Quyển thứ 10
Phẩm 11.1: Ngũ
Phương
Tiện
Đối với người mới tọa thiền, vui thoát ly sanh tử, vui trừ được
nguyên
nhơn của sự sanh tử, vui trừ màn vô minh đen tối, vui đoạn được
dây ái
ân,vui chứng được trí huệ của bậc Thánh. Đối với 5 nơi, khởi lên
phương
tiện. Đó là ấm phương tiện, nhập phương tiện, giới phương tiện,
nhơn duyên
phương tiện và Thánh Đế phương tiện.
Hỏi rằng: Sao gọi là ấm phương tiện?
Đáp rằng: Đó là ngũ ấm, gồm có sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành
ấm và
thức ấm.
Hỏi rằng: Thế nào gọi là sắc ấm?
Đáp rằng: Tứ đại. Tứ đại là chỗ tạo ra sắc.
Thế nào là tứ đại?
Đó là thuộc về đất, thuộc về nước, thuộc về lửa và thuộc về
gió.
Sao gọi là đất?
Có tánh và có tướng đều cứng; nên
gọi là đất.
Sao gọi là nước?
Nước ẩm thấp hòa hợp với sắc. Đây
gọi là
nước.
Sao gọi là lửa?
Lửa có chất ấm. Đây gọi là
lửa.
Sao gọi là gió?
Gió mang hơi đến. Đây gọi là
gió.
Kẻ mới ngồi thiền lấy 2 loại mà giữ lại để
che đậy chở che, dùng giãn lược để nói
rộng như nói về quán tứ đại. Như thế mà biết.
Thế nào tứ đại là chỗ tạo
ra sắc?
Nhãn nhập, nhĩ nhập, tỉ nhập, thiệt nhập, thân nhập; sắc nhập,
thinh
nhập, hương nhập, vị nhập, nữ căn,
nam căn,
mạng căn, thân tạo, khẩu tạo; hư không giới sắc, sắc nhẹ, sắc
nhuyễn, kham
thọ trì sắc, tăng trưởng sắc,
tương tụ
sắc, sanh sắc, tử sắc, vô thường đoạn thực xứ sắc, nhãn
sắc.
Sao gọi là nhãn nhập?
Lấy sự thấy màu sắc mà có đối
tượng. Nương
vào nhãn thức kia để khởi lên.
Đây gọi là nhãn nhập. Lại nữa
nương
vào con mắt thịt đen trắng của nhãn
châu để thấy gồm thịt, máu, gió, đờm,
dãi.
Trong đó chồng lên 5 lớp
để ở như nửa hạt cải, lớn như đầu con
kiến.
Đầu tiên do nghiệp tạo thành rồi do tứ
đại tạo ra lửa, to lớn hơn làm cho sáng tỏ ra màu sắc.
Đây nghĩa là nhãn nhập như
Đại Đức Xá Lợi Phất thường nói. Lấy
nhãn
thức thanh tịnh để thấy các màu
sắc;
hoặc nhỏ hoặc vi tế, giống như cửa sổ.
Thế nào gọi là nhĩ nhập?
Đó là nghe tiếng động, dùng âm thanh để đối lại và nương vào
tai để
khởi lên nhĩ thức. Đây gọi là nhĩ nhập. Lại nữa, có hai lỗ có lông
bên
ngoài và nương vào các mô để ở như hạt đậu xanh. Nghiệp đầu tiên
tạo ra
chỗ trống thật lớn và do tứ đại là chỗ tạo tác ra màu trong sạch.
Đây gọi là nhĩ nhập.
Sao gọi là tỷ nhập?
Đây do nghe mùi thơm và do mùi thơm nầy làm đối tượng. Nương
vào mũi để
khởi lên thức. Đây gọi là tỷ nhập. Lại nữa nơi lỗ mũi có 3 đường
hòa hợp,
nương vào chỗ lỗ nhỏ để ở, như hình Câu Tỳ Đà La (giao long). Đầu
tiên do
nghiệp tạo rồi gió lớn lên, tứ đại tạo ra màu thanh tịnh.
Đây gọi là tỷ nhập.
Sao gọi là thiệt nhập?
Do dùng mùi vị để biết. Do mùi
vị
làm đối tượng. Nương vào lưỡi
để khởi lên thức.
Đây gọi là thức nhập. Lại nữa
phía bên
trên thịt của lưỡi có 2 phía nối lại như hình hoa Uất Ba La.
Đầu tiên do nghiệp tạo và do
nước tăng
trưởng tối đa và do tứ đại tạo
ra màu
trong sáng. Đây gọi là thiệt
nhập.
Vì sao gọi là thân nhập?
Do cảm giác chạm và lấy xúc làm đối
tượng,
nương vào thân thể để khởi lên
thức. Đây gọi là thân nhập.
Lại nữa
trừ lông, tóc, móng tay, răng là
chỗ
chẳng thọ; nhưng với tất cả đều thọ
giữ và
do chỗ nghiệp đầu tiên tạo tác
mà
đất là chỗ nhiều nhất.Do tứ
đại là chỗ tạo ra màu sắc
thanh tịnh.
Đây gọi là thân nhập.
Điều có thể thấy màu sắc gọi là sắc nhập. Đối với âm thanh thì
có thinh
nhập. Đối với mùi thì có hương nhập. Đối với vị thì có vị nhập.
Đối với nữ
tánh thì có nữ căn; đối với nam tánh thì có nam căn. Do tùy theo
sự thủ hộ
của nghiệp là chỗ tạo ra hình tướng. Đây
gọi
là mệnh căn. Dùng thân
nầy
để biểu hiện ra các việc làm
nên gọi
tên là hành. Đây gọi là việc
làm của
thân. Dùng miệng để biểu hiện ra các
việc làm
thì gọi là việc làm của miệng. Dùng màu sắc
để phân biệt. Đây gọi là cảnh giới của hư không. Hình thái
có tính
nhẹ thì gọi là hình nhẹ. Do hình thức nhẹ nên gọi là nhu nhuyến.
Do sắc có
tánh kham thọ trì nên đây gọi là
sắc
kham thọ trì.
Đây là 3 loại thân thuộc, tánh không giải đãi. Là các nhập tụ.
Nghĩa là
sắc tụ. Là sắc tụ nghĩa là sắc tương tục. Là sắc làm cho khởi lên.
Nghĩa
là sắc sanh ra. Là làm cho sắc thuần thục. Nghĩa là sắc già đi. Là
sắc bại
hoại. Nghĩa là sắc ấy vô thường. Do khí vị của chúng sanh mà có
được. Đây chính là những khí
vị của
việc ăn uống. Sắc nương vào
giới và ý
thức giới để khởi lên.
Đây nghĩa là giới xứ sắc. Là
những
cảnh giới giải đãi như hình
tướng của
sự ngủ nghỉ. Điều nầy có 26 chỗ tạo
ra sắc
ấy, cùng với Tứ Đại hợp thành
30 sắc.
Hỏi rằng: Tứ Đại và chỗ tạo
ra sắc
của Tứ Đại vì sao có sự sai
biệt?
Đáp rằng: Tứ Đại nương vào Tứ Đại để sinh tồn. Tứ Đại ấy những
chỗ tạo
tác ra sức nương vào Tứ Đại để mà sống. Chỗ tạo ra sắc của Tứ Đại
chẳng
phải là chỗ nương vào của Tứ Đại, lại cũng chẳng phải là Tứ Đại
tạo ra sắc
là chỗ nương vào. Cũng như 3 cây có chỗ dựa vào nhau và Tứ
Đại cũng nên biết giống như
thế. Cái
bóng của 3 cây đó cũng giống như chỗ
Tứ Đại
tạo ra sắc có thể biết được. Đây chính là sự sai biệt.
Đối với người tọa thiền, đây là
30
sắc. Dùng 5 hành động có thể biết rõ
hơn, rồi như thế làm cho khởi lên, rồi tụ lại, rồi sanh ra nhiều
loại, một
loại.
Hỏi rằng: Vì sao lại làm cho khởi lên?
Đáp rằng: Chính 9 sắc của nghiệp và nhân duyên là chỗ khởi lên.
Cho nên
gọi là: Nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, nữ
căn, nam
căn, mệnh căn và xứ sắc. Hai sắc của thân do nhân duyên mà khởi
lên. Vì
vậy do thân làm và miệng làm. Một sắc thời tiết do tâm khởi lên.
Đó gọi là thanh nhập. Lúc 4
sắc thì
tâm ăn uống là nhân duyên khởi
lên. Do
vậy mà sắc nhẹ, sắc nhu nhuyến, sắc kham thọ trì, nhãn sắc và 12
sắc của 4
nhân duyên là chỗ khởi lên. Cho nên đây
gọi là
sắc nhập, thiệt nhập và vị nhập. Hư không giới sắc, tụ sắc và
tương tục
sắc. Sắc sanh nơi đồ ăn đọng lại ở 4
giới.
Hai sắc chẳng có chỗ khởi. Cho nên sắc ấy già và sắc vô
thường. Lại
nữa sự sanh duyên vào sự già, sự già ấy duyên vào sự vô thường.
Như vậy
lấy đó làm cho khởi lên.
Điều đó nên rõ.
Hỏi rằng: Vì sao gọi là tụ?
Đáp rằng: Có 9 loại tụ họp do nghiệp là chỗ tạo tác khởi lên. 9
loại tụ
họp ấy do tâm khởi lên gồm 6 loại tụ họp theo thời tiết khởi và 3
loại tập
họp do sự ăn uống mà khởi lên.
Hỏi rằng: Vì sao gọi là 9 loại tập họp do nghiệp khởi lên?
Đáp rằng: Đó là gồm mắt có 10, tai có 10, mũi có 10, lưỡi có
10, thân
có 10, nữ căn có 10, nam căn có 10, xứ có 10 và mạng có 9.
Hỏi rằng: Sao gọi tên là nhãn thập?
Đáp rằng: Mắt thanh tịnh về 4 giới, đây gọi là xứ. Lại nương
vào 4 giới
sắc, hương, vị, xúc, mệnh căn, nhãn thanh tịnh. Đây là 10 pháp
cùng sanh
sống chẳng lìa nhau. Đây gọi là sự tập họp, nên gọi là 10 loại của
mắt. Từ
đây khởi lên sự sống và khi thuần thục gọi là già. Khi bị hoại
đi là do vô thường. Sự phân
biệt nầy
là hư không giới. Bốn pháp nầy cùng với sự tập họp kia khởi lên.
Mắt nầy
nương vào nơi thập lão; sanh ra nhãn thập thứ hai và 2 loại kia
gồm 10
loại tập họp; nên đây gọi là
tụ. Cái
kia theo sát nên gọi là tương tục. Đây
là
6 pháp cùng với kia khởi lên. Cái kia lại nương vào 2 lần nhãn
thập
để đến già. Sanh ra 3 lần nhãn
thập.
Đây là lần thứ 2 và lần thứ 3
của nhãn
thập. Đây nghĩa là sự tập họp.
Duy chỉ
có pháp kia theo sau nên gọi là tương tục.
Đầu tiên 10 loại ấy tan hoại rồi 20 loại già và lần thứ 30
lại khởi
lên. Cái kia trở thành một sát na, như thế mà khởi lên nhãn thập.
Sự nghe
kia khó thể biết được. Vì sát
na rất
nhỏ và nhanh vậy. Chẳng hiện hữu nên thế gian khó thể biết
được. Cũng có người tọa thiền thấy
bằng mắt
liên tục giống như nước sông chảy, như ánh sáng của
đèn liên tục.
Đây gọi là nhãn thập.
Như thế nhĩ thập, tỷ thập, thiệt thập, thân thập, nữ căn
thập, nam căn thập, mệnh căn cửu. Từ đó rộng ra mà biết.
Hỏi rằng: Sao lại 9 tụ tâm là chỗ khởi?
Đáp rằng: Sự thanh tịnh có 8 nghĩa. Thanh tịnh thân tạo ra
9.Thanh tịnh
khẩu tạo ra 10. Thanh tịnh nhẹ nhàng có 9. Thân tạo ra nhẹ nhàng
10; 10 và
khẩu tạo ra sự nhẹ nhàng có 11. Thanh tịnh nhãn có 9. Nhãn thân
tạo ra 10.
Nhãn khẩu tạo ra 11.
Hỏi rằng: Thế nào gọi là thanh tịnh tâm có 8 chỗ khởi lên?
Đáp rằng: Tứ giới nương vào giới, sắc, hương, vị, xúc. Đây là 8
pháp
cùng sanh và chẳng lìa nhau. Trong 10 kia thì 8 gọi là thanh tịnh.
Cái kia
khởi lên có nghĩa là sanh ra. Cái kia thành thục gọi là già và cái
kia
băng hoại gọi là vô thường. Sự phân biệt kia
đó là hư không giới. Bốn pháp nầy tùy theo kia mà khởi. Tám
sự
thanh tịnh kia khi bị hoại thì cùng với tâm thứ 3 cùng khởi lên.
Lần thứ 2
của 8 sự thanh tịnh, đầu tiên
sự thanh
tịnh hoại và lần thứ 2 sự thanh tịnh khởi lên mà chỉ trong sát na
khởi
lên. Cái nầy chẳng thay đổi mà
tụ họp
lại và cùng với 3 chỗ khởi lên kia làm chỗ tụ họp. Như thế thanh
tịnh nhẹ
nhàng có 9 và thanh tịnh nhãn 9. Sáu loại tạo sự tụ họp chẳng tan
hoại ban
đầu.Chẳng phải khởi lên lần
thứ 2.
Chẳng trong một sát na. Vì sao chẳng phải một mà tâm tạo thành
hai, làm
cho khởi lên; ngoài ra như đã
nói lúc
ban đầu.
Hỏi rằng: Vì sao 6 nơi tụ họp của thời tiết là chỗ khởi lên?
Đáp rằng: Sự thanh tịnh có 8. Sự thanh tịnh về âm thanh có 9.
Thanh
tịnh nhẹ nhàng có 9. Âm thanh nhẹ có 10, mắt thanh tịnh có 9, âm
thanh về
mắt có 10. Tụ họp bên ngoài thành 2 sự thanh tịnh. 8 và 9 âm
thanh.
Hỏi rằng: Thế nào là tam tụ chỗ ăn
uống mà
khởi lên?
Đáp rằng: Thanh tịnh có 8. Thanh tịnh nhẹ nhàng có 9. Thanh
tịnh nhãn
có 9. Thời tiết và chỗ ăn uống khởi lên tụ lại tương tục do nơi
nghiệp.
Tương tự như thế có thể biết. Ngoài ra như đã nói lúc ban đầu.
Mệnh sống
có 9 và không tụ họp lại. Đối với dục giới là do chỗ nghiệp mà
thành. 8
chỗ tụ họp lấy thọ mệnh hoạt động.
Mũi, lưỡi,
thân,nam nữ căn như vậy. Đây là sự nhẹ nhàng của 3 thuộc về
mắt.
Đây là
đối với sắc giới. Không có đời sống gồm 9, không tụ họp, không tư
tưởng
Phạm Thiên. Đối với thân nầy
tất cả
nhập vào, dùng đây để được
hoạt động.
Như thế là tụ họp.
Hỏi rằng: Sao lại sanh ra?
Đáp rằng: Như nam nữ nhập thai,chỉ trong sát na 30 sắc ở nơi 10
xứ.
Thân 10 hoặc nữ căn 10; hoặc nam căn 10; chẳng phải nam chẳng phải
nữ có
20 sắc khởi lên. Cho nên xứ có 10 và thân có 10. Đối với dục giới
hóa sanh
đầy đủ căn của nam nữ nhập vào, chỉ trong sát na sanh ra 70 sắc;
nên có 10
xứ. Thân 10, mắt 10, tai 10, mũi 10, lưỡi 10; hoặc nữ căn
10, hoặc nam căn 10. Hoặc đối với cõi ác thú hóa sanh thì
sanh ra
đui mù và người nam người nữ
ấy trong
sát na sanh ra 60 sắc ngoại trừ nhãn 10. Như thế sanh ra người
điếc và 60 sắc khởi lên. Ngoại
trừ nhĩ
có 10.Người sinh ra mù, điếc có 50
sắc khởi lên.
Ngoại trừ nhãn 10 và nhĩ 10.
Từ ác thú hóa sanh đầy đủ căn nhập
vào
hoặc phi nam phi nữ và người ở kiếp đầu,
chỉ
trong sát na khởi lên 60 sắc trừ căn
của nam nữ. Với kẻ mù và phi nam phi nữ kia có 50 sắc khởi
lên, trừ
nhãn căn 10 và trừ phi nam phi
nữ căn.
Hoặc điếc phi nam phi nữ lại có 50 sắc khởi lên, ngoại trừ
tai 10
và phi nam phi nữ căn. Hoặc mù
điếc, phi nam phi nữ có 40 sắc khởi.
Xứ 10, thân 10, mũi 10, lưỡi 10. Phạm Thiên
đối với đây trong sát na sanh ra 49
sắc khởi.
Xứ 10, mắt 10, tai 10, thân 10, mệnh căn 9. Vô Tưởng Thiên
chúng
sanh đối với sự sanh nầy trong sát na
có 9
sắc khởi lên. Mệnh căn có 9.
Như thế
lấy sự sanh mà biết.
Hỏi rằng: Những gì là nhiều loại?
Đáp rằng: Tất cả sắc thành 2 loại. Gồm lớn và nhỏ. Đối với 12
sắc lớn
trong ngoài sắc nhập, lấy có làm đối nghĩa, trừ 18 sắc vi tế. Lấy
vô đối
nghĩa. Lại có 2 loại sắc. Đó là trong và ngoài. Trong đó 5 sắc
thành nội
nhãn v.v... 5 nhập lại có nghĩa là cảnh giới; ngoài ra 25 loại sắc
lấy vô
cảnh giới làm nghĩa. Lại có 2 loại sắc – mệnh căn
và chẳng phải mệnh căn. Trong
nầy có 8
sắc gọi là căn. 5 ấy có nữ căn
nam căn
và mệnh căn; đây nương vào
nghĩa. Ngoài ra 22 chẳng phải mệnh căn.
Dùng
không để nương vào nghĩa. Tất
cả sắc
thành 3 loại. Đó là thọ sắc,
phi thọ
sắc và hữu hoại sắc. Đối với 9 sắc
nầy có
thọ, 8 căn và xứ sắc. Lấy chỗ nghiệp báo tạo thành nghĩa. 9
sắc
chẳng thọ nhận âm thanh vào, thân tạo, khẩu tạo sắc, sắc nhẹ, sắc
nhu
nhuyến, sắc kham thọ trì và sắc già. Vô thường và mắt, chẳng phải
nghiệp
báo chỗ thành nghĩa. Ngoài ra 12 sắc có hoại. Cái kia lại có 2
nghĩa. Lại
cũng có 3 loại sắc. Cho nên có thể thấy có sự
đối ngược lại. Chẳng thể thấy, có đối lại. Chẳng thể thấy, chẳng
đối lại.
Đối với đây một sắc có thể thấy có sự đối lại. Cho nên gọi
là sắc
nhập. Dùng nghĩa của thấy, dùng nghĩa của xúc, 11 sắc không thể
thấy có sự
đối lại. Trừ sắc nhập, ngoài
sắc lớn
vậy. Nghĩa chẳng thấy là lấy nghĩa xúc 10. 8 sắc chẳng thể thấy
không có
đối lại. Ngoài ra sắc nhỏ
chẳng thể
thấy nghĩa. Chẳng thể có nghĩa xúc. Tất cả sắc thành 4 loại.
Đó là tự tánh sắc, hình sắc,
tướng sắc
và phân biệt sắc. Đối với 19 tự tánh
nầy sắc
ngoài ra có 12 sắc lớn. Nữ căn,
nam
căn, mạng căn, xứ thủy giới nuôi ăn uống, sắc nhãn sắc. Lấy
cứu
cánh làm nghĩa. 7 hình sắc. Đó là
thân
tạo, khẩu tạo sắc, sắc nhẹ, sắc nhu nhuyến, sắc kham thọ trì, sắc
thọ, sắc
tương tụ và sắc tự tánh. Dùng biến 3 tướng sắc, sắc sanh, sắc già
và sắc
vô thường. Lấy tướng hữu vi làm nghĩa. Một sắc phân biệt sắc. Cho
nên gọi
là hư không giới. Dùng sự tụ họp phân biệt nghĩa.
Đó là tự tánh sắc. Cái kia
thành phân
biệt, ngoài chẳng phân biệt. Như thế dùng đến
nhiều loại phân biệt.
Hỏi rằng: Vì sao dùng một loại để
phân
biệt?
Đáp rằng: Tất cả sắc không có nguyên nhơn mà cũng chẳng phải
chẳng có
nguyên nhơn. Nguyên nhơn không tương ưng, có duyên có làm, thế sở
nhiếp,
có lậu, có cột chặt. Có nối kết, có lưu chuyển. Có xoay, có che
chở. Chỗ
gặp gỡ nơi các cõi. Có phiền não, vô ký, vô sự. Chẳng phải tâm số,
tâm
chẳng tương xứng. Nơi ít ham muốn cột chặt, chẳng
định, chẳng thừa, chẳng cùng
với lạc
để khởi lên. Chẳng cùng với
khổ
để khởi lên. Chẳng cùng với
chẳng khổ
chẳng lạc khởi lên. Chẳng làm cho tụ họp, cũng chẳng phải chẳng
làm cho tụ
họp, chẳng học, chẳng phải chẳng học. Chẳng thấy chỗ dứt mất.
Không có tư
duy chỗ mất đi. Như thế lấy một loại,
để có
thể biết những cái khác. Đây gọi là sắc ấm.
Hỏi rằng: Còn thọ ấm thì sao?
Đáp rằng: Lấy tướng của một thọ; dùng tâm thọ trì kia thành
một. Do xứ
và 2 thọ; nên gọi là thân thọ và ý thọ. Do tự tánh có 3 thọ. Đó là
lạc
thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Do pháp có tứ thọ. Đó là
thiện thọ,
bất thiện thọ, báo thọ và sự thọ. Do căn có 5 thọ.
Đó là lạc căn,
khổ căn. Hỷ căn, ưu căn và xả căn.
Do
màu đen trắng có 6 thọ. Đó là
hữu lậu lạc thọ, vô lậu lạc thọ, hữu lậu khổ thọ, vô lậu khổ thọ,
hữu lậu
bất khổ bất lạc thọ, vô lậu bất khổ bất lạc thọ. Do cửa ngõ mà có 7
thọ.
Từ mắt chạm vào, sanh ra thọ. Từ tai nghe vào, sanh ra thọ. Từ mũi
ngửi
vào, sanh ra thọ. Từ lưỡi chạm vào, sanh ra thọ. Từ thân chạm vào,
sanh ra
thọ. Từ ý tiếp xúc, sanh ra thọ. Từ ý thức giới tiếp nhận vào,
sanh ra
thọ. Từ đó nói rộng ra 108 loại thọ. 6
loại
nương vào ái để khởi lên
thọ. 6
loại nương vào sự ra khỏi, khởi lên thọ. 6 loại nương vào ái ưu tư
khởi
lên thọ. 6 loại nương vào sự ra khỏi ái ưu khởi lên thọ. 6 loại
nương vào
ái xả để khởi lên thọ. 6 loại
nuơng
vào sự xuất ly xả để khởi lên
thọ.Đây
là 6 lần 6 thành 36 loại. Lấy 3 thời (quá khứ, hiện tại, vị
lai)
nhơn cho 36 thành 108 loại thọ ấm.
Hỏi rằng: Thế nào là tưởng ấm?
Đáp rằng: Dùng tưởng một tướng, dùng tâm để biết. Dùng 2 tướng
đen
trắng. Nghĩa là tưởng điên đảo và chẳng tưởng điên đảo. Đây do 3
tướng
chẳng thiện. Đó là dục tưởng, sân nhuế tưởng và hại tưởng. Do 3
tưởng
thiện có tưởng xa lìa, tưởng không sân nhuế, tưởng chẳng hại. Dùng
4 loại
tưởng chẳng biết tánh nghĩa xứ. Đó là:
Bất tịnh tưởng là tịnh; khổ tưởng là vui; vô thường tưởng là
thường; vô
ngã tưởng là ngã và do biết nghĩa tánh xứ của 4 tưởng.
Đó là tưởng bất tịnh; tưởng về
khổ;
tưởng về vô thường và tưởng về vô ngã. Do Tỳ Ni có 5 tưởng.
Đó là bất tịnh tưởng là tịnh;
bất tịnh
tưởng là bất tịnh; tịnh tưởng là bất tịnh; tịnh tưởng là tịnh và
nghi
tưởng. Do có 6 việc tưởng. Đó là
tưởng
về sắc, tưởng về âm thinh, tưởng về hương, tưởng về mùi vị, tưởng
về xúc
và tưởng về pháp. Tưởng lại do 7 cửa. Đó
là
sự tưởng ấy do mắt chạm vào mà sanh ra. Sự tưởng ấy từ tai chạm
vào mà
sanh ra. Tưởng ấy từ mũi chạm vào mà sanh ra. Tưởng ấy từ lưỡi
chạm vào mà
sanh ra. Tưởng ấy từ thân chạm vào mà sanh ra. Tưởng ấy từ ý chạm
vào mà
sanh ra. Tưởng ấy từ ý thức chạm vào mà sanh ra. Như thế các loại
tưởng có
thể biết được. Đây gọi là
tưởng ấm.
Hỏi rằng: Thế nào gọi là hành ấm?
Đáp rằng: Đó là xúc, tư, giác, quán. Tâm, hỷ, tinh tấn, niệm.
Định,
huệ, mệnh căn, che lấp.Chẳng tham, chẳng sân, tàm, quý. Muốn,
khen, giải
thoát, xả, tác ý. Tham, sân nhuế, vô minh, mạn. Kiến, điều, hối,
nghi,
giải đãi, vô tàm, vô quý. Trừ thọ tưởng, tất cả tâm số pháp hành
ấm.
Đối với sự xúc nầy tâm nầy gặp sự
việc. Giống
như ánh sáng mặt trời gặp bức tường là tưởng về nơi nầy. Tư
có
nghĩa là tâm nầy động như làm
nhà cửa,
dùng các pháp đầy đủ. Đây là
sự môn
túc xứ. Giác có nghĩa là tâm tạo như dùng tâm
để tụng kinh. Đây là tưởng về túc xứ. Quán có nghĩa là tâm
nầy xem
xét sự việc như ý nghĩa tùy theo sự suy nghĩ.
Đây là giác túc xứ. Hỷ có nghĩa là tâm nầy hoan hỷ như
người
được vật. Đây chính là dũng
dượt túc
xứ. Tâm nầy chính là tâm tình như thần chú làm cho nước trong.
Đó là bốn Tu
Đà Hoàn túc xứ. Tinh tấn nghĩa
là tâm
nầy dũng mãnh, như con trâu mạnh khỏe. Đó là
8 việc xứ túc xứ. Niệm có nghĩa là tâm nầy giữ gìn như giữ cây
đèn dầu.
Đó là Tứ niệm xứ túc xứ. Định
nghĩa là
tâm nầy chuyên nhứt như đèn
nơi cung
điện. Đây là Tứ Thiền túc xứ.
Huệ có
nghĩa là tâm nầy thấy như người có mắt. Đây là
Tứ Thánh Đế túc xứ. Mệnh căn nghĩa là
vô sắc pháp là thọ mệnh. Như nước Uất Ba La.
Đây là Danh Sắc túc xứ. Sự che lấp nghĩa là tâm ác dừng lại
xa lìa.
Giống như người vui vì mạng sống lìa chất
độc. Đây là Tứ Thiền Hành túc xứ. Không tham nghĩa là tâm
nầy xả bỏ
sự dính mắc, như được thoát ra khỏi
trách
nhiệm. Đây là ly xuất túc xứ. Chẳng sân nghĩa là tâm nầy
chẳng sân
giận, giống như da mèo. Đây là
Tứ Vô
Lượng túc xứ. Tàm có nghĩa là tâm nầy xấu hổ, giống như làm việc
ác thì
giận cái ác ấy, xem như tiểu giải. Đây
là
tự thân y túc xứ. Quý có nghĩa là tâm nầy sợ làm việc ác, giống
như sợ ông
quan lớn. Đây gọi là thế y túc
xứ. Ỷ
có nghĩa là tâm giao động diệt mất,
như người
quá lo về nước lạnh để tắm rửa. Đây là hỷ túc ý. Dục có
nghĩa là
vui làm lành như có lòng tin của Đàn
Việt. Đây là Tứ Như Ý túc xứ.
Giải
thoát nghĩa là tâm nầy bị che khuất như nước chảy vào chỗ sâu.
Đây là giác quán túc xứ. Xả có
nghĩa
là tâm nầy chẳng đến đi, như người
chấp vào
sự xưng hô. Đây là Tinh tiến
đẳng túc xứ. Túc ý có nghĩa là
tâm nầy
làm cho khởi lên phép tắc. Như người chấp vào cái bánh lái của
thuyền.
Đây gọi là thiện bất thiện túc
xứ.
Tham có nghĩa là tâm nầy giữ như giữ ngỗng.
Đây thuộc về sự khả ái, khả lạc, sắc túc xứ. Sân nhuế có nghĩa là
tâm hung hăng như con rắn độc. Đây là
thập sân nhuế túc xứ. Vô minh nghĩa là tâm nầy chẳng có chỗ thấy,
như
người mù. Đây gọi là Tứ
Điên Đảo
túc xứ. Mạn có nghĩa là tâm nầy cao ngạo cùng với tướng
mạo.
Đây là tam chủng túc xứ. Kiến
có nghĩa
là tâm nầy chấp thủ như người mù sờ voi. Đây
chính là từ Thanh Văn khác bất
chánh
ức túc xứ. Điều có nghĩa là tâm nầy không tịch tĩnh, giống
như nước
giọt. Đây là viễn tinh tấn túc
xứ. Hối
có nghĩa là tâm nầy thối lui như yêu thích việc bất tịnh.
Đây là lấy việc làm lành, ác
thoái túc
xứ. Nghi có nghĩa là tâm nầy chẳng chấp thủ một thứ, như người
đi xa quê, cảm thấy có 2 con
đường. Đây là bất chánh tác ý
túc xứ.
Giải đãi có nghĩa là tâm nầy
sa sút,
như rắn lột võ. Đây là bát lại
xứ túc
xứ. Vô tàm có nghĩa là tâm nầy làm việc ác chẳng xấu hổ, như người
Chiên
Đà La.
Đây là bất cung kính túc xứ. Vô quý có nghĩa là tâm nầy làm
việc ác
chẳng sợ hãi giống như ông vua ác. Đây
là
lục bất cung kính túc xứ. Đây nghĩa là
hành ấm.
Hỏi rằng: Thế nào là thức ấm?
Đáp rằng: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý
giới,
ý thức. Nhãn thức nghĩa là mắt duyên vào sắc sanh ra thức. Đây
nghĩa là
nhãn thức. Nhĩ thức nghĩa là tai nương vào âm thanh để sanh ra
thức. Đây
nghĩa là nhĩ thức. Tỷ thức nghĩa là mũi nương vào mùi thơn
để sanh ra thức. Đây gọi là tỷ
thức.
Thiệt thức nghĩa là lưỡi nương vào mùi vị để
sanh ra thức. Đây gọi là thiệt thức. Thân thức nghĩa là
thân nương
vào sự va chạm để sanh ra thức. Đây
gọi là
thân thức. Ý giới nghĩa là nương vào xứ 5 việc và nương vào 2
việc. 5 thức
trước sau lần lượt sanh ra thức. Đây
gọi là
ý giới. Ý thức giới có nghĩa là trừ thức thứ 6 nầy, ngoài tâm.
Đây gọi là ý thức giới. Bảy
thức nầy
lấy 3 hành làm chỗ nhiều hơn như thế nên biết. Như thế dùng
đến xứ sự, dùng sự và dùng
pháp.
Hỏi rằng: Sao gọi là xứ sự?
Đáp rằng: 5 thức có nhiều xứ và nhiều sự.Như ý giới và ý thức
giới thì
một xứ ý giới và 5 sự ý thức giới. 6 sự 5 thức nghĩa là nội pháp
nội xứ
ngoại sự ý giới. Nội pháp ngoại xứ, ngoại sự ý thức giới. Nội pháp
ngoại
xứ, nội sự lại cũng ngoại sự. Lục thức là sơ sanh xứ, sơ sanh sự ý
thức
giới, đối với nhập vào thân
thể trong
sát na để cùng sanh xứ.
Đầu tiên lấy sanh xứ.
Đối với vô sắc có vô xứ tất cả sự.
Như thế
lấy xứ sự mà có thể biết.
Hỏi rằng: Sao gọi là sự?
Đáp rằng: Ngũ thức mỗi một thọ là cảnh giới. Chẳng phải mỗi một
lần
lượt sanh; chẳng sanh trước sanh sau và chẳng tan ra để khởi lên.
Dùng ngũ
thức chẳng biết chỗ sở hữu pháp, trừ ra việc khởi lên lúc ban đầu.
Dùng ý
giới chẳng biết sở hữu pháp, trừ ý chuyển
đổi. Lấy lục thức, bất an oai nghi, liền làm cho an. Dùng
lục thức
chẳng thọ trì thân nghiệp, khẩu nghiệp. Dùng lục thức chẳng thọ
thiện,
chẳng bất thiện pháp, làm cho mau thọ. Dùng lục thức chẳng nhập
định và chẳng an tường mà
khởi, làm
cho mau vào chỗ định, lấy phần sau an
tường.
Dùng lục thức chẳng hết chỗ chẳng sanh; hoặc dùng phần sau;
hoặc
dùng sự việc hết kia, lấy quả báo ý thức giới
để sanh. Dùng lục thức chẳng thấy,chẳng biết, chẳng thấy
mộng, lấy
hậu phần nhãn để chuyển ý giác, làm
cho mau thấy mộng. Đây là việc
có thể
biết được.
Hỏi rằng : Thế nào là pháp?
Đáp rằng: Ngũ thức có giác có quán. Ý giới có giác có quán. Ý
thức giới
lại có giới có quán. Giả sử vô giác thiểu quán và giả thiết vô
giác vô
quán. Ngũ thức cùng với xả cộng hành. Thân thức giả sử cùng với
lạc cộng
hành. Nếu cùng với khổ cộng hành. Ý thức giới giả sử cùng với hỷ
cộng
hành; giả sử cùng với ưu cộng hành; giả sử cùng với xả cộng hành.
Ngũ thức
quả báo ý giới giả sử quả báo giả phương tiện. Ý thức giới giả ra
lành và
giả ra chẳng lành. Giả quả báo và giả phương tiện. Lục thức không
nguyên
nhơn chẳng khởi. Thế gian pháp có lậu có kết, có trói buộc, có lưu
chuyển,
có nguy, có che đậy. Chỗ xúc ấy có
thủ có
phiền não. Chẳng phải lấy thấy mà đoạn
trừ. Cũng chẳng phải lấy tư duy mà trừ dứt
được. Chẳng làm nên sự tụ họp
mà cũng
chẳng phải chẳng làm nên sự tụ họp. Phi học phi phi học. Thiểu dục
giới
buộc ràng, chẳng định, chẳng thừa. Ý
thức
giới tất cả đều hoại. Như thế dùng pháp
để rõ biết hơn.
Đây gọi là thức ấm.
Đây nghĩa là ngũ ấm.
Lại nữa ngũ ấm nầy dùng Tứ Hạnh là chỗ khá nên biết.
Đây lấy câu nghĩa làm tướng,
lấy sự
phân biệt mà nhiếp.
Hỏi rằng: Thế nào là câu nghĩa?
Đáp rằng: Sắc tức là sự hiện hữu. Thọ nghĩa là có thể thọ nhận.
Tưởng
nghĩa là sự hiểu biết. Hành nghĩa là sự làm việc. Thức nghĩa là sự
rõ
biết. Ấm tức là các loại tập họp lại. Như thế nên biết là câu
nghĩa.
Hỏi rằng: Thế nào là tưởng?
Đáp rằng: Sắc nghĩa là chính sắc tướng như thấy sự đâm chém và
bốn đại
kia là chỗ đầy đủ. Thọ nghĩa là tướng của thọ kia, giống như bịnh
cùi hủi
mà phải tiếp xúc. Tưởng nghĩa là lấy tướng chấp giữ làm tướng như
làm
tướng mạo của con voi, sự tiếp xúc kia đầy
đủ. Hành nghĩa là lấy sự hòa hợp làm tướng như vị chuyển
luân, sự
tiếp xúc kia đầy đủ. Thức nghĩa là
lấy
tướng hiểu biết như biết mùi vị. Do danh sắc kia
đầy đủ. Như thế dùng tướng có
thể rõ
biết được.
Hỏi rằng: Vì sao lại phân biệt?
Đáp rằng: Lấy 3 loại ấm để phân biệt. Đó là ngũ ấm, ngũ thọ ấm,
ngũ
pháp ấm. Đối với ngũ ấm nghĩa là tất cả các pháp hữu vi. Ngũ thọ
ấm nghĩa
là tất cả các pháp hữu lậu. Ngũ pháp ấm có nghĩa là giới ấm, định
ấm, huệ
ấm, giải thoát ấm và giải thoát tri kiến ấm.
Đối với ngũ thọ ấm điều nầy có thể vui. Như thế dùng phân
biệt
để có thể biết.
Hỏi rằng: Vì sao lại nhiếp?
Đáp rằng: Có 3 loại nhiếp. Đó là nhập nhiếp, giới nhiếp và đế
nhiếp.
Đối với sắc ấm nầy có 11 nhập sở nhiếp. Ba pháp ấm nhập sở nhiếp,
thức ấm
ý nhập sở nhiếp. Sắc ấm 11 giới sở nhiếp; tam ấm pháp giới sở
nhiếp. Thức
ấm bảy giới sở nhiếp. Giới ấm, định ấm, huệ ấm, giải thoát tri
kiến ấm.
Pháp nhập và pháp giới sở nhiếp. Giải thoát ấm pháp nhập và ý
nhập. Cùng
với pháp giới, ý thức giới sở nhiếp. Ngũ ấm hoặc
đế sở nhiếp; hoặc phi đế sở nhiếp.
Ngũ thọ ấm
khổ đế và tập đế sở nhiếp.
Giới ấm,
định ấm, huệ ấm, đạo đế sở nhiếp. Giải thoát ấm phi đế sở nhiếp.
Giải
thoát tri kiến ấm, khổ đế sở nhiếp. Hữu pháp là ấm sở
nhiếp. Phi
đế sở nhiếp. Hữu pháp là
đế sở nhiếp, phi ấm sở nhiếp. Hữu
pháp là
ấm sở nhiếp, diệc đế sở nhiếp. Hữu
pháp phi
ấm sở nhiếp, diệc phi đế sở nhiếp. Đối với sự có không, gốc gác
trói buộc
của sắc và cùng với đạo tương
ưng. Sa
Môn quả là ấm sở nhiếp. Phi đế
sở
nhiếp. Niết Bàn là đế sở
nhiếp, phi ấm
sở nhiếp. Tam đế là ấm sở nhiếp, diệc
đế sở nhiếp. Chế nghĩa là phi ấm sở nhiếp, lại phi
đế sở nhiếp. Như thế là những
hành.
Đối với ấm biết được sự phân biệt
phương
tiện. Đây có nghĩa là âm phương tiện.
Hỏi rằng: Thế nào là nhập phương tiện?
Đáp rằng: Điều ấy có 12. Đó là nhân nhập, sắc nhập, nhĩ nhập,
thinh
nhập, tỷ nhập, hương nhập, thiệt nhập, vị nhập, thân nhập, xúc
nhập, ý
nhập, pháp nhập. Đối với nhân nhập nghĩa là cảnh giới nầy thanh
tịnh lấy
mắt để thấy sắc. Sắc nhập có nghĩa là hình mạo của sắc giới là do
mắt thấy
cảnh ấy. Nhĩ nhập nghĩa là giới nầy thanh tịnh và lấy sự nghe âm
thanh.Thanh nhập nghĩa là thế giới là tiếng kêu và lỗ tai là cảnh
giới. Tỷ
nhập nghĩa là thế giới nầy thanh tịnh và lấy
đó làm thúi thơm. Hương nhập có nghĩa là thế giới có mùi
thơm mà
mũi là cảnh giới. Thiệt nhập nghĩa là thế giới nầy thanh tịnh, nên
rõ biết
được mùi vị. Vị nhập có nghĩa
là thế
giới nầy khí vị, lưỡi là cảnh giới. Thân nhập có nghĩa là thế giới
nầy
thanh tịnh lấy sự tiếp xúc nhỏ nhẹn trơn lán. Xúc nhập có nghĩa là
đối với địa giới, thủy giới, hỏa
giới, phong
giới,cứng, mềm, lạnh, ấm lấy thân làm cảnh giới. Ý nhập
nghĩa là 7
thức giới. Pháp nhập có nghĩa là 3 vô sắc ấm và 18 sắc nhỏ nhẹn và
Niết
Bàn. Đây nghĩa là 12 nhập. Lại
nữa với
12 nhập nầy lấy Ngũ Hành là chỗ rõ biết hơn cả. Như thế dùng câu
nghĩa làm
cảnh giới, làm duyên. Tâm nhỏ nhẹn kia khởi lên rồi nhiếp.
Hỏi rằng: Sao gọi là câu nghĩa?
Đáp rằng: Mắt đã thấy. Sắc nghĩa là hiện bày. Tai nghĩa là
nghe. Âm
thanh là tiếng động. Mũi nghĩa là biết mùi hôi thối. Hương nghĩa
là biết
mùi thơm. Lưỡi nghĩa là biết mùi vị. Vị nghĩa là khí vị. Thân đây
chính là
chánh trì. Xúc có nghĩa là có thể chạm vào. Ý có nghĩa là sự hiểu
biết.
Pháp có nghĩa là vô mệnh. Nhập có nghĩa là vô sắc pháp môn. Xứ có
nghĩa là
sự thọ trì. Như thế dùng câu nghĩa để
biết.
Hỏi rằng: Vì sao dùng đến cảnh
giới?
Đáp rằng: Mắt, tai chẳng thấu đến cảnh giới, mũi, lưỡi, thân
lại đến
cảnh giới. Ý đầy đủ nơi cảnh giới. Lại cũng nói tai nghĩa là đến
cảnh
giới. Vì sao chỉ có sự chướng ngại nên chẳng nghe được tiếng nói.
Như nói
về chú thuật. Lại nói mắt nghĩa là từ chính cảnh giới nầy
đến cảnh giới khác.
Sao lại chẳng thấy bên ngoài tường? Như thế lấy cảnh giới mà có
thể
biết.
Hỏi rằng: Sao gọi là duyên?
Đáp rằng: Duyên ấy là sự nương vào ánh sáng nơi mắt, do sự tác ý
nên
sanh ra nhãn thức. Đối với con mắt, đây là nhãn thức. Lấy 4 sự
duyên trở
thành duyên. Đầu tiên sanh ra nương vào căn mà có duyên sắc và lấy
3 duyên
để trở thành duyên. Việc sanh đầu tiên có ánh sáng, dùng 3 duyên
để trở thành duyên.
Đầu tiên nương vào sự tác ý và
dùng 2
duyên thành duyên. Lần theo là chẳng có duyên. Duyên vào lỗ tai
để nghe sự không tạo tác. Ý được sanh
do nhĩ
thức. Lấy điều phân biệt nầy để phân biệt. Duyên vào mũi có
gió và
mùi thơm để tác ý,rồi sanh ra tỷ
thức. Duyên
vào lưỡi, do vị của nước tác ý, nên được
sanh
ra thiệt thức. Duyên vào thân để
chạm
xúc và ý ấy sanh ra thành thân thức. Nương vào ý pháp giải
thoát
để tác ý nên
được sanh ra ý thức. Đối với ý nầy
đây là
tâm phần sau. Pháp nghĩa là những việc của pháp.
Đây trở thành 4 loại. Lục nội
nhập,
quá khứ, hiện tại, vị lai là một loại. Ngoài ra 5 loại nhập quá
khứ, vị
lai, hiện tại lìa khỏi trừ phi nhập căn.
Đây
là loại thứ 2. Pháp nhập loại thứ 3 có 11 loại tạo thành
tên. Cho
nên lúc ấy chúng sanh phạm tội. Tất cả các tướng
đầu đà, chẳng có người nào
nhập
định và
được diệt thiền định. Suy nghĩ thật, chẳng suy nghĩ thật. Đây là
loại thứ 4. Đây nghĩa là pháp
sự. Kẻ
chuyên tâm nghĩa là kẻ tùy theo đó mà
lý giải. Tác ý nghĩa là đối với ý môn
chuyên
ý. Thức có nghĩa là tâm nhanh. Đối
với ý nầy
dùng làm ý thức và nương vào duyên để
thành duyên. Pháp nghĩa là các việc duyên vào
để thành. Giải thoát nghĩa là
nương
vào duyên thành duyên. Tác ý nghĩa là hai duyên thành duyên. Lần
lượt
duyên lại duyên, như thế lấy sự duyên vào mà rõ biết.
Hỏi rằng: Sao gọi là tâm nhỏ hẹp hơn khởi lên?
Đáp rằng: Đối với nhãn môn có 3 loại, trừ cái hẹp ở trên, giữa
và dưới.
Đối với việc ở trên lấy sự hẹp ấy chia thành 7 tâm. Vô gián, sanh A
Tỳ địa
ngục. Từ nơi có sự phân tâm, chuyển thấy tâm, sở thọ tâm, phân
biệt tâm,
làm cho tâm khởi lên, tâm nhanh chóng và việc của tâm kia.
Đối với việc phân tâm thì
đây là tâm căn
rối như tơ vò. Chuyển tâm nghĩa là đối
với nhãn môn,việc màu sắc ở giữa duyên vào vậy. Lấy sự
duyên vào
triển chuyển các cảnh giới. Nương vào nơi chốn
để phân tâm mà khởi lên. Rồi
lần lượt
phân tâm. Kẻ kia vì việc thấy sắc mà thành ra thay
đổi và chuyển tâm kia. Tâm
chuyển lần
lượt nương vào mắt để chuyển. Hiện
được thấy,
sanh ra tâm thấy. Tâm thấy ấy lần lượt thấy rồi nơi tâm và
hiện thọ
sanh thọ tâm. Thọ tâm lần lượt lấy thọ làm nghĩa. Hiện ra phân
biệt, sanh
ra tâm phân biệt. Tâm phân biệt lần lượt dùng nghĩa phân biệt hiện
ra làm
cho tâm sanh khởi. Làm cho tâm sanh khởi lần lượt làm cho khởi lên
ý
nghĩa. Do nghiệp của tâm đi xa nhanh.
Rồi tốc
hành tâm lần lượt dùng sự đi
nhanh làm
nghĩa. Chẳng thể dùng phương tiện sanh và việc kia làm tâm quả
báo. Từ kia
liền qua được sự phân tâm.
Hỏi rằng: Thí dụ như thế nào?
Đáp rằng: Như trên cửa thành của cung vua mà nằm ngũ; như mụt
nhọt của
con gái Ma Vương; chỗ ngồi của phu nhơn, đại thần và chính những
lầu các
trước cửa cung vua. Người điếc giữ cửa, nương vào cửa thành để ở.
Như
người giữ vườn canh trái Ám La (xoài) bị rơi trước cổng. Vua nghe
tiếng
động và vua bị
đánh thức, bảo các tỳ nữ rằng: Các
ngươi hãy
mở cổng; tỳ nữ liền phụng mệnh. Dùng tướng mạo, lời nói của người
mù nói
và người mù giải thích ý nghĩa, liền mở cửa thành,chỉ thấy trái Am
La
(xoài). Vua liền cầm đao. Nữ tỳ nhận
quả rồi
hiện vào trong ấy làm vị Đại
Thần. Đại
Thần ấy cùng với phu nhân và phu nhân rửa ráy trái ấy hoặc
chín,
hoặc sống, để yên một nơi, rồi
sau
đó mới dâng quả ấy lên vua
để làm thức
ăn. Sau khi ăn xong liền nói công đức
kia và
phi công đức, rồi trở lại ngủ như một
vị vua
đang nằm. Như thế có tâm phân biệt nên rõ biết. Giống như
người giữ
vườn nhặt lấy trái Am La bị rơi trước cửa, như thế nhờ nhãn môn và
màu sắc
ở giữa mà có thể biết được. Như vua
nghe
tiếng động kia mà tự biết rồi bảo tỳ nữ mở cửa thành; như
vậy là do
duyên triển chuyển làm cảnh giới. Nương vào nơi ấy nên tâm phân
biệt khởi
lên, như thế mà biết. Như nữ tỳ dùng tướng mạo ấy mà dạy cho người
mù mở
cửa. Như thế tâm chuyển đổi nên
biết.
Như người mù lúc mở cửa thấy trái Am La, như thế do nhãn thức mà
biết
được. Như lấy dao và người nữ
nhận quả
kia và hiện ra vị Đại Thần cầm quả Am
La giao
cho phu nhân. Như vậy đây là tâm phân biệt có thể biết;
hoặc chín
hay sống rồi để yên một chỗ,
sau
đó mới dâng vua. Như thế làm
cho tâm
khởi lên có thể biết. Như vua ăn quả
kia, như
vậy tâm mau chóng như thế mà biết. Như vua
ăn rồi nói công đức và phi
công
đức. Như thế sự việc kia là
kết quả,
tâm ấy nên biết. Sau đó vua liền ngủ.
Như vậy
tâm phân biệt có thể biết. Đối với con mắt đây là một việc
nằm ở
giữa. Tâm nhanh chóng không có thời gian trải qua là tâm kia nằm ở
khoảng
dưới, rồi làm cho tâm ấy khởi lên không gián
đoạn, trải qua gọi là phân tâm. Như thế ngoài ra nơi cánh
cửa có
thể rõ. Đối với cửa của ý không có
nơi giữa,
lấy duyên của sự tác ý mà giải thoát những hành
động. Đối với cửa của ý thành
ra việc
chấp giữ. Đối với đây là việc ở
trên
và 3 tâm sinh ra. Đó là phân
tâm,
chuyển tâm và tốc tâm. Việc kia tâm ở giữa và ở dưới sanh ra 2
tâm.
Đó là chuyển tâm và tốc tâm.
Đối với đây có thể nhận và
cũng chẳng
thể nhận là việc giữa. Lấy nhiều loại duyên và nhiều loại thọ nhận
để biết. Lấy việc chánh tác ý hay
việc chẳng
phải chánh tác ý duyên vào các việc lành hay chẳng lành
để mà biết. Như thế
đây là giữa tâm kia khởi lên
sự hơn
thua, như vậy nên biết.
Hỏi rằng: Sao gọi là nhiếp?
Đáp rằng: Có 3 loại nhiếp. Đó là ấm nhiếp, giới nhiếp và đế
nhiếp. Đó
là 10 nhập sắc ấm sở nhiếp,ý nhập thức ấm sở nhiếp, pháp nhập cùng
Niết
Bàn tứ ấm sở nhiếp. 11 nhập 11 giới sở nhiếp. Ý nhập bảy giới sở
nhiếp. 5
nội nhập khổ đế sở nhiếp. 5 ngoại nhập hoặc khổ
đế sở nhiếp; hoặc khổ đế sở nhiếp. Ý
nhập
hoặc khổ đế sở nhiếp; hoặc phi khổ đế sở nhiếp. Pháp nhập hoặc Tứ
Đế sở
nhiếp, hoặc phi khổ đế sở nhiếp, như thế sở nhiếp có thể rõ
biết.
Như vậy đây là hành mà nhập
vào trí
làm cho khởi lên làm phương tiện. Đây
nghĩa là
nhập phương tiện.
Hỏi rằng: Sao gọi là giới phương tiện?
Đáp rằng: 18 giới, nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới. Nhĩ
giới, thinh
giới, thinh thức giới. Tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới. Thiệt
giới, vị
giới, thiệt thức giới. Thân giới, xúc giới, thân xúc giới. Ý giới,
pháp
giới, ý thức giới. Đối với mắt thanh tịnh là nhãn giới, hình sắc
là sắc
giới, nhãn thức là nhãn thức giới. Như thế ngoài ra nên rõ biết.
Đối với ngũ môn chuyển sự thì ý
giới
thọ quả báo và ý giới tùy pháp mà vào, trừ pháp giới lục thức
giới. Ngoại
trừ tâm ý thức giới. Ngoài ra như lúc vào đầu
đã nói rộng. Đối với 10 giới
sắc ấm sở
nhiếp, pháp giới ngoài Niết Bàn tứ ấm sở nhiếp. Thất giới
thức ấm
sở nhiếp. 11 giới 11 nhập sở nhiếp. Thất giới ý nhập sở nhiếp. 11
giới khổ
đế sở nhiếp. Ngũ giới hoặc khổ đế sở
nhiếp;
hoặc phi đế sở nhiếp. Ý thức giới hoặc khổ đế sở nhiếp; hoặc phi
đế sở
nhiếp.
Hỏi rằng: Sao lại nói hóa cảnh giới?
Đáp rằng: Duy chỉ có pháp ấm nhập giới nầy làm cảnh giới. Nói
các pháp
khác nhau có tướng hòa hợp làm ấm nên nói là tướng môn nhập vào.
Nói tự
tánh tướng làm giới. Lại nữa Đức Thế Tôn vì kẻ lợi căn mà lấy ấm
môn để
nói về khổ đế. Vì kẻ trung bình dùng nhập môn
để nói về khổ đế. Vì kẻ thuần căn
lấy
giới môn để nói về khổ đế. Lại nữa đối với kẻ danh trước tướng, dùng
sự nói năng để ngắm về sắc, lấy sự
phân biệt
để nói về ấm. Vì người chấp trước vào sắc mà dùng phân biệt
sắc
để lược nói về chỗ vào.
Đối với kẻ danh sắc, trước tướng thì
lấy danh sắc phân biệt để nói về
giới. Lại
nữa nói tự tánh xứ, nói ấm, nói xứ là những việc nói chỗ
vào. Lấy
nơi chốn nói để nói tâm khởi lên
và
nói giới. Như thế đó là những
hành
giới phân biệt phương tiện. Đây gọi là
giới phương tiện.
Hỏi rằng: Những gì là nhơn duyên phương tiện?
Đáp rằng: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh
sắc,
danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ
duyên ái,
ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử ưu
bi khổ
não.Như thế đều do khổ ấm khởi. Duy chỉ khi vô minh diệt thì hành
diệt,
hành diệt thì thức diệt, thức diệt rồi danh sắc diệt, danh sắc
diệt rồi
lục nhập diệt, lục nhập diệt rồi thì xuíc diệt, xúc diệt rồi thọ
diệt, thọ
diệt rồi ái diệt, ái diệt rồi thủ diệt, thủ diệt rồi hữu diệt, hữu
diệt
rồi sanh diệt, sanh diệt rồi ưu bi khổ não diệt.
Như vậy vô minh nghĩa là chẳng rõ biết Tứ
Đế. Hành tức là những nghiệp thuộc về thân, khẩu và ý. Thức
nghĩa
là khi nhập thai một niệm tâm gọi tên là thức. Danh sắc nghĩa là
cùng với
tâm tương tục khởi lên tâm số pháp và Già La Ra sắc. Lục nhập
nghĩa là lục
nội nhập. Xúc tức là 6 sự va chạm nơi thân. Thọ nghĩa là 6 thọ nơi
thân.
Ái tức là sáu sự yêu thích của thân. Thủ gồm có 4 loại. Có kẻ do
nghiệp có
thể khởi lên dục sắc và vô sắc hữu. Sanh nghĩa là do ấm khởi. Lão
là ấm
đã chín muồi. Tử nghĩa là ấm
ấy tan
hoại.
Hỏi rằng: Sao lại vô minh duyên vào hành? Vì sao sanh duyên vào
lão tử?
Đáp rằng: Do phàm phu vô minh không nghe và hiểu biết về Tứ Đế.
Năm thọ
ấm đêm dài vui say đắm trước những vật thuộc về ta, thành ra sở
thuộc nơi
kia. Cho rằng vật nầy, thân nầy là thật nên vui say và đắm trước
vào đó.
Hòa hợp cùng với sự có để suy nghĩ và sự suy nghĩ kia làm cho
chẳng phải
chỗ trí tuệ nương vào. Vì được hữu
rồi thành
ra trụ ở nơi hữu. Như trồng giống ở ruộng lúa, không có thứ kia
làm cho có
diệt. Đây nghĩa là vô minh
duyên theo
hành. Từ vô minh kia khởi lên hành động.
Suy
nghĩ vào và có sự đắm trước và
có tướng ấy trở thành chỗ tập họp rồi chuyển khởi liên tục. Thức
ấy theo
tâm không gián đoạn cho nên
hành duyên
vào thức. Như ngoài mặt trời thì không có ánh sáng. Trụ
địa tăng trưởng. Như thế trừ thức
không có
danh sắc. Rồi không thể, trụ để sinh trưởng. Như tướng của thành
ghế nương vào ghế ngồi mà triển chuyển. Cho nên gọi là thức nương
vào danh
sắc, rồi nương vào nơi ấy nên ngoài ra có tên và cùng sanh khởi
lên. Ý
nhập vào rồi tăng trưởng nương vào
nhau nên gọi là mạng gồm có Tứ Đại.
Ngoài
ra cùng với thức ăn duyên vào
và ngũ
nhập tăng trưởng khởi lên.
Ngoài cái
nầy ra chẳng phải là duyên. Cho nên gọi là sắc duyên vào lục nhập.
Ngoài
ra căn, cảnh giới, thức hòa
hợp
để khởi lên xúc. Cho nên lục
nhập
duyên vào xúc. Xúc ấy thọ, hoặc khổ, hoặc vui, hoặc chẳng khổ,
chẳng vui,
chẳng phải chỗ xúc. Cho nên xúc duyên vào thọ. Kẻ phàm phu ngu si
thọ niềm
vui ấy để trở thành
đắm trước, rồi liền đó thọ khổ, mà
sự
đối trị ấy là niềm vui. Nếu
thọ, bất
khổ bất lạc xả đi thì thọ ấy
duyên vào
ái. Vì khát khao ái liền đến chỗ chấp
thủ ái.
Cho nên ái duyên vào thủ. Có thủ kia tạo ra nhiều việc
nhiều loại.
Cho nên thủ duyên vào hữu. Rồi do nghiệp mà sanh vào nơi các cõi.
Cho nên
đó gọi là sanh. Khi sanh rồi
sẽ già,
chết. Cho nên sanh duyên vào với lão tử. Như hạt giống làm duyên
để gieo. Như thế vô minh duyên
vào
hành phải nên biết. Như cây thì nương vào mầm. Như thế hành duyên
vào thức
phải nên biết. Như mầm duyên vào lá. Như thế thức duyên vào danh
sắc phải
nên biết. Như lá nương vào cành. Như thế danh sắc duyên vào lục
nhập phải
nên biết. Như cành duyên vào gốc. Như thế lục nhập duyên vào xúc
phải nên
biết. Như cây nương vào hoa. Như thế xúc duyên với thọ phải nên
biết. Như
hoa nương vào nước tưới. Như thế thọ duyên vào ái phải nên biết.
Như nước
nương vào thóc. Như thế ái duyên vào thủ phải nên biết. Như thóc
duyên vào
giống. Như thế thủ duyên vào hữu phải nên biết. Như giống duyên
vào mầm.
Như thế, đây là duyên sanh nên
phải
biết. Như thế khởi lên mọi thứ liên tục. Do vậy mà trước
đó cũng chẳng rõ và sau
đó lại cũng chẳng biết. Đây là
do vô
minh sanh ra đầu làm nhân
duyên tương
tục như vậy để trước đó chẳng rõ
mà
sau đó cũng lại mù mờ.
Hỏi rằng: Vô minh duyên vào cái gì?
Đáp rằng: Chỉ có vô minh duyên vào vô minh rồi sai sử trói cột
duyên
vào trói cột nhau, đầu làm đầu, đuôi làm đuôi. Lại nữa tất cả
những phiền
não, thành chỗ cho vô minh duyên vào. Như Phật đã nói: Từ lậu tập
khởi lên
chỗ nhóm chứa của vô minh. Lại nữa như nhứt tâm pháp lấy mắt
để thấy sắc, kẻ ngu si khởi lên
ái và
đối với lúc ấy tịnh lạc là tâm
si mê.
Đây nghĩa là vô minh. Sự suy
nghĩ
đắm trước nên vô minh nầy
duyên vào
hành. Tâm đắm trước nầy và
hành nầy
duyên vào thức, biết tương ưng tâm số pháp và chỗ tạo tác ra sắc
kia.
Đây là thức duyên vào danh
sắc. Từ ái
sinh vui nên duyên vào sự vui đó, sắc
vui ấy
duyên vào nơi các căn thanh
tịnh. Cho
nên gọi là sắc duyên vào lục nhập. Vô minh xúc là 6 chỗ cho
xúc
duyên vào. Hỷ xúc duyên vào chỗ thọ dục. Thọ duyên vào ái
để đắm trước, chấp thủ, vui buồn. Đây
là
ái duyên vào thủ. Mà sự đắm trước suy
nghĩ
lấy thủ duyên vào hữu. Pháp kia khởi lên nên hữu duyên vào
sanh.
Sống rồi già và niệm tan hoại sẽ trở thành chết. Như thế trong
từng sát na
trở thành 12 nhơn duyên.
Hỏi rằng: Trong 12 nhơn duyên ấy có bao nhiêu phần gọi là phiền
não và
bao nhiêu phần gọi là nghiệp? Có bao nhiêu phần gọi là quả báo? Có
bao
nhiêu phần thuộc về quá khứ, vị lai và hiện tại? Có bao nhiêu nhơn
duyên
và cái nào đã khởi lên? Vì sao
lại
nhơn duyên? Sao gọi là nhơn duyên pháp? Đây là
2 vấn đề sai biệt. Sao gọi là
nhơn
duyên thâm tánh?
Đáp rằng: 3 phiền não, vô minh ái chấp giữ là 2 nghiệp. Hành,
hữu;
ngoài ra bảy quả báo được gọi tên là phiền não. Thành nguyên nhơn
cho việc
sanh ra sau đó. Như họa sư vẽ màu. Việc nầy chẳng tự sanh. Như họa
sư tạo
ra màu, phiền não làm cho khởi lên. Có duyên
được sanh ra như nhiều màu khác nhau. Hai quá khứ vô minh
và hành;
hai vị lai là sanh và lão tử. Ngoài ra 8 hiện tại. Như thế lấy 3
thời gian
từ vô thủy sanh, chết tương tục phải nên biết. 12 phần nhơn duyên
chẳng
nên nói, trừ ra 12 nhơn duyên. Lại cũng chẳng nên nói.
Lúc ấy sao lại nhơn duyên?
12 pháp nầy cứ lần lượt triển chuyển làm nhơn vậy.
Đây nghĩa là nhơn duyên khởi.
12 nhơn
duyên phân ra rồi, khởi lên pháp. Đây
là
2 sự sai biệt. Nhơn duyên nghĩa là các hành sai biệt, chẳng thành
tựu,
chẳng thể nói; hoặc hữu vi; hoặc vô vi. Chẳng nên nói. Do khởi lên
nhơn
duyên pháp hành rồi thành tựu hữu vi. Đây
là
2 pháp sai biệt.
Thế nào là nhơn duyên thâm tánh?
Đây là hành, đây là tướng – thành ra vô minh hành. Duyên vào
hành kia
và tướng tánh kia. Thánh nhơn chẳng duyên vào kia, dùng trí huệ
sáng suốt
để thông đạt. Như thế tất cả đây nghĩa là nhơn duyên thâm tánh.
Lại nữa
đây là nhơn duyên. Dùng 7 hành để có thể biết. Như vậy 3 tiết và 4
lược
qua, dùng 12 hành, như bánh xe quay, lấy phân biệt, dùng sự tương
tục.
Vì sao lại lấy 3 tiết?
Các hành và thức. Thời gian nầy là tiết một. Thọ và ái, thời
gian kia
là tiết hai. Hữu và sanh, thời gian kia là tiết ba.
Đối với quá khứ lấy nghiệp phiền não
duyên vào với quả báo hiện tại. Đây là
tiết thứ nhứt. Đối với quả báo hiện
tại duyên
vào phiền não hiện tại. Đây là
tiết 2.
Đối với phiền não hiện tại
duyên vào
quả báo của vị lai. Đây là
tiết thứ 3.
Thứ nhứt và thứ ba là nhơn quả tiết và hữu tiết. Tiết thứ 2 là
nhơn quả
tiết và phi hữu tiết.
Hỏi: Hữu tiết nghĩa là gì?
Đáp: Kết cuộc là không có khoảng thời gian và chưa qua ấm nhập
giới. Do
nghiệp phiền não đầu tiên duyên vào vậy. Ở nơi các cõi khác lại
sanh vào.
Đây gọi là sanh tiết.
Hỏi: những gì là thành?
Đáp: Đó là sự nghiệp và vô minh ái tương ưng với chỗ tạo ra
công đức.
Kẻ phàm phu còn nghiệp ác, lúc bấy giờ chết đi rồi thọ khổ, để vào
chỗ xác
chết. Chẳng thấy đời nầy, chẳng thấy đời khác; niệm mất chẳng thể
niệm
được; lúc ấy thọ sanh vào đường khổ, ý niệm và trí tuệ thoái lui;
thân
mạnh khỏe cũng không còn, các căn dần
dần mất
sức. Từ thân nầy hoặc phần trên hoặc phần dưới, mệnh căn
mất thì khô cứng lại giống như lá đa
la khô vậy. Lúc ấy như nằm mộng, từ nghiệp mà 4 pháp khởi
lên như
nghiệp, tướng của nghiệp; cõi và tướng của cõi ấy.
Thế nào là nghiệp?
Đây là chỗ tạo tác hoặc có công đức; hoặc chẳng có công đức.
Hoặc nặng,
hoặc nhẹ, hoặc nhiều, hoặc ít. Như gần thì nơi nầy đầu tiên tạo ra
và
nghiệp kia liền khởi. Nghiệp tướng nghĩa là nương vào chỗ tạo
nghiệp nơi
kia và ở nơi kia liền khởi, nghiệp quyến thuộc sẽ theo nghiệp
tướng mà
khởi. Theo thời gian ví như trong hiện tại tạo nghiệp thì ở nơi
cõi ấy
công đức duyên theo cõi thiện
mà khởi.
Nếu chẳng có công đức thì
duyên theo
nơi đường dữ để khởi. Đây gọi là
tướng
nghiệp. Khi nhập thai có đủ 3 việc hòa
hợp nên được sanh ra. Nếu hóa sanh thì
nương vào nơi nơi để sanh. Đây là
theo
chỗ sanh mà khởi; hoặc nơi cung điện;
hoặc
chỗ ngồi; hoặc nơi núi; hoặc nơi cây; hoặc nơi sông ngòi,
tùy theo
cõi nầy và cùng với tướng chấp thủ để
khởi
rồi đúng lúc, kia lại sanh nơi kia; hoặc ghé vào; hoặc
ngồi; hoặc
nằm, thấy kia, thấy chấp giữ. Đối với
lúc ấy
là chỗ tạo nghiệp đầu tiên
và
nghiệp tướng. Hoặc cõi và tướng của cõi. Việc làm ấy nhanh chóng
hiện khởi
mất đi trong tâm và khi mệnh
chung thì
đến nhanh với tâm vô giác. Cùng
với
mạng căn mất, thành mạng sống.
Cuối
cùng tâm vô gián lần lượt lấy tâm nhanh ấy để
khởi. Duy chỉ có nghiệp kia và nghiệp tướng kia, hoặc khởi
lên hoặc
chấp vào tướng, tạo nên quả báo ở tâm và tạo thành sự hiện hữu về
sau
giống như đèn và ánh sáng. Như
từ trái
cầu lửa phát ra lửa. Khi tiết tâm kia khởi rồi cũng giống như
quyến thuộc
nơi bụng mẹ và nương vào đồ bất tịnh
của cha
mẹ. Từ đó 30 loại sắc nghiệp là chỗ tạo thành và thành ra
chỗ khởi.
Nơi thân có 10 và với kia sự già chỉ trong sát na và không tâm hối
tiếc.
46 sắc thành chỗ khởi lên. Nghiệp là chỗ tạo ra 30 thực tiết mà
thành. Có
2 sắc và 8 vô tâm quá tiết sắc. Đối
với việc
già trong sát na cùng với 2 tâm nầy và 54 sắc thành ra chỗ
khởi.
Nghiệp là chỗ thành 30 thức ăn để tạo
ra. Ba
sắc và 8 loại như thế khởi lên. Thức duyên vào danh sắc và
danh sắc
duyên vào thức. Như thế thành hữu tiết. Đối
với đây thành 3 tiết có thể rõ biết.
Hỏi: Thế nào là tứ lược?
Đáp: Vô minh hành ở nơi quá khứ nghiệp phiền não lược. Thức,
danh sắc,
lục nhập, xúc, thọ đối với hiện tại là quả báo lược. Ái, thủ, hữu
đối với
nghiệp trong hiện tại phiền não lược; sanh, lão, tử đối với quả
báo vị lai
lược. Như thế dùng tứ lược có thể rõ.
Hỏi: Những gì là 20 hành?
Đáp: Lấy thủ, vô minh ở quá khứ ái và thủ.Dùng tướng phiền não
thành
chỗ chấp giữ. Dùng thủ, hành quá khứ hữu và lấy nghiệp tướng thành
chỗ
chấp thủ. Đó là chấp giữ vào thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.
Hiện tại
dùng tướng của quả báo sanh và già chết thành chỗ chấp thủ. Dùng
sự chấp
thủ về ái trong hiện tại mà tướng phiền não thành chỗ chấp thủ.
Dùng thủ,
hữu trong hiện tại hành mà nghiệp tướng thành chỗ chấp thủ. Dùng
chỗ chấp
giữ về sanh, già, chết ở vị lai mà thức, danh sắc, lục nhập, xúc,
thọ
thành chỗ chấp thủ. Đây là 24
pháp lấy
sự chấp thủ nầy để thành tựu
và trở
thành 20. Như A Tỳ Đàm
đã nói. Với nghiệp
đầu tiên do ngu si,
đấy chính là vô minh, rồi tụ
hội lại
nơi các hành, rồi đắm trước về ái,
rồi lại
chấp giữ vì suy nghĩ là có. Đây
là
5 pháp đối với sự sanh hữu nầy. Chỗ
tạo
nghiệp đầu tiên đấy là
duyên.
Chẳng rõ những chỗ ngu si và đây là
vô
minh. Tụ họp lại là hành. Đắm trước là
ái; tim là sự chấp giữ; suy nghĩ là có. Đây là
5 pháp đối với nghiệp hữu. Vì
tương
lai sanh ra nên duyên vào. Lúc sanh ở vị lai thì thêm thức, là
danh sắc
thanh tịnh, là nhập vào chỗ xúc, là xúc thủ, là thọ.
Đây là 2 pháp
đối với vị lai sanh hữu. Với đây là
chỗ tác nghiệp, là chỗ duyên vào. Như thế dùng 20 hành có thể rõ
biết.
Sao gọi là luân?
Vô minh duyên vào hành, hành duyên vào thức cho
đến sanh duyên vào lão tử. Như
vậy tất
cả đều là khổ ấm khởi lên và
làm cho
khổ ấm nầy chẳng rõ. Đây nghĩa là
vô
minh rồi vô minh nương vào hành, lại như thế mà luân chuyển có thể
rõ
biết.
Sao gọi là khiên (dẫn dắt)?
Hai sự dẫn dắt. Cho nên vô minh là chỗ ban
đầu rồi lão tử cũng là chỗ ban đầu
là
có.
Hỏi: Những gì về vô minh là chỗ ban đầu?
Đáp: Sẽ nói lần lượt.
Những gì là lão tử chỗ ban đầu? -
Sẽ lần
lượt điểm qua sau.
Lại nữa vô minh là chỗ ban đầu là
hữu biên tế, về mặt vị lai biết đường.
Lão
tử là chỗ ban đầu, sơ biên tế,
về mặt
quá khứ biết đường. Như thế dùng
khiên
(chỗ dẫn dắt) ấy mà rõ biết.
Hỏi: Sao gọi là phân biệt?
Đáp: Có 2 loại nhơn duyên. Đó là thế gian nhơn duyên và xuất
thế gian
nhơn duyên. Với đây thì vô minh là chỗ đầu tiên.
Hỏi: Sao gọi là xuất thế nhơn duyên?
Đáp: Khổ nương vào khổ. Lòng tin nương vào lòng tin. Hỉ nương
vào hỉ.
Mạnh mẽ nương vào mạnh mẽ. Vui nuơng theo vui. Lạc nương theo lạc.
Định
nương theo định. Như thật tri kiến nương vào như thật tri kiến.
Yểm hoạn
(lo lắng) nương vào sự yểm hoạn. Vô dục nương vào vô dục. Giải
thoát nương
vào giải thoát diệt trí. Đây nghĩa là
xuất thế gian nhơn duyên.
Lại nói có 4 loại nhơn duyên. Đó là
nghiệp phiền não làm nhơn, hạt giống làm nhơn, có chỗ tạo tác và
cộng
nghiệp làm nhơn.
Hỏi: Sao gọi là nghiệp phiền não làm nhơn?
Đáp: Vô minh là sự khổ đầu tiên.
Hỏi: Sao lại là hạt giống làm nhơn?
Đáp: Như trồng cây thì mầm sẽ tiếp tục mọc.
Hỏi: Sao lại có chỗ tạo tác?
Đáp: Như hóa ra cảnh giới.
Hỏi: Sao gọi là cộng nghiệp làm nhơn?
Đáp: Giống như đất, tuyết, núi, biển, mặt trời, mặt trăng. Lại
cũng có
nói rằng đây chẳng phải là nhơn duyên của cộng nghiệp mà là các
sắc tâm
pháp lấy thời tiết làm nguyên nhơn. Chẳng có cái nào là cộng
nghiệp. Như
Đức Thế Tôn đã nói bài kệ sau đây:
Nghiệp chẳng cùng với kia
Chỗ chứa kia chẳng giống
Do người tạo công đức
Điều nầy chính được tốt
Như thế mà phân biệt để rõ
biết.
Hỏi: Những gì là tướng nhiếp?
Đáp: Bốn loại tướng nhiếp. Đó là ấm tướng nhiếp, nhập tướng
nhiếp, giới
tướng nhiếp và đế tướng nhiếp. Đây là vô minh, hành, xúc, ái, thủ,
hữu,
hành ấm sở nhiếp. Thức và thức ấm sở nhiếp. Danh sắc tứ ấm sở
nhiếp. Lục
nhập nhị ấm sở nhiếp. Thọ, thọ ấm sở nhiếp. Sanh, lão tử sắc ấm sở
nhiếp.
Cùng với hành ấm sở nhiếp. Vô minh, hành, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,
sanh,
lão tử pháp nhập sở nhiếp. Thức ý nhập sở nhiếp. Danh sắc ngũ nội
nhập sở
nhiếp. Lục nhập lục nội nhập sở nhiếp. Vô minh, hành, xúc, thọ,
ái, thủ,
hữu, sanh, lão tử pháp giới sở nhiếp. Thức, ý thức giới sở nhiếp.
Danh sắc
ngũ giới sở nhiếp. Lục nhập 12 đế sở
nhiếp.
Vô minh, ái, thủ 10 đế sở nhiếp. Ngoài ra 9 khổ
đế sở nhiếp. Xuất thế nhơn duyên
đạo phần, đạo đế sở nhiếp. Nhơn duyên
diệt, diệt đế sở nhiếp. Như thế tương
nhiếp
với nhau có thể rõ biết. Như thế dùng hành là nhơn duyên
phương
tiện có thể rõ biết. Đây nghĩa là
nhơn
duyên phương tiện vậy.
Luận về Con Đường
Giải
Thoát
Hết quyển thứ 10
-ooOoo-