Chương 4.
Vòng Khổ
Không
gian không ngằn mé gọi là vũ. Thời gian không cùng tận gọi là trụ. Ở trong
khoảng không gian vô cùng và thời gian vô tận đó, theo quan điểm của Phật giáo
có vô lượng vô biên các loài chúng sanh đang tồn tại. Mỗi loại đúng theo tâm
thể nhiễm tịnh, nghiệp duyên thiện ác sai khác, khiến sự thọ dụng cảnh giới của
họ cũng có khổ đau hay hạnh phúc bất đồng.
Theo bánh xe luân hồi này thì
tùy quả báo mà chia ra thành có sáu cảnh giới, sáu loài, hay sáu cõi như cõi trời,
a-tu-la, người, bàng sanh, ngạ quỷ và địa ngục. Theo kinh Lăng Nghiêm thì chúng
ta có thêm một cõi nữa là cõi tiên. Nên nơi đây sẽ giảng thêm cảnh tiên thành
ra có bảy cảnh giới.
1/ CÕI TRỜI
Do phước báo bố thí và thiền
định, nên cõi trời có chánh báo và y báo như cảnh vật vui tốt, mọi người vui
sướng, căn thân đẹp đẽ, thọ mạng lâu dài, đặng phép thần thông, dạo đi tự tại,
những đồ y phục sẵn có, những cuộc du hí đủ bày, trăm thức tự nhiên thọ dụng đủ
điều khoái lạc, không có những sự khổ như ở nhân gian. Các phước báu trong cõi
đó, tuy là mỹ mãn như thế nhưng còn thuộc về hữu lậu, có hư có mất, không có chắc
chắn, đó chính là sự vô thường, tướng vô định… Thế nên dẫu có sống đến mấy ngàn
năm đi nữa, cũng không khỏi con ma sanh tử lôi kéo.
Kinh Tăng chi dạy: Nữ nhân mạng
chung được sanh lên trời và tự tại trong ba địa hạt (nhan sắc, âm thanh và lạc
thọ) là do vị ấy có tám điều như:
- Tận tâm thương quý gia đình
- Tôn trọng sư trưởng và thân quyến
- Hết lòng quán xuyến việc nhà
- Đối xử thích hợp với người giúp việc
- Kỹ càng bảo quản tài sản
- Quy y Tam bảo
- Giữ năm giới
- Hoan hỉ bố thí.
Thường ta nghe nói hiện tiền giữ
10 giới thì khi mạng chung được sanh lên cõi trời. Tròn năm giới thì được làm
người. Nhưng ở đây kinh Tăng Chi chỉ ra giữ năm giới cũng được sanh lên trời và
tự tại trong ba địa hạt (nhan sắc, âm thanh và lạc thọ) là nhờ do công đức tròn
bổn phận của mình đối với gia đình và xung quanh.
Như vậy, thật ra ở cương vị nào
cũng được, chỉ cần thiện chí, có trí tuệ tháo vác mong đem an vui cho người,
không cầu tư lợi. Cử chỉ săn sóc, ánh mắt ưu ái, lời nói ân cần, hoà nhã lịch
sự, siêng năng phụng sự xung quanh là nhân thiết yếu để sanh thiên.
Những chúng sanh hưởng thụ cảnh
giới tốt hơn người gọi là trời. Có ba cõi trời:
- Có những loài trời còn nghĩ ít nhiều đến sự ái
ân thì gọi là loài trời Dục giới.
- Có những loài trời thoát ly ngũ dục nhưng còn
sắc thân thì gọi là loài trời Sắc giới.
- Còn thoát ly ngũ dục và không sắc thân thì gọi
là loài trời Vô Sắc giới.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm (1) dạy
rằng:
I/ Dục Giới Thiên (có 6
cõi trời Dục giới)
- Tứ Thiên Vương: vẫn ái ân với vợ hoặc chồng
nhưng không tà hạnh, tâm sáng suốt, mạng chung sống gần mặt trời và mặt
trăng.
- Đao Lợi Thiên: ít ái ân với vợ hoặc chồng và
thường tịnh cư, tâm sáng suốt, mạng chung vượt lên mặt trời và mặt trăng,
ở trên chóp nhân gian.
- Tu Diêm Ma Thiên: ít nhớ nghĩ việc ái ân, sống
động ít, tĩnh nhiều, tâm sáng suốt, sáng rỡ ở cõi hư không mà ánh sáng mặt
trời và mặt trăng không soi đến được.
- Đâu suất đà thiên: lúc nào cũng tĩnh, nhưng
khi có cảm xúc vẫn bị chi phối, mạng chung sanh lên chỗ tinh vi, những
hoại kiếp và tam tai của nhân thiên cõi dưới không đến được.
- Lạc biến hoá thiên: không còn ân ái dù có phải
đáp ứng nhưng thấy vô vị như ăn sáp. Mệnh chung sanh vào cảnh biến hóa.
- Tha hóa tự tại: không có tâm thế gian, chỉ
đồng với thế gian mà làm ngũ dục, khởi tâm chán bỏ (chánh nhân khiến lên
vô sắc giới). Mạng chung vượt lên những cảnh biến hoá và không biến hoá.
Sáu cõi trời như thế hình thức
tuy khỏi động, nhưng tâm tính còn dính dấp ngũ dục. Từ các cõi trời ấy trở
xuống gọi là Dục giới.
Trong Nhị khoá hiệp giải và
Thắng pháp tập yếu luận nói rằng: tuổi thọ của cõi trời bằng mấy trăm ngàn tỷ
năm con người.
Cõi Lục Dục thiên này cùng với
loài người, súc, quỷ, địa ngục… là ở trong Dục giới.
II/ Sắc giới: các
trời này thoát ly ngũ dục thường ở trong định, không dính dáng với trần cảnh,
song chưa hết cái lụy hình hài nên gọi là sắc giới. Có 18 loài trời như:
- Trời Phạm chúng
- Trời Phạm Phụ
- Trời Đại Phạm -> Sơ Thiền (ly sinh hỉ lạc
địa)
- Trời Thiểu Quang
- Trời Vô Lượng
- Trời Quang Âm ->Nhị Thiền (Định sinh hỉ lạc
địa)
- Trời Thiểu Tịnh
- Trời Vô Lượng
- Trời Biến Tịnh -> Tam Thiền (Ly hỉ diệu lạc
địa)
- Trời Phúc Sinh
- Trời Phúc Ái
- Trời Quảng Quả
- Trời Vô Tưởng
- Trời Vô Phiền
- Trời Vô Nhiệt
- Trời Thiện Kiến
- Trời Thiện Hiện
- Trời Sắc Cứu cánh -> Tứ thiền (Xả niệm
thanh tịnh địa)
Theo dòng vận hành của tâm, nếu
xả bỏ tham sân si, mạn, tà kiến (10 triền, 10 sử) (2) thay vào đó cho hiện khởi
hỉ, định, lạc xả thì tùy khả năng tâm đạt, tùy sức mạnh điều ngự tâm của mình
mà có cảnh giới khác. Như pha ly cafê sữa vậy, tùy sữa nhiều hay ít mà lạt màu.
III/ Trời Vô Sắc: không
có sắc pháp ở trong và ngoài nên gọi vô sắc
- Trời Không Vô Biên Xứ
- Trời Thức Vô Biên Xứ
- Trời Vô Sở Hữu Xứ
- Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
Thắng Pháp Tập Yếu luận cũng
trình bày khá đặc biệt về kiết sanh thức hay kiết sanh tâm liên hệ giữa đời này
và đời sau của nhiều cảnh giới từ địa ngục cho đến cõi cao nhất của vô sắc
giới. Như kiết sanh thức có bốn loại:
- Ác thú (địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh) kiết
sanh thức
- Dục giới thiên sanh thức
- Sắc giới thiên sanh thức
- Vô sắc giới thiên sanh thức.
Ở các cõi trời này do phước báo
nên y báo và chánh báo đều tốt hơn cõi người, nhưng phải biết sau một thọ mạng
dài lâu huởng vui, nghĩa là sáu căn bị gây mê tham luyến các dục (dục giới), an
hưởng trạng thái an lạc của thiền (sắc giới và vô sắc giới) trụ vào tư thực (3)
kéo dài mạng sống, số đông chết đều đọa ác thú. Nên chư Phật thường thành đạo ở
cõi người và khuyên đệ tử coi cõi trời là hiểm nạn chướng ngại sự giải thoát,
không nên cầu về.
2/ ĐẠO TIÊN HAY CÕI TIÊN
Thật ra nói đủ là bảy cõi. Sáu
cõi cộng thêm cõi tiên.
Tiên là một loài chúng sanh nửa
trời và nửa người. Kinh Thủ Lăng Nghiêm (4) dạy có những chúng sanh từ loài
người, không tu theo giới định tuệ mà tu theo vọng niệm, vọng tưởng luân hồi
lưu chuyển để củng cố hình hài vào trong rừng núi, ăn trái cây sống, hoặc trên
đảo giữa bể, tâm tĩnh lặng luyện thân, không vướng vào những vinh nhục thế
gian, nên thành mười thứ tiên sống lâu ngàn vạn tuổi, nhưng cuối cùng rồi cũng
chết, vì không tránh được quy luật sống chết.
Ở đây cho thấy tư tưởng, có thể
thay đổi lối sống bình thường của con người, kéo dài sự sống đến một thời gian
rất lâu. Những phim chưởng của Trung Hoa, Đại hàn xuất phát từ nguồn gốc đạo
tiên này rất nhiều.
Có 10 loại tiên:
- Có loại chúng sanh dùng đồ bổ không dừng nghỉ,
kiên cố và đạo ăn thành tựu thành Địa hành tiên.
- Có loại chúng sanh dùng cỏ cây không dừng
nghỉ, kiên cố và đạo thuốc thành tựu thành Phi hành tiên.
- Có loại chúng sanh dùng kim thạch không dừng
nghỉ, kiên cố và hóa chất thành tựu thành Du hành tiên.
- Có loại chúng sanh dùng luyện những động tác
không dừng nghỉ, kiên cố và đạo khí tinh thành tựu thành Không hành tiên.
- Có loại chúng sanh dùng nước bọt không dừng
nghỉ, kiên cố và đạo nhuận đức thành tựu thành Thiên hành tiên.
- Có loại chúng sanh dùng tinh hoa không dừng
nghỉ, kiên cố và đạo hấp thụ thành tựu thành Thông hành tiên.
- Có loại chúng sanh dùng phù chú không dừng
nghỉ, kiên cố và đạo thuật pháp thành tựu thành Đạo hành tiên.
- Có loại chúng sanh dùng chú tâm chuyên niệm
không dừng nghỉ, kiên cố và đạo chuyên niệm thành tựu thành Chiếu hành
tiên.
- Có loại chúng sanh dùng quán về thủy hoả giao
cấu không dừng nghỉ, kiên cố và đạo cảm ứng thành tựu thành Tinh hành
tiên.
- Có loại chúng sanh dùng tập luyện biến hoá
không dừng nghỉ, kiên cố và đạo biến hoá thành tựu thành Tuyệt hành tiên.
3/ A-TU-LA
Đây cũng là một loại có phước
nhưng hay tranh chấp. Anh hùng nghĩa khí có làm nhiều phước thiện mà hay tranh
đấu sát phạt nhau, hơn thua lẫn nhau, lấy nghĩa khí thắng hung tàn, không khuất
phục, đấu tranh không ngừng nghỉ… những loại chủng tử đó sẽ sanh về cõi đây.
Có bốn loại a-tu-la:
1. Có chúa a-tu-la trời, biến
hoá sanh (thuộc loài trời), sức mạnh, tranh quyền với Đế thích và Tứ thiên
vương, nên trong tranh vẽ các vị này tối ngày cầm cung, súng sát phạt lẫn nhau.
2. A-tu-la người (thuộc người),
thai sanh, ở gần mặt trời, mặt trăng. Từ trời đọa xuống vì do kém phước đức.
3. A-tu-la quỷ (thuộc quỷ ở
trời), từ trứng sanh ra. Sống ở hư không. Có vị phát tâm bảo hộ chánh pháp. Nên
cuối mỗi buổi tụng kinh, ở chùa hay tán bài:
“Trời,
A-tu-la, Dạ xoa thảy
Đến nghe pháp đó nên chí tâm
Ủng hộ Phật pháp khiến thường còn
Mỗi vị siêng tu lời Phật dạy.
Bao nhiêu người nghe đến chốn này
Hoặc trên đất liền hoặc hư không
Thường với người đời sanh lòng từ
Ngày đêm tự mình nương pháp ở.
Nguyện các thế giới thường an ổn
Phước trí vô biên lợi quần sanh
Bao nhiêu tội chướng thảy tiêu trừ
Xa lìa các khổ về viên tịch.
Hằng dùng giới hương xoa vóc sáng
Thường trì định phục để giúp thân
Hoa mầu bồ đề khắp trang nghiêm
Tùy theo chỗ ở thường an lạc.
Nam mô Tam châu cảm ứng
Hộ Pháp Vi đà Tôn Thiên Bồ Tát ma ha tát.”
4. A-tu-la bàng sanh (thuộc bàng
sanh), nhân thấp khí sanh ra, ở trong biển lớn lặn trong thủy huyệt. Ngày đi
chơi trong hư không, đêm ngủ dưới nước.
4/ CÕI NGƯỜI
Trên hành tinh trái đất này
chúng ta có năm châu là Châu Á, Châu Âu, Châu Úc, Châu Mỹ, Châu Phi, Nam và Bắc
cực.
Đức Phật đã bảo ngài Mục Kiền
Liên minh hoạ bức tranh của kiếp người có tám khổ như sanh, lão, bịnh, tử, ái
biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ và ngũ ấm xí thịnh. Nào là có
cảnh chiến tranh, xe tăng, súng đạn, có nạn lũ lụt, cháy nhà, lũ lụt, cảnh em
ra đời, lớn lên, nằm ở giường bịnh, già yếu chống gậy và quan tài chờ đợi.
Khi tinh trùng của người cha kết
hợp với tiểu noãn của người mẹ, thần thức gá vào và lúc đó bắt đầu một kiếp
sống mới. Và tùy theo nghiệp lực của mình mà tinh trùng hay trứng đó là của
loài người hay loài thú.
Cũng như loài vật, con người
sanh từ bụng mẹ (bụng của con người). Chỗ sanh bất tịnh là tử cung, cạnh vòng
ruột già non, trong máu tanh, nước nhớt và vừa là thức ăn. Đây là nơi bắt đầu
thành thân, thật chẳng đáng tự hào chút nào!
Đức Phật dạy sắc thân chúng ta
từ bất tịnh nghiệp đời trước mà sanh. Nghiệp chuyển nơi thức đem vào thai mẹ và
có năm trùng không tịnh. Năm trùng không tịnh là:
- Chỗ sanh bất tịnh: thân này chẳng phải hoa
sen, chiên đàn, mà được nuôi lớn trong máu mủ. Ở bên cạnh phân uế từ đường
tiểu tiện dơ dáy mà ra.
- Chủng tử bất tịnh: vơ hai giọt tinh cha, huyết
mẹ làm thể chất.
- Tướng bất tịnh: Thân này không gì ngoài chín
lỗ ( hai lỗ mắt, hai lỗ mũi, miệng, tai…) và 32 thể trược (tóc, lông,
móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá
lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ
hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước
tiểu).
- Tánh bất tịnh: Từ dâm dục uế nghiệp mà sanh,
lấy ái dục làm thể chất. Nếu không tu các pháp quán để cải biến thì lấy
hết nước biển cả để rửa cũng không thể sạch.
- Cứu cánh bất tịnh: Nghiệp tận mệng chung có
chín tướng đáng chán hiện ra gọi là cửu tưởng:
- Trướng tưởng (sau khi tắt hơi rồi, không còn
thức thứ tám trì giữ mạng căn nên thi thể bắt đầu phồng lên)
- Thanh tưởng (rồi xanh tái đen)
- Hoại tưởng (da thịt bắt đầu bở toét như bánh
mì nhúng nước nứt nở và mềm bủng ra)
- Huyết đồ tưởng (các thứ nước, máu mủ trong
thân chảy ra)
- Nồng lãng tưởng (thi thể nát bét rồi, nên mùi
hôi thối xông ra)
- Hám tưởng (da thịt rục rã)
- Tán tưởng (thịt tan, còn xương)
- Cốt tường (xương cũng mòn dần)
- Thiêu tưởng (tro bụi của xương cũng tan theo
hư không và không còn để lại dấu vết gì)
Chúng ta có năm trùng bất tịnh
đó nhưng chui ra thai mẹ lại quên hết. Ra đời chỉ biết khóc, rồi lớn lên bao
nhiêu bất tịnh khổ sở của thân cũng quên hết, tranh đấu cực nhọc cho cuộc sống
để rồi chuẩn bị đi đến già bịnh. Thân bằng cơm gạo rốt cuộc trả về cho đất,
chết là dấu chấm cuối cùng. Nhưng chúng ta không phải làm dấu chấm, hay chấm
phẩy mà là dấu phảy liền. Vì đâu đã hết liền, đâu phải chết là hết. Tinh thần
lại mê muội lại đi đầu thai, lại vào bào thai, để lại ở bụng mẹ ra gọi là sanh,
rồi bỏ vào quan tài gọi là tử; hoặc vào trứng gà, bụng cá… gọi mình là gà, cá.
Khi ở địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, khi ở cõi trời, cõi người, cứ thế xoay vần
trong ba vòng ‘Hoặc - Nghiệp - Khổ’, xoay vần sanh tử luân hồi như đã từng trải
qua từ lịch kiếp.
Chúng ta thường ở trong tam đồ,
bát nạn từ lịch kiếp. Tam đồ là: địa ngục, ngạ quỷ và bàng sanh. Bát nạn là:
- Nạn trời vô tưởng (vì sống lâu mà không gặp
Phật)
- Bắc câu lư châu: Phiá bắc của núi tu-di. Giữ
thập thiện được an vui, nhưng không chịu khó tu học nên chẳng gặp Phật.
- Nạn sanh trước và sau Phật: Phật trước đã qua.
Phật Di lặc lại chưa đến. Lại ở chỗ chẳng có Phật nào truyền bá.
- Nạn thế trí biện thông: Tâm trí lanh lợi, chỉ
ưa đắm kinh sách ngoại đạo, ngoại điển, chẳng tin chánh pháp xuất thế. Thế
là bị chướng nạn đối với Phật pháp.
- Nạn si, lung, âm và á: điếc, đui, câm và
ngọng.
- Súc sanh
- Ngạ quỷ
- Địa ngục.
Tập quan sát chúng ta đang ở
trong những nạn và những báo chướng bất tịnh như thế. Tập quan sát sự thật và
biết thân phận chúng ta như thế để tránh không bị ảo kiến đánh lừa (kiến
trược). Lo luyện tâm, khôi phục quyền tự chủ, để kiến tạo đạo nghiệp.
Cũng đồng nghiệp làm kiếp người,
nhưng có nhiều biệt nghiệp riêng. Có chúng sanh bần tiện, cao sang, xinh đẹp,
xấu xí và may mắn, bất hạnh… đều do hạnh nghiệp chánh kiến hay tà kiến, thiện
hạnh hay ác hạnh ở thân, miệng và ý. Trong Tăng chi bộ kinh, Đức Phật dạy Mạt
Lợi, hoàng hậu của vua Ba Tư Nặc rằng:
Này Mạt Lợi phu nhân! kẻ hay
phẫn nộ, hễ trái tai gai mắt liền nổi nóng sừng sộ gây sự sẽ tái sanh với hình
dung xấu xí. Hiện tại keo kiệt không bố thí, mai sau chịu nghèo khổ túng thiếu.
Thấy ai được lợi dưỡng cung kính
hơn mình, thì tức tối ganh tị, cảm quả báo làm người hèn hạ, không uy tín.
Này Mạt Lợi phu nhân! nếu người
hay bất mãn phẫn nộ nhưng chăm bố thí thì tái sanh tuy dung sắc xấu mà giàu
sang.
Những ai tâm từ hoà lại chăm bố
thí, không ganh tị tật đố sẽ tái sanh dung sắc thù thắng, giàu sang và có uy
tín lớn.
Này Mạt Lợi, bố thí đem phước
báu thế gian. Quả báo đến có hai cách. Có người phải bôn ba mới kiếm ra tài vật
(do người đến xin, cầu khẩn mình mới bố thí hay giúp đỡ). Có người ngồi mát ăn
bát vàng (vì xưa kia đã tận tình đích thân đi tìm những khổ nạn để cứu vớt,
không phải đợi người đến tận nơi cầu xin mới giúp). Người có tâm vị tha luôn
nghĩ đến nhu cầu của xung quanh, mong giải quyết hộ. Những người này đời sau mơ
ước điều gì đều như ý. Như vậy, tuy đồng nghiệp là người nhưng theo biệt nghiệp
từng người mà có khác. Đây là những nhân quả sai biệt của loài chúng sanh gọi
là con người.
Đây là những việc làm bố thí của
trời người, hưởng phước của trời người, nhưng nếu bố thí có trí tuệ Bát Nhã,
quán tam luân không tịch (5) sẽ chuyển phước này thành bồ tát hạnh, để viên mãn
biển phước trang nghiêm của tuệ giác.
Cũng trong Tăng Chi Bộ kinh, Đức
Phật giảng lý nhân quả cho ngài Xá Lợi Phất rằng nếu chúng ta hứa hẹn với ai
một điều gì mà không giữ thì mai sau sẽ bị thất vọng. Nếu đúng như lời hứa thì
mai sau sự nghiệp sẽ thành tựu như ý. Nếu mình bố thí nhiều hơn lời mình đã hứa
thì quả báo khó nghĩ bàn. Hứa là tạo niềm hy vọng. Thất hứa là đem thất vọng
nên quả báo sẽ bị tuyệt vọng.
Thọ giới là hứa với tam bảo ban
cho chúng sanh nơi nương tựa, niềm an ủi. Nếu chúng ta thất hứa thì hậu quả sẽ
vô cùng nặng nề. Ngược lại hẳn công đức vô biên.
Trước kia chúng ta có thể là
người có nhân cách kém cỏi. Bản ngã chúng ta thường phình to cho đây là ta, của
ta, tôn giáo ta, chùa của ta, Phật tử của ta; kia là tôn giáo khác, người khác…
rồi không có cái ta nào chịu thua cái ta nào. Như thế là tạo sự phân hoá, chia
rẽ cộng động và thù ghét lẫn nhau. Nếu giờ biết thoát khỏi sự kềm tỏa của bản
ngã thì chúng ta trở nên cao thượng, độ lượng. Trước kia nhỏ mọn ích kỷ, bây
giờ rộng rãi, bố thí, dễ tha thứ hơn. Trước kia hay nổi nóng và bây giờ thì dễ
trầm tĩnh hơn. Trước kia hay xúc động và bây giờ thì dễ bình thản hơn. Từ đây
tâm từ bi của chúng ta được tăng trưởng, xem nhẹ của cải vật chất và biết quý
trọng những giá trị tinh thần. Những vị biết tự điều như thế này thường sống
thuận theo ý kiến của mọi người, giống như lời bày tỏ của tôn giả A-nậu-lâu-đà:
“Con không sống bằng tâm của con mà con sống bằng tâm của huynh đệ”.
Đây cũng chứng minh hệ quả của
văn minh nhân loại. Khi tư duy chúng ta càng phát triển cao hơn, lý trí dần dần
vượt khỏi sự kềm toả của bản ngã và nhận ra sự đồng thể tướng và tánh chung của
tất cả, nên lấy vạn pháp làm mình, lấy tâm huynh đệ, tâm chúng sanh làm tâm
mình ‘vạn pháp duy tâm’.
Thân ta có tướng cứng là địa
đại, thẩm ướt là thuỷ đại, hơi ấm là hoả đại và lay động là phong đại. Do bốn
cái này ràng buộc mà chia cái tâm tính diệu minh vắng lặng cùng khắp (Phật tánh
bản lai) của chúng ta thành hạn định trong cái thấy nghe hay biết. Xét từ đầu
đến đuôi tạo thành năm thứ ô trược, nghĩa là loài người chúng ta bị buộc trong
năm lớp vô minh này:
1) Hiện đang ở trong kiếp trược,
quyết định đang bị vô lượng khổ áp bức.
2) Kiến trược là đang bị cái xảo
trá chỉ huy.
3) Phiền não trược là tham dục,
sân hận các thứ tâm độc kích thích.
4) Chúng sanh trược là cứ cam
phận sống đắng cay, chết đọa đày, không bao giờ ngờ rằng mình có đường lối
thoát ly, thoát khổ, vì bản tánh mình vốn tự chân thường, chân lạc, chân ngã và
chân tịnh.
5) Mạng trược là bị ma lực vô
thường như lửa cháy bốn bên mà cứ rong chơi nô đùa, đâu có tỉnh ngộ.
Chúng ta không biết rằng dầu cõi
người đang bị năm trược bao phủ nhưng trong sáu cõi hay bảy cõi thú chỉ có lòai
người mới có thể ra được vòng lửa sanh tử nghĩa là có duyên nghe Phật pháp,
hiểu và biết phương pháp để đi ra khỏi nhà lửa, trong khi cõi trời thì bị gây
mê hưởng phước nên không có lo tu; còn các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì
đau khổ quá không có tinh thần đâu để hiểu và để tu. Thế nên, trên bức tranh ta
thấy lửa đỏ bao phủ xung quanh không có lối thoát, nhưng nhìn kỹ sẽ thấy một
đường đi nhỏ như sợi chỉ trắng nhỏ từ vòng nghiệp, có bốn chúng cầm đèn đi lên
ngang qua cõi người và thoát ra khỏi bánh xe lửa đỏ. Trong khi năm cõi khác
hoàn toàn kín mít chìm trong lửa.
5/ BÀNG SANH
Súc sanh là một trong những loài
chúng sanh trú trong vũ trụ bao la này. Có nhiều loại súc sanh như:
A. Loài có
xương sống:
1. Bốn chân: Bò, trâu, sư tử, gấu, voi, hươu, nai, bò tót mọc sừng, lừa, lạc
đà, khỉ, vượn, ròng rọc, đười ươi, cọp, beo, báo, sói, thỏ, mang (con đỏ),
nhím, chồn, cáo, ngựa, heo, dê, mèo, chó, chuột, tắc kè, thằn lằn, kỳ nhông,
thạch sùng, rắn mối, kỳ đà, hoang, rái nước, heo rừng, tê giác, trâu nước,
nhái, cóc, ếch, chằng hiu…
2. Hai chân: Gà, vịt, ngỗng, ngan, chim…
3. Không chân: Rắn, trăn, trùng, giun, lăng quăn, dòi, sâu, lải…
B. Loài
không xương sống:
Cuốn chiếu, bọ chét, rết, nhện, sâu, bọ nẹt, kiến, gián, mối, sùng, bò cạp,
chấy, rận, ve sầu, tằm, giun, nhộng, ong, tò vò, phù du, mọt, rệp…
C. Loài
không xương sống có cánh:
Bướm, chuồn chuồn, đom đóm, bù
xoè, châu chấu, cào cào, muỗm, bọ ngựa, ong, mối, nắc nẽ, dế, ve sầu, muỗi,
ruồi, rầy, thiêu thân, cánh cam, bọ hung…
D. Loài
dưới nước:
Cá, sứa, mực, cua, sò, tôm…
Giới Bồ tát dạy chúng ta mỗi khi
gặp một loài thú nào cũng nên quy y và chúc nguyện cho chúng.
Nguyện tình thương của chúng ta
lan toả đến các loài bàng sanh đang có mặt trên khắp hành tinh này.
Nguyện chúng sớm bỏ thân thú
thành người gặp Tam Bảo (6) tu hành.
Chúng ta đọc tên từng loài, quán
tưởng những hình tướng khốn khổ của chúng với một tấm lòng tận thân tâm thương
xót chúng, ban rải tình thương đến chúng, kết thắng duyên Tam Bảo để sau này
chúng gặp được nhân duyên tam bảo mà tỉnh ra. Một con chim xinh xắn, chúng ta
vuốt ve yêu mến và đâu biết rằng sau chúm lông xanh, vàng, đỏ, tía đó là chất
chứa vô vàn đau đớn, khốn khổ chập chùng.
Trong vòng sanh tử vô tận biết
bao nhiêu lần chúng ta đã mang những lớp da thú này. Phải né, phải tránh, không
nên gieo những chủng tử gà, rắn, heo để đừng tái sanh vào cõi bàng sanh.
Đức Phật dạy cái khổ ngu si là
đáng sợ hơn cả. Ngu si là mê muội, không biết tránh ác làm lành để đến nỗi tự
đọa đày, đọa vào thân thú, địa ngục và ngạ quỷ.
Tranh minh họa hình con giun
đang bị cắc kè cắn. Con rắn thì nuốt cắc kè. Con kên kên nuốt mồi rắn ngon. Anh
thợ săn đang ngắm bắn kên kên. Bức tranh của thế giới ỷ mạnh hiếp yếu. Loài lớn
ăn loài nhỏ. Sự sống ăn nuốt sát hại lẫn nhau vì bản năng duy trì mạng sống của
mình. Cảnh thú sống trong sợ hãi, hoảng hốt và hãi hùng vì đồng loại thú và cả
loài người luôn tìm cách giết lấy mạng chúng.
Trên cạn, ngựa kéo xe đói khát,
chở nặng, đi xa, roi vọt. Dưới nước, cá lớn nuốt cá bé. Trâu cày bừa sớm chiều
nắng mưa quần quật làm việc. Tối về chuồng là nơi chủ tích trữ phân và nước
tiểu của nó để bón ruộng. Suốt đêm trâu chịu các thứ muỗi mòng tấn công mà nào
có tay để xua đuổi. Sáng ra tiếp tục cày bừa dưới nắng mưa cực nhọc. Lỡ đau ốm
không làm việc được thì chủ vội vàng đem giết thịt bán để gỡ vốn. Một đời như
vậy liệu tinh thần có đi lên không? Một đời như vậy liệu chúng ta giảng pháp,
thú có hiểu không? Thế nên bàng sanh là một ổ phiền não, một ổ khổ và một ổ đọa
lạc.
Một khi đã đọa mang lớp da thú
thì trăm kiếp ngàn đời khó ngóc đầu ra. Muôn loài vạn vật, sống đọa đầy, chết
đắng cay. Một con bọ chét chạy trong người, ta không chịu được thế mà chó mèo
gà vịt ngày đêm hàng trăm bọ mạt rúc rỉa mà cứ phải chịu trọn đời, không một
lúc nào ân xá. Cho nên, chúng đọa lạc và chịu đầy đau khổ thương tâm lắm.
Thông thường tội nào nặng lắm
mới đọa làm thú. Dưới ánh mắt của con người thì loài thú không có nhiều giá trị
và xem như thuộc ‘đẳng cấp’ thấp so với loài người.
Thường thì con người dùng thú
vật có nhiều lý do như để làm thức ăn khoái khẩu cho người, thực hiện các thí
nghiệm khoa học hay phục vụ con người… Mặc dù thời gian gần đây ở các nước tiên
tiến có luật bảo vệ thú vật hoặc có luật bảo vệ các loài có nguy cơ tuyệt
chủng, nhưng nói chung, thú vật vẫn thuộc ‘đẳng cấp’ thấp kém so với loài
người.
Vì sao đọa mang thân thú? Ai tạo
những nghiệp bỉ ổi, thấp hèn, mất giá trị, mất nhân phẩm sẽ bị đọa làm thú và ở
thân thú này chúng bị coi thường và khinh rẻ.
Những nghiệp nào là hèn hạ và
mất nhân phẩm? đó là tà dâm, loạn luân, phá vỡ luân thường đạo lý loài người,
dục vọng không biết kềm chế, không có lý trí hướng dẫn, rõ ràng tương đương với
dục vọng của loài thú. Hạnh nghiệp giống với loài thú đưa tác giả đi đến kiếp
thú về sau. Hoặc lòng ích kỷ tột độ biến thành hành vi tranh giành xâu xé đồng
loại không thương tiếc cũng rất giống với loài thú; dùng thủ đoạn để bức hại kẻ
khác, sống cho bản năng ích kỷ chỉ nghĩ đến mình thì sẽ đọa làm thú là điều
không tránh khỏi.
Kinh dạy: Nhất thiết duy tâm
tạo. Mang lông đội sừng hay thành Phật làm tổ cũng chỉ do tâm ta. Loài vật cũng
bẩm ngũ hành (7) , cũng ngậm tứ tượng (8) cũng biết đau ngứa, no đói, cũng yêu
ghét sợ hãi, nơm nớp sợ chết, lo lắng tham sống, tránh khổ cầu an như ta. Vậy
mà chúng ta nỡ nào ăn thịt nó, giết nó chỉ để ngon miệng trong chốc lát nơi tấc
lưỡi, nuốt xuống cuống họng là hết. Đặt mồi lập mưu, khiến sa lưới mắc bẫy,
thật là độc ác, tàn nhẫn. Lại nói ‘thiếu tiền của ta, làm thú trả ta’ hoặc ‘ta
hưởng lộc trời’ hoặc ‘vật dưỡng nhân’ ‘chết là hết, tha hồ ăn, không sợ gì’. Cứ
thế mà luân chuyển oán thù, cùng nhau đi mãi trên đường đau khổ.
Nhà nho nói: Thấy con thú đương
sống, chẳng nở thấy nó chết. Nghe tiếng nó sợ hãi kêu la, chẳng nỡ ăn thịt. Cho
nên đã là quân tử đâu có sát sanh. Nhà nho còn nói thế, huống chi chúng ta là
Phật tử, con nhà họ Thích.
Bởi vì tất cả đều có Phật tánh,
nên tất cả loài noãn, thai, thấp, hoá đều là chư Phật vị lai. Bởi vì cùng nhau
ở trong vòng luân hồi nên tất cả các loài bay, chạy, bơi, lội đều đã từng là
cha mẹ quyến thuộc lẫn nhau với ta. Phải có lòng tin bất động với điều này thì
chúng ta sẽ có sự chuyển đổi ở cách nhìn và cách sống.
Thấy mũi tên con vượn hồn bay.
Thấy giương cung con nai rơi mật. Nỗi chua cay nát óc bể đầu, niềm đau khổ suốt
lưng qua bụng. Dùng tim gan nó để ngon miệng mình trong khoảnh khắc. Mai đây chịu
rừng núi kiếm dao, cả trăm ngàn kiếp trong địa ngục. Còn dư báo lên làm thân
heo gà để chịu mổ đâm quay nướng, mang yên ngậm sắt ngựa lừa, tôi tớ phận chó,
cày bừa thân trâu…
Chúng ta cứ lấy thống khổ làm
trò vui chơi. Giết hại sinh linh thết khách bày tiệc mời người ăn. Con gà, con
heo, con trâu bị cắt cổ giãy giụa kêu la, lại đem thêm nước sôi dội xối; trong
khi trên thềm nhóm họp bạn bè, dưới thềm âm nhạc vui vầy đờn ca, bàn chuyện thị
phi thiên hạ. Đình thần đền miếu đều là những đàn tràng gây oán. Thui ngan,
nướng vịt, mổ heo, thịt dê khác gì quỷ la-sát, dạ-xoa…
Phải 500 con tằm mất mạng mới
thành một chiếc khăn. Mấy chục con thỏ chết mới có chiếc áo ấm. Người có tâm
hãy suy nghĩ, nỡ nào an lòng mặc dùng. Chúng ta cứ ăn thịt mà không biết nỗi
đau của một con vật bị giết hay bị đưa lên lò sát. Xin được kể một câu chuyện
minh hoạ rằng:
Có một anh thanh niên nọ có thói
quen săn thú. Một hôm rượt đuổi theo dấu máu của con nai bị trúng tên, cuối
cùng anh thấy nai nằm thở thoi thóp dưới chân một nhà ẩn sĩ đang toạ thiền trên
tảng đá. Nhà ẩn sĩ khuyên anh nên bỏ thú vui này vì hãy thương nổi đau đớn của
nai khi trúng tên như nỗi đau của mình. Anh đứng im lặng.
Nhà ẩn sĩ liền dùng ngón tay của
ngài ấn vào mình con nai đã chết, còn tay kia nắm lấy tay của chàng thợ săn,
truyền nỗi thống khổ của con nai lúc chết cho chàng. Vừa đụng vào thì anh biến
sắc, anh như cảm nhận được nổi đau khổ về thể xác và tâm linh của con nai lúc
chết. Anh như thể nghiệm được toàn bộ quá trình cái chết của con nai, toàn thân
toát mồ hôi lạnh, nhịp tim dần dần ngưng lại. Anh đau đớn và hiểu được săn bắn
là một hành động ngu xuẩn, từ đó anh không dám săn bắn nữa.
Nhân có nhân quyền, còn thú? Khi
văn minh nhân loại tiến bộ, khi tư duy con người phát triển cao hơn, khi thế
giới tâm linh con người phát huy tuyệt đối đến mức cao nhất, ta và chúng sanh
bình đẳng, lý trí dần dần vượt khỏi sự kềm tỏa của bản ngã, sẽ thấy tha và tự
giống nhau và ngay cả thú cũng bình đẳng, thì lúc đó hy vọng thú cũng được tôn
trọng, thương yêu và đối xử như con người.
Có chuyện kể một bà già Tây Tạng
sau khi trải qua bão tuyết mấy ngày trời liên tục, nhà đã hết lương khô, bà
chống gậy lần xuống núi để mua thực phẩm. Dọc sườn núi, các nông trại, vườn
rau, đồng lúa đều một màu trắng lạnh tang tóc không có sức sống. Quá đói và
mệt, bà ngồi xuống tảng băng để nghỉ chân và lôi trong giỏ khúc bánh mì khô
cuối cùng ra để gặm. Chợt ngó lên, bà thấy một con chó đói đang lết thết bò đến
gần bà. Nó lạnh run lập cập, lông của nó không đủ cho nó ấm. Bao tử của nó xẹp
lép ôm lấy xương sườn vì quá đói, ai đâu cho nó ăn? Bà vội cởi bớt một tấm vải
choàng cũ trùm nó lại và khúc bánh mì, bà bẻ hai, chia đều để trước mặt nó một
phần, bà một phần. Rồi cả bà và nó cùng nhau mỉm cười ăn ngon lành.
Câu chuyện chỉ đơn giản như vậy.
Nhưng để lại ý nghĩa thật sâu sắc. Bà già cũng đã thấy được mình và chó bình
đẳng như nhau, nên dù đang đói, khúc bánh mì cũng sẵn sàng chia đôi, manh áo
sẵn sàng bớt một cái. Nếu như tâm lý bình thường của mình, có thể chúng ta cho
vị trí của chó là thấp kém, nên nếu có thương, cho nó ăn thì ta chỉ bẻ khúc
đuôi và bẻ một ít thôi vì để dành còn ngày mai mình ăn nữa chứ… Vì thế lòng từ
chúng ta có giới hạn.
Luật Sa-di kể chuyện rằng có một
tam tạng pháp sư lên chánh điện, thấy một lão tăng tụng kinh, liền nói đùa: “Sư
tụng kinh giọng ồ ề như chó sủa”. Vì lời khinh mạn bông đùa ấy, vị sư phải chịu
500 đời làm thân chó. Đời cuối cùng, con chó ăn vụng thịt, bị chủ chặt cả bốn
chân, vứt xuống hố.
Ngài Xá Lợi Phất đi qua cho chó
ăn cơm, thuyết pháp và chúc nguyện. Con chó chết, đầu thai làm con một trưởng
giả tên Quân Đề. Quân Đề mới lên bảy tuổi đang chơi ngoài cửa, thấy Xá lợi phất
khất thực đi qua liền xin cha cho xuất gia. Sau khi xuất gia, dưới sự hướng dẫn
của tôn giả Xá lợi phất, Quân Đề đã chứng A la hán.
Thế đó, một lời nói bông đùa mà
nguy hại phải 500 đời làm chó. Nếu không phải là tam tạng pháp sư có công phu
tu hành thì làm sao gặp được thánh tăng để chấm dứt con đường đọa lạc.
Kinh Địa tạng dạy: Chúng sanh
trong cõi diêm phù, cất chân dấy niệm đã phạm tội. Gặp việc thiện thì dễ thoái
tâm. Gặp ác duyên lại càng thêm mạnh. Nếu không gặp thiện tri thức sẽ khổ mãi
không cùng.
Tóm lại, từ chỗ bản lai thanh
tịnh, một niệm bất giác sinh sở năng mà có y báo, chánh báo, có sinh vật xuất
hiện, rồi sau đó động vật chính thức ra đời có tâm thức phức tạp, có tạo nghiệp
nhân để thọ quả báo.
Ai đã làm thành động vật có tâm
thức để cho động vật đó phải lăn lóc đấu tranh vì sự sống một cách cực khổ?
Chính những tâm thức của chúng ta tạo ra.
Trong sự đấu tranh sinh tồn đó, các động vật khi thì giúp đỡ lẫn nhau (thiện),
khi thì xâu xé lẫn nhau (ác) để tạo thành vô số nghiệp thiện ác lẫn lộn thúc
đẩy chúng trôi lăn trong luân hồi mai sau.
6/ NGẠ QUỶ
Ngạ quỷ cũng là một trong vô số
các loài chúng sanh trong vũ trụ này. Loài chúng sanh này có sự thọ dụng cảnh
giới thuần khổ và bị đói khát liên tục. Nguyên nhân căn bản là do những chúng
sanh này khi sanh tiền tâm chứa đầy những ý niệm tham lam, bỏn xẻn, không thích
làm những việc lành, bố thí, cúng dường, sau khi chết đọa vào cảnh giới ngạ
quỷ.
Quỷ thường chịu hai báo chướng:
1) Nội chướng: Cổ như cây kim,
miệng như ngọn đuốc, bụng to như cái trống và toàn lửa, rất khó uống ăn. Đây là
quả báo của những tâm hồn khô khan, bỏn sẻn không biết bố thí. Có quỷ ăn được
nhưng thức ăn vào bụng liền biến thành gươm đao, đâm lại vào da thịt mình. Đây
là vì đã bố thí với độc tâm hoặc ác khẩu.
Buổi chiều là giờ ăn của quỷ,
(9) nên trong chùa khuyên tránh ăn chiều tối. Nếu có ăn thì xem đó như dược
thực (thuốc để chữa bịnh đói khát, khô gầy) và tránh đừng khua đũa bát khiến
quỷ thấy sự ăn uống, vì thèm khát miệng phực ra lửa.
Như ngài Mục Kiền Liên dâng cơm
cho mẹ. Bà Thanh Đề đói quá, một tay bốc ăn, một tay che, sợ quỷ khác giành ăn.
Nhưng cơm vừa đưa đến miệng liền hoá than hồng. Bà đói khát cùng cực mà không
thể thọ dụng thức ăn được.
2) Ngoại chướng: Quỷ ở trong
cảnh lửa hoặc máu mủ, bị dao đâm gậy đánh liên tục. Dòng sông đối với quỷ nếu
không là máu mủ thì cũng khô cạn toàn là cát nóng. Có ngạ quỷ ở trong sông nước
cả ngàn năm mà không sao hớp được một ngụm cho đỡ khát, chỉ thấy toàn sạn cát
nóng. Cảnh trăng thanh gió mát thì do nghiệp báo quỷ thấy thành mặt trời nóng
bức và ngược lại. Cây trĩu đầy quả thì thấy khô cằn héo hon không có trái nào
và ngược lại.
Quỷ có bốn loại:
1/ Có phước: nên được ăn uống
nhiều: a) Có thế lực lớn, cung điện trang nghiêm; b) Trông mong thờ cúng, đi
trên hư không hoặc ở nhà xưa của mình hoặc ở mộ địa được bà con cúng (vì trước
có bố thí); c) Ăn đờm dãi, phân uế và các thứ thiu thối.
2/ Ít phước: được ăn chút ít: a) Lông kim: tự đâm, đâm thân mình, đau đớn cuồng
chạy, lâu lắm mới được ăn chút nhơ bẩn; b) Lông thối: Cào vốc nhổ lông vì mùi
hôi thối khiến rách da xé thịt, đau đớn ngày đêm, lâu lâu mới được ăn chút nhơ
bẩn; c) Bướu lớn: Nhức nhối, chảy mủ máu hôi thối, bốc lấy ăn cho đỡ đói.
3/ Không phước: Chẳng được ăn uống, đói khát cuồng chạy: a) Miệng thối; b) Toàn
thân là lửa như cây đuốc; c) Họng kim, bụng lớn như cái núi.
Có rất nhiều quỷ như:
- Quỷ bị vạc nước sôi nung nấu (làm nghề sát
sanh hoặc có nợ không trả mà còn chống cự)
- Miệng nhỏ như trôn kim
- Ăn đồ mửa
- Ăn phân
- Ăn lửa
- Ăn hơi
- Ăn pháp (xưa kia nói pháp cầu lợi, nay đói
khát, chỉ nhờ nghe pháp mà mạng được tồn tại)
- Khô khan thèm nước uống
- Hy vọng trông mong bà con cúng vái (buôn bán
dối trá lấy vật của người)
- Ăn đồ khạc nhổ (đã đem đồ bất tịnh cúng tăng)
- Ăn tràng hoa (đã ăn trộm hoa của tam bảo)
- Ăn máu (hay sát sanh)
- Ăn thịt
- Ăn nhang (hay ngửi và trộm nhang của chùa)
- Đi nhanh, lửa cháy đốt thân
- Mỗi lông trong mình đều tuôn lửa
- Hắc ám: ở chỗ tối tăm có rắn cắn mổ (xưa kia
vì mưu cầu tiền bạc mà vu oan)
- Đại lực thần thông nhưng chịu nhiều khổ não
(ăn trộm của người này, đem cho người khác)
- Lúc nào cũng có cảm giác bị phừng cháy (giết
người, cướp của)
- Rình con nít đại tiện, tiểu tiện để ăn hơi khí
bất tịnh
- Dâm dục (quyến rũ người làm việc này để lấy
tiền sinh lợi như tú bà tức chủ chứa gái)
- Ở cồn biển (do lừa gạt người bịnh lấy tiền)
- Cầm gậy hầu (làm quan nịnh vua tạo ác)
- Ăn thịt con nít
- Ăn tinh khí người
- La sát (sát sanh)
- Ăn lửa (tham ăn vật của tăng và Tam Bảo)
- Ở các đường hẻm ăn đồ bất tịnh
- Ăn gió (ưa hứa xuông, rồi không làm)
- Ăn than (hành hạ tội nhân không cho ăn uống)
- Ăn chất độc
- Ở cánh đồng
- Ăn tro nóng, chỗ thiêu thây người chết
- Ở dưới gốc cây (người trồng cây để bố thí,
mình ác tâm chặt đi)
- Ở các nẻo đường giao thông (bóc lột khách đi
đường)
- Mara: Ma quỷ phá hoại người tu hành
Trong Ngạ Quỷ sự (kinh
Petakhatha) liệt kê tên và hình tướng của các quỷ như:
- Atthisankhalika: Chỉ có bộ xương bay trong hư
không khóc la thảm thiết, chim đuổi theo mổ vào những kẽ xương
- Mainsapesi: Quỷ hình như khối thịt bị chim mổ
xẻ (sát sanh làm kế sanh nhai)
- Mainsapinda: Quỷ hình như cục thịt (lúc sống
làm thợ săn)
- Vicchavi: thịt đỏ trùng rúc rỉa
- Asloma: Lông như lưỡi dao nhọn bay lên, bay
xuống đâm vào thân
- Sattiloma: Lưỡi kiếm bay lên, bay xuống đâm
vào thân
- Usuloma: Mũi tên lên xuống
- Suciloma: kim lên xuống (đã dùng sắt nhọn đâm
thúc ngựa, bò, trâu chạy nhanh)
- Cumbhanda: Ngọc hành thật to không ngồi được,
cứ phải đi, chim mổ rỉa (xử oan người để đòi hối lộ)
- Gidhakhadi: Ăn ở trong phân (đem đồ bất tịnh
cúng dường tăng ni)
- Okilini: Than nóng xối thân
- Ansakabandha: Quỷ không đầu, mắt mũi miệng ở
giữa ngực (làm nghề đao phủ)
- Pabbazila: thân lửa (xuất gia phá giới)
Những quỷ kể trên đã phải trả
quả trong địa ngục, nay chịu dư báo trong 10 kiếp đến 500 kiếp. Trai tăng hồi
hướng phước báo có thể siêu thoát.
- Vantasa: Lông tóc xồm xoàm, chân tay cong
queo, bụng to phềnh, răng lởm chởm, chân hôi thối, ghẻ lở, ăn đồ khạc nhổ,
ở chỗ dơ bẩn (do xả bẩn, nhổ bẩn trên nền chùa).
- Xumpa: Bụng phệ, mắt to bằng cái chén, răng
bằng lưỡi cuốc, tóc phết gót, đầu to hơn thân, hôi thối tanh nồng, ăn ròng
máu mủ và tử thi, nhưng càng ăn càng đói (cúng dường những thứ cấm cho
người tu).
- Gutha: Ở gần cầu tiêu, ăn phân máu (xấc xược
với người tu, bỏn xẻn với cha mẹ).
- Aggisala: Thân lửa bốc khói, đói khát mà không
thể chết (khinh báng tăng ni).
- Sucimlbkha: Miệng nhỏ dài nhọn như cây kim,
thân to lớn, trọn đời đói khát ở rừng sâu (keo rít để cha mẹ đói khát hoặc
đến phá hoa, lá, vườn ruộng nhà chùa).
- Xanhaji: Uống thì nước hoá lửa, ăn thì món ăn
thành lửa.
- Nijjha: Miệng mọc đuôi dài hôi thối, chẳng bao
giờ ăn uống (ác khẩu với tăng ni, chế giễu người tàn tật, ly gián người
giới hạnh).
- Sabbanka: Mình đầy ghẻ lở, ruồi nhặng bu khắp.
Đói quá lấy móng tay nhọn như dao tự móc thịt ăn. Vừa ăn, vừa khóc, càng
ăn càng đói. Loài quỷ này rất nhiều ở các thung lũng, núi non và cồn bãi. (bất
hiếu cha mẹ, phản bội ân nhân).
- Pappanka: thịt cứng như đất, lửa cháy đỏ, đói
khát cả triệu năm ở trên (chửi oan người đức hạnh)
- Ajagara: Thân dài như con trăn, mình lớn bằng
con voi, nhiều đầu… khắp mình lửa cháy, đói khát trường kỳ, ngày đêm kêu
khóc. Ở núi rừng cồn bãi có rất nhiều loài này (hung dữ mắng chửi cha mẹ
và những bậc đức hạnh).
- Vemanika: Nửa tháng thọ vui như cõi trời. Nửa
tháng thọ khổ như ở địa ngục tra khảo chúng sanh. Đói khát đau khổ vô cùng
(si mê nên ai rủ làm ác thì làm ác. Ai rủ làm phước thì làm phước).
- Mahiddhika: Thân đẹp như Thiên Tử thần thông,
có thần thông bay trong hư không, y phục toàn ngọc báu nhưng thân thể hôi
thối, đói khát cả vạn năm. Món ăn cứ đặt vào miệng liền biến thành sắt
nóng nung đỏ, cháy xém mồm miệng ruột gan (xuất gia, tà mạng, cầu danh
lợi, phá giới).
- Ahi: Mình rắn đầu người. Lớn như trái núi,
giãy dụa khóc la, sống lâu trong rừng núi (sân giận phá chùa am)
- Nimygga: Cứ phải cắm đầu xuống hầm phân, ăn
đầy bụng mới trồi lên được, rồi lại cắm đầu xuống cứ thế trọn đời (tà dâm
để thống khổ cho vợ con. Tội ở địa ngục, nay là dư báo).
- Sukara: Đầu heo, miệng lở thối (ác khẩu).
- Manguhi: Lác, cùi, hôi thối, trôi nổi trong hư
không, diều hâu mổ cắn (mưu mô bóc lột người).
- Chataka: Không quần áo, không ăn uống, sống lâu
90 kiếp. Giống quỷ này rất đông (do khi sống không kính ngôi Tam Bảo).
- Surruta: Ban ngày cầm buá đập nhau bể sọ, sưng
nát mình mẩy. ban đêm lửa cháy toàn thân. Đến sáng lửa tắt, lại cầm búa
đập nhau. (buông lung uống rượu, chơi chọi trâu, chọi gà…).
Từ Bi Sám Pháp dạy:
- Mỗi bên nách đều có vành sắt nóng đốt thân
cháy rực (sadi chia bánh cúng chúng, ăn trộm hai chiếc kẹp nách)
- Trên vai có bình nước sôi, tự tay lấy gáo múc
xối trên đầu, đau đớn than khóc (Duy na nấu sữa nhưng không chia đều. Đợi
khách tăng đi rồi mới chia cho chúng trong chùa. Những tội báo trên đều là
hoa báo. Quả ở địa ngục).
Kinh Địa Tạng: Các quỷ vương có
các hình tướng và tánh khí như mắt ác, ăn thai trứng, hành hình, ác độc, đa ác,
đại tránh, huyết hổ, xích hổ, tán vương, phi thân, điện quang, lang nha, ăn thú
vật, đội đá, chủ hao, chủ họa, chủ phước, chủ tài, chủ súc, chủ cầm, chủ mị,
chủ sản, chủ tật, chủ mạng, chủ hiểm, ba mắt, bốn mắt, năm mắt, kỳ lợi thất,
đại kỳ lợi thất, kỳ lợi xoa, đại kỳ lợi xoa, a na tra và đại a na tra.
Có bốn Thiên vương thống lãnh
tám bộ quỷ thần:
- Càn thát bà (nhạc thần)
- Cưu bàn trà (hung dữ)
- Tỳ xá dà (ăn tinh khí)
- Tiết lệ đa (quỷ đói)
- Phú đơn na (hôi thối)
- Dạ xoa
- Quỷ truyền thống
- La sát (ăn thịt người)
Tương Ưng Bộ kinh kể tôn giả Mục
Kiền Liên thấy ở trên hư không có một bộ xương vừa đi, vừa kêu khóc. Vô số kên
kên xúm nhau mổ rỉa. Đức phật dạy đó là một tên đồ tể giết trâu ở thành Vương
Xá. Nó đã bị nung nấu trong địa ngục nhiều ngàn năm, nay chỉ là dư báo làm con
chim kên kên.
Có người ăn mới có người giết.
Đồ tể giết trâu quả báo như thế, còn người ăn thịt thì sao, chúng ta nên
suynghĩ việc này.
Đó là quỷ, còn ma thì thế nào?
Ma tiếng Phạn là Mara nghĩa là hay cướp mạng, làm chướng ngại, làm rối rắm, làm
phá hoại, não hại.
Có bốn loại ma:
1) Phiền não ma: phiền não tham
sân si, 10 triền, 10 sử hay làm tổn thương não hại nơi thân tâm nên gọi là ma;
2) Ấm ma: vì sắc, thọ, tưởng,
hành, thức hay sinh ra điều khổ não nên gọi là ma;
3) Tử ma: Cái chết nó hay đứt dựt các căn (gân máu) sanh mạng của chúng ta;
4) Tha hoá tự tại Thiên tử ma: tức ma Ba tuần ở từng trời thứ sáu của cõi dục
giới hay phá rối bậc tu hành.
Nên trong kính Lăng Nghiêm dạy
một người phát nguyện mạnh mẽ thì 10 phương cõi ma chấn động. Vì chúng sợ ánh
sáng và thánh thiện, và hay phá ý chí của những bậc xuất gia này, nay thấy sự
phát tâm dõng mãnh của hành giả thì họ lo sợ và cung điện của họ lay chuyển.
Ngạ quỷ và quỷ thần là khác
nhau. Quỷ là đọa lạc đói khát, còn quỷ thần như đại lực quỷ vương, a-tu-la… là
những quỷ có phước báo và thần thông, sống ở cõi trời và hộ chánh pháp. Họ có
thể dùng thần thông dời núi lấp sông. Có vị ẩn hiện biến hóa kém hơn và có vị
có oai đức chủng loại vô lượng. Các chánh thần có phước đức ở núi cao, sông lớn
hưởng nhân gian cúng dường. Quỷ có phước không đức như dạ xoa, la sát, lị mị…
hưởng cúng máu huyết của các thịt tế thần.
Nói chung, ma quỷ là những chúng
sanh đói khát, khổ đau và cô đơn. Vì thế ta phải làm thế nào để giúp cho ma quỷ
tỉnh ra được và mở cổ họng ra được. Chúng ta phải có lòng từ, kiên nhẫn và phải
có định lực.
Mỗi trưa khi chư tăng độ ngọ đều
lấy ra khoảng trên bảy hạt cơm bỏ trong chén nước nhỏ để xuất sanh và tụng như
sau:
Pháp lực
khó nghĩ bàn
Bảy hạt khắp mười phương
Cúng dường khắp tất cả
Từ bi không chướng ngại.
Đồng không quỷ mẹ con
Đại bàn kim sí điểu
Tất cả đều no đủ.
Án, độ lợi ích toá ha
Tất cả
chúng quỷ thần
Tôi nay nguyện cúng dường
Cơm nay biến khắp mười phương
Quỷ thần đều no đủ
Nhờ nương pháp nhiệm mầu.
Án mục lục lăng toá ha
Ít nhất chỉ bảy hạt cơm cho quỷ
đói thôi, nhưng đó lại có thể là thức ăn cho tất cả chúng sanh. Lời tụng kinh
cảnh tỉnh Phật pháp thấm đượm trong từng hạt cơm đó, với lòng mong muốn khiến
các loại đói khát sớm thoát kiếp đọa lạc. Đó là lòng thương không ngằn mé,
không bờ bến. Chúng ta biết rằng hễ có tình thương thì cái gì cũng giải quyết
được hết, mà không có tình thương thì cái gì cũng giới hạn hết.
Cầu nguyện cho tất cả vong hồn
đoản tử, chết bờ, chết bụi, té sông, rớt giếng, chiến sĩ trận vong, đồng bào tử
nạn, mười hai loại cô hồn và các loài quỷ kể trên sớm bỏ đường mê sanh về bến
giác.
7/ ĐỊA NGỤC
Trong tranh vẽ cảnh địa ngục có
cột đồng nóng bỏng, tội nhân nằm trên giường chông sắt nhọn hoắt, núi đao, rừng
kiếm, suối máu nóng tưới vào thân. Có tội nhân chịu hầm xương thịt, có tội nhân
bị treo trên nọc có đại bàng, chim cú tới thay nhau mổ rỉa thịt ăn và lửa đỏ
cháy khắp nơi.
Những đau khổ ở cõi này kéo dài
từ kiếp này sang kiếp khác. Đức Phật tận tình khuyên chúng ta phải tránh mười
tập nhân địa ngục. Đó là tham dục, tham của, khinh mạn, sân giận, giả dối, lừa
gạt, hiềm oán, ác kiến, vu vạ và che dấu lỗi mình, bới lỗi người.
Tỳ Kheo Thiện Tinh cho chết là
hết, không cần lo gì cả. Tỳ Kheo Ni Bảo Liên Hương tuyên bố rằng ái ân không
phải là ác nghiệp, không có sao. Do tà kiến như thế, nên cả hai vừa dứt hơi
thở, thần thức tức khắc rơi vào địa ngục vô gián.
Nhân quả báo ứng vô cùng phức
tạp, chỉ thánh nhân, bậc có định lực thâm sâu đã dừng vọng động, trí tuệ sáng
tỏ mới thấy được việc này.
Đức Phật dạy khi lâm chung, thân
thể chúng ta rã rời, không còn nghe thấy gì nữa. Ý thức hoang mang hiện ra
nhiều cảnh, theo sự ghi nhớ trong một đời, đặc biệt là hiện ra những việc thiện
ác đã từng làm. Nếu người lúc sanh tiền tạo ác nghiệp thì khi lâm chung thấy có
nhiều dãy núi lửa lớn, thành sắt lửa cháy đỏ rực, biển lửa, núi lửa đỏ rực vây
quanh không có đường ra. Có nhiều rắn lửa, chó lửa, ngục tốt đầu trâu, la sát đầu
ngựa cầm thương xốc lùa tội nhân vào chỗ khổ.
Trong Nhị Khoá Hiệp Giải nói có
những địa ngục như sau:
- Địa ngục vô gián: vô
là không, gián là ngừng; tức thống khổ không ngừng, triền miên lũy kiếp
- Tám địa ngục nóng:
Sức lửa mạnh, hòn đá vuông ba mét khối bỏ vào lửa tức thời tiêu tan, hết
hạn trong địa ngục này lại rơi vào các địa ngục phụ khác. Tám địa ngục là:
- Đẳng hoạt: Chúng sanh móng tay sắt cào nhau
rớt thịt.
- Hắc thằng: Dây sắt trói, búa sắt chặt.
- Chúng hợp: Hai núi ép cho thịt nát, xương tan.
- Khiếu hoàn: Nấu trong vạc dầu, kêu la inh ỏi.
- Đại hô: Nấu trong chảo sắt, liệng lên tấm sắt
quay rán
- Viêm nhiệt: lò sắt rực đỏ
- Chúng nhiệt: Ngục tốt (quỷ địa ngục) cầm cây
thiết xoa đâm tội nhân, rồi để dựng đứng trong hầm lửa.
- Xe lửa: Lột da rồi để dưới xe lửa cho bánh xe
nghiền nát
16 địa ngục phụ là:
1. Rìu bú
|
2. Chó sói
|
3. Cây kiếm
|
4. Rừng đao
|
5. Cát đen (cháy da thấu
xương)
|
6. Phân tiểu (sôi nóng đổ vào
miệng)
|
7. Đinh sắt (đóng khắp thân)
|
8. Nước đồng sôi (rót vào
miệng)
|
9. Hòn sắt nóng (bắt ăn)
|
10. Vạc đồng (nấu sôi)
|
11. Nhiều vạc đồng
|
12. Cối đá (xay thân)
|
13. Mủ máu (nấu sôi mình ở
trong)
|
14. Đấu sắt nóng (phải cầm
đong lửa)
|
15. Sông tro nóng (phải gieo
thân vào)
|
16. Hòn sắt nóng (tay nắm, sức
lửa cháy khắp thân)
|
- Tám địa ngục lạnh:
Cũng như địa ngục nóng, tuổi thọ như có 20 hộc mè, cứ mỗi 100 năm lấy ra 1
hột. Lấy hết hạt mè là hết tuổi thọ. Tám địa ngục là
- Án phù đà (tội nhân trong đó rét ngặt, thịt
nát nhừ)
- Vi lại phù đà (gió lạnh thổi tới, thân thành
bọt nước).
- A tra tra (lửa khua ra tiếng a tra tra).
- A ba ba (môi đập thành tiếng).
- Ẩu hầu hầu (từ cuống họng phát ra).
- Uất ba la (thịt như ướp đá thành màu tái
xanh).
- Ba đầu ma (thịt đỏ tươi).
- Phân đà hợi (lạnh chẻ xương trắng).
Ngoài ra trong nhân gian có các
địa ngục rải rác ở các núi, trong lòng nước, ngoài cánh đồng.
Trong kinh Lương Hoàn Sám nói
nơi địa ngục có võng sắt, tối tăm, hang sắt, xe đao, đá nhọn, máy sắt, hầm
than, rừng gai, rừng cháy, nước sôi, đá mài, than nóng, trâu cày, hổ lang và
phun lửa.
Còn trong kinh Địa Tạng nói có
địa ngục thông thương (phóng đâm), sông lửa, dao bay, tên lửa, đao binh, núi
đao, bùn lầy, trâu sắt, chó sắt, lửa sắt, ôm cột đồng nung đỏ, kéo lưỡi cho
trâu cày, đốt tay, đốt chân, ăn mắt, tranh cãi, nhiều sâu, voi lửa, chó lửa,
ngựa lửa, trâu lửa, núi lửa, đá lửa, cưa răng, giường lửa, lột da, uống máu,
treo ngược, nhà lửa, nhà sắt, thành lửa, rút lưỡi, chém chặt, mổ xẻ, ngu si,
khóc lóc, mỏ sắt nhọn, giếng lửa, sỏi bay và gió nóng.
Khế kinh dạy: “Bị thiêu đốt
trong địa ngục chưa gọi là khổ. Chỉ ngu dốt không biết đường đi mới gọi là khổ.
Vì ngu si là gốc nguồn tội.”
Nếu những ai phá luật phạm giới,
hủy báng Phật pháp, làm tổn thương đến tuệ mạng của chúng sanh, nên phải chịu
quả báo địa ngục trong nhiều kiếp. Chúng sanh gây những nghiệp dữ khác, khi đã
đền tội hết rồi thì tái sanh làm quỷ để chịu các quả báo còn lại của các nghiệp
dữ đã gây ra. Đến khi dư báo trong loài quỷ đã chịu đủ, ác quả của các nghiệp
dữ cũng đã hết rồi thì mới lên làm súc sanh, trả lại các nợ cũ.
Nói tóm lại, những nhân quả
trong ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều do tự mình gây nhân và
chuốc lấy quả. Những nhân quả đó không phải từ trên trời sa xuống và cũng không
phải do người khác đưa đến, mà chính do những vọng tưởng giả dối chấp có cái ta
thật, có sự vật thật, nên mới hoá thành có thật. Tất cả đều do tự tâm huân tập
tự tâm, bằng những tư tưởng xấu, làm cho tự tâm hiện ra những quả báo xấu. Nếu
ngộ được bản lai tâm tánh, thì tất cả sự vật đều như huyễn như hoá, vốn không
có ai làm và làm gì, vốn không có ai chịu và chịu cái gì.
Lại trong kinh Lăng Nghiêm, mục
‘Nghiệp quả tiếp tục’ (10) Đức Phật dạy trong lúc lấy thân súc sanh trả các nợ
cũ, nếu trả quá phần mắc nợ thì trở lại làm người, đòi lại những cái đã trả dư.
Như thế trong đường luân hồi, chúng sanh vay trả, trả vay lẫn nhau, nhất là khi
mắc nợ thân mạng dù đã trải qua vô lượng vô số kiếp vẫn phải trả.
Chúng sanh gây ác nghiệp, khi
chịu hết quả báo huân tập và đối đãi rồi, trở lại làm người, thì tùy theo tập
quán trước kia mà thành những người có tư tưởng khác nhau, có những người thông
minh, có những người ngu dại. Thế mới biết được sinh làm người, không phải là
dễ. Nếu không học hiểu chánh pháp, biết nhân biết quả, bỏ dữ làm lành, lỡ ra
phải sa vào đường dữ thì rất khó trở lại làm người được.
Trịnh Công Sơn trong bài hát ‘Xa
dấu mặt mặt trời’ hát rằng:
“Hôm nay thức dậy, không còn
thấy mặt trời, không còn thấy loài người, vây phủ quanh đời, nói tiếng yêu
thương. Hôm nay thức dậy, không còn thấy mặt trời, không còn thấy mặt người,
hay mình đã lạc loài. Hôm nay thức dậy ôi ngẩn ngơ tôi. Hôm nay thức dậy mê mỏi
thân tôi”.
Đây là trạng thái nghiệp thức
lạc loài vào một cảnh giới của tâm. Cảnh đó tệ hơn cõi người có thể là cõi ngạ
quỷ và địa ngục mới không thấy được mặt trời, mặt người….
Trong câu kết của bức tranh sáu
(hoặc bảy) cảnh giới khổ này là:
“Anh đang sống trong vòng quay
tròn của bánh xe luân hồi. Đầu tóc anh đang bị lửa cháy. Nếu anh vội vàng dập
tắt lửa trên đầu thế nào thì việc ra khỏi sanh tử cũng phải vội vàng như thế.
Ái dục là gốc khổ đau. Hãy dập
tắt ngay lửa ái dục.”
Trong kinh Lăng Nghiêm (11) Đức
Phật khai thị chỗ hư vọng của bảy loài để khuyến khích tu hành đúng pháp:
“Này A-nan, xét rõ bảy loài: Địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, thần tiên, trời và A-tu-la như thế đều là những
tướng hữu vi tối tăm, giả dối tưởng tượng thọ sanh, giả dối tưởng tượng theo
nghiệp, đối với tâm tánh diệu viên minh, bản lai không năng tác, sở tác thì đều
như hoa đốm giữa hư không, vốn không dính dáng, chỉ cái hư vọng, chứ không có
cỗi gốc manh mối gì.”
A-nan, những chúng sanh đó,
không nhận được tâm tánh bản lai, chịu luân hồi như thế trong vô lượng kiếp, mà
không chứng được chân tánh thanh tịnh, đó đều do chúng thuận theo những sát,
đạo, dâm hoặc ngược lại ba cái đó thì lại sanh ra không sát, không đạo, không
dâm.
Có thì gọi là quỷ, địa ngục,
bàng sanh; Không có thì gọi là trời, thần tiên. Có và không thay nhau và phát
khởi ra tánh luân hồi. Chúng sanh theo vọng tưởng phân biệt thì không ra ngoài
cái có và không. Dục giới có sắc có dục. Sắc giới có sắc không dục. Vô sắc giới
không sắc không dục đều không thoát ra khỏi cái có và cái không của phát khởi
tánh luân hồi.
Đến đây chúng ta thấy mấu chốt
của luân hồi rồi.
Trong sáu đạo luân hồi, bốn cõi
dưới khổ não bức bách không thể nào tu hành. Cõi trời thường bị cảnh vui gây
mê. Duy loài người đủ giác tỉnh và thông minh để làm nguyên liệu giác ngộ. Đời
người là cơ hội duy nhất để tự chuyển hoá. Nếu ta để lỡ thì lại một thời gian
vô cùng tận nữa mới gặp như ví dụ rùa mù tìm bọng cây. Được thân người thật
khó. Trong số làm người mấy ai may mắn gặp được Phật pháp? Và người biết đạo,
biết tu lại càng hiếm hoi khó thấy.
Sỡ dĩ có bảy cõi khác nhau đều
do phận trong và phận ngoài nặng hay nhẹ. Hay nói cách khác là do trong tâm ta
tình hay tưởng nhiều hay ít. (12)
“A-nan, tất cả thế gian sống
chết nối nhau, sống thuận theo tập quán, chết thì đổi sang dòng khác. Khi gần
mệnh chung, chưa hết hơi nóng, thiện ác một đời đồng hiện ra, cái nghịch của
chết, cái thuận của sống, hai tập khí giao xen lẫn nhau.
Thuần là tưởng thì bay lên, chắc
chắn sinh lên cõi trời, nếu trong tâm bay lên gồm có phúc đức, trí tuệ cùng với
tịnh nguyện thì tự nhiên tâm được khai ngộ, thấy tất cả tịnh độ thập phương chư
Phật, theo nguyện mà vãng sanh.
Tình ít tưởng nhiều, cất lên
không xa thì làm Phi tiên, đại lực quỷ vương, Phi hành “da xoa”, địa hành la
sát đi khắp bốn cõi trời không bị ngăn ngại. Nếu có nguyện tốt, tâm tốt hộ trì
Phật pháp hoặc hộ trì cấm giới, theo người trì giới, hoặc hộ trì thần chú, theo
người trì chú, hoặc hộ trì thiền định, giữ yên pháp nhẫn, thì những vị đó chính
mình được ở dưới pháp tòa Như Lai.
Tình tưởng ngang nhau, không bay
lên, không đọa xuống thì sinh nơi nhân gian, tưởng sáng suốt nên thông minh,
tình u ám nên ngu độn.
Tình nhiều tưởng ít thì đi vào
các loại bàng sanh, nặng làm giống có lông, nhẹ làm giống có cánh bay lên.
Bảy phần tình ba phần tưởng chìm
xuống dưới thủy luân, sinh nơi mê hỏa luân chịu khí phần của lửa hồng, thân làm
ngạ quỷ, thường bị đốt cháy, vì nước có thể hại mình nên trải trăm ngàn kiếp,
không ăn không uống.
Chín phần tình, một phần tưởng,
xuống thấu qua hỏa luân và giữa giao giới của phong luân và hỏa luân, nhẹ thì
sinh vào hữu gián địa ngục, nặng thì sinh vào vô gián địa ngục.
Thuần là tình thì chìm sâu vào
ngục A-tỳ. Nếu trong tâm chìm sâu đó lại có hủy báng đại thừa, phá cấm giới của
Phật, lừa dối nói pháp để tham cầu tín thí, lạm nhận cung kính hoặc phạm ngũ
nghịch, thập trọng thì lại còn sinh vào địa ngục A-tỳ thập phương.
Theo ác nghiệp gây ra, tự chuốc
lấy quả báo nhưng trong đồng phận chung vẫn có chỗ sẵn.
Chúng sanh mê lầm chấp ngã, lấy
phân biệt làm tâm, lấy xác thịt làm thân, nên phải theo với cái thân, cái tâm
này mà xoay vần trong đường sanh tử.
Chúng sanh trong mỗi nghiệp, lúc
đương sống thì hàng ngày hành động theo nghiệp thức hiện tiền của mình, nhưng
đến khi chết thì lại phải tùy theo sự huân tập mà đổi sang nghiệp khác.
Việc ác thuộc về phận trong.
Việc thiện thuộc về phận ngoài. Hai thứ này đua nhau lôi kéo tâm thức đi lên
hoặc đi xuống. Như thế tất cả lục đạo đều do chúng sanh tự mình gây ra nghiệp
nhân, rồi tự mình chịu lấy quả báo. Quả báo giống nhau thì thọ cảnh giới giống
nhau. Quả báo khác nhau thì thọ cảnh giới khác nhau.
Tâm không giác ngộ thì chỉ thấy
thế giới, còn tâm giác ngộ thì thay vì thấy thế giới ta thấy được pháp giới.
Chúng ta biết rằng địa ngục mà trong đó chúng ta đang sống là một sáng tạo của
tâm thức cá nhân và cộng đồng và chúng ta có thể thoát ra được. Nếu tâm tạo ra
địa ngục thì tâm cũng có thể làm ngưng địa ngục. Nếu chúng ta làm cho tâm tịnh
độ phát hiện thì tự nhiên tịnh độ sẽ phát hiện. Chán ghét hoả ngục, mong ước
tịnh độ thì tự nhiên tâm sẽ hướng về tịnh độ. Quay lưng lại địa ngục và xoay
mặt về tịnh độ thì thế nào tịnh độ cũng hiện tiền. Đây là tông chỉ của kinh Hoa
Nghiêm.
Trong Mông Sơn Thí Thực tụng
rằng:
“Lửa đói
đốt thành sắt chảy
Cô hồn đói khát than van
Muốn sanh về chốn lạc bang
Hoa Nghiêm phúng tụng vài hàng
như sau:
Nếu muốn
biết rõ
Ba đời chư Phật
Quán pháp giới tánh
Đều do tâm tạo.”
Muốn phá địa ngục cho người
khác, thì chúng ta phải thoát ra khỏi địa ngục của chúng ta trước. Muốn mở
những dây oan cho người khác thì những sợi dây oan khổ của chính ta, phải được
mở ra trước, nghĩa là mỗi chúng ta phải có lòng từ bi, tha thứ, thương yêu và
không chứa hận thù thì sẽ không có địa ngục hiện diện ở cõi này.
(1) Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tâm Minh dịch, NXB TP HCM, 1999, tr.
721-49.
(2) 10 triền: Phẩn, phú, hôn
trầm, thụy miên, hỷ du, trạo cử, vô tàm, vô quý, khan và tật đố.
10 Sử: 5 Độn sử: Tham, sân, si,
mạn và nghi; 5 Lợi sử: Thân kiến, biên kiến, tà kiến, giới thủ và kiến thủ.
10 sử làm thể. 10 triền làm
nghiệp dụng khiến chúng ta mê muội buộc ràng ở sanh tử, không lúc nào buông
tha.
Bốn sử tham, sân, si, mạn đều
chấp lấy sự vật giữa thế gian và khởi ra những quan niệm vọng hoặc của tham,
sân, si và mạn. Tánh phận của nó trì độn nên gọi là độn sử.
Còn nghi sử là đối với chân lý của tứ đế mà sanh ra điều vọng hoặc này, tánh do
dự không quyết định, không nhuệ khí nên đồng loại tham, sân, si, mạn là ngũ độn
sử.
(3) Bốn cách ăn:
- Đoàn thực cũng kêu đọan thực: nghĩa là ăn bằng
cách từ miếng, từ phần, từ đoạn và dùng ba trần là hương (hơi hám, mùi
hôi), vị (ngọt, lạt) và xúc (chạm vào thức ăn hay hương thơm). Lấy ba cái
này làm thể và lấy biến đổi tiêu hoại làm tướng. Đây là cách ăn của trời,
người và súc sanh.
- Xúc thực: lấy tâm sở tương ưng của sáu thức,
tiếp xúc với cảnh vừa thích ý của ý, năm căn thoả thuận, vui sướng làm
cách ăn. Đây là cách ăn của quỷ thần.
- Tư thực: lấy tư tâm sở hữu lậu của ý thức để
chuyên tinh nghĩ nhớ (tư) chuyển thành cảnh thắng diệu thiền, giúp ích
thân mạng của trời sắc giới, liên miên tư tưởng mãi chẳng dứt, tức là cõi
trời sắc giới lấy thiền duyệt làm thức ăn.
Ví dụ thấy me chua, miệng chảy
nước miếng để đỡ khát nước. Treo bánh để thấy mà đỡ đói bụng, cũng là cách ăn
bằng cách nghĩ nhớ.
- Thức thực: thức thứ tám nối nhau giữ căn thân
khiến chẳng rã hoại. Thức này cả bốn thánh sáu phàm đều chung đủ, chỉ có
khác với nhau là mê và ngộ. Thánh nhân thì thức tánh đã giác ngộ viên mãn,
vốn sẵn trong sáng gọi là Như lai tạng thức, vì nó duy trì tất cả công đức
có tánh vô lậu: Phi có, phi không; phi trụ, phi chẳng trụ; đây là cái ăn
bằng cách vốn có công đức chẳng thể nghĩ bàn mà làm sanh trụ.
(4) Nt, tr. 715-19.
(5) Tam luân không tịch là không
thấy người cho, không thấy người nhận và không thấy vật được cho hay được nhận.
Ta là người bố thí không có, chỉ
là đất nước gió lửa. Người nhận cũng là đất nước gió lửa và việc bố thí cũng
không. Ba cái đều không, nên không có việc gì tự hào, tự cho ta là hay là giỏi.
(6) Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng.
(7) Ngũ hành là Đất, nước, gió,
lửa và hư không.
(8) Tứ tượng là Âm, dương, tinh
thần và vật chất.
(9) Buổi sáng là giờ ăn của chư
thiên. Buổi trưa là giờ ăn của Phật.
(10) Nt, tr. 292-3.
(11) Nt, tr. 745-6.
(12) Kinh Lăng Nghiêm, 687-8.