, như thế mà rõ biết. Kẻ tọa thiền kia như vậy lần
lượt
làm cho khởi lên Tứ Đế. Lúc ấy đối
với ngũ
thọ ấm dùng 180 pháp lần lượt tập họp sự phân biệt
để quán về các hữu sắc trong quá khứ,
vị lai
và hiện tại; hoặc trong hoặc ngoài; hoặc lớn hoặc nhỏ; hoặc
thô
hoặc dịu; hoặc xa hoặc gần. Tất cả sắc là vô thường, nên quán rộng
ra. Rồi
lấy sự rộng ấy quán khổ, rồi rộng ra hơn nữa quán về vô ngã. Như
vậy sở
hữu thọ, sở hữu tưởng, sở hữu hành, sở hữu thức.
Đối với mỗi mỗi ấm 12 pháp môn. Đối với ngũ ấm 12 thành 20. 60
vô
thường kiến; 60 khổ kiến; 60 vô ngã kiến. Thành ra 180 kiến. Lại
nữa có
180 pháp môn. Lục nội nhập, lục ngoại nhập, lục thức thân, lục xúc
tâm,
lục thọ thân, lục tương thân, lục tư thân, lục ái thân, lục giá,
lục quán.
Đây là 10 thành 60. 60 vô
thường kiến;
60 khổ kiến; 60 vô ngã kiến. 3 lần 60 thành 180. Cái kia qua thời
gian lâu
ngày của năm tháng, ngày, giờ,
trời,
trăng, nửa ngày, nửa giờ,
trong sát na
do pháp hồi chuyển tạo thành mới lại. Như ánh
đèn luôn luôn được thắp sáng.
Lấy vô
thường để làm việc phân biệt quán. Với cõi ác thọ khổ,
đói khát lo sợ, cầu không được, ái
biệt ly,
già bệnh chết, ưu bi khổ não. Đây
là
những hành tướng luôn tiếp diễn, mà khổ là nơi hành quán phân
biệt.
Từ ấm nhập vào giới làm nhơn duyên, chơn lý, nghiệp quả báo là
nhơn
duyên làm cho sanh ra chỗ sanh. Chẳng có chúng sanh nào không
động mà không có sự việc tự
tánh thực
hành để khởi lên. Dùng vô ngã,
để quán phân biệt. Đối với hành
sắc vô
thường lấy nghĩa diệt, lấy nghĩa khổ lụy, dùng nghĩa vô ngã chẳng
thật. Ở
đây lược nói về sự phân biệt. Như thế
thọ,
tưởng, hành, thức, vô thường diệt là nghĩa. Khổ ở
đây nghĩa là sự sợ hãi. Vô ngã
là
nghĩa chẳng thật. Như thế lược nói về sự phân biệt nầy.
Đối với việc nầy lấy vô thường phân
biệt rồi,
trừ tưởng thường. Dùng khổ phân biệt, trừ tưởng lạc. Dùng
vô ngã
phân biệt, trừ tưởng ngã.
Hỏi: Những gì là vô thường nói rộng để
phân biệt?
Đáp: Như thật thấy tất cả các hành,chẳng có biên của hữu vi
cũng như
mất đi biên ấy. Lấy vô tướng giới làm cho tâm khởi lên. Đối với vô
tướng
giới làm cho tâm an. Cho nên dùng vô thường rộng nói để phân biệt.
Hỏi: Những gì là khổ phân biệt?
Đáp: Đối với tất cả các hành, làm cho tâm sợ hãi; từ đó tạo ra
nguyện
và làm cho tâm khởi. Đối với vô tác nguyện làm cho tâm an. Cho nên
dùng
khổ để rộng nói phân biệt.
Hỏi: Những gì là vô ngã, rộng nói phân biệt?
Đáp: Đối với tất cả pháp thấy. Từ kia, từ đây chấp và làm cho
tâm khởi
lên. Đối với không giới làm cho tâm an.
Vì thế nên dùng vô ngã để rộng nói
phân
biệt. Như vậy phân biệt tam hữu, ngũ thu, thất thức trụ, cửu chúng
sanh
cư, mà sự diệt lại sợ hải; nên dùng sự không chắc thật
để quán kẻ tọa thiền kia đối với ngũ
thọ ấm
đa phân biệt nơi 3 tướng, làm cho an vui và nhập vào dục
để đoạn những việc làm. Lúc
bấy giờ
hiện tại nội ngũ thọ ấm chấp giữ tướng kia và làm cho thông
đạt, rồi khởi lên diệt. Như
thế
đây là pháp dùng vô sanh trong
hiện
sanh. Khi sanh diệt rồi, như thế mà thông suốt.
Đối với tướng chấp thủ nầy thì
thủ
tướng có 3 loại. Đó là chấp
giữ tướng
phiền não; chấp giữ tướng định và
chấp
giữ về tướng Tỳ Bà Xá Na. Đối với kẻ
phàm
phu ngu si thì lấy sự thấy, nghe, giác tri, cảnh giới; dùng thành
lạc,
thường tưởng, điên
đảo sở. Tâm đầu tiên ấy chấp
vào tướng
tốt. Với đây là
đắm trước phiền não giống như
con
thiêu thân trước ánh đèn.
Đây nghĩa là tướng chấp vào
tướng của
sự phiền não.
Hỏi: Những gì là tướng chấp vào định?
Đáp: Đối với người ngồi thiền nầy vui được định, rồi dùng niệm
chánh
trí sở. Tâm đầu tiên có 38 việc làm. Đối với mỗi một việc làm chấp
tướng
ấy làm cho tâm hệ lụy vào. Vì chẳng loạn; nên như voi bị trói. Đây
nghĩa
là tướng chấp vào định.
Hỏi: Những gì là tướng chấp giữ vào Tỳ Bà Xá Na?
Đáp: Người thường quan sát lấy trí tuệ của tâm lúc ban đầu về
sắc, thọ,
tưởng, hành, thức – mỗi mỗi phân biệt riêng từng tự tướng vậy.
Lạc, dục,
xả, tu tướng kia như đánh rắn độc. Đây nghĩa là chấp vào tướng Tỳ
Bà Xá
Na. Đối với việc chấp vào tướng Tỳ Bà Xá Na nầy có thể an lạc.
Hỏi: Những gì là tướng chấp vào thọ, tưởng, hành, thức?
Đáp: Đó là sắc thức của tướng kia; hoặc dùng địa giới; hoặc
dùng thủy
giới; hoặc dùng hỏa giới; hoặc dùng phong giới; hoặc nhân nhập;
hoặc thân
nhập. Như thế cứ quán về thọ và tướng của thọ kia. Hoặc tạo nên
vui; hoặc
tạo ra khổ; hoặc vì chẳng khổ chẳng vui. Như thế mà quán về tưởng
và tướng
của tưởng kia; hoặc là sắc tưởng; hoặc là pháp tưởng. Như thế quán
biết rõ
về những hành và hành tướng; hoặc vì chỗ xúc; hoặc vì sự nhớ nghĩ;
hoặc vì
giác; hoặc vì quán; hoặc vì tác ý; như thế quán về thức và tướng
của thức
kia. Hoặc nhãn thức; hoặc ý thức. Như thế quán
điều kia nơi người tọa thiền, rồi như
vậy mà
chấp vào điều lành của tướng
kia. Rồi
lấy chỗ lành ấy mà khởi. Khi làm cho khởi rồi, như thế chấp vào
tướng của
sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
Lại nữa dùng 2 hành để chấp vào
tướng của tâm. Lấy việc làm và tác ý.
Hỏi: Những gì là sự và tướng chấp của tâm?
Đáp: Sự nầy là chỗ khởi tâm của ngã; nên quán cái kia và dùng
sắc, thọ
của việc nầy. Đây là tưởng sự. Dùng hành sự nầy và thức sự nầy, để
cho tâm
ta khởi lên. Cứ như thế mà quán. Đó là việc chấp vào tướng của
tâm.
Hỏi: Những gì là tác ý và chấp vào tướng của tâm?
Đáp: Đó là do ngã tác ý vào sắc nầy và làm cho tâm khởi lên.
Như thế
phải nên quán. Như vậy là ngã tác ý vào thọ, tưởng, hành và ngã ấy
làm cho
tâm khởi lên. Như vậy hãy nên quán. Tác ý như thế rồi liền chấp
giữ tướng
của tâm.
Hỏi: Làm sao mà tướng kia trở thành chỗ chấp giữ tốt?
Đáp: Đó chính là hành, là tướng nầy. Sắc, thọ, tưởng, hành,
thức là
những tướng để quán. Nếu lại chịu khó quán tưởng kia thì dùng hành
nầy và
tướng nầy. Đây chính là tướng kia thành chỗ chấp giữ tốt. Thông
suốt việc
sanh diệt vậy. Có khởi lên, có diệt đi. Có khởi lên diệt thông
suốt.
Đối với sắc nầy sanh liền trong hiện
tại.
Tướng sanh kia khởi thành biến tướng diệt. Ba câu kia là
huệ nhãn
kiến. Đó là thông
đạt khởi diệt, thọ sanh ngay trong
hiện tại và
thọ tưởng hành thức; tướng sanh kia khởi lên biến thành tướng
diệt. Còn 2
câu khác là huệ nhãn kiến thông đạt
khởi
diệt. Lại nữa dùng 3 hành để
thông đạt
mà khởi tướng. Lấy 3 hành thông đạt mà
diệt tướng. Như vậy dùng nhơn, dùng duyên và dùng tự vị.
Hỏi: Những gì là nhơn thông đạt
khởi
tướng?
Đáp: Ái, vô minh, nghiệp chính là nhơn làm cho ấm khởi. Dùng
huệ nhãn
kiến và dùng nhơn thông đạt tướng khởi.
Những gì là duyên thông đạt khởi
tướng? -
Đó là nương vào thứ căn tạo ra
sắc ấm
khởi. Xúc duyên vào với 3 ấm để
khởi.
Danh sắc duyên vào thức ấm để
khởi. Dùng
huệ nhãn thấy duyên thông đạt khởi lên
tướng.
Hỏi: Những gì là tự vị thông đạt
khởi
tướng?
Đáp: Như ánh sáng của cây đèn luôn luôn tương tục chẳng gián
đoạn. Đầu,
cuối tiếp nối nhau mà khởi. Rồi lấy tướng, lấy huệ nhãn để thấy.
Dùng tự
vị thông đạt khởi lên tướng. Đây chính là nguyên nhơn, là chỗ khởi
lên cái
thấy. Dùng tướng của tập đế để trở thành sự thấy. Dùng niệm
để khởi lên giác. Dùng duyên
để khởi lên tự vị. Dùng sự
khởi lên
để thấy là khổ
đế. Dùng tướng thành chỗ thấy,
dùng
sát na chẳng thể giác được. Như thế dùng
3 hành rốt ráo để khởi tướng.
Hỏi: Thế nào là tam hành thông đạt
diệt
tướng?
Đáp: Lấy nhơn diệt, duyên diệt và tự vị diệt. Đối với đây dùng
ái diệt
rồi vô minh diệt, rồi nghiệp diệt và ấm trở thành diệt, lấy huệ
nhãn để
thấy. Dùng nhơn diệt thông đạt của tướng diệt. Dùng thức ăn diệt
thì sắc
ấm trở thành diệt. Dùng xúc diệt ba ấm trở thành diệt, dùng danh
sắc diệt
thì thức ấm trở thành diệt, dùng huệ nhãn để
thấy. Dùng duyên diệt thông đạt
để
diệt tướng. Như ánh sáng ngọn đèn liên tục không gián
đoạn. Đầu tiên có diệt hành
lấy huệ
nhãn để thấy. Dùng tự vị thông
đạt làm tướng diệt.
Đây chính là nhơn diệt
để thấy được diệt đế. Dùng
tướng ấy
để thành chỗ thấy. Dùng tướng
vô sanh
để rõ biết duyên diệt. Dùng tự
vị
để thấy diệt. Dùng khổ
đế tướng để trở thành cái thấy
đầu tiên. Dùng sát na chẳng
thể giác
được.
Hỏi: Nếu dùng sự khởi diệt để thấy
khổ đế
và dùng tướng để được thấy thì
tại sao thượng trí lại khởi lên?
Đáp: Sao lại dùng khởi kiến để diệt. Dùng tướng của khổ đế để
được thấy
điều chưa thấy và cái khổ kia trở nên đầy đủ. Cho đến các hành hết
rồi,
như thật mà thấy. Từ hành tướng nầy làm cho tâm khởi lên. Đối với
phi
hành, tâm sẽ trôi qua. Như thật thấy những hành nầy mà lo lắng. Từ
hành
tướng nầy làm cho tâm khởi lên. Đối
với phi hành
làm cho trôi qua. Xứ nầy thấy khổ thành ra
đầy dẫy. Nghĩa là qua lại bên cạnh vậy. Giống như con chim
bay
chung quanh lửa mà chẳng sợ hãi. Nếu bay trong hư không thì thấy
lửa vây
chung quanh nên lo, thành ra bay vào hư không. Lúc ấy kẻ kia thấy
lửa sợ
hãi vây quanh thành ra đầy khắp như
thế. Đối
với việc nầy nên rõ biết. Đây
chính là
do nhơn, do duyên mà khởi lên sự thấy. Rồi trở thành thông
đạt nhơn duyên khởi tướng.
Đây là hữu
đây là khởi.
Đây là chỗ khởi lên rồi,
đây là chỗ khởi thành rồi.
Nhơn diệt
rồi cho nên duyên diệt. Do vậy mà sự thấy diệt là nhơn duyên sanh
tướng
thành thông đạt. Đây là vô
hữu,
đây chẳng thành. Ở
đây diệt rồi thành
đây diệt. Dùng tự vị
để khởi lên diệt. Thấy rồi
khởi thành
thông đạt. Biết nhơn duyên
pháp và
pháp hữu vi khởi lên. Cái kia khởi lên được
trí. Cái kia diệt rồi lại cũng rõ. Cái kia ở lại cũng
đã rõ biết. Như thế dùng chỗ
khởi diệt
mà thấy 4 pháp thành chỗ rõ biết. Như vậy một tướng pháp, nhiều
pháp,
không có pháp nào là không chánh pháp. Với
đây là một sự tương tục ở chỗ hành về sự
đắm trước mà khởi và sự thấy
kia không
thành, nhiều loại chấp trước. Đầu tiên
sau cùng chuyển đổi thành các
hành,
rồi lấy diệt kia để thấy chẳng thành
một sự chấp. Tự tánh lìa, chẳng động
nơi các
hành. Dùng đầu tiên,
sau rốt
thấy chẳng thành ngã chấp. Nhơn duyên là chỗ chuyển các hành
đầu và cuối. Như thế dùng pháp
để thấy chẳng thành vô sự
chấp. Kẻ
phàm phu kém hiểu biết dùng một bất giác, thường,
đoạn để nói. Dùng nhiều loại
bất giác
để thành việc thường hay nói.
Dùng vô
sự bất giác để trở thành ngã
thuyết.
Như thế dùng pháp bất giác, thành vô sự thuyết.
Đối với đây là lời nói bình
đẳng. Dùng một tướng
để hơn những ngôn ngữ kia. Dùng
nhiều
tướng để nhiếp thành một
tướng. Dùng
nghĩa phân biệt để thành nhiều
loại.
Dùng nghĩa phiền não để thành
một
tánh. Dùng nghĩa phương tiện để thành
nhiều tánh. Dùng quả của ái để thành
một tánh. Dùng quả của nghiệp để thành
nhiều loại tánh. Kẻ tọa thiền kia như thế thấy một tánh, chẳng
phải chấp
nầy về sự thấy các loại. Nếu thấy các loại tánh thì cũng chẳng
phải chấp
nầy là thường thấy một tánh. Nếu hiện thấy một tánh thì ngoài ra
sự tạo
tác, sự rõ biết được sự thấy nầy. Nếu
hiện
thấy nhiều loại tánh thì việc làm kia, sự biết kia trừ ra
sự thấy
nầy. Nếu hiện thấy một tánh, trừ ra sự đoạn
kiến nầy. Hoặc hiện thấy các tánh, trừ ra sự thường kiến nầy. Kẻ
tọa thiền
kia như thế mà khởi lên sự diệt. Thấy một tánh và chủng
chủng tánh.
Pháp sáng lại khởi lên cái gì?
Hiện khởi các hành thấy kia vô sự. Vì sao mà tất cả các hành vô
sự bất
động? Vô dư sở khởi trụ. Tự tánh trụ là
nhơn duyên hòa hợp tập trung lại làm nhơn duyên với nhau. Như thế
làm cho
pháp dừng sanh, lại sanh ra. Đây là
nghĩa không có đời sống và
nghĩa bất
động. Pháp vô sự như thế mà rõ
biết.
Dùng tự tánh, nghĩa và duyên vào nghĩa. Như thế chỉ pháp nên rõ
biết. Làm
cho hiện ra không, vô sự. Làm cho hiện ra nghiệp
đã tạo. Như thế chỉ pháp làm
cho hiện
ra vô sự nên gọi là pháp. Như thế làm cho chỉ pháp có tên là hành.
Đối với đây dùng pháp một tánh
rõ biết
khổ tướng, trở thành sự thông đạt. Dùng
đủ loại tánh giác và tướng vô
thường
để trở thành thông
đạt. Dùng vô sự pháp rõ biết.
Như thế
dùng chánh pháp giác về tướng vô ngã để
trở
thành sự thông đạt.
Hỏi: Kẻ tọa thiền kia với tất cả các hành có phải dùng vô dư xứ
để quán khởi diệt làm một xứ
để quán sao?
Đáp: Đầu tiên đối với các hành xứ, chấp giữ lấy tướng nầy rồi
thông đạt
khởi diệt vô dư xứ. Tất cả các hành làm cho đầy đủ. Như người ở
một nơi
trên biển cả dùng lưỡi để liếm nước, tức thời rõ biết tất cả vị
mặn của
nước. Như thế đối với đây có thể rõ biết. Dùng 2 hành của các hành
làm cho
đầy đủ. Dùng sự và dùng chẳng
ngu si.
Đối với đây, các hành chấp giữ
tướng
nầy. Thông đạt sanh diệt. Các hành
kia
dùng sự nầy để thành
đầy đủ. Đối với đây đoạn trừ vô trí
vậy. Ngoài
ra các hành dùng bất ngu si trở thành đầy
đủ.
Đối với đây khởi lên diệt trí. Đó
là
các hành phân biệt trí. Tất cả các hành dùng sự khởi lên ban
đầu trở thành phân biệt. Dùng
diệt hậu
biên thành phân biệt. Dùng khởi lên chỗ đầu
tiên làm thành sự tịch tĩnh. Lấy diệt hữu biên làm thành
tịch tĩnh.
Dùng khởi từ khởi, không có đầu tiên.
Dùng diệt từ diệt, không có sau cùng. Cho nên khởi diệt trí thành
các hành
phân biệt trí.
Kẻ tọa thiền kia như thế chánh kiến sinh ra tướng diệt, lành
phân biệt
các hành, vui được diệt lạc định. Lúc
bấy giờ
chẳng tác ý để quán về sự sanh ra. Duy chỉ thấy tâm diệt. Dùng
những sắc dùng tâm sanh diệt. Nương vào việc kia
để thấy tâm diệt. Như thế mà
thọ trì.
Dùng việc tưởng mà hành sự. Dùng việc thức để
tâm sanh diệt. Nương vào việc kia để
thấy tâm sanh diệt. Lại nữa dùng tam hành, thấy diệt như
thế tụ họp
lại rồi phân biệt làm đôi.
Hỏi: Sao gọi là tụ họp?
Đáp: Do uy nghi, uy nghi sở khởi và tâm tâm số pháp. Đối với
nơi nầy
làm chỗ tụ họp để thấy cái kia diệt. Lại nữa quán sắc vô thường
rồi, thọ
vô thường, tưởng vô thường, hành vô thường và thức cũng vô thường.
Lúc ấy
dùng việc vô thường là chỗ khởi lên tâm, tâm số pháp. Dùng sự tụ
họp
để thấy kia diệt đi. Như vậy dùng
sự
khổ và việc vô ngã. Như thế dùng sự tụ họp sẽ thấy.
Hỏi: Sao gọi là cặp?
Đáp: Sắc nầy vô thường và quán vô thường. Tùy theo vô thường mà
tâm
khởi lên để thấy tâm ấy sanh diệt. Như vậy thọ tưởng hành thức đều
quán
cũng vô thường. Tùy theo việc vô thường mà tâm khởi lên thấy sanh
diệt.
Như thế lấy việc khổ cùng việc vô ngã; nên phải quán về cặp
đôi nầy.
Hỏi: Vì sao dùng sự phân biệt?
Đáp: Đã quán sắc nầy vô thường rồi. Tùy theo sự vô thường mà
tâm khởi
lên thấy tâm sanh diệt. Như vậy dùng sự phân biệt quán thấy nhiều
tâm
diệt. Như vậy quán thọ, tưởng, hành, thức đều vô thường. Tùy theo
sự vô
thường mà khởi tâm lên thấy tâm ấy sanh diệt. Do sự thấy tâm diệt
mà lại
thấy diệt. Như thế dùng sự phân biệt thấy nhiều tâm sanh diệt. Như
vậy
quán về khổ và quán về vô ngã. Như vậy phân biệt rồi, duy chỉ có
hiện quán
về sự diệt kia. Cái nầy nếu diệt thì sẽ trở thành chuyên biệt.
Thường thì
các hành trong sát na trở thành lợi lạc. Kẻ tọa thiền kia dùng huệ
nầy
chẳng phải duyên kia. Thấy tất cả thế gian dùng tự tánh như
đếm trên
đầu hạt cải. Chỉ trong một sát na mà tâm biến thành sanh
già chết.
Lúc ấy kẻ tọa thiền lại như thế mà thấy. Như kệ nói rằng:
Cặp nầy nương vào sắc
Triển chuyển một lần mất
Câu diệt nương kia diệt
Cùng kia mà sanh ra
Ấm vô thường diệt pháp
Khổ sanh pháp diệt pháp
Như đánh trống nghe tiếng
Lại chẳng từ mắt sanh
Sắc hương cùng 5 pháp
Lại chẳng từ sắc sanh
Lại chẳng lìa hai cú
Nương duyên sanh hữu vi
Như đánh trống nghe tiếng
Lại chẳng từ tai sanh
Sắc hương và năm pháp
Lại chẳng từ nghe sanh
Lại chẳng lìa hai câu
Lại chẳng từ mũi sanh
Sắc hương cùng năm pháp
Lại chẳng từ hương sanh
Lại chẳng lìa hai câu
Lại chẳng từ lưỡi sanh
Sắc hương cùng năm pháp
Lại chẳng từ vị sanh
Lại chẳng lìa hai câu
Lại chẳng từ thânsanh
Sắc hương và năm pháp
Lại chẳng từ xúc sanh
Lại chẳng lìa hai câu
Lại chẳng từ xứ sanh
Chẳng từ pháp vào ra
Nương nhơn duyên để sanh
Như đánh trống nghe tiếng
Căn kia quá dư thừa
Nhơn đầu lại cũng thừa
Nhơn kia lại cũng thừa
Khởi kia lại cũng thừa
Cùng đất điều nầy thừa
Tương ưng lại cũng thừa
Hòa hợp lại cũng thừa
Triển chuyển sự thừa nầy
Triển chuyển pháp chẳng trụ
Lại vô tánh triển chuyển
Không có thể cho khởi
Làm cho kia không khởi
Như thành Càn Thát Bà
Do ai đầu khởi lên
Chẳng do tự thân sanh
Chẳng do tự lực ở
Do tùy pháp kia sanh
Sanh ra pháp hữu lậu.
Thân thể quá yếu, chẳng tự sanh
Lại chẳng tự nhơn, chẳng tự sự
Chẳng xứ hữu vi, không tự tánh
Chẳng tự tánh, hành tướng các hữu
Vì sanh tự thân, dư không lúc
Không nơi từ đến vô sở hành
Xứ vô sở sanh vì nước khác
Tâm vô ngã sở, mệnh thân tánh
Một tâm khổ vui tướng nhơn vội
Sát na núi biển tám vạn kiếp
Một trụ chẳng lại không hai tâm
Tương ưng quá khứ và sẽ diệt
Hiện tại tất cả các hành ấm
Tất cả qua đi chẳng nghe được
Vị lai sẽ mất nơi cõi kia
Dừng đó tướng khác chẳng khởi lên
Chẳng hề sanh ra hiện tại sanh
Từ đây tâm mất, không thế gian
Đệ nhứt nghĩa ấy không đến đi
Vị lai chẳng dừng chỉ chuyển sanh
Trụ như hạt cải sanh các pháp
Pháp kia diệt rồi đây là
đầu
Thế gian dùng pháp đầu chẳng xa
Chẳng thấy đến đi, chẳng thấy sanh
Các pháp chẳng sanh như hư không
Giống như điện lóe chốc lát mất.
Kẻ tọa thiền kia như thế thấy diệt vô tận nhập
định, như giữ lửa khói bay. Bồ Đề
phẩm, sát
na khởi. Trí quang minh khởi lên. Niềm vui, chấp sự giải
thoát,
niệm xứ khởi lên. Xả, xuất ly đối với
đây
chẳng rõ ràng. Kẻ tọa thiền đối
với
pháp kia hoặc khởi lên loạn; hoặc khởi lên tăng
thượng mạn.
Hỏi: Làm thế nào để trừ loạn?
Đáp: Kẻ tọa thiền đối với pháp khởi vui, sự vui kia lại làm cho
được
an. Như thế pháp kia lại liền làm cho an, rồi tâm pháp nầy điều
phục để
nhiếp. Nếu pháp điều phục ấy được chỗ nhiếp tâm. Từ diệt quán định
tâm nầy
lìa thường và lìa thường thông đạt. Như vậy là lìa rồi.
Hỏi: Sao lại khởi lên tăng thượng
mạn?
Đáp: Kẻ tọa thiền kia dùng pháp đầu tiên khởi lên tướng sáng
rồi được
ra khỏi pháp thế gian. Đối với việc chưa được, sẽ được có tướng.
Thường
chuyển làm tinh tấn. Như thế tăng thượng mạn lại khởi. Rõ ràng
người tọa
thiền biết phiền não nầy là định bị loạn. Rõ biết pháp thế gian mà
hành
sự. Như thế rõ biết pháp xuất thế gian là Niết Bàn. Như thế rõ
biết rồi.
Cứ như vậy dùng trí để trừ loạn, trừ
tăng
thượng mạn. Chỉ thấy diệt, ấy chính là lành tu hành và
đa hạnh.
Luận về Con Đường
Giải
Thoát
Hết quyển thứ 11
-ooOoo-