Quyển thứ 8
Phẩm 8.5: Hành
Môn
Hỏi rằng: Sao gọi là từ? Tu cái gì? tướng gì? vị gì? khởi cái
gì và có
công đức nào? Vì sao phải tu
hành?
Đáp rằng: Như cha mẹ duy chỉ có một con, do chỗ tình yêu và nhớ
thấy
con mình nên khởi lên lòng từ. Khởi lên tâm làm lợi lạc. Như thế
đối với
tất cả chúng sanh. Lòng từ chính là tâm nhiêu ích. Đây nghĩa là
lòng từ,
làm cho kia tu giữ chẳng loạn; nên gọi là tu.Làm cho vui theo sự
nhiêu ích
khởi lên, lấy làm tướng. Lấy sự yêu thương nhớ nghĩ làm vị. Chẳng
sân nhuế
khởi lên. Nếu người tu hành lòng từ sẽ được
11 công đức. Gồm: Ngủ yên, thức an ổn, chẳng thấy ác mộng,
vì người
khác mà nhớ nghĩ yêu thương, chư thiên gìn giữ, lửa dữ dao gậy
chẳng làm
hại đến thân, làm cho tâm luôn
luôn
định tĩnh, sắc diện tươi đẹp, lâm
chung chẳng
loạn. Nếu chưa được thắng pháp thì sanh làm Phạm Thế.
Phải tu hành như thế nào?
Đầu tiên đối với người tọa thiền vui tu làm việc lành. Đầu tiên
quán về
sự phẫn hận, lo lắng và nhẫn nại là công đức. Tâm nên giữ gìn sự
nhẫn nại.
Vì sao nên quán sự phẫn hận, quá hoạn?
Nếu người mới bắt đầu khởi lên
sự
giận dữ, đốt thiêu tâm từ, làm
cho tâm
nầy dơ đi. Từ đây biến dần qua mắt và
mặt đỏ. Từ đó tạo thêm cho
miệng nói
điều xấu ác. Từ đây tăng trưởng sự
quan sát
bốn phương. Từ đây tay chân tìm gậy dao. Từ
đây giận dữ thổ huyết. Từ đây sinh ra
mất mát
của cải. Từ đây sinh ra đập phá các vật. Từ đây tăng trưởng việc
giết hại;
hoặc giết kẻ khác; hoặc tự giết mình. Lại nữa nếu người hay
giận
dữ; hoặc giết cha mẹ; hoặc giết A La Hán; hoặc phá Tăng;
hoặc ác tâm làm cho thân Phật ra máu. Như thế làm những
việc xấu
hổ. Như thế mà quán. Lại nữa như thế nên quán. Ta
được gọi là Thanh Văn
vì sao mà chẳng đoạn sự giận
dữ, trở nên
không xấu hổ. Ta nhớ lại việc cái cưa như trong kinh
đã nói. Ta ưa vui pháp lành.
Nếu ta
làm cho sự giận dữ tăng trưởng, trở
thành
sự giận ác. Như người vui tắm, cuối cùng cũng dơ. Ta tự biết
đa văn mà chưa hàng phục
được sự giận dữ, như chỗ bỏ dơ, giống
như vị
Thầy thuốc mà cuối cùng tự tán loạn. Ta vì
đời là chỗ trân quý mà ta
chẳng trừ
được sự giận dữ thì làm chỗ
cho người
chê cười. Cũng giống như người họa cái hình mà bên trong toàn là
đồ chẳng sạch chứa nhóm. Là
con người
có trí tuệ mà khởi lên sự sân hận cũng giống như người
ăn đồ tạp độc. Vì sao vậy? -
Từ sự
giận dữ nầy thật chẳng đáng ưa rồi thành
quả báo khổ sở. Như người bị rắn độc
cắn. Tự
có độc dược, nên chẳng thể chữa lành. Người kia có thể biết
vui,
khổ và chẳng vui. Như thế Tỳ Kheo. Nếu tâm giận tức khởi lên chẳng
thể kềm
chế được thì Tỳ Kheo kia có
thể biết
được sự khổ, vui và chẳng vui,
vì sao
từ sự giận dữ nầy mà phải kinh sợ.
Lại nữa nên quán về sự sân hận. Sự sân giận nầy làm cho oán hận
cả nhà
và ai cũng ta thán, cười chê. Lại vì chỗ thân cận mà xấu hổ. Chỉ
có cái
đức mới sâu dày; nhưng lại bị
khinh
miệt. Căn bản được quý trọng mà
trở
thành bị khinh dễ. Bị gọi là dự hay bị chê cười. Rõ ràng cầu vui
thành
khổ. Hoặc không động mà làm ra
cho
động; hoặc có mắt trở thành
như mù;
hoặc thông minh mà trở thành vô trí. Như thế nên quán và nhớ nghĩ
về sự
giận dữ, lo nghĩ.
Hỏi rằng: Vì sao quán về công đức
của sự
nhẫn nhục?
Đáp rằng: Nhẫn nhục là cái lực, là cái áo giáp có thể hộ thân,
có thể
trừ sự giận dữ. Đây gọi là dự, là lời khen. Người trí tán thán chỗ
ấy. Đây
là niềm vui làm cho chẳng thoái. Đây là sự giữ gìn, làm cho hộ trì
tất cả
đầy đủ. Đây là ánh sáng làm cho thấy rõ nghĩa.
Đây gọi là việc khởi lên sự
xấu hổ.
Lại nữa nên quán ta đã cạo bỏ
tóc râu;
nên phải nhẫn nhục. Ta đã yêu
ta và
nhận chỗ quốc thí thì phải lấy tâm nhẫn mà làm cho thí chủ kia
được quả báo lớn. Ta mang giữ hình
hài
bậc Thánh, ta phải thực hành nhẫn nhục là hạnh của bậc Thánh. Ta
còn sân
nhuế, làm cho chẳng còn sân nhuế. Ta được
gọi
là Thanh Văn làm cho
thật danh
là Thanh Văn. Kẻ Đàn Việt cúng
thí cho
ta các đồ vật, hãy lấy sự nhẫn
nhục
nầy làm cho thí chủ kia được quả báo
lớn. Ta
có niềm tin rằng: Sự nhẫn nhục nầy là chỗ ta tin tưởng, ta
có trí
tuệ. Sự nhẫn nhục nầy là nơi sinh ra trí tuệ. Ta có trùng
độc của sự giận dữ. Với sự nhẫn nhục
nầy ta
sẽ đạp lên trùng độc kia. Như
thế quán
niệm về sự giận dữ, lo lắng và công
đức của sự nhẫn nhục, làm cho tâm thọ trì. Ta sẽ hướng về
sự nhẫn
nhục. Có người ác mạ lỵ ta, ta sẽ nhẫn nhục, ta sẽ khiêm cung
chẳng kiêu
mạn. Như thế người tọa thiền hướng về niềm vui của sự nhẫn nhục.
Tự tạo ra
sự lợi lạc, nhập vào nơi yên ổn; tâm chẳng loạn. Từ ban
đầu, thân nầy làm cho
đầy đủ. Ta lại vui và tâm vui
chẳng nệ
hà khổ sở.
Vì sao ta chẳng giận gia đình
và
chẳng sân nhuế?
Sự an lạc đã xa lìa các não
phiền,
thành tựu tất cả công đức. Kẻ tọa
thiền kia
chế phục được tâm nầy, làm cho tâm biết xấu hổ và làm cho
tâm nầy
kham nhẫn lãnh thọ. Nếu tâm đã
trở
thành tàm quý kham nhẫn lãnh thọ rồi thì từ
đây nên tu hành về lòng từ. Đối
với
tất cả chúng sanh như thể thân nầy khổ sở để tọa thiền và
người ấy
đã tu về lòng từ.
Đối với tất cả chúng sanh từ đầu
chẳng thể tu
về lòng từ và đối với những
người oán
trong gia đình, với người ác, với người chẳng có công
đức, với người đã mất, người ở
nơi
đó nên khởi lên lòng từ. Người
tọa
thiền kia nên quý trọng họ. Vì khởi lên tâm xấu hổ; nên
đã chẳng khinh khi họ. Chẳng
làm những
việc không vừa ý mà hay làm lợi lạc; nên phải khởi lên lòng từ.
Đối với những người ấy chẳng khởi lên
sự tật đố và cũng chẳng khởi
lên sự
sân nhuế. Đối với chỗ của người kia,
đầu tiên
nên tu lòng từ. Đầu tiên nên
tưởng
đến sự lợi lạc ấy và nên quý
trọng
công đức kia. Như thế lấy tánh để thành
tựu. Lại cũng gọi là thành tựu về lời khen. Ở
đây sự nghe cũng thành tựu mà giới cũng thành tựu nữa. Lấy
định để thành tựu; lấy huệ
để thành tựu. Là những chỗ ta
nên quý
trọng. Như thế lấy thí, lấy ái ngữ, lấy sự lợi ích, lấy
đồng sự thành tựu.
Đó là những
điều ta đã làm lợi lạc. Như
thế những
sự suy nghĩ lành, là những công đức
đáng quý
và là những công đức lợi lạc. Làm
cho khởi lên sự nhớ nghĩ sâu dày và nhớ nghĩ về những người thân.
Đối với chỗ của người kia nên
tu về
lòng từ; nên làm lợi lạc và tâm thuờng tỉnh thức. Nguyện cho tâm
nầy không
còn oán hận; chẳng muốn còn sân si, trở thành an lạc. Nguyện lìa
khỏi
những nơi ồn ào và nguyện thành tựu tất cả những công
đức. Nguyện được những việc lành
lợi
ích. Mong được tán dương. Nguyện có
niềm tin;
nguyện được niềm vui. Mong có giới, nguyện được có trí tuệ để
nghe; nguyện
được bố thí; nguyện có trí tuệ; nguyện được ngủ yên; nguyện
được an ổn khi thức. Nguyện chẳng
thấy ác
mộng; nguyện người được yêu thương; nguyện
được yêu thương loài chẳng
phải người.
Nguyện được chư thiên bảo hộ.
Nguyện
cho lữa dữ, dao gậy không đụng vào
thân nầy. Nguyện cho mau định tâm.
Nguyện cho
sắc diện được vui tươi: nguyện sanh về cõi có Phật; nguyện
gặp
người lành; nguyện chính thân mình đầy
đủ.
Nguyện cho không có bệnh tật. Nguyện được sống lâu: nguyện thường
được an
lạc. Lại nữa như thế nên suy nghĩ đối
với những bất thiện pháp kia nếu chưa sanh, nguyện đừng cho sanh
ra. Nếu đã
sanh rồi, nguyện cho tiêu trừ đi. Còn
thiện pháp chưa sanh thì nguyện cho sanh. Nếu
đã sanh rồi, nguyện cho được
tăng
trưởng. Lại nữa kẻ kia chẳng thích suy nghĩ về các pháp, nguyện
việc ấy
chẳng sanh. Nếu đã sanh rồi thì nguyện cho mất
đi. Nếu yêu mến nhớ nghĩ về
pháp chưa
sanh thì do tâm từ kia mà được có lòng
tin. Người tọa thiền ấy lấy lòng tin tự tại mà giữ nơi tâm. Lấy
chỗ giữ tự
tại ấy làm cho sự nhớ nghĩ trụ lại. Lấy sự nhớ nghĩ tự tại, lấy
chỗ giữ
cho tự tại, lấy niềm tin tự tại để
tâm trở thành
bất loạn. Người kia hiện biết là chẳng loạn. Lấy những cửa nầy và
những
việc làm nầy mà đối với người kia nên
tu tâm từ. Tu rồi, tu nhiều hơn nữa. Người tọa thiền kia hiện tại
biết
không loạn, dùng cửa nầy và việc làm nầy đối
với người kia tu rồi, thì dùng tâm từ
để tu nhiều nữa. Lấy tâm xấu hổ, tâm thọ trì lần lượt yêu
thương
người ấy và tu hành tưởng nhớ đến lòng
từ. Đối với chỗ yêu mến người
kia, nên
tu và nhớ nghĩ đến lòng từ.
Rồi lần
lượt ở trong ấy sẽ có người tu và nghĩ đến lòng
từ. Đối với người ấy đã tu và
tưởng
đến lòng từ rồi thì lần lượt
đối với việc oan gia kia sẽ tu và
tưởng đến lòng từ, thì như thế
đối với tất cả chúng sanh giống như
thân của
mình, làm cho đầy đủ chẳng có
phân
biệt. Hoặc như thế tu hành về lòng từ. Hay ở nơi người kia
mà người
ấy chẳng hành lòng từ. Hoặc nơi người tọa thiền chậm chạp chẳng
khởi lòng
từ, thì nên làm cho sự lo lắng xa lìa. Với ta chẳng lành, chẳng dễ
thương.
Ta vui được với pháp lành, có
lòng tin
nên xuất gia. Ta lại nói rằng: Nương vào nơi bậc Thầy làm lợi ích
chúng
sanh, khởi lên đại từ bi. Đối với một
người mà
khởi lên lòng từ, hà huống đối với
việc oan
gia. Nếu như thế thì sự lo lắng xa rời sân nhuế chẳng mất
được. Kẻ tọa thiền kia vì thế
mà tu
lòng từ. Chẳng nên siêng năng, lấy
những
phương tiện khác mà tu hành. Đối
với
kẻ kia, vì trừ sân nhuế.
Hỏi rằng: Dùng phương tiện nào để
trừ sân
nhuế?
Đáp rằng: Cùng với kia, nên chu toàn. Nên suy nghĩ đây là công
đức về
hơi thở, tự do mình tạo ra. Lo việc giải thoát thân tộc của chính
mình về
những tội đã qua, chẳng nên tác ý. Nghiệp của chính mình trong
hiện tại là
những gốc rễ tự tánh, nhớ nghĩ sự mất mát ấy. Nên quán về chỗ
không. Nên
hãy nhiếp thọ. Từ kẻ kia tuy sanh sân hận; hoặc có chỗ
đi khất thực, tùy nghi mà thí
cho
cùng. Nếu người kia có bố thí, lại tùy nghi mà lấy dùng, thường
cùng với
lời nói lành, kẻ kia làm việc ấy lại cũng tùy theo. Như thế giữ
gìn. Cái
nhơn kia so với sân nhuế nầy sẽ mất đi.
Đối
với công đức hoặc thấy công đức nầy thì với công
đức ấy nên suy nghĩ; chẳng vì
phi công
đức. Như trong nước có rác, trừ rác
lấy nước.
Nếu như nơi kia không có công đức thì phải khởi lòng từ.
Người nầy
chẳng có công đức, nên hướng
về con
đường ác. Người chịu ơn nên
suy nghĩ
về ơn kia. Nếu người làm ấy chẳng yêu kính thì làm cho khởi lên ân
đức. Đối với người kia, nếu đã
làm
rồi, chẳng yêu kính thì nên tạo ra công đức.
Lại nữa phải làm cho diệt việc bất thiện
để trở thành cõi thiện. Từ
đó sự oán kia trở thành ân
nghĩa có
thể rõ biết. Chính nghiệp do mình tạo ra, vì người nầy tạo ra pháp
ác. Vì
người nầy sân nhuế. Đối với nghiệp ác
của kẻ
kia nên phát sanh sự quan sát, lo cho việc giải thoát. Nếu
người mạ
lỵ ta, hại ta, thì đó là
đầu tiên tạo ra nghiệp ác,
giúp cho kẻ
kia giải thoát, ta phải làm cho chứng và thấy
được sự hoan hỷ. Trong thân tộc, đối với sự sanh tử của chúng sanh
liên
tục, thì đó là người quen của
ta; nhớ
nghĩ rồi liền làm cho khởi lên sự nhớ nghĩ về những người thân. Vì
tự thân
của mình tội lỗi, do tạo ra tướng và sự sân nhuế kia từ ta mà sanh
ra. Vì
kẻ kia chẳng được công đức, ta trở thành
chỗ làm cho khởi lên cái tướng tội trong quá khứ của mình. Chẳng
nên tác
ý. Chẳng có tướng sân nhuế. Chẳng nên tác ý. Như người chẳng vui
thấy màu
sắc khi khép mắt lại. Người khổ ấy vì tự mình làm khổ, chẳng có
chướng
ngại; nên làm cho khởi lên tướng.
Vì sao như kẻ ngu si?
Lấy lòng từ, chẳng nhớ nghĩ đúng,
tự tạo
ra khổ. Hãy quán về tâm khổ là nguyên nhơn, cũng nên biết
là có chỗ
ân oán với gia đình. Từ người
kia nên
lìa chỗ nầy. Làm cho chẳng thấy chẳng nghe, mà nơi ấy sẽ giữ lại
các căn.
Tự tánh là giữ gìn sự dễ thương về sự chẳng dễ thương của
cảnh
giới. Các căn tự tánh nơi sân nhuế
của ta
đây. Nguyên nhơn là không nhớ nghĩ chơn chánh. Như thế mà
quán. Kẻ
mà sự nhớ nghĩ diệt, lấy kia sanh khổ và cả kia lại khổ.
Đây là tất cả pháp
đối với một tâm sát na được diệt. Ta vì
sao mà cùng kia chẳng sân nhuế? Ta sẽ tạo ra sân, như thế mà quán.
Kẻ hòa
hợp, trong ngoài chẳng phân hòa hợp; nên sanh ra khổ vậy. Ta
đối với một phần nơi chốn chẳng thể
tạo cho
tâm sân nhuế. Như thế mà quán về không.
Đó là người tạo khổ, là người
thọ khổ.
Nghiệp thứ nhất kia chẳng thể được.
Thân nầy
là nhơn duyên để sanh ra,
chẳng có
chúng sanh cũng chẳng có cái ta, chỉ là chỗ tụ lại của cỏ
rác. Quán
như thế cho nên Đức Thế Tôn nói kệ
rằng:
Ở nơi làng rừng thảy
Những khổ vui đều rõ
Chẳng từ chính ta đốt
Nương phiền não do xúc
Nếu tâm không phiền não
Ai chạm được tới xương.
Kẻ tọa thiền kia như thế sân nhuế diệt, phương tiện rõ ràng mà
từ người
thân mình trong đó có người oán. Liền
phân
biệt rồi, sau đó tự tại. Tâm sau đó lần lượt nhớ nghĩ đến từ, nên
tu tại nơi. Các Thầy Tỳ Kheo từ kẻ kia nên tu. Trụ xứ của Tăng
chúng, từ kẻ kia nên tu. Tự trụ xứ ấy chư thiên từ kẻ kia
nên tu.
Từ trụ xứ, chúng sanh từ kẻ kia nên tu. Từ chỗ ở ngoài thôn, như
thế từ
thôn nầy đến thôn khác; từ nước nầy
đến nước
khác; từ kẻ kia nên tu hết thảy. Kẻ tọa thiền kia lấy tâm
từ bi làm
cho khắp nơi đầy đủ rồi. Từ nơi kia
tỏa ra 2
phía, rồi 3 phía, rồi 4 phía. Rồi từ 4 phía ấy, cả trên
dưới cùng
với tất cả chúng sanh đều phóng tâm
từ bi và
tất cả thế gian lấy tâm từ tối đại vô
lượng.
Chẳng oán chẳng sân nhuế làm cho đầy
đủ. Kẻ tọa thiền kia như thế tu hành về lòng từ. Dùng 3
loại làm
cho an ổn nơi Thiền. Đó là lấy
tổng
nhiếp chúng sanh; lấy tổng nhiếp làng ấp và lấy tổng nhiếp các
nơi. Lấy
một chúng sanh làm cho an ổn nơi lòng từ của thiền. Như thế hai,
ba chúng
sanh cho đến nhiều chúng sanh. Đối
với một
thôn làng có chúng sanh, làm cho an ổn nơi tâm từ của
Thiền; rồi
cho đến nhiều thôn cũng như thế. Đối
với một
phương, tạo mỗi chúng sanh, làm cho an ổn nơi tâm từ của
Thiền, như
thế cho đến 4 phương. Đối với đây nếu
nương vào
một chúng sanh tu hành lòng từ thì với chúng sanh nầy, việc chết
ấy trở
thành mất đi. Lấy việc mất ấy chẳng
chịu
đựng, khởi lên lòng từ. Cho nên phải rộng tu tâm từ bi. Cho
đến những việc làm rộng thêm
ra, thì
lúc ấy sẽ trở thành những việc làm vi diệu. Trở thành cái quả lớn
và công
đức thật to lớn.
Hỏi rằng: Lòng từ ấy gốc gì? khởi lên cái gì?
đầy đủ thế nào: và cái gì
không
đầy đủ? việc gì?
Đáp rằng: Chẳng tham lam là gốc. Chẳng sân nhuế là gốc. Chẳng
si mê là
gốc. Dục là căn. Chánh tác ý là căn.
Khởi lên cái gì? - Căn nầy làm
cho
khởi đầy đủ thế nào? Nếu lòng
từ thành
tựu, giết trừ sân nhuế, trừ đi cái yêu
thương chẳng lành, làm cho thân, miệng, ý nghiệp
được thanh tịnh. Đây gọi là
đầy đủ.
Những gì là không đầy đủ?
Dùng 2 nguyên nhân mất đi lòng
từ;
lấy chính người quen của mình rồi sanh oán, dùng cái ái không
thuận; lấy
sự đối trị sanh oán, lấy việc ấy khởi
lên
sân nhuế. Đây nghĩa là không
đầy đủ.
Việc gì? - Đối với tất cả chúng
sanh là
công việc vậy.
Hỏi rằng: Chẳng đúng về đệ nhất
nghĩa
chúng sanh là chẳng thể được và
vì sao nói chúng sanh là sự?
Đáp rằng: Y vào các loại gốc ở đời mà giả nói là chúng sanh.
Lúc ấy các
Bồ Tát Ma Ha Tát tu lòng từ tràn khắp, đối với tất cả chúng sanh
đầy đủ 10
Ba La Mật.
Hỏi rằng: Vì sao lại đúng?
Đáp rằng: Bồ Tát Ma Ha Tát đối với tất cả chúng sanh hành tâm
từ, duyên
vào sự lợi lạc trở thành nhiếp thọ chúng sanh, tạo thí vô úy. Như
thế đầy
đủ nơi Đàn Ba La Mật. Bồ Tát Ma Ha Tát đối với tất cả chúng sanh
làm việc
lành, nương vào sự lợi ích đối với tất cả chúng sanh thành ra
chẳng hại,
chẳng mất pháp để dùng.
Đối với tất cả chúng sanh làm
việc
thiện, nương vào sự lợi lạc cho tất cả chúng sanh, thành ra ý
chẳng tham,
xa lìa chỗ không lợi lạc, hướng đến
thiền,
hướng đến người xuất gia, như thế đầy đủ Ba La Mật Đa. Bồ Tát Ma
Ha Tát
đối với tất cả chúng sanh làm việc lành, nương vào làm lợi
lạc cho
tất cả chúng sanh, thành ra suy nghĩ nhiều về sự lợi lạc và chẳng
lợi lạc
và như nghĩa nói về phương tiện cho rõ ràng. Vì trừ ác, nên
được việc lành. Như thế
đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật.
Bồ Tát Ma Ha Tát đối với tất cả
chúng sanh
làm việc lành, nương vào chỗ chấp làm lợi lạc, chẳng xả
tinh tấn.
Tất cả mọi lúc đầu siêng năng
tinh tấn. Như thế đầy đủ tinh tấn Ba La Mật.
Bồ Tát Ma Ha Tát làm việc lành, đối
với
tất cả chúng sanh, nương vào sự lợi lạc cho chúng sanh kia,
nói lời
ác mạ lỵ, thành nhẫn nhục, chẳng sân hận. Như thế
đầy đủ nhẫn nhục Ba La Mật.
Bồ Tát Ma Ha Tát, đối với tất cả
chúng
sanh làm việc từ, nương vào sự nhiêu ích
đối với tất cả chúng sanh nói lời
chơn thật
về chỗ ở thật, thọ trì thật. Như vậy
đầy đủ cho lý Ba La Mật.
Bồ Tát Ma Ha Tát đối với tất cả
chúng sanh
thực hành từ bi, nương vào chỗ lợi lạc
đối với tất cả chúng sanh cho đến mất mạng nầy, thề nguyền vẫn
không xả
bỏ. Nguyện thành Thánh để thọ
trì
lời thệ nguyện. Như thế thọ trì Ba La Mật đầy
đủ.
Bồ Tát Ma Ha Tát đối với tất cả
chúng sanh
lấy tự tướng mà làm lợi lạc, đầy
lòng
từ bi Ba La Mật.
Bồ Tát Ma Ha Tát đối với tất cả
chúng sanh
tu từ bi và ngay cả người thân hay kẻ oan trong gia
đình đều
lấy tâm bình đẳng, lìa
sự sân
nhuế yêu thương. Như thế đầy đủ xả Ba
La Mật.
Như vậy Bồ Tát Ma Ha Tát tu hạnh từ bi, thành
đủ cả 10 Ba La Mật, làm rõ
lòng từ,
đủ 4 cách thọ trì. Lúc ấy Bồ
Tát Ma Ha
Tát tu lòng từ đầy đủ 10 Ba La Mật
rồi, làm
cho đầy đủ 4 sự thọ trì. Cho
nên gọi
là chân lý thọ trì, thí thọ trì, tịch tĩnh thọ trì, huệ thọ trì.
Đối với đây là chân lý Ba La
Mật, thọ
trì Ba La Mật, tinh tấn Ba La Mật làm cho đầy
đủ chân lý Ba La Mật. Thí Ba La Mật, giới Ba La Mật ra ngoài
Ba La
Mật làm cho đầy đủ thí thọ trì.
Nhẫn
nhục Ba La Mật, Từ Ba La Mật, Xả Ba La Mật làm cho
đầy đủ tịch tĩnh thọ trì. Huệ
Ba La
Mật làm cho đầy đủ huệ thọ trì.
Như
thế Bồ Tát Ma Ha Tát tu lòng từ biến mãn rồi,
đầy đủ 10 Ba La Mật làm cho đầy
đủ 4
thọ trì, làm cho đầy đủ 2
pháp. Cho nên
Xa Ma Tha, Tỳ Bà Xá Na. Đối với chân
lý nầy
thọ trì, thí thọ trì, tịch tĩnh thọ trì làm cho
đầy đủ Xa Ma Tha. Huệ thọ trì
làm cho
đầy đủ Tỳ Bà Xá Na.
Đầy đủ Xa Ma Tha rồi, làm cho
đầy đủ tất cả thiền, giải thoát, định
chánh
thọ. Làm cho khởi lên xong biến vào
định và đại từ định. Tỳ Bà
Xá
Na đầy đủ rồi, làm cho
đầy đủ tất cả thần thông biện lực vô
úy. Khi
đầy đủ rồi, làm cho khơi lên tự nhiên trí và nhứt thiết
trí. Như
thế Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành về lòng từ, làm cho lần lượt
đầy đủ nơi Phật địa.
Hỏi rằng: Thế nào là bi? Tu cái gì? Tướng gì? Vị gì? Khởi lên
như thế
nào? Có công đức gì? Vì sao
phải tu?
Đáp rằng: Như cha mẹ chỉ có một con, tâm thường thương yêu nhớ
nghĩ,
thấy con khổ sở, tâm khởi lên sự thương con. Khổ sở như thế, đối
với tất
cả chúng sanh khởi lên lòng từ lân mẫn. Đây nghĩa là bi. Bi trụ
chẳng
loạn, đây nghĩa là tu. Chẳng hiện ra điều không lợi lạc làm tướng.
Lạc
chính là vị. Lấy chẳng hại mà khởi, cùng với từ tạo ra công
đức.
Vì sao phải tu? - Đầu tiên
người
mới ngồi thiền nhập vào chỗ tịch tĩnh để
ngồi, nhiếp tất cả tâm, làm cho tâm chẳng loạn. Thấy kia có
bịnh;
có già; có tham; hoặc thấy; hoặc nghe như thế mà tác ý. Chúng sanh
kia bị
khổ. Phải dùng phương tiện như thế nào để
giải thoát sự khổ ấy. Lại nữa nếu thấy sự điên
đảo nầy vì bị phiền não cột
ràng, trói
chặt vào vô minh; hoặc người có công đức
mà
chẳng tu học. Hoặc thấy hoặc nghe như thế mà tác ý, chúng sanh bị
khổ nên
sanh vào chỗ ác. Phải dùng phương tiện nào để
giải thoát khỏi khổ ấy? Lại nữa nếu thấy bất thiện pháp tương ưng
với
thiện pháp hay chẳng tương ưng thì dùng bất khả ái pháp
tương ưng
với khả ái pháp và với chẳng tương ưng. Hoặc thấy hoặc nghe như
thế mà tác
ý. Chúng sanh kia bị khổ nên phải sanh vào chỗ ác. Dùng phương
tiện nào
để từ chỗ khổ ấy được giải thoát. Với
người
tọa thiền kia dùng cửa nầy và việc làm nầy
đối với người kia tu hành tâm
bi, tâm
ấy tu hành nhiều. Kẻ ngồi thiền kia lấy cửa nầy và việc làm nầy
đối với người kia tu tâm bi rồi và
sau
khi đã tu tâm bi nhiều rồi thì
tâm ấy
trở thành hòa nhã, kham nhẫn hay thọ trì. Kẻ kia lần lượt tu hành ở
trong
loài người. Từ kẻ kia tu hành với người oán. Ngoài ra như
đã nói trước, cho
đến đầy đủ khắp nơi.
Hỏi rằng: Lòng bi đầy đủ là
gì? Bi
như thế nào là không đầy đủ?
Đáp rằng: Nếu lòng bi mẫn thành tựu thì trừ nơi sự sát hại
chẳng khởi
ưu não. Trừ lòng thương bất thiện. Dùng 2 nhân duyên để mất lòng
từ, lấy
tự thân sanh oán,lấy ưu não thực hành, lấy đối trị sinh oán, từ đó
khởi
lên sự lo sợ.
Hỏi rằng: Sự khổ chẳng phải đối
với tất cả
chúng sanh có, chẳng phải tất cả lúc có. Vì sao
đối với tất cả chúng sanh tu tâm bi?
Đáp rằng: Chúng sanh bị khổ, lành lấy tướng ấy, rồi chấp vào
tướng kia,
thành tất cả nơi phải tu bi. Lại nữa sanh tử là khổ và tất cả
chúng sanh
đều khổ. Do kia mà thành tất cả nơi tu hành.
Hỏi rằng: Hỷ là gì? Tu cái gì? Tướng gì? Vị gì? Khởi lên cái gì
và với
công đức nào? Vì sao phải tu?
Đáp rằng: Giống như cha mẹ chỉ có một người con, tâm thường
thương yêu
nhớ nghĩ đến, thấy con ấy được vui, tâm sinh hoan hỷ. Lành thay
như thế,
tất cả chúng sanh, tâm sanh hoan hỷ. Đây nghĩa là hỷ. Hỷ trụ chẳng
loạn,
đây nghĩa là tu. Lấy mừng vui làm tướng; chẳng sợ làm vị. Trừ
chẳng vui
làm hỷ. Cùng với lòng từ tạo ra công đức.
Vì
sao phải tu? - Đầu tiên người
tọa
thiền nhập vào chỗ tịch tĩnh, nhiếp tất cả tâm bất loạn. Tánh cách
người
nầy được chỗ kính trọng. Thấy được an
lạc,
tâm sinh hoan hỷ. Hoặc thấy hoặc nghe như thế mà tác ý.
Lành thay
lành thay! Nguyện cho chúng sanh kia được
hoan hỷ lâu dài. Lại nữa nếu thấy cùng bất thiện pháp,
chẳng tương
ưng; cùng với thiện pháp thì tương ưng. Pháp không khả ái, không
tương
ưng. Cùng với khả ái thì tương ưng. Hoặc thấy hoặc nghe như thế mà
tác ý.
Lành thay lành thay! Nguyện vì chúng sanh kia mà
được hoan hỷ lâu dài. Kẻ tọa
thiền kia
lấy cửa nầy, lấy việc làm nầy. Đối
với người
kia tu tâm hoan hỷ, tu hành nhiều hơn. Người tọa thiền kia
lấy cửa
nầy, dùng việc làm nầy, đối với người
kia tu
hỷ tâm rồi, tu nhiều hơn nữa, thành ra hòa hợp với tâm tàm
quý, tâm
kham nhẫn và hay thọ trì. Từ kẻ kia lần lượt tu hành trong mọi
người. Từ
nơi kia tu hành đối với kẻ oán. Ngoài
ra như đã nói rộng rồi. Cho
đến niềm vui đầy đủ tứ phương.
Hỷ nào đầy đủ? Hỷ nào không
đầy đủ? Nếu hỷ thành tựu, trừ
việc
chẳng vui, chẳng khởi, chẳng lành yêu, trừ ỷ ngữ, mà 2 nguyên nhơn
làm mất
niềm vui. Đó là lấy tự thân
sanh oán
và lấy cười đùa khởi lên việc
làm. Lấy
đối trị sanh oán, lấy chẳng vui khởi,
như ban
đầu đã giải rõ.
Hỏi rằng: Cái gì là xả? Tu cái gì? Tướng gì? Vị gì? Khởi ra
sao? Công
đức nào? Vì sao phải tu?
Đáp rằng: Cũng giống như cha mẹ chỉ có một con, không thể nghĩ
lại
chẳng không thể không nghĩ về, thành ra xả. Đối với kia thành
trung tâm
như thế và đối với tất cả chúng sanh là trung tâm xả hộ. Đây gọi
là xả. Xả
trụ chẳng loạn. Đây gọi là tu. Lấy Vô sở trước làm tướng. Lấy bình
đẳng làm vị.
Điều phục sự vui sân hận mà
khởi. Cùng
với lòng từ tạo ra công đức.
Hỏi rằng: Tu cái gì?
Đáp rằng: Kẻ tọa thiền từ ban đầu cùng với lòng từ đầy đủ khởi
dậy rồi
cùng với bi đầy đủ khởi dậy và cùng với hỷ đầy đủ khởi dậy. Rồi
khởi nơi
đệ tam thiền. Kẻ tọa thiền kia đã được nơi tam thiền rồi, tự tại
thấy từ
bi hỷ quá lo. Ái nhuế cận kề, cùng với hí luận cùng khởi, cùng với
hỷ lạc
một lúc khởi lên. Lấy quá lo để đối
trị. Thấy
công đức xả. Người tọa thiền kia như thế thấy từ bi hỷ quá lo rồi,
rồi
thấy xả công đức. Từ đầu đối với việc chẳng thể yêu
nghĩ,chẳng thể
chẳng yêu nghĩ về người; rồi cùng với xả cùng khởi lên sự nhớ
nghĩ, làm
cho tâm đầy đủ. Xả tâm tăng trưởng,
tu rồi tu
nhiều hơn nữa để thành hòa hợp vui vẻ, kham nhẫn có thể thọ
trì. Kẻ
kia lần lượt đối với người oán tu hành.
Từ kẻ kia đối với thân hãy tu
hành.
Ngoài ra như đã nói rộng lúc
ban
đầu có thể rõ biết cho
đến đầy đủ khắp nơi. Kẻ tọa thiền kia
như thế
tu hành, cùng với xả đều khởi.
Nơi đệ
tứ thiền lấy 3 loại làm cho yên. Đó là
tổng nhiếp chúng sanh. Tổng nhiếp làng xóm và tổng nhiếp các nơi.
Hỏi rằng: Nếu người tọa thiền hiện tu hạnh xả thì
đối với chúng sanh vì sao tác
ý?
Đáp rằng: Tác ý như đã nói là đối với từ bi hỷ là chỗ tác ý.
Đối với
các chúng sanh, trừ ra việc làm hoan hỷ. Làm việc hoan hỷ, tác ý
trong
niềm vui, như người thân xa nhau lâu ngày thấy lại lần đầu sung
sướng chờ
đợi, tâm ấy sanh hoan hỷ. Sau khi ở chung rồi tâm nầy thành tục,
như thế
giữ lại từ bi hỷ. Sau đó trở thành
xả
nhiếp thọ. Như thế tác ý tu hành đối
với xả.
Lại có người nói: Chúng sanh, chúng sanh giả, như thế mà
tác ý.
Vì sao xả đầy đủ và xả
chẳng
đầy đủ? - Nếu xả thành tựu thì
giết
trừ sân ái, chẳng khởi lên vô minh. Lấy 2 nguyên nhơn làm mất xả.
Lấy tự
thân sanh oán, lấy đó khởi vô minh,
lấy đối
trị sanh oán, lấy sân ái khởi lên.
*
Thêm vào
để làm rõ nghĩa Tứ Vô Lượng
Thế nào là Tứ Vô Lượng tán cú?
Tứ Vô Lượng ở đây lấy một chúng
sanh mà
khởi lên. Nương vào nơi chốn mà tu hành, như mẹ nhớ con tùy theo
thời
tiết, như đối với súc sanh, như đối
với người
phạm giới, đối với người đầy đủ giới, đối với kẻ lìa dục,
đối với các vị Thanh Văn, đối với các
vị Duyên
Giác, đối với bậc Chánh Biến Tri, đối
với quy
y thắng xứ, nhiều hơn vô lượng có thể biết được.
Hỏi rằng: Đối với Từ Bi Hỷ và
sao
lại khởi nơi tam thiền? mà không phải đệ
tứ
thiền?
Đáp rằng: Chúng sanh khởi lên chỗ ưu não, sân nhuế hại, chẳng
vui. Lấy
sự ưu não kia đối trị, cùng với hỷ sanh tâm. Tu hành Từ Bi Hỷ. Cho
nên
sanh vào Tam Thiền mà không phải Tứ Thiền. Lại nữa xả địa ở nơi đệ
tứ
thiền, lấy 2 xả mà thành tựu vậy. Cho nên thọ xả pháp trong xả.
Đối với xả địa trụ nơi ấy. Đối với
chúng sanh
lấy sự lợi lạc làm xả. Do địa mà
tâm vô lượng sanh nơi tam thiền, chẳng phải sanh vào tứ thiền. Lại
nói
đối với Tứ Vô Lượng thì sanh
nơi tứ
thiền, như Đức Thế Tôn
đã nói:
Đối với Tứ Vô Lượng – Này các Tỳ Kheo nên tu.
Định nầy có giác có quán. Các ngươi nên
tu có giác không quán. Các ngươi nên tu không giác không quán. Các
ngươi
nên tu cùng với hỷ sanh ra. Các ngươi nên tu cùng với lạc sanh ra.
Các
ngươi nên tu cùng với xả sanh ra.
Hỏi rằng: 4 Vô Lượng nầy tại sao nói 4? mà chẳng nói ba, chẳng
nói năm?
Đáp rằng: Nếu mà ghi tất cả thì phải thấy rằng vì sân nhuế hại
chẳng
vui. Sân ái đối trị nên thành Tứ Vô Lượng. Lại nói rằng trong 4
loại nầy
chỉ có Từ. Do con người hay khởi lên nhiều sân nhuế não hại. Vì
trừ được
nên dùng 4 cửa, thành hơn kia. Xả là Từ Bi Hỷ thanh tịnh, sân ái
đối trị vậy. Tứ Vô Lượng là
một tánh
mà nên biết có nhiều tướng khác nhau. Như thế sự quá lo lắng làm
đối trị; đó là việc của chúng
sanh.
Đây là ý lợi lạc vậy, thành
một tướng.
Lại nói pháp thắng vậy. Chấp vào việc hơn vậy. Lấy sự lợi lạc hơn
vậy,
thành nhiều tướng khác nhau. Như Đức
Thế Tôn
nói: Đối với y vàng trong các kinh
điển thì đó là nơi
thanh tịnh,
lòng từ là đệ nhứt. Đối với hư không
xứ, lòng
bi là đệ nhứt. Đối với thức xứ, hỷ là
đệ nhứt. Đối với vô sở hữu xứ, xả là
đệ nhứt.
Hỏi rằng: Vì sao biết được?
Đáp rằng: Do nương vào chỗ gần kia vậy mà rõ biết được nghĩa
nầy.
Hỏi rằng: Vì sao?
Đáp rằng: Tu tâm từ vậy. Đối với tất cả chúng sanh tùy theo nơi
ý nầy,
dùng thường tùy theo. Đối với xanh vàng tất cả đều vào hiện làm
tác ý. Lấy
tiểu phương tiện làm cho tâm được an. Đây là những việc của chúng
sanh
vậy. Hoặc sắc giới thanh tịnh, tất cả nhập vào pháp ý. Người tọa
thiền kia
lúc ấy ở sắc giới được đệ tứ thiền.
Cho nên
nói với Từ là đệ nhứt thanh tịnh. Kẻ
tọa
thiền kia nương vào. Sắc giới về lòng từ nơi
đệ tứ thiền, lúc ấy được vượt qua
khỏi kia.
Hỏi rằng: Đây là chỗ cạn vì
sao?
Đáp rằng: Lấy việc tu từ vậy. Tâm biết sắc giới quá lo. Vì thấy
chúng
sanh khổ. Với kia vì sắc là nhơn sanh ra Từ. Từ đây lấy tâm để
biết sắc
giới quá lo. Đối với sắc, xa lìa, hiện làm ra chỗ tác ý. Đối với
hư không
xứ dùng tiểu phương tiện thì tâm nầy được an. Dùng cái
được ấy để nương vào vậy. Cho
nên nói
bi đối với hư không là
đệ nhứt. Kẻ tọa thiền kia nương vào
Hỷ
để vượt qua Hư không xứ.
Hỏi rằng: Nghĩa nầy là thế nào?
Đáp rằng: Do tu Hỷ vậy. Tâm chẳng dính mắc, thường lấy Vô biên
thức. Vì
sao mà Hỷ nầy đối với Vô sở trước và Vô biên thức xứ làm an ổn
chúng sanh.
Từ tâm nầy chẳng dính mắc, thường hay lấy Vô biên thức vậy. Lìa sự
dính
mắc đối với hư không. Vô biên thức hiện ra làm chỗ tác ý. Dùng
tiểu phương
tiện, tâm nầy được an. Các loại khác
vậy. Cho
nên nói Thức xứ lấy Hỷ làm đệ
nhứt.
Hỏi rằng: Kẻ tọa thiền kia nương vào xả để
vượt qua thức xứ. Nghĩa nầy là thế nào?
Đáp rằng: Do tu xả vậy. Tâm trở nên lìa xa sự dính mắc. Vì sao
chẳng
lấy tu xả được chỗ dính mắc. Chúng sanh nầy được lạc được khổ;
hoặc do hỷ;
hoặc do lạc. Từ kia lấy tâm lý sự dính mắc, lìa chỗ Vô sở trước,
vô sở hữu
xứ. Hiện làm cho tâm vui. Dùng tiểu phương tiện của tâm nầy thành
an ổn.
Chẳng đắm trước các loại khác. Vì
sao
đối với Vô sở hữu xứ mà chẳng
được dính mắc hoặc thức hoặc vô biên.
Cho nên nói Vô sở hữu xứ xả là đệ
nhứt.
Hỏi rằng: Quán tứ đại là
thế nào?
Tu cái gì? Tướng gì? Vị gì? Khởi lên cái gì? Công
đức gì? Vì sao phải tu?
Đáp rằng: Do trí cho biết là bên trong tự tướng gồm tứ đại. Đây
nghĩa
là xem thấy tứ đại. Tâm kia trụ nơi chẳng loạn. Đây nghĩa là tu.
Tùy theo
quán tứ đại lấy làm tướng. Thông đạt chỗ không, lấy làm vị. Trừ
chúng sanh
mà khởi.
Công đức gì? - Nếu tu hành
quán tứ
đại trở thành có thể kham nhẫn
sự lo
sợ về niềm vui hay chẳng vui. Đối với
việc dễ
thương hay chẳng dễ thương, trở thành tâm bình
đẳng; trừ ý kiến riêng của nam
nữ sẽ
trở thành đại trí huệ. Hướng đến chỗ lành
và nơi tốt đẹp. Đây chính là
phần pháp
rõ ràng. Tất cả đối với kia thành
việc
tu hành đầy đủ.
Vì sao đối với kia phải tu? - Kẻ
mới ngồi
thiền lấy 2 việc làm mà giữ cho các
đại, lấy tóm lược, lấy rộng ra.
Hỏi rằng: Vì sao lấy tóm lược để
giữ các
đại?
Đáp rằng: Kẻ tọa thiền kia nhập vào chỗ ngồi tịch tịnh, nhiếp
tất cả
tâm nên tâm chẳng loạn. Thân nầy do đó được gọi gồm tứ đại. Đối
với thân
nầy tất cả những gì tánh cứng thuộc về đất; tánh ẩm ướt thuộc về
nước;
tánh nóng thuộc về lửa; tánh bền thuộc về đất; tánh
động thuộc về gió. Như thế thân nầy
chỉ có
hạn định, không có chúng sanh nào là không có mạng sống.
Như thế
lại nói gọn là nằm trong giới hạn. Lại cũng nói – Người tọa thiền
kia lấy
việc tóm lược chấp giữ sự giới hạn và lấy thân nầy nương vào các
bức màng
để mà phân biệt; hoặc là sắc;
hoặc là
hình; hoặc là xứ; hoặc là phân biệt. Người tọa thiền kia
đã tóm lược giữ những giới hạn
rồi,
sau đó nương vào các màng
để phân biệt tất cả tánh của thân;
hoặc dùng
sắc; hoặc dùng hình; hoặc dùng xúc; hoặc dùng phân biệt. Nương vào
thịt
để phân biệt thân nầy. Hoặc dùng
sắc;
hoặc dùng hình; hoặc dùng xúc; hoặc dùng phân biệt. Kẻ tọa thiền
kia nương
vào da thịt để phân biệt tất cả thân
rồi.
Hoặc dùng sắc; hoặc dùng hình; hoặc dùng xứ; hoặc dùng phân
biệt.
Kẻ tọa thiền kia nương vào mạch để
phân biệt
tất cả thân. Hoặc dùng sắc; hoặc dùng hình; hoặc dùng xứ;
hoặc dùng
phân biệt. Kẻ ngồi thiền kia nương vào mạch máu rồi phân biệt tất
cả thân.
Hoặc dùng sắc; hoặc dùng hình; hoặc dùng xứ; hoặc dùng phân biệt.
Từ
đây lại nương vào xương
để phân biệt với tất cả thân. Hoặc dùng
sắc; hoặc dùng hình; hoặc dùng xứ; hoặc dùng phân biệt. Kẻ tọa
thiền kia
đối với 4 việc làm nầy và lấy 4
việc
làm nầy để hàng phục tâm.
Khiến cho
tâm biết xấu hổ, làm cho tâm thọ trì. Kẻ tọa thiền kia
đối với 4 việc làm nầy, dùng 4
việc
làm nầy để hàng phục tâm. Sau
khi xấu
hổ rồi, khiến cho thọ trì. Đối với 4
việc làm
nầy có tánh cứng phải biết đó thuộc
về đất.
Có tánh ẩm ướt phải biết đó thuộc về nước. Có tánh nóng, phải biết
đó
thuộc về lửa. Có tánh động, phải biết đây thuộc về gió. Kẻ tọa
thiền kia
đối với 4 việc làm nầy tuy có biên giới, nhưng không có
chúng sanh
và không có mạng sống. Dùng sự so sánh nầy ngoài những việc làm
rồi trở
thành giữ yên, như thế lấy sự tóm lược giữ lấy nơi giới hạn.
Vì sao lấy chỗ chấp giữ rộng nơi các cảnh giới?
Lấy 20 việc làm chấp giữ rộng rãi nơi địa
giới và lấy thân nầy như tóc, lông, móng, răng,
da, thịt, gân, mạch máu, xương, tủy, vai, tim, gan, phổi, mật, bao
tử,
ruột non, ruột già, bụng, đường
tiểu,
não. Lấy 20 việc làm nầy rộng nhiếp vào cảnh giới thuộc về
nước thì
thân nầy có đờm, mũi, dãi,
máu, mồ
hôi, mỡ tảng, nước mắt, mỡ chài, nước đờm,
nước dãi, nước tiểu.
Lấy 4 việc làm rộng thâu vào nơi lửa thì
đây là nóng, đây là ấm.
Lấy sức
ấm nầy bình đẳng trung hòa làm
tiêu
hóa thức ăn. Đây thuộc về phạm vi của
lửa.
Lấy 6 việc làm rộng chấp lấy nơi gió. Hướng lên gió bên
trên, hướng
xuống gió bên dưới, nương vào gió nơi bụng; nương vào gió nơi vai;
nương
vào gió nơi thân, hơi thở vào ra. Như thế lấy 42 việc làm
để thấy thân nầy. Duy chỉ có biên
giới, không có chúng sanh và không có đời
sống. Như thế chấp giữ rộng rãi về các biên giới. Lại nữa
như trước
Ngài đã nói lấy 10 việc làm
để quán về tứ đại. Cho nên lấy
ngôn
ngữ, lấy công việc, lấy chỗ tụ họp lại, lấy chỗ tan ra, lấy chỗ vô
sở
trước, lấy duyên, lấy tướng, lấy cùng loại, lấy chẳng cùng loại,
lấy một
nghĩa và nhiều nghĩa khác, lấy giới phân biệt
đệ nhứt, lấy ngôn ngữ ý nghĩa chương cú.
Hỏi rằng: Vì sao dùng ngôn ngữ để
phân
biệt các cảnh giới?
Đáp rằng: Có 2 cảnh giới cùng ngôn ngữ. Cho nên nói cùng lời
hay hơn
lời. Đối với tứ đại đây nói giống lời. Địa giới, thủy giới, hỏa
giới,
phong giới. Đây nghĩa là thắng ngôn.
Hỏi rằng: Bốn đại nầy nghĩa gì?
Đáp rằng: Đại sanh nên gọi là đại. Có đại chẳng phải thật
nghĩa, làm
cho hiện ra thật nghĩa. Nên đây gọi là đại. Đại là hồn so với hình
hài;
nên gọi là đại. Các giới đại sanh ra, như thế Đức Thế Tôn nói kệ
rằng:
Lược nói tướng đất
Có hai mươi vạn
Bốn Na Do Tha
Nước bốn mươi vạn
Tám Na Do Tha
Gió trụ hư không
Đến chín mươi vạn
Sáu Na Do Tha
Thế giới chỗ trụ
Lại do lửa thành
Ở trong thế giới
Có các ánh sáng
Trên đến Phạm Thế
Cho đến bảy ngày
Như thế đất sanh
Cho nên tên đại.
Hỏi rằng: Vì sao đại chẳng thật
nghĩa làm
cho hiện ra thật nghĩa?
Đáp rằng: Gọi là đại giới vậy. Chẳng phải nam, chẳng phải nữ,
lấy nam
nữ sắc mà nhìn. Giới ở đây chẳng dài chẳng ngắn. Lấy dài ngắn hình
tướng
để thấy. Giới ấy chẳng phải cây, chẳng phải núi. Dùng màu sắc của
cây núi
mà thấy. Như thế đại chẳng phải phi thật nghĩa làm hiện ra thực
nghĩa, tên
là đại.
Vì sao các hồn sánh với dị hình?
Như hồn nhập vào thân người để thành
thân nầy. Lấy hình thức của hồn khởi lên 4 việc làm. Hoặc thân
mạnh; hoặc
nước tiểu nóng; hoặc động nhẹ. Như
thế đối
với thân nầy lấy lửa giới hòa hợp thành
để khởi lên 4 việc làm.
Lấy địa giới hòa hợp thành
cứng;
lấy thủy giới hòa hơp thành trơn; lấy hỏa giới hòa hợp thành nóng;
lấy
phong giới hòa hợp thành nhẹ nhàng. Như thế hình thái của linh hồn
có tên
là đại. Đại đây là nói nghĩa
nầy vậy.
Hỏi rằng: Địa giới, thủy giới, hỏa
giới,
phong giới là nghĩa gì?
Đáp rằng: Nói rộng rãi nghĩa là đất. Vật có thể dùng để uống
thì đây
nghĩa là nước. Làm cho có ánh sáng thì đây là hỏa. Đến đi nghĩa là
gió.
Giới nghĩa là gì?
Nghĩa là giữ tự tướng. Lại nữa tự tánh của
đất gọi là địa giới. Tự tánh
của nước
gọi là thủy giới. Tự tánh của lửa gọi là hỏa giới. Tự tánh
của gió
gọi là phong giới.
Tự tánh của đất là gì?
Đây là tánh cứng, tánh rắn chắc, tánh dày, tánh chẳng động,
tánh an ổn,
tánh giữ gìn. Đây nghĩa là tánh đất.
Tánh của nước như thế nào?
Tánh ẩm, tánh lỏng, tánh chảy, tánh lưu xuất. Tánh dày, tánh tăng
trưởng, tánh hỷ, tánh nối kết dính mắc. Đây gọi là tánh
nước.
Sao gọi là tánh lửa?
Đó là tánh nóng, tánh ấm, tánh nồng, tánh nực, tánh đốt cháy,
tánh giữ
lại. Đây là tánh lửa.
Sao gọi là tánh gió?
Tánh đầm, tánh lạnh, tánh đến đi,
tánh
động nhẹ, tánh thấp, tánh chấp thủ. Đây nghĩa là tánh gió.
Đây nghĩa là giới. Như thế
dùng ngôn
ngữ và ý nghĩa nên quan sát về giới nầy.
Hỏi rằng: Sự quán sát về giới là gì?
Đáp rằng: Địa giới giữ gìn công việc; thủy giới kết trước là
công việc;
hỏa giới làm cho nóng là công việc. Phong giới chận lại là công
việc. Lại
nữa địa giới thành lập là công việc. Thủy giới hạ xuống là công
việc. Hỏa
giới làm cho bùng lên là sự việc. Phong giới
động chuyển là sự việc. Lại nữa hai giới gần cho nên trở
thành lúc
ban đầu. Lại nữa hai giới gần nên
thành ra bước sau. Hai giới gần nên thành 2 chỗ ngồi nằm. Lại nữa 2
giới
nên thành hậu hành lập. Hai giới gần nên thành giải
đãi và buồn ngủ. Hai giới gần
nên sau
thành tinh tấn, dõng mãnh. Hai giới gần nên trước thành nặng. Hai
giới gần
nên sau thành nhẹ. Như thế lấy sự việc để
quán tứ đại.
Vì sao lấy chỗ tụ hội để quán tứ
đại?
Tụ nghĩa là nơi của đất, nước,
gió, lửa
hợp lại. Nương vào những nơi nầy để
trở thành sắc, hương, vị, xúc. Với 8 pháp nầy hoặc nhiều
hơn cùng
chúng sống chẳng hề lìa nhau. Sự hòa hợp nầy gọi là tụ hội. Cái
kia lại có
thêm 4 loại nữa. Đó là sự tụ
hội của
đất, sự tụ hội của nước, sự tụ hội
của lửa và
sự tụ hội của gió. Nơi hội tụ của đất
kia trở
thành tối đa. Còn thủy
giới,
hỏa giới, phong giới lần lượt trở thành tối thiểu.
Đối với sự hội tụ của nước thì
thủy
giới trở thành tối đa. Địa giới,
phong giới,
hỏa giới trở thành tối thiểu. Đối
với
sự tụ hội của lửa thì hỏa giới trở thành tối
đa. Địa giới, phong giới và
thủy giới
trở thành tối thiểu. Đối với sự tụ
hội của
gió thì phong giới trở thành tối đa.
Hỏa giới, thủy giới, địa giới lần lượt trở thành tối thiểu.
Như thế
lấy sự tụ hội mà quan sát các cảnh giới.
Hỏi rằng: Vì sao lấy sự tan hoại để
quan
sát tứ đại?
Đáp rằng: Quán nơi địa giới từ nơi thật nhỏ như lân không vi
trần sanh
ra. Đất nầy lấy nước làm chỗ hòa hợp nên không bị tan hoại. Lấy
lửa làm
chỗ ấm áp nên không bị hôi. Lấy gió làm chỗ lưu giữ và trở thành
sự chuyển
động. Như thế mà quán. Lại như trước đã dạy:
Đập nhỏ thân nầy ra, tất cả chỉ là bụi, sẽ trở thành 12
cân. Còn
nước thì độ 6 cân rưỡi. Còn
lửa thì
làm cho ấm lên và tùy theo gió khởi lên mà hồi chuyển. Như thế lấy
sự tan
hoại mà quan sát về các cảnh giới.
Hỏi rằng: Vì sao chẳng thể lìa việc quán tứ
đại?
Đáp rằng: Địa giới dùng nước để gìn giữ lửa nóng và gió máy.
Như thế 3
loại kia hòa hợp. Thủy giới ở nơi đất và lửa thì nóng và gió giữ
lại. Như
thế 3 cảnh giới nầy được nhiếp lại. Hỏa giới ở nơi đất. Nước sẽ
gìn giữ
gió lại. Như thế 3 cảnh giới được ấm. Phong giới ở nơi
đất; nước sẽ giữ lửa và chỗ
ấm. Như
thế 3 giới giữ gìn. Đối với đất, ở 3
cảnh
giới và nước là chỗ giữ gìn. Ba cảnh giới nên chẳng tan
hoại. Lửa
là chỗ ấm của 3 cảnh giới trở thành chẳng hôi. Gió là chỗ giữ 3
cảnh giới,
được thay đổi ngay chỗ ở; nên
không
tan hoại. Như thế 4 cảnh giới nầy nương vào sự triển chuyển mà
thành trụ,
chẳng có tan hoại. Như thế lấy sự chẳng lìa nhau
để mà quán về cảnh giới vậy.
Hỏi rằng: Thế nào là quán duyên về cảnh giới?
Đáp rằng: Tứ Đại có 4 sự duyên để khởi lên cảnh giới.
Thế nào là 4?
Đó là nghiệp, tâm, thời gian và sự ăn uống.
Sao gọi là nghiệp và từ nghiệp mà sanh?
Tứ quả lấy 2 duyên để thành
duyên.
Lấy duyên sanh làm nghiệp duyên. Ngoài ra cảnh giới nương vào
duyên
để thành duyên. Tâm là từ chỗ
tâm mà
sanh ra. Bốn cảnh giới lấy sáu duyên trở thành duyên. Lấy sanh
duyên, lấy
cộng sanh duyên, lấy nương vào duyên, lấy sự
ăn uống để duyên vào. Lấy căn
duyên,
lấy hữu duyên để thành duyên
nầy.
Ngoài các cảnh giới ra lấy sự nương vào duyên, lấy hữu duyên.
Đối với khi nhập thai thì các
hình
tướng lấy 7 duyên để trở thành
duyên.
Các duyên cộng lại với nhau mà thay đổi
phát
triển và nương vào việc ăn
uống, các
căn và nghiệp báo để tạo thành
duyên và sau đó thì tâm sinh
ra
đầu tiên. Còn thân lấy 3 duyên
để hợp thành duyên. Cho nên
hậu sanh
duyên nương vào duyên để có duyên.
Lúc
ấy thời gian đã thành tựu. Tứ
đại lấy 2 duyên
để thành duyên, sanh duyên và
hữu
duyên. Ngoài ra các cảnh giới lấy 2 duyên thành duyên. Nương vào
duyên có
duyên. Việc ăn uống nầy từ chuyện ăn mà
thành tựu. Tứ đại lấy 3 duyên
thành
duyên. Đó là sanh duyên, thực
duyên và
hữu duyên. Ngoài ra các cảnh giới lấy 2 duyên thành duyên. Cho nên
nương
vào duyên và có duyên. Đây là
do
nghiệp mà sanh ra 43 cảnh giới và cùng với các sự sanh ra, phát
triển thay
đổi để 4 duyên ấy duyên vào
nhau. Cho
nên gọi là những duyên cùng chung với nhau và những duyên thay
đổi phát triển. Nương vào
duyên và hữu
duyên. Ngoài ra các giới lấy duyên để
thành
duyên. Cho nên nương vào duyên để có
duyên.
Như thế từ tâm sanh ra, từ thời gian sanh ra, từ
ăn uống mà sanh ra, như thế
phải nên
biết.
Địa giới là vì ngoài cảnh giới ra ở đó duyên vào nhau để thành
duyên.
Thủy giới là vì ngoài cảnh giới ra, tạo nên sự dính mắc và duyên
thành
duyên. Hỏa giới là ngoài giới ra tạo nên nóng và duyên thành duyên
với
nhau. Phong giới là vì ngoài giới ra, tạo nên sự duyên lại với
nhau duyên.
Như thế lấy duyên để quán sát về các
cảnh
giới.
Hỏi rằng: Vì sao lại lấy tướng để
quán về
các cảnh giới?
Đáp rằng: Tướng cứng thuộc về đất; tướng ẩm thuộc về nước;
tướng nóng
thuộc về lửa; tướng lạnh thuộc về gió. Như thế lấy tướng để quán
về các
cảnh giới.
Hỏi rằng: Vì sao lại quán về cảnh giới của nhiều loại và chẳng
phải
loại nào?
Đáp rằng: Địa giới và thủy giới thuộc về một chủng loại. Lấy đó
làm
trọng. Còn hỏa giới, phong giới là một chủng loại, lấy đó làm nhẹ.
Thủy
giới, hỏa giới chẳng phải loại. Nước hay làm tiêu lửa, làm cho
khô. Đây
chẳng phải thuộc loại nào.
Địa giới, phong giới thay đổi, phát triển trở thành chẳng phải
loại
nào. Đất ngăn gió lại. Gió có thể làm cho đất mất đi. Cho nên
không thuộc
chủng loại nào. Lại nữa hoặc 4 giới triển chuyển thành các loại;
lấy sự
triển chuyển ấy duyên vào vậy. Hoặc triển chuyển trở thành chẳng
phải loại
nào. Lấy tự tướng vậy. Như thế lấy chủng loại và phi chủng loại
để quán về các cảnh giới vậy.
Hỏi rằng: Vì sao lại quán về cảnh giới của một tánh và nhiều
tánh?
Đáp rằng: Từ nghiệp sanh ra 4 cảnh giới. Từ đó mà nghiệp sanh.
Cho nên
lấy một tánh làm tướng của chủng chủng tánh. Đây là do từ tâm sanh
và từ
thới gian sanh, từ thức ăn sanh và có thể biết 4 nhơn duyên của
địa giới.
Lấy tướng của một tánh làm nhơn. Cho nên có nhiều tướng. Như thế 4
nhơn
duyên của gió, lửa, lấy cảnh giới của gió có thể biết
được. Bốn cảnh giới lấy giới làm
một
tánh. Lấy đại là một tánh; lấy
pháp là
một tánh; lấy vô thường làm một tánh; lấy khổ làm một tánh; lấy vô
ngã làm
một tánh; lấy tướng chủng chủng tánh, lấy sự chủng chủng tánh; lấy
nghiệp
chủng chủng tánh; lấy tâm chủng chủng tánh thành chủng chủng tánh.
Lấy
thời chủng chủng tánh thành chủng chủng tánh. Lấy thực chủng chủng
tánh
thành chủng chủng tánh. Lấy chủng chủng tánh thành chủng chủng
tánh. Lấy
địa chủng chủng tánh thành
chủng chủng
tánh. Lấy sanh chủng chủng tánh thành chủng chủng tánh. Lấy cõi
chủng
chủng tánh thành chủng chủng tánh. Như thế lấy một tánh chủng
chủng tánh
để quán sát về những cảnh giới khác.
Hỏi rằng: Sao lại lấy việc ảo để
quán về
cảnh giới?
Đáp rằng: Như người thầy xiếc hay, lấy cây trong rừng để tạo
thành
người, làm cho đầy đủ tay chân, đi, đứng có thể được, bên trong
chuyển
động, bên ngoài mặc những đồ giả, giống như người thật, áo quần
tươm tất;
hoặc nam hoặc nữ, lấy người kéo dây; hoặc đi hoặc ném, hoặc
đứng, hoặc ngồi. Như thế đây gọi là
thân ảo của cảnh giới. Đầu tiên
lấy
phiền não ảo giác vị thầy xiếc ấy tạo ra đầy
đủ gân cốt của con người. Rồi lấy dây cột lại giống như thịt như
đất bùn.
Rồi lấy màu sắc tạo ra da, khoảng trống là lỗ chơn lông. Lấy áo
quần
đẹp đẽ mặc vào, rồi bảo
đó là nam hay nữ. Với cái tâm
ấy tạo
ra cảnh giới của gió; hoặc đi; hoặc
đứng;
hoặc đến; hoặc lui; hoặc tiến; hoặc thoái; hoặc nói; hoặc giảng.
Đây là
cảnh giới của người ảo. Hoặc gió cảnh giới của thức cùng sanh ra,
lấy ưu
não làm nhơn duyên, trở thành ưu, bi, khổ, não; hoặc cười; hoặc
đùa; hoặc choàng vai choàng cổ
v.v...
Ăn cũng để duy trì cảnh giới
giả ảo.
Mệnh sống nầy cũng thọ trì cảnh giới giả. Khi mệnh sống nầy mất
đi thì mọi vật phân tán ở
trong cảnh
giả nầy. Nếu nghiệp phiền não còn, lại còn khởi lên cảnh giới giả
tạm khác
nữa. Như thế lại sanh vào cảnh giả nữa. Cái ban
đầu chẳng rõ biết và cái cuối
cùng
cũng chẳng biết đầu đuôi.
Với người tọa thiền như thế ở cửa nầy và thực hành
điều nầy, chỉ cần quán thân nầy là
một
cảnh giới giả tạm, chẳng có chúng sanh mà cũng chẳng có thọ mạng.
Khi quán
thì lấy cảnh giới, dùng sự sống và pháp số, thọ, tưởng, hành, thức
để quán. Rồi kẻ tọa thiền kia quán
đến danh
sắc. Từ quán danh sắc kia, biết đây là khổ,
đây là tham ái,
đây là khổ tập. Quán những
tham ái
diệt rồi thì khổ diệt. Quán bát chánh đạo;
đây là khổ diệt đầy đủ.
Sau đó người tọa thiền rộng quán
về tứ đế,
lúc ấy thấy sự khổ mà lo lắng. Dùng vô thường, khổ, vô ngã
hay tư
duy chẳng tán loạn. Lấy trí tuệ để
thấy khổ
diệt là công đức. Lấy sự tịch
tĩnh mà
xa lìa một cách vi diệu. Với người tọa thiền kia, như thế hiện
thấy khổ
nên quá lo và thấy diệt, được công
đức. An
trụ chơn chánh nơi căn lực giác phần. Từ tướng của việc làm,
tâm
khởi lên rồi chứng nhập cảnh giới thanh tịnh.
Hỏi rằng: Vì sao đối với việc ăn
uống
chẳng thể chịu theo tưởng? Tu cái gì, tướng gì? Vị gì? Nơi
nào?
Khởi lên cái gì? Và công đức nào?
Vì
sao phải tu?
Đáp rằng: Lấy chỗ nếm thử đồ ăn uống mà tác ý rồi kéo theo tư
tưởng kia
để rõ biết điều đúng. Đây nghĩa là chẳng kéo theo tư tưởng về việc
ăn. Tư
tưởng kia tạm nơi bất loạn. Đây nghĩa là tu. Đối với việc ăn, lấy
sự lo
nghĩ làm tướng. Lấy sự xa lìa làm vị. Lại do yêu mùi vị mà khởi
lên.
Có công đức nào? - Thành
được 8 công đức. Nếu tu về tư tưởng
không kéo
theo sự ăn uống, biết lường về việc ăn uống, biết ngũ dục đầy đủ,
biết về
sắc ấm; rõ về tưởng bất tịnh. Tại thân nầy suy nghĩ
để trở thành chỗ tu học
đầy đủ. Từ chỗ thích mùi vị
rồi xa rời
tâm kia, hướng đến con đường lành
và
hướng vào chỗ an tĩnh.
Vì sao phải tu? - Đầu tiên
người
tọa thiền ngồi chỗ yên lặng; nhiếp tất cả tâm, làm cho tâm chẳng
loạn. Lấy
sự nếm thử mùi vị của thức ăn chẳng
tạo nên
cái ý để lôi kéo theo. Như vâỵ cả
trăm mùi
vị buôn bán, đối với kẻ thanh tịnh, là
chỗ đáng quý trọng. Sắc hương đầy đủ là
chỗ quá quý. Tỷ như ăn uống đủ vào
thân biến thành bất tịnh, thành chẳng chịu nổi, thành
đồ hôi thối, thành chỗ quá dơ.
Lấy ngũ
hành để tu hành về sự tưởng
nhớ
đến việc chẳng kéo theo. Do vậy mà
lấy
việc buôn bán để làm tan
đi nơi chốn, chỗ chẳng mất hay chỗ tụ
hội
lại.
Hỏi rằng: Vì sao lấy sự buôn bán tu hành mà chẳng kéo theo tư
tưởng (sự
nhớ nghĩ) về ăn uống?
Đáp rằng: Người tọa thiền nầy thấy các chúng sanh vì sự buôn
bán đồ ăn
uống khốn khổ, làm các ác pháp; hoặc sát hại; hoặc trộm cắp; lại
thấy
chúng sanh kia thọ vô lượng khổ, biết rằng nơi kia do sự sát hại
trói
buộc, lại thấy chúng sanh kia tạo ra nhiều tội ác; hoặc là xin
ăn; hoặc là ngông cuồng, trá
hiện
siêng năng, thấy thức ăn lại khởi lên
sự xa lìa, lấy sự bất tịnh của tiểu giải chảy xiết, mà thức
ăn uống là nguyên nhơn và kẻ
kia tạo
ra các nghiệp cũng như thế.
Lại thấy người xuất gia ở chỗ núi đồi
thanh tịnh có nhiều hoa hương, cầm thú ca hát do người lành
tạo ra.
Hoặc như ở thôn xóm tốt đẹp đầy đủ
bóng cây
rừng chiếu xuống nước, giữ ý người kia lại. Nhà cửa
đẹp đẽ chẳng có chỗ cao thấp. Người
thấy ngờ
ngợ chẳng có những điều nghi. Đây là chỗ mà người xuất gia
dành
để tu giải thoát, sánh với chỗ ở của
Phạm Thiên.
Những trụ xứ như thế, tâm chẳng dính mắc. Thường hay tọa thiền,
vui tu
việc tốt. Hoặc đối với nơi lạnh nóng,
gió táp
mưa sa nơi núi non hiểm trở. Vì nguyên nhơn việc
ăn uống buôn bán rồi quảng bát vào
nhà
người khất thực. Kia thấy như vậy và tâm khởi lên sự xa rời. Uống
ăn chẳng sạch, tiểu giải chảy ra.
Việc buôn
bán chuyện ăn uống nầy là nguyên nhơn vậy. Như vậy nên xả
bỏ, cầu
niềm vui đệ nhất.
Lại nữa thấy kẻ xuất gia tu hành đi
khất
thực; hoặc đối với ngựa voi, ác thú; hoặc đối với chó heo thảy;
hoặc với
kẻ làm ác; hoặc chỗ bất tịnh, đạp
lên
bùn đất và
đến trước cửa nhà kia
đứng yên thời gian, lấy áo che
thân.
Vì được cho ăn, sanh nghi. Hoặc thấy
việc ăn
kia giống như đồ ăn của chó. Khi ăn khởi lên sự ghê tởm.
Việc buôn
bán đồ ăn nầy có thể tạo ra chỗ ác
độc lắm
điều, làm sao mà có thể buôn bán và lấy kia
để ăn. Như thế sự buôn bán, tu hành
về
việc ăn. Chẳng nhớ nghĩ dính theo.
Vì sao lại làm mất đi sự tu hành
về
thức ăn mà chẳng nhớ nghĩ
theo? Kẻ tu
hành kia, như vậy chỗ được buôn bán
ăn uống và
khi ngồi ăn, lấy chỗ ẩm thấp bình
dân,
lấy tay để lùa vào miệng. Lấy
môi nhận
thức ăn, lấy rằng để nhai, lấy lưỡi
để chuyển
động và dùng nước bọt để đưa
cơm, để
trở thành máu huyết hòa hợp. Xa lìa chỗ dở xấu nhất, như
chó nôn
mửa, chẳng thể thấy được. Như thế nên
xa rời, sự tu hành không thể suy nghĩ theo chuyện
ăn uống được.
Hỏi rằng: Vì sao lấy nơi tu hành, chẳng kéo theo sự nhớ nghĩ về
việc
ăn uống?
Đáp rằng: Như thế việc ăn nầy khi nuốt vào bụng cùng với vật
chẳng
thanh tịnh hòa hợp rồi sanh ra chỗ ấm.; nơi hằng trăm loại trùng
ăn ở. Lấy
chỗ ấm áp ấy làm thành chỗ xa rời thứ nhất như người mửa đồ bất
tịnh vào
bình. Như thế nầy nơi chốn tu hành chẳng kéo theo sự nhớ nghĩ về
ăn uống.
Hỏi rằng: Vì sao lấy chỗ chảy thông tu hành mà chẳng kéo theo
sự nhớ
nghĩ về ăn uống?
Đáp rằng: Do chỗ ăn uống ấm áp nầy cùng với đồ ăn mới chẳng
thanh tịnh
hòa hợp, giống như rượu đặt vào ly bị bể; như thế tất cả thân nầy
bị chảy
ra, rồi tùy theo đó mà chảy vào các mạch nơi khóe mắt, qua 9 lỗ
của 99.000
lỗ chân lông, đầy dẫy chảy khắp. Đồ ăn nầy như thế chảy vào trong
cơ thể
và chia ra làm 5 phần. Một phần để cho trùng ăn; một phần tạo làm
sức ấm;
một phần duy trì sự sống cho thân; một phần thành nước tiểu; một
phần
thành thể xác. Như thế sự tu hành không kéo theo sự nhớ nghĩ về
thức ăn.
Hỏi rằng: Vì sao sự tụ họp tu hành chẳng kéo theo tư tưởng về
việc
ăn uống?
Đáp rằng: Đây là chỗ chảy thức ăn để thành tóc, lông, móng tay
v.v...
của thân nầy. Làm cho khởi lên cả hàng 101 phần của thân. Nếu
chẳng lưu
thông làm cho khởi lên 191 thứ bịnh não. Như thế, đây là chỗ tụ
hợp tu
hành,chẳng kéo theo sự nhớ nghĩ về việc ăn uống. Kẻ tọa thiền kia
lấy cửa
nầy và chỗ làm nầy như là việc tu hành chẳng kéo theo sự nhớ nghĩ
về việc
ăn uống, thành ra xa lìa sự
ăn uống. Lấy tâm xa lìa tự tại
ấy
thành chỗ bất loạn. Nếu tâm bất loạn thì những sự che
đậy mất đi và thiền phần lại
khởi lên
và việc hành thiền bên ngoài lại trụ yên.
Vô sở hữu xứ và Phi phi tưởng xứ như Sở
địa và tất cả nhập môn hay nói như kệ sau
đây:
Hành xứ kẻ tọa thiền
Chỗ nói tuy rõ ràng
Như người lành chỉ đường
Về nước Ba Lợi Phất
Lược nói được biết rộng
Rõ biết cả trước sau
Hằng xem như phi pháp
Với đây nói rộng rồi
Như thế đủ các tướng
Tất cả công đức kia
Như pháp mà phân biệt
Giải thoát đạo hành xứ.
Luận Về Con Đường
Giải
Thoát
Hết quyển thứ 8
-ooOoo-