Quyển Thứ Hai
Phẩm
3: Đầu Đà
Hỏi rằng: Lúc bấy giờ người tọa thiền giữ giới thanh tịnh, tâm
muốn
thành tựu công đức tối thắng, lại
muốn vì
được công đức đầu đà, sẽ
được thành tựu chăng?
Và vì sao mà được hạnh đầu đà
công đức nầy?
Đáp rằng: Vì lẽ người tọa thiền tánh không chỉ một loại. Vì
muốn thiểu
dục, vì ở nơi tri túc, vì đối với vô nghi, vì đối với sự diệt ái,
vì muốn
tăng trưởng dõng mãnh tinh tấn, vì muốn tự sống ít ỏi, không cầu
nhận của
bố thí bên ngoài, vì ở nơi an trụ, vì đoạn
trừ chỗ dính mắc và giữ gìn thiện giới.
Đây là
đầy đủ chỗ định; đây là sơ thánh chủng;
đây là thắng công
đức quán.
Người nào là người đầu đà?
Người có
13 pháp và tương ưng với 2 pháp về áo quần. Nghĩa là áo phấn tảo
và 3 y
cùng tương ưng với 5 pháp khất thực. Nghĩa là gồm có: Khất thực,
thứ
đệ khất thực, ngồi một chỗ để ăn, ăn
có chừng
mực và sau giờ ngọ không ăn.
Năm pháp
tương ưng với việc ngồi nằm. Một là ngồi nơi không có
chuyện gì;
hai là ngồi dưới gốc cây; ba là ngồi nơi đất
trống; bốn là ngồi nơi nghĩa địa
và
năm là ngồi chỗ thích hợp.
Ngồi phải
tương ưng với một cách ngay thẳng, nghĩa là thường ngồi mà chẳng
nằm.
Thế nào gọi là phấn tảo y?
Đáp rằng: Tánh hay thọ trì, đây nghĩa là tánh. Ngoài ra lại
cũng như
thế nầy. Vì sao thọ y phấn tảo? Vì dứt tuyệt y cúng thí của Cư sĩ.
Vì sao thọ 3 y?
Nghĩa là từ bỏ việc dư thừa.
Vì sao khất thực?
Nghĩa là dứt đi sự mời thỉnh của
người
khác.
Vì sao lại thứ đệ khất thực?
Nghĩa là dứt đi việc đi xin riêng
lẻ.
Vì sao ngồi ăn một chỗ?
Nghĩa là chẳng ngồi lại lần thứ hai.
Thế nào gọi là tiết lượng thực?
Nghĩa là dứt trừ ý tham lam.
Vì sao sau giờ ngọ không ăn?
Nghĩa là dứt trừ nơi ước vọng về chiều.
Thế nào gọi là ngồi chỗ không có gì?
Nghĩa là đoạn trừ chỗ làng
xóm.
Thế nào gọi là ngồi dưới gốc cây?
Nghĩa là đoạn trừ chỗ ở nơi phòng
ốc.
Thế nào là ngồi chỗ trống?
Nghĩa là dứt trừ chỗ che khuất.
Thế nào là ngồi trên gò mả cao?
Nghĩa là đoạn trừ chỗ tốt đẹp.
Thế nào là ngồi chỗ thích hợp?
Nghĩa là đoạn trừ chỗ ham vui.
Thế nào là thường hay ngồi mà chẳng nằm?
Nghĩa là lìa giường chiếu.
Vì sao thọ y phấn tảo?
Bởi vì thấy y nơi Cư sĩ, mong cầu chuyện
ăn uống sai trái, lại thấy thọ trì và nhận y công
đức. Ta thấy như thế nên dứt
trừ việc
thí y của Cư sĩ; nên thọ nạp y.
Thế nào là thọ nạp y công đức? Bởi
giống
như y của Cư sĩ thọ trì; nhưng không quan hệ;
được chẳng phải do nơi kia mà
không
được cũng chẳng buồn. Tâm chẳng tham
nhiễm,
đồ ăn cắp chẳng nhận. Thường hay dùng
đủ, chẳng để bán buôn. Chỗ huân tập của người lành,
đây là hành vô xứ. Sự tốt
đẹp đó tương ưng với hiện pháp lạc
trú, làm
cho người hâm mộ, liền được sự thọ
nhận chân
chánh. Đây nghĩa là nạp y công đức,
mà
Phật thường hay xưng tán.
Hỏi rằng: Nạp y có bao nhiêu thứ? Người nào thọ trì? Nguyên
nhân nào
mất đi?
Đáp rằng: Nạp y có 2 loại; một là giữ gìn vật không có chủ và
hai là
người đời mang cho. Hoặc ở nơi gò mả cao; hoặc ở nơi phấn tảo;
hoặc ở nơi
thị tứ; hoặc ở nơi đường sá, nhặt được rồi góp lại nhuộm đi rồi
chắp vá
thành hình mới thọ nhận. Đây nghĩa là vô chủ. Phẩn nhạt như phân
bò; hoặc
chỗ hỏa thiêu; hoặc người bỏ đi, cho y
che nhà
và áo ngoại đạo. Đây gọi là
đồ bỏ của người đời.
Thế nào gọi là việc thọ nhận phấn tảo y?
Nghĩa là vị Tỳ Kheo muốn dứt trừ sự thọ nhận của Cư sĩ.
Đây nghĩa là thọ phấn tảo y.
Thế nào gọi là không được?
Nếu Tỳ Kheo thọ nhận của Cư sĩ. Đây
gọi là
thất nạp y.
Thế nào gọi là tam y?
Vì có y lớn muốn cúng cho người khác giữ dùm
để khỏi bị dính mắc, biết đây là
việc
sai. Thấy 3 y công đức; ta từ bây giờ
thí xả
y lớn; nên thọ 3 y.
Vì sao thọ 3 y công đức?
Người lành hay lìa việc tích chứa y lớn và biết rằng thân mình
cần
đủ, như chim bay vào hư không,
không
ngoái đầu lại. Người lành huân
tập
pháp nầy chẳng có nghi ngờ.
Hỏi rằng: Tại sao gọi là 3 y? Vì sao nhận y? Vì sao mất y?
Đáp rằng: Đó là Tăng Già Lê, Uất Đa La Tăng và An Đà Hội. Đây
có nghĩa
là 3 y.
Thế nào gọi là 3 y?
Nếu Tỳ Kheo chẳng tích chứa y lớn thì được
thọ 3 y. Nếu thọ 4 y, đây gọi là mất tư cách nhận y.
Thế nào là thọ khất thực?
Nếu thọ nhận nơi người kia thỉnh, tức tự làm hại bởi chính
mình. Chẳng
phải là người hiểu biết; chẳng cùng với phi pháp Tỳ Kheo cùng chỗ
ngồi
nằm. Biết điều nầy không đúng. Lại
thấy khất
thực công đức nên ta từ nay dứt khỏi sự mời thỉnh của người
kia,
thọ pháp khất thực.
Thế nào gọi là khất thực công đức?
Nghĩa là nuơng vào tâm sở nguyện, đến
dừng
tự do, chẳng mong muốn của cúng, tiêu trừ giải
đãi, đoạn
diệt kiêu mạn, chẳng tham mùi vị ngon, làm lợi lạc chúng
sanh,
thường ở nơi 4 phương, tâm chẳng ngăn
ngại.
Người lành chỗ làm, là nghiệp chẳng nghi.
Hỏi rằng: Thỉnh có bao nhiêu loại? Thế nào gọi là nhận? Thế nào
gọi là
không được?
Đáp rằng: Thỉnh có 3 loại. Một là giống như mời ăn; hai là cùng
mời ăn
và ba là gặp mời ăn. Trừ 3 loại thỉnh nầy, gọi là khất thực. Nếu
thọ nhận
3 loại thỉnh nầy gọi là mất tư cách khất thực.
Thế nào gọi là thọ thứ đệ khất
thực?
Nếu ở nơi trước sau được nhiều đồ
ngon,
liền chẳng trở lại. Nếu trở lại tức là thường thọ thực. Nếu
nơi
nghi ngờ phải hay xa rời, biết điều
nầy không
đúng. Lại thấy công đức trước sau, ta từ bây giờ, bỏ chẳng theo
thứ lớp mà
xin, thọ thứ đệ khất thực.
Thế nào gọi là công đức của thứ đệ
khất
thực?
Lấy tâm bình đẳng làm lợi
lạc cho
tất cả, trừ tăng tật ác, dứt trừ sự đùa
giỡn, chẳng vui qua lại, chẳng vui nhiều lời, xa nhà cửa người,
lìa nơi
bịnh tật. Như trăng ít hiện, làm
chỗ
chiêm ngưỡng cho người. Người lành chỗ làm, là nghiệp chẳng nghi.
Hỏi rằng: Thế nào gọi tên là thứ đệ
khất
thực? Thế nào gọi là thọ? Thế nào gọi là mất?
Đáp rằng: Nếu có Tỳ Kheo đầu tiên đi khất thực vào nơi làng
xóm, từ nhà
đầu đến nhà cuối, lấy đó làm thứ đệ. Đây gọi là thứ đệ mà đi.
Thế nào gọi là mất?
Nghĩa là đi băng qua bên
nầy; nên
đây gọi là mất.
Thế nào gọi là thọ một chỗ ăn?
Nghĩa là đối với 2 chỗ ngồi rồi
ngồi nhiều
lần và thọ thực nhiều lần và rửa bát nhiều lần. Cùng với
việc sai
khác nầy, gọi là thọ nhận một chỗ ăn.
Người lành
chỗ làm, là nghiệp chẳng nghi, biết điều
ấy
sai, thấy một chỗ ngồi ăn là công đức;
cho nên đáng thọ. Ta từ ngày
nầy bỏ thọ 2 chỗ ăn mà chỉ thọ
một chỗ
ăn.
Thế nào gọi là một chỗ ăn công
đức?
Chẳng nhiều chẳng ít, chẳng tham của thí chẳng thanh tịnh.
Chẳng có
bịnh não, chỗ ở chẳng hại, tự sự an lạc. Người lành chỗ làm, là
nghiệp
chẳng nghi.
Hỏi rằng: Thế nào là thọ một chỗ ăn?
Thế nào
là một bên? Thế nào là mất?
Đáp rằng: Một bên có 3 loại. Nghĩa là tọa biên, thủy biên và
thực biên.
Thế nào gọi là tọa biên?
Ăn rồi lại ngồi, thọ nước rửa bát, lại chẳng ăn nữa. Đây gọi là
thủy
biên.
Thế nào gọi là thực biên?
Nếu ở nơi đoàn thực, sinh
tối hậu
tưởng; hoặc nuốt chẳng ăn lại. Đây
gọi là
thực biên. Nếu trải qua 2 chỗ ngồi, liền mất một lần
ăn, trừ ra nước thuốc. Chư Phật than
rằng:
Đây là thực biên.
Thế nào gọi là thọ tiết lượng thực?
Nếu ăn uống vô độ, làm cho
thân thể
lừ đừ, thường hay ưa vui, làm
cho bụng
chẳng đủ; biết việc nầy rồi, liền
thấy ra và
tiết chế liều lượng công đức. Ta từ
hôm nay
dứt lìa chẳng có ý tham và thọ nhận sự
điều tiết.
Thế nào gọi là tiết thực công đức?
Nghĩa là lượng đồ ăn chẳng theo ý
nơi
bụng, ăn nhiều nặng bụng, biết thế chẳng vui, trừ tham diệt bịnh,
đoạn lìa
sự giải đãi. Người lành chỗ
làm, là
nghiệp vô nghi.
Hỏi rằng: Thế nào là thọ tiết lượng thực? Thế nào gọi là mất?
Đáp rằng: Nếu thọ việc uống ăn nên tự suy nghĩ, chỗ tu ít
nhiều, lấy
làm thường chuẩn; chẳng nhận ăn lâu, kẻ trí thọ thực theo lượng,
đoạn trừ
việc chẳng điều độ. Đây gọi là tiết lượng thực. Nếu chẳng như thế,
đây gọi
là mất.
Sao gọi là ăn rồi không được ăn
nữa?
Đoạn nơi vọng tưởng, lìa việc ăn nhiều, biết điều nầy sai trái
và thấy
công đức của việc chẳng ăn thêm nên ta từ ngày hôm nay dứt trừ
việc ăn
thêm. Sau khi ăn rồi, không ăn thêm lần nữa.
Thế nào gọi là công đức của việc
chẳng ăn
thêm?
Đoạn trừ chỗ tham vui, tiết chế giữ gìn thân nầy, lìa nơi để
dành,
chẳng phải chỗ mưu cầu; chẳng bảo người kia, chẳng tùy theo tâm
muốn.
Người lành chỗ làm, là nghiệp vô nghi.
Hỏi rằng: Ăn thêm lần nữa
có bao
nhiêu loại? Thế nào gọi là thọ? Thế nào gọi là mất?
Đáp rằng: Ăn thêm lần nữa có 2 loại. Đó là chẳng tiết biên và
thọ trì
biên.
Thế nào gọi là chẳng điều tiết số
lần?
Nếu thọ việc ăn lâu, tội được
thỉnh riêng,
chẳng được ăn lại.
Thế nào gọi là thọ trì số lần?
Ăn rồi cho đến 21 lần khác, chẳng sẽ thọ lại, sau đó chẳng ăn,
tức đoạn
trừ việc ăn lâu. Nếu thọ việc ăn lâu thì mất tư cách là chẳng ăn
thêm một
lần nữa sau đó.
Thế nào gọi là thọ vô sự xứ?
Ở trong nước, tâm thức thường hay tiếp xúc với ngũ trần sanh
nhiễm ưa
vui. Nếu ở chỗ ồn ào, tới lui phân tâm; biết
điều nầy sai trái, lại thấy vô sự xứ công đức; nên ta từ
hôm nay
dứt trừ việc ở trong nước thọ vô sự xứ.
Thế nào gọi là vô sự xứ công đức?
Nghĩa là lìa nơi quốc gia, chỗ hay tiếp xúc với ngũ trần, tâm
sanh
nhiễm vui. Nếu ở nơi ồn ào, tới lui chẳng yên. Thấy 10 loại lời
nói, công
đức tối thắng dễ mến, người trời hoan
hỷ,
chẳng vui quen nhờn với niềm vui thế tục và
được tịch tịnh. Tịnh lạc ít có tiếng
động và
từ tâm nầy thiền tọa; người lành chỗ làm, là nghiệp chẳng nghi.
Hỏi rằng: Vì sao gọi là tối hậu vô sự xứ? Vì sao gọi là thọ? Vì
sao gọi
là mất?
Đáp rằng: Lìa nơi quốc thành, dừng nơi làng mạc, ghé nơi xe
vắng,trong
vòng 500 cung và giữa 4 khuỷu tay của con người. Đây gọi là tối
hậu vô sự
xứ. Trừ ở giữa nước; đây gọi là vô sự xứ. Nếu ở giữa nước liền mất
vô sự
xứ.
Vì sao lại ngồi dưới gốc cây?
Xả bỏ nơi che khuất, chẳng tích chứa của cải, tu giữ sự tham
lam, yêu
mến mong muốn đầy đủ. Biết được điều
nầy là
sai, thấy dưới gốc cây có công đức,
ta từ ngày
hôm nay, đoạn trừ chỗ ở tốt, ngồi và
sống dưới gốc cây.
Thế nào là ở dưới gốc cây có công đức?
Nương vào chỗ vui mà thọ, chẳng giao du với thế tục, vui lìa
công việc
và dừng lại mọi việc, dứt trừ chỗ ở ganh tị, và lìa ái trước;
người lành
chỗ làm, là nghiệp chẳng nghi.
Hỏi rằng: Cây nào có thể ở? Cây nào phải xa? Thọ như thế nào?
Thế nào
gọi là mất?
Đáp rằng: Đối với giữa ngày, cây có tàng che và chẳng có gió,
khiến lá
không rụng. Đây là nơi có thể ở được. Trừ cây độc, cây khô, cây
không tàng
che, cây có quỷ thần. Lìa những nơi như vậy, đây gọi là thọ nhận
gốc cây.
Nếu lui tới chỗ che khuất ấy, tức mất ý nghĩa ở dưới gốc cây.
Vì sao gọi là thọ lộ địa trụ?
Chẳng vui nơi che khuất và ở dưới gốc cây có chứa các súc vật.
Biết
điều ấy sai, thấy được công đức ở chỗ
trống,
ta từ hôm nay dứt khỏi niềm vui và thọ chỗ
đất trống.
Thế nào gọi là lộ trụ công đức?
Chưa đến chỗ vui, đoạn trừ giải đãi
ngủ nghỉ, giống như hươu rừng, tùy ý mà đi,
không chỗ truy tìm. Người tốt chỗ làm, là nghiệp chẳng
nghi.
Thế nào gọi là thọ? Thế nào gọi là mất?
Dứt trừ chỗ che khuất và dưới gốc cây, đây
là thọ nhận việc ở chỗ trống. Nếu ở chỗ che khuất và ở dưới
gốc
cây, tức mất ý nghĩa ở chỗ trống.
Thế nào gọi là ở trên gò mả cao?
Đối với nơi ấy chẳng làm chuyện buông lung,chẳng khởi lên việc
ác. Biết
điều ấy là sai trái, thấy chỗ gò mả kia là công đức; nên ta từ
ngày hôm
nay, đoạn trừ những chỗ khác, ở nơi gò mả cao.
Thế nào gọi là thọ nơi gò mả cao công đức?
Khi chết thì nghĩ, được tướng bất
tịnh,
được phi nhơn kính trọng, chẳng khởi phóng dật, hàng phục
những dục
nhiễm, nhiều chỗ chán ngấy, chẳng chỗ đáng
sợ, quán thân không tịnh, đoạn lìa chỗ tính toán, người
lành chỗ
làm, là nghiệp không nghi.
Hỏi rằng: Thọ công đức ở gò
mả cao
như thế nào? Đối với nơi nào
có thể ở?
Đối với nơi nào có thể
đi? Thế nào là thọ? Thế nào là
mất?
Đáp rằng: Nếu thường hay có người khóc than, hay có lửa cháy,
đầu tiên
muốn vào ở chỗ ấy, đây là nơi gò mả, hay sanh quan sát, như chỗ
yên tịnh,
liền có thể lui tới để ở. Nếu có Tỳ Kheo dừng nơi gò mả, chẳng tạo
nhà ở
và ngồi trên giường nằm; chẳng theo gió mà ngồi; chẳng nghịch gió
mà ngồi.
Nằm thời chẳng nóng, chẳng ăn mùi
cá,
chẳng uống sữa tươi, chẳng ăn bột
gạo, chẳng
chạm thịt thà, chẳng ở trong phòng, chẳng an ổn nơi bình
bát. Nếu
có người đến mang theo tọa cụ và
đồ mặc, lui tới chỗ gò mả,
đến nơi chốn nầy như quăng đồ đi, khi
trời
sáng liền lấy y áo rồi trở về Tăng Già Lam, ngoài trụ xứ ấy
ra,
đây nghĩa là gò mả. Nếu lui
tới chỗ
khác tức mất tên nầy.
Thế nào gọi là thọ ngộ đắc xứ trụ?
Chẳng vui nơi người tham, chẳng buồn giận người khác làm cho xa
lìa.
Biết được điều sai trái nầy, thấy chỗ
thích
hợp có công đức, nên ta từ ngày hôm nay,
đoạn lìa chỗ tham ở, thọ chỗ
thích
hợp.
Thế nào gọi là ngộ đắc xứ công
đức?
Tâm biết chỗ đủ, tham nơi vắng
lặng, đoạn
diệt nhiều ái lạc, ở người kính trọng, ở nơi từ bi, một lòng
hướng
đến sự nhiếp hóa, người lành
chỗ làm,
là nghiệp chẳng nghi.
Vì sao gọi là thọ? Vì sao gọi là mất?
Đoạn tham khổ dừng, gọi đây là nương gặp. Nếu đến chỗ vui vẻ
tức mất đi
tên nầy.
Thế nào gọi là thọ việc thường ngồi chẳng nằm?
Đối với chỗ trụ xứ, ngủ nghỉ giải đãi, biết điều ấy sai, thấy
công đức
thường ngồi, nên ta từ ngày hôm nay đoạn trừ việc hôn trầm nằm
nghỉ, thọ
thường ngồi chẳng nằm.
Thế nào là công đức thường ngồi?
Là chỗ đoạn trừ chỗ giải đãi.
Trừ
chỗ ganh ghét của thân, lìa chỗ nhiểm xúc làm vui, ít bị trói buộc
chỗ
nghỉ, thường nhiều vắng lặng, chỉ thích tu thiền, người lành chỗ
làm, là
nghiệp không nghi.
Sao gọi là thọ? Sao gọi là mất?
Nghĩa là đoạn trừ sự nằm ngủ. Nếu
nằm tức
mất đi tên nầy.
Thế nào gọi là lìa phấn tảo y?
Đối với y của Cư sĩ cúng bằng vải, hoặc bằng lông thú mà Phật
đã cho
phương tiện thọ thì chẳng mất về việc lãnh y.
Thế nào gọi là ba y?
Nếu chứa y lớn quá 10 ngày, có nguyệt vọng y, có công
đức y lại có y lớn vì giữ làm
đồ nằm hoặc y che người, hoặc y tắm
mưa mà
chẳng thọ trì của thí bất tịnh. Nếu vì phương tiện thì chẳng mất 3
y.
Thế nào gọi là phương tiện khất thực?
Nếu tăng thứ thực, hoặc thường trụ
thực, hành
trù thực vào ngày 15, Bố Tát thực, chúng thực và các loại thực
khác v.v...
lấy phương tiện để thọ thì
chẳng mất
việc khất thực. Nếu thấy điều nầy
sai, thường
hay xa lìa.
Thế nào gọi là thứ đệ khất thực
phương
tiện?
Nếu thấy voi ngựa và ở trước cửa mà có chỗ tranh chấp
đồ ăn ngon với chỗ khác, những loại
như thế
nếu thấy nghi thì nên tránh. Lại thấy Chiên
Đà La che bình bát, học gia
theo Hòa
Thượng A Xà Lê khách làm Tỳ Kheo. Những loại như thế phương tiện
mà vượt
qua, chẳng mất đi thứ đệ.
Thế nào gọi là nhất tọa thực phương tiện?
Nếu lúc đang ăn mà thấy
voi, ngựa,
bò, rắn, Hòa Thượng A Xà Lê khách Tỳ Kheo
đến, phương tiện mà qua khỏi, qua khỏi rồi mới
ăn, chẳng mất một chỗ ngồi. Nếu biết
lương
thực và thời hậu thực không phải là phương tiện.
Thế nào gọi là vô sự xứ phương tiện?
Hoặc là thọ giới sám tội, vấn pháp, Bố Tát, tự tứ, trị bịnh,
khán bịnh.
Hỏi rằng: Qua chỗ nghi là thế nào?
Như thế các duyên, phương tiện ở trong làng xóm chẳng mất vô sự
xứ.
Thế nào gọi là dưới gốc cây phương tiện?
Nếu gặp lúc mưa, liền vào núp bóng, khi dứt mưa liền trở lại
như cũ mà
chẳng mất. Dưới gốc cây, ở chỗ trống trải nơi gò mả, gặp chỗ thích
nghi
v.v... là phương tiện. Lại cũng như thế. Ngoài trụ xứ có thể ở,
thường
ngồi chẳng nằm là chẳng phải phương tiện. Lại có một thuyết, nếu
quán nơi
lỗ mũi, được dùng phương tiện,
chẳng
mất thường ngồi, mà đây là 13
hạnh
đầu đà, liền thành 8 pháp. Như
trong
Tỳ Đàm nói là 8 loại
Đầu Đà. Lúc ấy sau
đó chẳng nhiếp về việc ăn, tiết lượng
một chỗ
ngồi. Việc nầy thọ trì thành một thể loại.
Đây gọi là vô sự xứ nhiếp, nơi
dưới
gốc cây, chỗ ngồi trống và gò mả.
Vì sao gọi là nơi vô sự?
Nếu xây dựng phòng ốc vui với công vụ, nhiều chỗ tích chứa ham
thích
chỗ ở, tâm chẳng vui đúng, liền nghĩ
thế nầy
ở dưới gốc cây, ở nơi gò mả, ở nơi đất
trống là chỗ ở yên tịnh. Cho nên thành 8.
Đối với 8 việc đầu đà nầy lại
thành 3
pháp. Một là vô trụ xứ, hai là phấn tảo y, ba là
đi khất thực. Nếu 3 pháp thanh tịnh
đầu đà
đầy đủ, như Phật đã vì Nan
Đà mà nói: Lúc nào ta thấy
ngươi thành
vô sự xứ, thọ y phấn tảo và không đúng
thời
không ăn, để dưỡng thân thân mệnh, không thấy chỗ ham muốn.
Hỏi rằng: Ai là Đầu Đà
phần?
Đầu Đà có bao nhiêu pháp? Vì
sao gọi
là 3 hành nhơn tu hạnh đầu đà?
Có bao
nhiêu Đầu Đà có thời tiết và
có
Đầu Đà nói
Đầu Đà?
Đáp rằng: Có 13 loại đầu đà do Phật đã nói. Phật đã chế giới.
Đây gọi
là đầu đà phần. Đây chẳng nên nói là thiện, bất thiện hay vô lý.
Vì sao
vậy? Vì cùng với người bất thiện và ác dục vậy. Chẳng trừ ác dục,
cùng
khởi phi pháp, tham vui lợi dưỡng, cho nên chẳng phải là
đầu đà lành.
Có bao nhiêu pháp?
Đây có 2 pháp đầu đà. Bất tham và bất si. Như Phật đã nói: Nếu
Tỳ Kheo
mặc y phấn tảo nương vào thiểu dục tri túc, vui chỗ an tịnh không
nghi,
nương vào nơi giải thoát. Đây gọi là thọ phấn tảo y. Ngoài ra các
hạnh đầu
đà khác cũng lại như thế. Chẳng tham, chẳng si, mà
đây là chẳng tham nơi 13 xứ
hay trừ
tham dục. Lấy việc chẳng si nầy đối
với 13
nơi hay trừ vô minh. Lại nữa lấy điều chẳng tham dục nầy mà
Phật
đã hứa để
hay sanh chỗ xa rời, giống như vô si, trừ dục nhiễm vui riêng,
mà
đây là chẳng si. Giống như
việc trừ ra
việc dối lừa nơi thân. Đây là 2
pháp
đầu đà.
Đây là chẳng tham chẳng si.
Thế nào là 3 hành nhơn tu hạnh đầu
đà?
Nghĩa là tham si hành nhơn tu hạnh đầu
đà;
sân nhuế hành nhơn chẳng hay tu hành.
Vì sao tham si hành nhơn mà có thể tu hành
đầu đà?
Như người tham cho đến ái, thành
những phóng dật. Nếu chẳng phóng dật tức có thể lại tham. Như si
chẳng
nghi, nương vào đầu đà thọ,
thành bất
phóng dật. Nếu bất phóng dật, tức có thể lại si.
Vì sao mà người tham si tu hạnh đầu
đà?
Người sân thọ khổ, liền thành kẻ ác; như kẻ bị bịnh
đờm; nếu không cho uống thuốc nóng,
lại
chuyển tăng thêm bệnh. Cho nên người sân chẳng nên tu hành.
Lại nói
người sân nên ở nơi vô sự và ở tại gốc cây.
Vì sao ở nơi vô sự?
Vì nơi ấy không có khổ của thế gian vậy.
Có bao nhiêu đầu đà có thời
tiết?
Có 3 đầu đà có 8 tháng.
Nghĩa là ở
dưới gốc cây, nơi đất trống và
ở nơi
gò mả. Lúc an cư thì Phật dạy ở chỗ có che phủ bên trên.
Hỏi rằng: Sao gọi là đầu đà
thuyết
đầu đà?
Đáp rằng: Lại có đầu đà thuyết đầu đà, có đầu đà chẳng nói đầu
đà. Có
chẳng phải đầu đà nói đầu đà. Có chẳng phải đầu đà chẳng nói đầu
đà.
Vì sao gọi là có đầu đà nói
đầu đà?
Nghĩa là A La Hán thành tựu việc thọ pháp
đầu đà.
Vì sao nói có đầu đà chẳng
nói
đầu đà?
Nghĩa là A La Hán chẳng thành tựu việc thọ
đầu đà.
Vì sao có phi đầu đà nói
đầu đà?
Nghĩa là học nhơn và phàm phu thành tựu việc thọ
đầu đà.
Vì sao phi đầu đà chẳng nói
đầu đà?
Nghĩa là học nhơn, phàm phu chẳng thành tựu việc thọ
đầu đà.
Hỏi rằng: Tướng của đầu đà
như thế
nào? Vị như thế nào và khởi ra sao?
Đáp rằng: Lấy thiểu dục làm tướng. Tri túc làm vị và vô nghi
làm khởi.
Lại nữa lấy vô sở trước làm tướng, lấy vô quá làm vị, lấy chẳng
thoái làm
khởi.
Thế nào gọi là sơ, trung, hậu?
Nghĩa là thọ lấy làm đầu; tu hành
làm giữa và hoan hỷ làm phần sau cùng.-
*
Phẩm 4: Phân Biệt
Định
Hỏi rằng: Lúc ấy người ngồi thiền tịnh giới rồi hành
đầu đà, thọ thành tựu chỗ
thắng thiện
thì phải làm như thế nào?
Đáp rằng: Làm cho định khởi lên.
Hỏi rằng: Định gì? Tướng
gì? Vị gì?
Khởi gì? Xứ gì? Người nào thọ thiền giải thoát
định? Dừng thọ sai biệt thế nào?
Có
bao nhiêu định là nhơn có thể
thấy?
Lấy đó mà khởi
định? Chứng định có bao nhiêu
pháp?
Định có bao nhiêu công
đức? Định có bao nhiêu chúng
cụ? Vì
sao khởi định?
Đáp rằng: Định là có tên thanh tịnh. Một lòng hướng đến sự tinh
tấn và
công đức tịch tĩnh, chánh nhơn trụ, chẳng loạn. Đây có nghĩa là
định. Lại
nữa gió phiền não mạnh cũng không làm cho đảo tâm yên lặng được,
như ánh
sáng đèn nơi điện đường chẳng lay động. Như A Tỳ
Đàm nói: Nếu tâm ở yên, chẳng
có phan
duyên, lại chẳng động loạn, yên
lặng
chẳng đắm, chánh định, định căn, định
lực.
Đây có nghĩa là định.
Tướng gì? Vị gì? Khởi gì? Xứ gì?
Tâm trụ tức là tướng, phục oán là vị, tịch tĩnh là khởi, ở nơi ô
nhiễm
mà tâm chẳng đắm trước được giải
thoát, đây tên
là xứ.
Người nào thọ định?
Nghĩa là thọ tâm số và phương tiện định
v.v... Như thủ chấp xưng, làm cho tâm, tâm số v.v... Như
trong bát
có dầu. Niệm và tinh tấn và hành vi định;
giống như xe tứ mã dùng lực để
kéo xe.
Tư duy lấy làm định. Như bị
bắn tên,
người ấy chú tâm điều phục, để trừ
oán vậy.
Như thuốc tiêu độc. Như Tỳ Đàm
nói: Kiểm nhiếp là nghĩa định. Từ đây
nghĩa
định đầy đủ là nghĩa định.
Thiền có 4
loại thiền. Đó là sơ thiền và giải thoát. Nghĩa là 8 giải
thoát.
Bên trong tưởng về sắc, bên ngoài quán về sắc.
Định lại có 3 định nghĩa là
hữu giác
hữu quán, chánh thọ. Nghĩa là có 9 loại lần lượt chánh thọ.
Thế nào là thiền?
Là tư duy vậy. Tư duy về việc oán thì tâm thường hỷ lạc, lìa
các chướng
ngại để được giải thoát vậy, làm
cho
bình đẳng. Phương tiện phát sanh
định, được
tự tại. Chẳng lấy 2 nghĩa ở nơi chánh thọ vậy. Lạc khởi định, giải
thoát
chánh thọ. Có bao nhiêu công đức
làm
cho định được? Khởi thấy 4 công đức làm
định được khởi lên.
Thế nào gọi là bốn?
Hiện thấy pháp lạc, vui ở; lấy việc quán về niềm vui, thần
thông hiện
chứng có đầy đủ.
Làm sao mà hiện thấy pháp lạc, vui ở?
Nghĩa là người được định, hay sanh
vô lậu.
Tâm khởi vị ưa thích, thọ xuất thế lạc, thành hiện thấy
pháp lạc,
vui ở. Cho nên Đức Thế Tôn dạy rằng:
Kẻ kia
với thân nầy từ chỗ thanh tịnh sanh vui, liền được thanh lương. Làm
cho từ từ viên mãn đầy đủ, thành
tựu
vậy. Như Phật dạy các Tỳ Kheo rằng: Ta trước
đây làm Ni Kiền, bảy ngày bảy đêm
thân chẳng giao động; miệng chẳng mở
để nói
lời nào, mặc nhiên ngồi như thế; một lòng thọ lạc.
Đây đối với Thánh pháp nghĩa là
hiện
thấy pháp lạc, vui ở vậy. Lấy việc quán về niềm vui; nghĩa là
người ngồi
thiền được tâm định, chẳng còn
bị che
khuất trói buộc, điều nhu và
hay thọ
trì. Quán thấy về ấm, nhập, giới v.v... Tự tánh an lạc cho nên
Đức Thế Tôn đã dạy các Tỳ Kheo
rằng
nên phải tu hành, như thế tất cả lấy tâm nương vào như thật trí,
biện
chứng thần thông. Người đã
được định rồi, nương chứng ngũ thông.
Nghĩa là
được như ý về thiên nhĩ, tha
tâm, túc
mệnh, thiên nhãn. Cho nên Thế Tôn nói rằng: Tâm
được định rồi, tùy nghi chuyển
biến.
Như thế tất cả làm cho được như ý. Có
đầy đủ
rồi, người đã được định chưa
đến được
chỗ vô học. Nhưng cuối cùng làm cho chẳng thối. Do
định được báo, được sắc, vô sắc đầy
đủ, như
Phật đã dạy: Ít tu sơ thiền thì được làm
quyến thuộc của Phạm Thiên. Như thế tất cả chủng loại
đều sanh kia. Như thế tất cả đây là
4
công đức, hay sanh định kia. Mỗi mỗi
sẽ khởi.
Chứng định có bao nhiêu
loại?
Nghĩa là có 8 pháp. Dục, dục sân nhuế, giải
đãi, thùy miên;
điều hí, nghi hoặc; vô minh, vô hỉ
lạc. Tất
cả các pháp ác là chướng pháp.
Nguyên nhơn của định có bao nhiêu
loại?
Nghĩa là có 8 pháp. Đây là
cái nhơn
xuất ly chẳng sân; tướng sáng chẳng loạn. Tất cả thiện pháp làm
cho tâm
hoan hỷ, hay sanh pháp trí. Đây là
những nhơn của định.
Định tư có bao nhiêu loại?
Nghĩa là có 7 loại giới, đầy đủ
tri túc;
che lấp cửa ngõ, giảm chế ăn
uống. Đầu
đêm, giữa đêm, cuối
đêm lại chẳng ngủ nghỉ, thường
niệm
đến trí tuệ. Trụ xứ tịch tĩnh.
Định có bao nhiêu loại?
Định có 2 loại. Một là thế gian định; hai là xuất thế gian
định, được
đắc Thánh quả. Nghĩa là xuất thế định. Còn tên thế định là định
của thế
gian; đây có lậu, có kết và có trói buộc. Đây còn trôi nổi, còn bị
che
đậy, còn giới trộm cắp, thấy trộm cắp. Đây còn chấp giữ phiền não.
Đây nghĩa là thế gian
định. Cùng khác với
điều nầy gọi là xuất thế gian
định. Lại nữa định có 2 loại. Đó là
tà
định và chánh
định.
Thế nào là tà định?
Chẳng lành nhứt tâm. Đây nghĩa là
tà định. Nếu lành một tâm.
Đây nghĩa là chánh
định, tà
định dứt mất, chánh định nên tu. Lại nữa
Định có 2 loại. Đó là ngoại
định và an
định. Định kia ở phần đầu gọi là
ngoại
định. Tánh trừ vô gián; đây có nghĩa là
an định.
Lại nữa Định có 3 loại. Đó là
có
giác hữu quán định, vô giác hữu quán
định và
vô giác vô quán định.
Thế nào gọi là hữu giác hữu quán?
Nghĩa là sơ thiền có giác có quán; nhị thiền vô giác ít quán;
dư thiền
vô giác vô quán.
Lại nữa Định có 3 loại. Đó là
cộng
hỷ sanh định, cộng lạc sanh định và
cộng xả sanh định. Sơ thiền nhị thiền
nghĩa là
cộng hỷ sanh. Tam thiền nghĩa là cộng lạc sanh. Tứ thiền nghĩa là
cộng xả
sanh.
Lại nữa Định có 3 loại. Đó là
thiện
định, báo định và sự
định.
Thế nào gọi là thiện định?
Đó là người học con đường thánh và phàm phu. Tu sắc vô sắc
định. Đây
nghĩa là thiện định. Thánh quả là nơi học nhơn phàm phu sanh, sắc
vô sắc
giới. Đây gọi là báo định. Vô học nhơn thọ sắc vô sắc định. Đây
gọi là sự
định.
Lại nữa Định có 4 loại. Đó là
dục
định, sắc định, vô sắc định và
vô sở
thọ định. Nghĩa là nơi ấy gồm
bỉ hành
và chánh thọ hành. Đây thuộc về dục
định. Tứ
thiền thuộc về sắc định. Tứ vô sắc định và thiện nghiệp
báo.
Đây là vô sắc
định. Bốn đạo quả nghĩa là vô
sở thọ
định.
Lại nữa Định cũng có 4 loại tu hành.
Nghĩa là khổ tu hành thuần trí. Khổ tu hành lợi trí. Lạc tu hành
thuần trí
và Lạc tu hành lợi trí. Đây là
4 loại:
Một là mật phiền não; hai là sớ phiền não; ba là lợi căn
và bốn là thuần căn.
Đối với người mật phiền não, thuần căn não tu hành, thuần trí
được
định. Mật phiền não lợi căn khổ tu hành, lợi trí được định. Người
sớ phiền
não thuần căn lạc tu hành, thuần trí được định. Sớ phiền não lợi
căn lạc
tu hành, lợi trí được định. Đối với đây là người mật phiền não;
mật phiền
não rồi bẻ gãy cái khổ lại phiền não. Cho nên khổ tu hành thuần căn
nhơn, mà thuần căn vậy. Thiền hành
tích chứa dài lâu, giác thuần trí. Cho nên gọi tên là thuần trí.
Lấy
đây làm phương tiện. Tất cả
nên phân
biệt.
Lại nữa Định có 4 loại. Đó là
Tiểu
Định Tiểu Sự; Tiểu Định vô lượng sự;
Vô lượng
định tiểu sự và Vô lượng định
vô lượng
sự.
Thế nào gọi là Tiểu Định Tiểu Sự?
Định ấy chẳng tùy theo tâm sở mà được. Định tiểu tinh tấn. Đây
gọi là
Tiểu Định Tiểu Sự.
Thế nào gọi là Tiểu Định vô lượng
sự?
Định ấy chẳng tùy theo tâm mà được. Việc kia siêng năng lớn.
Đây gọi là
Tiểu Định vô lượng sự
Thế nào gọi là Vô lượng định Tiểu
Sự?
Định ấy tùy theo tâm sở mà được. Sự kia tinh tấn ít. Đây có
nghĩa là Vô
lượng định tiểu sự.
Thế nào gọi là Vô lượng định vô
lượng sự?
Định rồi tùy theo tâm sở mà được. Định kia là đại tinh tấn. Đây
gọi là
Vô lượng định vô lượng sự.
Lại nữa Định có 4 loại. Đó là
dục
định, tinh tấn định, tâm định và
huệ
định.
Dục định là nương vào dục
tu hành.
Đây là dục
định. Nương vào tinh tấn
để được, gọi là tinh tấn
định. Nương vào tâm mà
được; nên gọi là tâm
định. Nương vào huệ mà
được; nên
được gọi là huệ định.
Lại nữa Định lại có 4 loại. Có
định là
chỗ Phật chứng đắc, chẳng phải chỗ
Thanh Văn
được. Có định Thanh Văn chứng đắc, chẳng phải Phật chứng đắc. Có
định là
chỗ Phật chứng đắc và Thanh Văn
chứng đắc. Có định chẳng phải chỗ Phật chứng đắc và chẳng
phải chỗ
Thanh Văn chứng đắc. Đại bi định song
biến
định là chỗ Phật chứng đắc,
chẳng phải
Thanh Văn chứng đắc. Học quả định là chỗ Thanh Văn
chứng được mà chẳng phải Phật chứng
được. Cửu thứ đệ định vô học quả định là chỗ Phật và Thanh Văn
chứng đắc. Vô tưởng định là chẳng phải chỗ
đắc của Phật và cũng chẳng
phải chỗ
đắc của Thanh Văn.
Lại nữa Định là có 4 loại.
Đó là có
định hay khởi chẳng hay diệt. Có định hay diệt chẳng hay khởi. Có
định hay
khởi hay diệt. Có định chẳng khởi lại chẳng diệt.
Hỏi rằng: Sao gọi là có khởi mà chẳng diệt?
Đáp rằng: Dục giới thiện bất thiện định. Đây có nghĩa là khởi
mà chẳng
khởi. Học và phàm phu, sắc vô sắc thiện định; đây là khởi mà chẳng
diệt.
Tất cả quả định và sự định, chẳng phải khởi mà chẳng phải diệt.
Lại nữa Định có 4 loại. Đó là
sơ
thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. Lìa nơi ngũ cái, thành
tựu giác
quán. Hỷ lạc nhứt tâm. Đây là
sơ
thiền. Lìa nơi giác quán thành tựu 3 chi, lìa hỷ thành tựu 2 chi.
Lìa lạc
xả nhứt tâm thành tựu đệ tứ thiền.
Lại nữa Định có 5 loại. Đó là
sơ
thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền và ngũ thiền. Ngũ thiền là 5
chi,
giác quán hỷ lạc nhứt tâm ly ngũ cái, thành tựu ngũ chi.
Đây là sơ thiền, ly giác thành
tựu tứ
chi. Đây là nhị thiền, ly hỷ
thành tựu
nhị chi. Đây là tam thiền, ly
lạc
thành tựu 2 phần .Đây là tứ
thiền, cho
nên xả nhất tâm.
Hỏi rằng: Vì sao gọi là tứ thiền và ngũ thiền?
Đáp rằng: Do 2 người chấp vậy. Đệ nhị thiền có 2 loại. Nghĩa là
vô giác
vô quán và vô giác thiểu quán.
Hỏi rằng: Ai là người tọa thiền? Làm cho sơ thiền tự tại khởi
đệ nhị thiền?
Đáp rằng: Đối với thô giác quán, nhiếp niệm tư duy. Lại biết
quán sai
trái, làm cho khởi lên vô giác vô quán đệ nhị thiền. Đây là lần
lượt tu tứ
thiền. Lại nữa có một người đã làm cho sơ thiền tự tại hiện khởi
đệ nhị
thiền. Đối với thô giác nhiếp niệm tư duy. Tuy biết sai trái, thấy
vô giác
thiểu quán khởi lên đệ nhị thiền. Đây
là
thọ ngũ thiền thứ đệ. Cho nên
nói
đây là ngũ thiền.
Lại có 5 loại định. Nghĩa là
5 phần
chánh thọ. Đó là hỷ mạn, lạc
mãn, tâm
mãn, quang mãn và quán tưởng. Đây là
đối với sơ thiền nhị thiền hỷ mãn.
Đối với tam thiền lạc mãn.
Đối với tha tâm trí gọi là tâm
mãn.
Đối với thiên nhãn thông
đây gọi là quang mãn. Từ kia,
định kia khởi quán trí, gọi tên
là
quán tưởng.
Lại nữa Định có 5 loại. Đó là
ngũ
trí chánh định. Đây là hiện
tại lạc và
vị lai lạc báo. Y thân trí khởi; đây là
định. Đây là chỗ thánh hành,
chẳng
phiền não. Đây là
định huệ nhơn tu tập; đây là
định. Tịch tịnh yên vui, vui
nơi thành
tựu không hai; chẳng trở lại sanh tử. Đây
là
định tịch tịnh tối lạc. Vui thành
một
tánh chỗ được. Chẳng lại sanh tử ngã.
Đây là
định niệm, nhập niệm khởi, nương vào thân trí khởi. Lại nữa
phân
biệt rồi, hành xứ rồi; phân biệt tu hành sự và hạ, trung, thượng
mà
định như thế có nhiều loại. Nên
biết
rằng tất cả các định đều nhập vào
tứ
định.
*
Phẩm 5: Mịch
Thiện Tri
Thức
Hỏi rằng: Lúc ấy tại sao khởi định?
Đáp rằng: Nếu người tọa thiền muốn sanh thiền định sẽ tìm thấy
thiện
tri thức. Vì sao vậy?
Vì mới tọa thiền muốn sanh thiền định
được
tối thắng định. Nếu lìa thiện tri thức, thành bất trụ phần.
Như
trong kinh dạy: Có Đàm Tỳ Kheo
thành
nơi thoái phần, biết người một mình đi
xa
nước, chẳng có bạn chỉ bày, tùy ý một mình
đi. Như voi chẳng có nài. Nếu
người
tọa thiền, chỗ tu hành gặp được thiện
tri
thức, chỉ bảo khuyên lơn rồi nhiếp thọ, chỉ chỗ sai trái
liền
được thiện pháp. Từ chỗ chỉ dạy mà
tu
hành tinh cần khổ hạnh, liền được tối
thắng
định. Như người buôn giàu có được
mọi
người kính quý. Như người bạn lành, như cha mẹ mình. Kẻ
thiện tri
thức như voi có dây làm cho dễ khiến. Như người lái xe khiến
được việc đi hay dừng vậy. Như người
cầm lái,
dẫn đi con đường tốt. Như thuốc trị bịnh làm tiêu trừ sự
khổ. Giống
như trời mưa làm nhuần thấm mọi loài. Như mẹ nuôi con, như cha dạy
trẻ.
Như gần chẳng khó, như bạn lành, như Thầy dạy dỗ. Tất cả pháp lành
đều nương vào
đây để thành tựu. Cho nên
Đức Thế Tôn dạy cho Nan Đà
rằng: Tất
cả phạm hạnh phải cần có thiện tri thức. Do vậy sẽ tìm người cho
tốt hơn
để làm bạn lành.
Vì sao gọi là thắng thiện tri thức?
Nghĩa là người ấy thành tựu rõ ràng về kinh, luật và luận.
Đây có nghĩa là chỗ thành tựu.
Rõ biết
những loại nghiệp, được thiện thần
thông, rõ
biết Tứ Đế. Đây là 2 loại
người công
đức thành tựu.
Đây là chỗ nên tìm. Nếu không
được 2 loại công đức thành tựu
ấy mà
chỉ có 7 phần thành tựu thiện tri thức, thì
đây lại cũng nên tìm.
Thế nào là 7 phần?
Khả kỉnh ái, khả trọng, khả quý; hay nói nhẫn nhục; nói lời sâu
xa; nói
chẳng nơi chẳng an.
Thế nào gọi là khả kỉnh ái?
Nương vào 2 loại hành giả, lành nói cộng trụ, tâm vui không gặp
việc
khó. Đây gọi là khả kỉnh ái.
Khả trọng là gì?
Giới hạnh tịch tĩnh, giữ niệm thành tựu; chẳng tham dục nói
nhiều.
Đây gọi là khả trọng.
Khả quý là sao?
Nghe huệ công đức thành
tựu, biết
ngồi thiền, khả trọng. Đây gọi là
khả
quý.
Hay nói là sao?
Lời nói của ta dễ thương, dễ mến, dễ quý. Có kết quả và như thế
tư duy,
làm lợi cho kia vậy. Tôn trọng pháp. Đối
với
việc chẳng thể làm thì chế phục nhiếp thọ và cuối cùng nghĩ
rồi bỏ.
Đây nghĩa là hay nói.
Nhẫn nhục nghĩa là sao?
Nghĩa là hay làm cho chẳng ngưng lời nói ỷ ngữ và tướng của tất
cả lời
nói, như hiền thánh vậy. Đây gọi là
nhẫn nhục.
Thâm ngữ là sao?
Thông đạt nơi nghiệp. Nếu phân
biệt, tưởng
niệm tác ý, an trước, đều do chấp tướng lành mà nói như
pháp. Chẳng
phải chấp tướng như pháp phiền não, hay làm cho diệt tận.
Đây gọi là thâm ngữ.
Bất an phi xứ là gì?
Nếu đối với tánh tộc trụ xứ,
nghiệp tụ,
tụng trước chẳng trụ có thể xa lánh. Hoặc đối với việc kham nhẫn hành
xứ làm cho được an ổn. Đây gọi là
trụ
khả trụ. Đây nghĩa là bất an
phi xứ.
Lấy đây làm 7 phần thành tựu,
là thiện
tri thức có thể tìm.
Hỏi rằng: Vì sao nên tìm?
Đáp rằng: Nếu biết nơi ở của người A, B thì công đức thành tựu
có thể
quý mến. Nếu có Thiền sư nên lui tới kia. Nếu tự chẳng biết chỗ
nào của kẻ
đồng học; nên tìm đến gần gũi. Rồi biết lúc nào như pháp chưa nói ý
nầy.
Cung kính khơi hỏi khởi cư. Muốn hỏi chỗ hành thì nơi nào nước nào
và dừng
ở nơi đâu, có chúng an trụ, có tăng
tịnh tọa,
có cả Thiền sư. Việc làm nầy nếu làm, lấy gì là công
đức tất cả chỗ quý; nên làm
như thế và
hỏi đồng học nên
đáp rằng:
Nước đó, ở chỗ ấy, chúng thiền tọa
ấy,
Thiền sư ấy v.v... được chúng ái trọng, được nghe điều nầy rồi
nghĩ sâu, tùy
hỷ, rồi đến chỗ kia thân cận học hỏi
thọ lãnh.
Nên sửa y phục rồi đến nơi chỗ Hòa
Thượng rồi tự nói ý vui. Hòa Thượng nghe ta, ta sẽ
đến kia thân cận Thiền sư. Hòa
Thượng
nên nghe và đáp là lành thay.
Ta lại
tùy hỷ. Đây là người lành chỗ
làm.
Đây nghĩa là người lành cộng
trụ,
người lành chỗ làm. Đây là
theo pháp
tu hành; hoặc thấy nghe mà được lợi
ích lớn.
Hà huống ở chung. Ngươi nên đến
đó.
Ngươi đến rồi, kia sân, chẳng nên buông lung. Nếu là người
lành, có
thể khuyên tu học. Hoặc đối với một
lúc hay
tất cả lúc v.v... cần phải gia thêm niềm tin.
Kính thành nói lời lành, giữ gìn thân miệng, rõ lý tu hành, sẽ
được thành tựu. Tất cả nương
vào Thầy,
chưa sanh dễ dãi. Như con dâu mới về nhà chồng, qua lại với mẹ và
cô; nên
sanh xấu hổ, nghe lãnh lời dạy. Nếu thấy đệ
tử không có y phục, thuốc men, hoặc đến kia mà như pháp lo
liệu,
thuyết pháp giáo huấn. Cho đến đi
đứng ngồi
nằm đều chỉ dạy chỗ nên làm. Người tọa thiền kia nên y phục
tề
chỉnh, cung kính vây quanh. Lễ Thầy dưới chân.
Đối với việc ra đi nơi đường sá bên
ngoài gặp chỗ nước sâu, qua lại nơi ấy, y bát, giày dép,
đồ ngồi thiền, để cao lên một
nơi,
chẳng làm cho gần nước. Khi tắm chẳng nghe tiếng. Lúc tắm rồi y
phục phải
ngay ngắn, mặc Uất Đa La Tăng, y bát,
thiền
cụ đặt lên vai phải. Vấn Tăng
Già
Lê để trên vai. Nếu vào chùa
am bỏ
giày nón nhiễu tháp. Nếu thấy Tỳ Kheo đến,
phải thưa hỏi. Nơi đây có người ngồi thiền, chẳng có người mặc
phấn tảo y,
chẳng thấy người đi khất thực, chẳng có luật sư, chẳng có người ở
nơi đây,
từ đâu đến, có kẻ qua lại; hoặc chẳng phải người nầy, có luật sư,
ta đều
lui tới. Lại nếu không luật sư, ai làm Thượng Tọa, ta cũng
lại lui
tới. Nếu Thượng Tọa Đại Tăng vì
giữ y
bát chớ cùng. Ngoài ra kẻ nhỏ cũng chớ cùng. Nếu không có người,
lấy
để một nơi. Nếu thấy Thượng Tọa nên
lễ
dưới chân rồi đứng đối mặt. Tỳ Kheo
cũ có
ngồi, lấy nước và chỗ rửa tắm như pháp mà cung cấp; gần gũi
để lo chỗ ăn, chỗ nghỉ cùng y
bát, chỉ
bày chỗ cần thiết; hỏi thăm về chế độ
của
Tăng. Ngày mới vào chùa phải đi
quanh.
Nếu thấy luật sư nên hỏi thăm
chỗ
nghi, tội lỗi và cố làm cho đừng
phạm.
Nếu thấy Thầy giảng pháp và muốn tu huệ, nên hỏi về ấm,
nhập, giới
nghiệp. Nếu thấy người tu đầu đà,
vì
tương ưng huệ mà hỏi về công đức đầu đà.
Nếu ở nơi ấy mỗi ngày nên qua lại hỏi han. Nếu muốn
đi nên chuẩn bị
đồ mặc, lễ đại tăng nơi chân và
bạch
rằng sẽ đi. Đây là vì khách Tỳ
Kheo
dụng pháp. Đối với người tọa thiền
kia nên
đến gần gũi. Thiền sư nếu đến, tuy
nhỏ nhưng
mang thay y bát. Phép của Thiền sư có thể đi, chẳng thể đi; chẳng nên
liền đi, liền vắng. Đây chính là
việc
làm trước, nên để tu hành. Nếu
muốn
dạy người, trước nên hiểu biết. Người học tọa thiền trước xong rồi
mới
hành pháp. Xem xét chỗ ở rồi để y
bát. Ít
nghỉ ngơi, hiểu biết thời tiết, gần gũi Thiền sư, cung kính lễ
bái. Đôi
khi ngồi yên. Nếu Thiền sư hỏi chỗ muốn, nên tùy
đó mà nói chỗ vui. Nếu chẳng
hỏi thì
chẳng nên nói. Từ đây về sau, tăm xỉa
răng,
nước tắm gội v.v... nên cầu thỉnh việc y chỉ
để tu hành. Nếu
đến lúc ăn, phải hỏi vị A Xà
Lê như
pháp mà làm. Khi đến giờ ăn, vì
A Xà
Lê mà rửa chân, sửa soạn chỗ ngồi và mang bình bát.
Đối với bát riêng của mình,
nên hỏi A
Xà Lê chỗ lấy nhiều ít, để bát của mình
ít hơn đệ tử. Như thế giữ gìn,
như thế
chẳng khó.
Lúc ăn xong rồi, lấy bát của vị A Xà
Lê đem rửa, để một nơi và biết
lúc gần
gũi cung kính lễ bái. Có lúc ngồi yên, nếu A Xà Lê hỏi, tùy theo
chỗ mà
nói điều vui. Nếu chẳng hỏi thì
lễ bái
A Xà Lê và cầu thỉnh để nghe. Ta nói
bổn lai
chỗ mong muốn. Nếu hứa cho thì tùy ý hỏi. Khi A Xà Lê nghe
xong rồi
nói. Nếu chẳng hỏi thì lễ A Xà Lê. Thấy đúng
lúc nên nói nhơn duyên ta đến,
nguyện
A Xà Lê dạy bảo. Nếu A Xà Lê nghe, tất cả chỗ vui nên nói. A
Xà Lê
bảo: Lành thay! Rồi như pháp dạy bảo, nên như thế nầy mà vâng lời.
Cho nên
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Đúng lúc mà gần gũi
Làm tâm chẳng kiêu mạn
Phạm hạnh hay hộ pháp
Giống như cây không gió
Nhớ pháp mà tu hành
Cùng pháp tự niềm vui
Pháp trụ pháp phân biệt
Nên nói pháp như thật
Hủy pháp chẳng nên làm
Vui nói, lo, mừng, cười
Sân nhuế, chớ giải đãi
Phẫn hận, tham, mạn, si
Ái chấp thật xấu vậy
Tu hành tất loại trừ
Giữ ý chẳng tự cao
Biết lành, lời thành thật
Vì định thật, biết nghe
Nếu người hay buông lung
Nghe huệ chẳng tăng trưởng
Nếu người biết chánh pháp
Trời người chỗ cung kính
Cung kính thành tín tâm
Nghe nhiều hay hộ pháp
Làm được chỗ nghe vui
Như thế các công đức
Tùy pháp hay tu hành
Hay sanh điều tốt đẹp
Thành tựu người trí huệ
Nếu được Thầy như thế
Nên tu, chẳng buông lung
Luận Về Con Đường
Giải
Thoát
Hết Quyển Hai
-ooOoo-