Quyển Thứ Ba
Phẩm 6: Phân Biệt
Hành
(việc làm)
Lúc bấy giờ y chỉ với vị A Xà Lê, lấy số ngày xem xét việc làm.
Việc
làm nầy tương ưng với hành xứ và từ đó
có thể
chỉ dạy thêm. Đối với việc làm
nầy có tất cả là 14 loại. Đó là
dục
hành, sân nhuế hành, si hành, tín hành, ý hành, giác hành, dục sân
nhuế
hành, dục si hành, sân si hành, đẳng
phần hành,
tín ý hành, tín giác hành, đẳng phần hành,
ý giác hành.
Lại nữa ái, kiến, mạn v.v... các loại hành cũng nên biết.
Đối với điều tham dục nầy, ý bảo làm,
tánh vui đắm trước. Chẳng khác với
nghĩa nầy.
Do hành mà thành 14 loại người. Dục hành nhơn, sân hành
nhơn, si
hành nhơn, tín hành nhơn, ý hành nhơn, giác hành nhơn, dục sân
hành nhơn,
dục si hành nhơn, sân si hành nhơn, đẳng
phần
hành nhơn, tín ý hành nhơn, tín giác hành nhơn, ý giác hành
nhơn,
đẳng phần hành nhơn.
Đối với dục nầy, dục dục sai sử dục
tánh, dục
lạc. Đây có nghĩa là dục hành nhơn. Dục nầy thường làm tăng
thượng dục. Đây gọi là dục hành. Như thế tất cả sẽ phân
biệt.
Lúc ấy 14 loại người nầy lược lại thành 7 loại người. Như thế
dục hành
nhơn - tín hành nhơn thành một. Sân hành nhơn - ý hành nhơn thành
một. Si
hành nhơn - giác hành nhơn thành một. Dục sân hành nhơn - tín ý
hành nhơn
thành một. Dục si hành nhơn - tín giác thành nhơn thành một. Sân
si hành
nhơn - ý giác thành nhơn thành một. Hai đẳng
phần hành nhơn thành một.
Hỏi rằng: Vì sao dục hành nhơn, tín hành nhơn thành một?
Đáp rằng: Dục hành nhơn đối với bạn lành tăng trưởng tín hành
dục, thân
cận công đức vậy. Lại nữa lấy 3 hạnh, dục và tín. Câu nầy thành
một tướng,
có nghĩa là ái niệm nghĩa tìm về công đức. Nghĩa chẳng xả. Đối với
dục nầy
là niệm dục. Tín là niệm thiện; dục là tìm dục công
đức. Tín là tìm công
đức lành. Dục là chẳng xả,
chẳng dễ
thương làm tướng. Tín là chẳng xả lấy dễ thương làm tướng. Cho nên
dục
hành và tín hành thành một tướng.
Hỏi rằng: Vì sao mà sân nhuế hành và ý hành thành một?
Đáp rằng: Người làm chuyện sân đối với bạn lành tăng thêm trí
làm việc
sân, gần gũi công đức vậy. Lại nữa lấy 3 hành sân nhuế và trí
thành một
tướng. Chẳng phải ái niệm; nên tìm sân vậy, rồi xả. Đối với người
sân nầy
chẳng an vui ái niệm; kẻ trí chẳng an hành niệm. Người sân nhuế
tìm
đến sân. Kẻ trí biết việc làm
sai
trái. Người sân an xả, kẻ trí an xả hành cho nên người sân hành và
ý hành
thành một tướng.
Hỏi rằng: Vì sao si hành nhơn và giác hành nhơn thành một?
Đáp rằng: Si hành nhơn làm được việc lành, tăng trưởng giác
hành si,
gần gũi công đức vậy. Tín huệ động lìa được. Lại nữa lấy 2 hành si
giác
thành một tướng. Chẳng tự định; nên động vậy. Đối với đây si an;
nên loạn
vậy. Chẳng an. Biết nhiều và nhớ nhiều loại, nên thành ra chẳng
an. Si
chẳng chỗ khởi và hướng thành động.
Biết nhẹ
nhàng nên thành động. Cho nên
si hành và giác hành thành một tướng vậy. Lấy
đây làm phương tiện, ngoài hành nên phân biệt. Như thế
đây thành bảy người.
Đối với 7 người nầy vì sao xa sự tu hành? Vì sao tu hành trì
trệ?
Dục hành nhơn xa rời sự tu hành, lấy an có thể giáo hóa, tín
lực vậy.
Si giác mỏng vậy. Sân hành nhơn xa rời sự tu hành, sự an có thể
giáo hóa,
có ý lực vậy. Si giác mỏng. Si hành nhơn làm trễ nải việc tu hành,
khó thể
giáo hóa, có si giác lực vậy. Tín ý mỏng. Dục sân hành nhơn xa rời
sự tu
hành, sự an có thể giáo hóa, có tín ý lực vậy. Si giác mỏng. Dục
si hành
nhơn làm trì trệ việc tu hành, khó có thể giáo hóa
được, khó yên
để tin, si giác lực vậy. Sân si hành
nhơn làm trì trệ việc tu hành, khó có thể giáo hóa, chẳng an ý
vậy, si
giác lực. Đẳng phần hành nhơn
làm trì
trệ việc tu hành, khó thể giáo hóa, chẳng yên trụ ý vậy. Có si
giác lực.
Lúc bấy giờ 7 loại người nầy do căn
bổn
phiền não nên chia làm ba. Đó là
dục hành nhơn, sân nhuế hành nhơn và si hành nhơn.
Hỏi rằng: Đây là 3 loại
hành do
nguyên nhơn gì vậy? Vì sao có thể biết đây là
dục hành nhơn; đây là sân hành
nhơn và
đây là si hành nhơn? Vì sao
hành việc
thọ y, khất thực, tọa cụ hành xứ uy nghi?
Đáp rằng: Đó là chỗ tạo nhơn duyên lúc đầu. Các hành giới lấy
làm nhơn
duyên, sai trái lấy làm nhơn duyên.
Vì sao các hành đầu tiên
tạo ra
nhơn duyên?
Đối với điều đầu tiên có phương tiện dễ thương vậy. Có nhiều
nghiệp
lành, thành dục hành nhơn. Lại từ cõi chư thiên, bị sanh lạc vào
nơi nầy,
thường hay khởi tâm sát hại tạo nên nghiệp oan trái, thành sân
hành nhơn.
Chẳng thích nghiệp nơi che khuất. Từ địa ngục, từ rồng
đọa lạc sanh vào
đây. Đầu tiên là do uống rượu
nhiều và
làm chuyện ly gián, thành si hành nhơn. Từ súc sanh
đọa lạc sanh vào
đây; như thế các việc làm
đầu tiên tạo nên các nhơn
duyên.
Thế nào là giới làm nhơn duyên?
Hai giới gần gũi vậy, thành si hành nhơn.
Đó là địa giới và thủy
giới;
hai giới gần gũi, thành sân hành nhơn. Đó là
hỏa giới, phong giới. Tất cả là 4 giới vậy, thành dục hành nhơn.
Như thế
tất cả các hành giới là nguyên nhơn.
Vì sao lấy sự sai trái làm nguyên nhơn?
Lấy nhiều đờm dãi thành dục
hành
nhơn. Lấy nhiều sự ưa nói thành sân hành nhơn. Lấy nhiều gió làm
thành si
hành nhơn. Lại cũng có nói nhiều đờm dãi
thành si hành nhơn. Tối đa gió thành
dục hành nhơn. Như thế đó là
làm nhơn
duyên cho việc sai trái.
Vì sao có thể biết người nầy là dục hành, người nầy là sân hành
và
người nầy là si hành?
Đáp rằng qua bảy hành có thể biết được. Như thế do công việc,
do phiền
não, do hành, do thọ giữ, do ăn, do nghiệp, do nằm mà ra.
Vì sao do công việc mà biết?
Dục hành nhơn thấy chỗ có công việc. Việc chưa thấy sẽ thấy,
liền thấy.
Hằng quán nơi chơn thật sai trái chẳng tác ý.
Đối với công đức nhỏ,thành chẳng khó. Chẳng từ dục nầy giải
thoát,
liền quán chẳng thể xả hành. Biết nơi việc khác. Các hành như thế,
dục
hành có thể biết sân hành nhơn. Thấy sở hữu việc như thế. Như mỏi
mệt
chẳng thể nhìn lâu. Tùy chỗ chấp sai để
hủy
hoại nhiều người. Đối với công đức nhiều, chẳng thể không khó. Từ
đây
chẳng xả. Tuy lấy sự sai trái được rồi liền biết hành những
việc
khác cũng như thế. Hành sân, hành có thể biết. Si hành nhơn thấy
chỗ có
những việc như thế. Đối với công đức
quá hoạn
thành việc tin nơi kia. Nghe người kia chỗ yếu lại yếu.
Nghe nơi
kia chỗ tán thán lại tán thán. Tự chẳng biết vậy. Lấy những hành
như thế
đối với việc ngoài, si hành có
thể
biết, như thế các việc.
Hỏi rằng: Vì sao lấy phiền não để
biết?
Đáp rằng: Dục hành nhơn có 5 phiền não. Đó là đa hành, keo
kiệt, huyễn,
siểm, dục. Đây nghĩa là 5 sân nhuế hành nhơn có 5 phiền não, đa
hành phẫn,
hận, phú, khan, sân. Đây là 5. Si hành nhơn có 5 phiền não, đa
hành, lười,
giải đãi, nghi, hối, vô minh là 5. Như thế phiền não có thể biết.
Hỏi rằng: Cái gì là hành?
Đáp rằng: Dục hành nhơn lấy hành làm tánh. Cất bước chân có tật
đi
ngang. Cất bước ngang thì bước chẳng rộng. Cất bước đi dễ thương.
Như thế
lấy hành dục, hành có thể biết. Sân nhuế hành nhơn thấy hành làm
tánh, mau
khởi bước, mau hạ chân. Tiếp theo là nửa bước giáp
đất. Như thế mà
đi, người sân nhuế có thể biết. Si hành
nhơn thấy hành làm tánh. Dở chân, đạp
đất rồi
lại sát xuống, lấy chân chạm chân rồi đi, mà
đi như thế, si hành nhơn có
thể biết,
như thế để đi.
Sao gọi là lấy việc mặc áo làm dục hành nhơn?
Đáp rằng: Dục hành nhơn lấy việc đắp y làm tánh. Chẳng thấy
nhiều,
chẳng khoan thai mặc y quá rộng. Ngay ngắn vừa vặn nhiều loại ngắm
nhìn dễ
mến. Sân hành nhơn lấy mặc y làm tánh. Quá gấp, quá thừa, chẳng
ngay,
chẳng gọn, chẳng thấy được chỗ dễ mến, chẳng thể thấy. Si hành
nhơn lấy
việc đắp y mặc áo làm tánh.
Nhiều chậm
rãi, chẳng gọn, chẳng cân; chẳng có loại nào dễ mến, dễ xem. Như
thế lấy
việc đắp y mặc áo có thể biết được.
Hỏi rằng: Vì sao lấy chỗ ăn mà
có
thể biết?
Đáp rằng: Dục hành nhơn vui với béo, ngọt. Sân nhuế hành nhơn
vui với
thù tạc. Si hành nhơn chẳng tập trung vui. Lại nữa dục hành nhơn
lúc ăn tự
lượng đồ ăn tương ưng với điều mình muốn. Lại biết khí vị chẳng xa
ăn. Nếu
được ít mùi vị, thành niềm vui lớn. Sân hành nhơn thấy việc
ăn, muốn lấy nhiều, ăn bớt, ăn đầy
miệng. Nếu
được ít đồ ăn thì lại phiền não. Si hành nhơn thấy việc
ăn chẳng đầy đủ, chẳng đoạn thực,
chẳng gặp
lúc. Lấy ít mà ăn để dính nơi
miệng;
một nửa cho vào miệng; một nửa rơi rớt nơi bàn, loạn tâm;
chẳng
nghĩ đến lúc ăn, như thế lấy dục có
thể biết.
Hỏi rằng: Vì sao lấy công việc để
biết?
Đáp rằng: Dục hành nhơn quét dọn, đứng ngay quét tước chẳng
sạch, chẳng
biết đất cát, lấy làm sạch sẽ. Sân hành nhơn nếu quét tước, gấp
rút quét
dọn 2 bên, rồi quét đi đất cát. Vội nghe tuy sạch sẽ mà chẳng bình
đẳng.
Ngu si hành nhơn nếu quét rác, thì khoan thai quét dọn
đó đây mà thấy nơi chẳng sạch,
lại
chẳng công bình. Như thế lổ chổ đây
đó v.v...
Tất cả công việc bình đẳng làm
ấy chẳng cùng với tâm. Đây là
dục nhơn
sân hành ở nơi tất cả việc chẳng bình đẳng
làm,
chẳng dụng tâm. Si hành nhơn loạn tâm làm nhiều chẳng thành. Như
thế các
việc có thể biết.
Hỏi: Vì sao lấy sự nằm ngồi?
Đáp rằng: Dục hành nhơn ngủ chẳng tiết chế. Ngủ trước, chiếm
chỗ ngủ
làm cho trước sau giống nhau. An ổn đặt thân chỗ khuất lên tay rồi
ngủ.
Nửa đêm có thay đổi liền dậy. Như có chỗ nghi liền đáp. Sân hành
nhơn lại
nằm ngủ. Tùy theo đó mà nằm yên. Thân, mặt, mắt tần ngần. Ban
đêm nếu có người hoán
đổi liền khởi sân mà
đáp lại. Người si nếu nằm ngủ nghỉ,
nơi ấy
chẳng trọn đủ. Nên tay chân che thân mà nằm. Trong
đêm nếu có người thay chỗ liền
nghe
tiếng ừ ừ thật lâu đáp lại. Như thế
lấy việc
nằm ấy mà có thể biết.
Hỏi rằng: Làm gì và pháp gì? Dùng việc thọ y áo,
ăn uống, ngồi nằm, hành xứ?
Đáp rằng: Dục hành nhơn áo quần thô kệt chẳng ra hồn và lấy đồ
nầy mặc.
Sân hành nhơn mặc đồ sạch sẽ, y áo thanh tịnh, màu còn tốt dễ xem.
Đây nên
mặc. Si hành nhơn mặc tùy theo chỗ được mặc. Dục hành nhơn khất
thực thô,
chẳng tinh khiết. Chẳng đẹp đẽ ý nghĩa về tiểu khất thực. Sân hành
nhơn
khất thực mặc đồ đẹp tinh khiết, mùi
thơm như ý là chỗ được si. Hành
nhơn
khất thực tùy theo chỗ được có tiết
chế.
Dục hành nhơn ngồi nằm ở dưới bóng gốc cây nơi có nước. Ở nơi
ít xa
làng xóm. Lại nơi chẳng có chùa. Đối
với nơi
không có đồ nằm thì ở đây nên
ngồi ngủ. Sân hành nhơn ngồi nằm dước gốc cây gần nước, thành tựu
ngay
ngắn. Đối với chùa viện có
chỗ
ngủ nghỉ đầy đủ thành nơi ngủ
nghỉ. Si
hành nhơn nương vào đó. Gần gũi vị
Thầy để ở.
Dục hành nhơn hành xứ, nơi ăn
uống thô
sơ. Nếu vào làng xóm nên hướng theo mặt trời mà
đi. Đối với nơi người ác, ở đây nên
đi. Sân nhuế hành nhơn xứ,
đối với việc cơm nước, ăn uống đầy
đủ. Theo
ngày dài ra, nhiều người tin hướng đến
nơi. Chỗ nầy nên vào. Si hành nhơn tùy nơi
được chỗ. Dục hành nhơn uy
nghi, hay
đi bộ nhiều. Sân hành nhơn
nương vào
chỗ nằm ngồi. Si hành nhơn nương vào nơi hành xứ.
Đối với việc nầy tan ra. Kẻ muốn
nương vào
cảnh giới dễ mến để tin. Sân nhuế là
chẳng sự dễ mến cảnh giới làm tin. Si là cơ thể thấy nguyên nhơn.
Dục lại
như nô bộc. Sân nhuế như là ông chủ. Si dụ như chất
độc. Tham nghĩa là ít quá
hoạn,
đoạn vô nhiễm. Sân nhuế quá hoạn lớn,
làm
cho vô nhiễm. Si là đại quá hoạn,
đoạn trừ vô
nhiễm. Dục hành nhơn vui với sắc. Sân hành nhơn vui với
việc an
định. Si hành nhơn vui với sự
giải
đãi.-
*
Phẩm 7: Phân Biệt Hành Xứ
Lúc đó y chỉ sư quán sát điều nầy
nơi chỗ
làm. Dạy cho 38 việc làm và sẽ lại dạy cho 2 việc làm tương
ưng.
Hỏi rằng: Thế nào là 38 hành xứ?
Đáp rằng: Đó là 10 tất cả nhập địa, thủy, hỏa, phong, xanh,
vàng, đỏ,
trắng, không xứ, thức xứ tất cả nhập. Lại thêm 10 tưởng bất tịnh
như tưởng
sình trướng, tưởng xanh phồng lên, tưởng đến sự thối nát, tưởng về
đồ
liệng bỏ, tưởng đến đồ ăn của chim thú, tưởng
đến thịt từng phần của thân trướng lên, tưởng
đến việc cưa chặt ra từng khúc, lại
tưởng vể
máu huyết chảy đỏ, tưởng đến trùng hôi, tưởng
đến xương cốt. Lại có 10 niệm. Đó là
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm
giới,
niệm thí, niệm thiên, niệm tử, niệm thân, niệm số tức, niệm
tịch
tĩnh.Lại có 4 vô lượng tâm. Đó là
từ,
bi, hỷ, xả và quán tưởng về 4 đại, ăn
bất
tịnh, vô sở hữu xứ, phi phi tưởng xứ. Đây là tất cả 38 hành
xứ. 38
hành xứ nầy lấy 9 hành làm chỗ biết cao cả. Một là lấy thiền, hai
là lấy
chánh việt, ba là lấy tăng trưởng,
bốn là
lấy duyên, năm là lấy công
việc, sáu
là lấy thắng, bảy là lấy địa, tám là
lấy thủ, chín là lấy người.
Hỏi rằng: Thế nào là lấy thiền?
Đáp rằng: Đó là 10 hành xứ, thành thiền ngoại hành. Lại 11 hành
xứ
thành tựu sơ thiền. Lại 3 hành xứ thành tựu tam thiền. Lại một
hành xứ
thành tựu tứ thiền. Lại 9 hành xứ thành tựu tứ thiền ngũ thiền.
Lại 4 hành
xứ thành tựu vô sắc tứ thiền.
Hỏi rằng: Vì sao mà 10 hành xứ thành thiền ngoại hành?
Đáp rằng: Từ sổ tức và quán thân, ngoài 8 niệm và quán 4 đại
thực bất
tịnh tưởng. Đây gọi là 10 ngoại hành.
Hỏi rằng: Vì sao 11 hành xứ sơ thiền sở nhiếp?
Đáp rằng: 10 bất tịnh tưởng và quán thân. Đây gọi là sơ thiền
sở nhiếp.
Hỏi rằng: Thế nào là 3 hành xứ? 3 sở nhiếp?
Đáp rằng: Đó là từ, bi, xả.
Hỏi rằng: Thế nào là một hành xứ, tứ thiền sở nhiếp?
Đáp rằng: Đó là xả.
Hỏi rằng: Sao gọi là 9 hành xứ, tứ thiền ngũ thiền sở nhiếp?
Đáp rằng: Trừ không nhứt thiết, nhập thức nhứt thiết nhập.
Ngoài ra còn
8 nhứt thiết nhập và sổ tức niệm.
Hỏi rằng: Sao là 4 hành xứ, 4 vô sắc sở nhiếp?
Đáp rằng: Hư không nhứt thiết nhập, thức nhứt thiết nhập, vô sở
hữu xứ,
phi phi tưởng xứ. Đây gọi là 4 hành. Như thế lấy thiền có thể
biết.
Hỏi rằng: Vì sao lấy chánh việt?
Đáp rằng: Nhập hành xứ thành ra vượt quá sắc, trừ vô sắc nhứt
thiết
nhập. Ngoài ra còn 8 nhứt thiết nhập. Ngoài ra có 30 hành xứ chẳng
thành
việc vượt khỏi sắc. Lại có 3 hành xứ thành việc vượt khỏi. Ba vô
sắc nhứt
thiết nhập và vô sở hữu nhập. Ngoài ra 35 hành xứ, chẳng thành
việc vượt
qua. Lại có một hành xứ thành ra việt tưởng thọ.
Đó là phi phi tưởng xứ. Ngoài
ra 37
hành chẳng thành việt tưởng thọ. Như thế lấy vượt qua có thể biết.
Hỏi rằng: Vì sao gọi là tăng
trưởng?
Đáp rằng: Đó là 14 hành xứ có thể làm cho tăng trưởng. Đó là 10
nhứt
thiết nhập và tứ vô lượng tâm. Ngoài ra 24 hành xứ, chẳng nên làm
cho tăng
trưởng. Như thế lấy tăng trưởng có thể biết.
Hỏi rằng: Vì sao làm duyên?
Đáp rằng: 9 hành xứ làm thần thông duyên. Trừ vô sắc nhứt thiết
nhập,
bát nhứt thiết nhập và phân biệt hư không nhứt thiết nhập. Ngoài
ra 30
hành chẳng thành thần thông duyên. 37 hành xứ thành Tỳ Bà Xá Na
duyên
(quán, kiến, chủng chủng quan sát). Trừ phi phi tưởng xứ. Lại có
một hành
xứ chẳng thành Tỳ Bà Xá Na duyên. Cho nên phi phi tưởng xứ như thế
lấy
duyên có thể biết.
Hỏi rằng: Vì sao lấy công việc?
Đáp rằng: Đó là 21 hành xứ để phân biệt công việc. 12 hành xứ
là thật
sự; 5 hành xứ chẳng nên nói phân biệt sự thật sự.
Hỏi rằng: Thế nào là 21 hành xứ là phân biệt sự?
Đáp rằng: Trừ thức nhứt thiết nhập. Ngoài ra 9 nhứt thiết nhập;
10 bất
tịnh tưởng và niệm sổ tức niệm thân.
Hỏi rằng: Vì sao 12 thật sự?
Đáp rằng: Thức nhứt thiết nhập, phi phi tưởng xứ và 10 thiền
ngoại
hành.
Hỏi rằng: Vì sao 5 việc chẳng nên nói phân biệt sự và thật sự?
Đáp rằng: Đó là tứ vô lượng tâm và vô sở hữu xứ. Lại nữa nhị
hành xứ;
nội doanh sự,nội sự. Lại 2 hành xứ; nội doanh sự, ngoại sự. Lại
một hành
xứ, ngoại doanh sự nội sự. Lại 21 hành xứ; ngoại doanh sự ngoại
sự. Lại có
4 hành xứ, nội doanh sự, nội sự thiết ngoại sự. Lại có 4 hành xứ,
thiết
nội doanh sự thiết ngoại doanh sự ngoại sự. Lại hai hành xứ, thiết
nội
doanh sự, thiết ngoại doanh sự, thiết nội sự, thiết ngoại sự. Lại
có một
hành xứ nội doanh sự chẳng nên nói và nội sự ngoại sự.
Đối với đây 2 hành xứ nội
doanh sự,
nội sự; nghĩa là thức nhứt thiết nhập và phi phi tưởng xứ. Lại có 2
hành
xứ là nội doanh sự ngoại doanh sự. Cho nên niệm sổ tức, niệm thân.
Lại một
hành xứ ngoại doanh sự, nội doanh sự. Cho nên niệm tử. Lại 21 hành
xứ
ngoại doanh sự, ngoại sự. Nghĩa là 10 bất tịnh tưởng. Tứ vô lượng
tâm, tứ
sắc nhứt thiết nhập, hư không nhứt thiết nhập và niệm Phật, niệm Tăng.
Lại 4 hành xứ nội doanh sự, nội sự thiết ngoại sự. Nghĩa là
niệm
giới, niệm thí và quán nơi tứ đại. Và
tưởng bất tịnh thực. Lại 4 hành xứ thiết nội doanh sự, thiết ngoại
doanh
sự. Nghĩa là tứ sắc nhứt thiết nhập. Lại 2 hành xứ thiết nội doanh
sự,
thiết ngoại doanh sự, thiết nội sự, thiết ngoại sự. Nghĩa là niệm
Pháp,
niệm tịch tĩnh. Lại một hành xứ nội ngoại doanh sự, nội sự. Nghĩa
là niệm
thiên. Lại một hành xứ nội doanh sự, nội sự, ngoại sự chẳng nên
nói. Nghĩa
là vô sở hữu xứ. Lại có hành xứ thuộc về việc quá khứ. Nghĩa là
thức nhứt
thiết nhập và phi phi tưởng xứ. Lại một hành xứ,
đối với việc vị lai. Cho nên
gọi là
niệm tử. Lại một hành xứ đối với việc
hiện
tại. Đó là niệm thiên. Lại 6 hành xứ thiết (xây dựng) việc
trong
quá khứ, xây dựng việc vị lai, xây dựng việc hiện tại. Nghĩa là
niệm Phật,
niệm Tăng, niệm giới, niệm thí. Và
quán tứ đại bất tịnh thực tưởng. Lại
hai hành
xứ, thiết lập việc quá khứ, thiết lập việc hiện tại, thiết lập
việc chẳng
nên nói về quá khứ vị lai. Cho nên niệm Pháp, niệm tịch tĩnh. Lại
26 hành
xứ, chẳng nên nói việc 3 đời. Nghĩa là
9 nhứt thiết nhập. 10 bất tịnh tưởng, tứ vô lượng tâm. Và niệm sổ
tức,
niệm thân. Vô sở hữu xứ lại có 4 hành xứ là việc
động. Nghĩa là lửa nhứt thiết
nhập,
gió nhứt thiết nhập, trùng thối tưởng, niệm sổ tức. Nơi nầy tức
động. Tướng nầy chẳng động. Ngoài
ra
34 việc bất động, như thế lấy công
việc mà
biết.
Hỏi rằng: Vì sao lấy thắng?
Đáp rằng: 8 nhứt thiết nhập, tứ vô sắc định. Đây gọi là thắng
chơn thật
sự vậy. Lấy 8 nhứt thiết nhập gọi là định thắng vậy. Đệ tứ thiền
kia được
thắng địa vậy. Tứ vô sắc định thành thắng. 10 bất tịnh tưởng và ăn
bất
tịnh tưởng. Đây gọi là tướng thắng. Lấy sắc, lấy hình, lấy không,
lấy
phương, lấy phân biệt, lấy hòa hợp, lấy chấp trước, lấy bất tịnh
tưởng sự,
lấy thập niệm xứ. Đây gọi là
thắng
niệm vi tế vậy. Tùy niệm vậy. Tứ vô lượng tâm lấy vô quá làm
thắng. Thọ
nhiêu ích mà quán về tứ đại. Gọi là
huệ thắng. Lấy chấp trước không; nên như thế lấy thắng có thể
biết.
Hỏi rằng: Thế nào là lấy địa?
Đáp rằng: 12 hành xứ, chẳng sanh nơi cõi trời. Nghĩa là 10 bất
tịnh và
niệm thân, thực bất tịnh tưởng. Lại có 13 hành xứ, chẳng sanh nơi
sắc hữu.
Đầu tiên là 12 và sổ tức, niệm bất sanh hữu sắc. Trừ tứ vô sắc xứ.
Ngoài
ra hành xứ chẳng sanh nơi vô sắc hữu. Như thế lấy
địa có thể biết.
Hỏi rằng: Vì sao lấy thủ?
Đáp rằng: Đó là 17 hành xứ. Lấy kiến nên thủ tướng. Trừ gió,
nhứt thiết
nhập và vô sắc nhứt thiết nhập. Ngoài ra 7 nhứt thiết nhập, 10 bất
tịnh
tưởng. Lại một hành xứ, lấy xúc nên thủ tướng. Nghĩa là niệm sổ
tức, lại
một hành xứ. Hoặc lấy kiến, hoặc lấy xúc nên thủ. Nghĩa là gió,
nhứt thiết
nhập. Ngoài ra 19 hành xứ, lấy nghe phân biệt nên thủ. Lại 5 hành
xứ;
người mới tọa thiền chẳng nên tu hành tứ vô sắc và xả, dư 32.
Người mới
học thiền nên thủ. Như thế lấy thủ mà biết.
Hỏi rằng: Vì sao lấy người?
Đáp rằng: Dục hành nhơn, tứ vô lượng, chẳng nên tu hành, lấy
tịnh tướng
vậy. Vì sao thế? - Dục hành nhơn tác ý, tịnh tưởng chẳng phải chỗ
làm. Như
người bịnh đờm, ăn nhiều mập phì, chẳng phải nghi chỗ nầy. Sân
hành nhơn
10 bất tịnh tưởng, chẳng nên tu hành. Sân si tưởng vậy. Sân nhuế
tác ý,
chẳng phải chỗ làm. Như người bịnh đờm
uống
ăn hao nhiệt, chẳng phải chỗ nghi. Si hành nhơn chưa tăng
trưởng trí, chẳng nên làm cho khởi lên nơi sự tu hành, lìa
phương
tiện vậy. Nếu lìa phương tiện thì tinh tấn không có kết quả. Như
người cỡi
voi chẳng có dây cương. Dục hành nhơn nên tu bất tịnh tưởng và
quán thân.
Đây là dục
đối trị vậy. Sân hành nhơn nên
tu tứ
vô lượng tâm. Đây là sân
đối trị vậy. Hoặc sẽ tu sắc nhứt
thiết nhập,
tâm tùy theo đó vậy. Tín hành
nhơn nên tu lục niệm xứ. Niệm Phật lấy làm
đầu, rồi tín định vậy. Ý hành nhơn nên tu quán tứ
đại. Đối với thực bất tịnh tưởng.
Niệm tử,
niệm tịch tĩnh nhiễm xứ vậy.
Lại nữa ý hành nhơn đối với nhứt
thiết hành
xứ chẳng thể phương hại. Giác hành nhơn nên tu niệm sổ tức lấy
đoạn giác vậy. Si hành nhơn
lấy lời
hỏi pháp. Lấy thì gian nghe pháp, lấy pháp cung kính. Cùng với
Thầy ở
chung, làm cho trí tuệ tăng trưởng.
Đối với
38 hành, tùy theo đó mà
vui;
nên sẽ tu niệm tử. Và quán tứ đại tối
thắng.
Lại nói đối với phân biệt hành xứ, ta thấy kia hơn. 6 người
đối với chỗ phân biệt lược bớt mà
chia
thành 3.
Hỏi rằng: Nếu tự nhiên đối với
việc ban
đầu có hại?
Đáp rằng: Hai dục hành nhơn. Nghĩa là thuần căn lợi căn. Vì
thuần căn
dục nhơn, tu bất tịnh quán. Vì dục nầy đối trị. Đây là chỗ nên dạy
làm, tu
được trừ dục. Lợi căn dục nhơn, lòng tin đầu tăng trưởng, sẽ tu
niệm xứ.
Đây là chỗ nên dạy làm, tu được trừ dục.
Nhị sân hành nhơn. Nghĩa là thuần căn
lợi
căn. Vì thuần căn sân nhuế hành
nhơn,tu tứ vô lượng. Đây lấy sân nhuế
đối
trị. Đây là chỗ nên dạy làm, tu được
trừ sân. Lợi căn sân nhuế hành nhơn lấy trí tăng
trưởng tu hành thắng xứ. Đây là
chỗ dạy tu được trừ sân.
Nhị si hành nhơn; nghĩa là vô căn
thuần
căn si hành nhơn; chẳng nên dạy tu hành xứ. Vì thuần căn
si hành nhơn. Vì trừ giác, nên dạy tu niệm sổ tức. Như thế
đây được bớt, chỉ thành 3
người.
Đây lại chẳng hại. Đối với pháp nầy
tất cả
nhập và sổ tức, lấy sự không tăng
trưởng, vô hại thành tất cả việc làm. Nếu
được thắng công đức nầy rồi, hơn tất
cả việc
làm, chỗ làm và nơi ấy thành chẳng hại.
Luận Về Con Đường
Giải
Thoát
Hết Quyển 3
-ooOoo-