Chương 6.
Dòng Sanh Tử Vô Tận
Tranh vẽ
cái đuôi của con quỷ dài vô tận, vô thủy và vô chung, nghĩa là trong khi già
bịnh vẫn ngậm vô minh để rồi lại chuyển vần đủ 12 vòng. Cứ thế xoay quanh mãi
mãi, thành vòng tròn không có đầu đuôi, làm nhân làm quả lẫn nhau không cùng
không tận.
Hãy quán
sát dòng vận hành của tâm:
Nếu tâm
làm năm nghịch, mười ác là nghiệp nhân địa ngục;
Bỏn xẻn,
si tướng làm ngạ quỷ;
Tham,
sân, si nhẹ làm bàng sanh;
Tranh
hơn thua làm A-tu-la;
Năm giới
kiên trì làm nhân đạo;
Mười
thiện kiêm thiền định mở cửa cõi trời;
Chán khổ
sanh tử ưa vui tịch diệt là thánh Thanh Văn;
Biết 12
nhân duyên, tánh không là thánh Duyên giác;
Lục độ,
tự lợi, lợi tha là chánh nhân bồ tát.
Tâm
thanh tịnh bình đẳng, viên dung vô ngại là pháp giới công đức.
Thế nên
trong tranh thập pháp giới vẽ chữ Tâm chính giữa.
QUỶ VÔ THƯỜNG
Toàn bánh xe luân hồi quay trong
lửa vô thường. Từ địa ngục đến cõi trời đều nằm trong móng vuốt của quỷ vô
thường (sanh già bịnh chết). Đức Phật dạy vẽ quỷ vô thường có ba mắt, vì chính
vô thường đã đánh thức các thánh xuất thế (con mắt thứ ba là mắt thánh).
Trong khi già bịnh vẫn ngậm vô
minh để rồi lại chuyển vần đủ 12 vòng. Cứ thế xoay quanh mãi mãi, thành vòng
tròn không có đầu đuôi, làm nhân làm quả lẫn nhau không cùng không tận.
Toàn bánh xe luân hồi quay trong
lửa vô thường. Từ địa ngục đến cõi trời đều nằm trong móng vuốt của quỷ vô
thường. Đức Phật dạy vẽ quỷ vô thường có ba mắt, vì chính vô thường đã đánh
thức các thánh xuất thế (con mắt thứ ba là mắt thánh). Vô thường là cái duy
nhất ta nắm được. Cái gì đã sanh sẽ chết, đã tụ sẽ tan, đã dựng sẽ đổ, đã lên
sẽ xuống. Một tổng thể biến thiên làm nền tảng cho sự vật.
Tất cả khổ cực thế gian nằm
trong bốn chữ sanh tử luân hồi. Thân người rất khó được mà lại vô cùng dễ mất.
Tam đồ dễ vào mà rất khó ra. Thế gian trong địa ngục phải lấy số kiếp mà tính
đếm, vạn khổ nung đốt, không biết nơi đâu mà cầu cứu. Đền tội xong làm súc sanh
để trả nợ xưa. Từ bụng heo chui ra, tự nhận mình là heo. Đem tánh vô lượng
quang vào bào thai xú uế, nương gá bụng ngựa dạ trâu, thương tâm biết ngần nào.
Bảy đời Phật đi qua vẫn còn làm thân kiến, tám vạn kiếp sau vẫn chưa thoát
nghiệp bồ câu. Bỏ đãy da này mang đãy da khác, trải ngàn vạn năm mới được tướng
người. Bao lần chịu thân cách ấm, đâu còn trí sáng? Xúc thọ căn trần, sanh già
bịnh chết làm sao tự chủ? Và vì thế luân hồi tiếp tục.
Trong Lăng Nghiêm[1] giải nghĩa
luân hồi qua ba hình thức thế giới tiếp tục, chúng sanh tiếp tục và nghiệp quả
tiếp tục như sau:
1. Thế giới tiếp tục: Phú Lâu Na
bạch: Bạch Thế Tôn, nếu như hết thảy các thứ căn, trần, ấm, xứ, giới… trong thế
giới đều là tính thanh tịnh bản nhiên Như Lai tạng thì làm sao bỗng nhiên sinh
ra các tướng hữu vi như núi sông, đất liền, thứ lớp dời đổi trước sau quanh
lộn?
Đức Phật trả lời (về khởi nguyên
thế giới): Cái giác sáng suốt, hư không không hay biết, hai cái đối đãi nhau,
thành có lay động, nên có phong luân nắm giữ thế giới. Nhân hư không mà sinh có
lay động, phát minh tánh cứng, nên có kim luân nắm giữ thế giới. Biết cái cứng
thành có kim bảo, rõ cái lay động thì phong đại phát ra. Phong đại và kim bảo cọ
xát nhau, cho nên có hoả đại làm tính biến hóa. Ngọn lửa xông lên đốt, kim bảo
sinh ra tính ướt, cho nên có thủy luân trùm khắp các cõi 10 phương.
Lửa bốc lên nước sa xuống, giao
nhau phát hiện, mà lập ra tánh cứng. Chỗ ướt là bể lớn kia, chỗ khô là gò nổi,
do cái nghĩa ấy trong bể lớn kia, hơi nóng thường bốc lên, trong gò nổi kia,
sông ngòi thường chảy xuống.
Thế nước kém thế lửa, kết thành
núi cao, vậy nên đá núi, đập thì có tia lửa, nấu thì chảy ra nước. Thế đất kém
thế nước, rút ra thành cây cỏ, vậy nên rừng rú bị đốt thì thành đất, vắt ra thì
có nước.
Vọng tưởng giao xen phát sanh,
xoay vần làm chủng tử cho nhau, do nhân duyên ấy mà thế giới tiếp tục.
2. Chúng sanh tiếp tục: Lại nữa,
Phú Lâu Na vọng tưởng chẳng phải gì khác, do tánh giác minh hoá ra lầm lỗi, cái
sở minh hư vọng đã lập thì phạm vi cái năng minh không vượt khỏi được. Do nhân
duyên âý, nghe không ra ngoài tiếng, thấy không vượt khỏi sắc, sáu cái vọng:
sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp đã thành lập, do đó mà có chia ra thấy nghe
hay biết.
Đồng nghiệp (của những diệu dụng
thấy nghe hay biết) ràng buộc lẫn nhau mà thành những loại hợp, ly, thành và
hoá.
Cái thấy phát minh thì các sắc
phát ra, nhận rõ sự thấy thì thành có tư tưởng, rồi ý kiến khác nhau thì thành
ra ghét, tư tưởng đồng nhau thì thành ra yêu.
Lan cái yêu ra thành hạt giống,
thu nạp tưởng niệm, thành ra cái thai, giao xen phát sinh, hấp dẫn bọn đồng
nghiệp, nên có nhân duyên, tùy phần sở ưng mà có thấp sanh, noãn, thấp, hoá
sinh. Noãn chỉ do tưởng niệm mà sinh, thai do nhân ái tình, thấp sinh nhân cơ
cảm, hoá sinh nhân phân ly mà ứng hiện. Khi tình, khi tưởng, khi hợp, khi ly
thay đổi lẫn nhau nên các loài chịu nghiệp cũng theo đó mà lên xuống. Do nhân
duyên ấy chúng sanh tiếp tục.
3. Nghiệp quả tiếp tục: Phú lâu
Na, tư tưởng thương yêu ràng buộc lẫn nhau, yêu mãi không rời, thì những cha mẹ
con cháu trong thế gian, sinh nhau không ngớt, chúng sanh này lấy dục tham làm
gốc. Lòng tham, lòng yêu giúp nhau tăng trưởng, tham mãi không thôi thì các
loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hoá sinh trong thế gian nay tùy sức mạnh
yếu, ăn nuốt lẫn nhau, chúng sanh này lấy sát tham làm gốc. Lấy thân người ăn
con dê, dê chết làm người, người chết làm dê, như vậy cho đến 10 loài chúng
sanh chết sống, sống chết, ăn nuốt lẫn nhau, nghiệp dữ cùng sinh ra tột đời vị
lai, bọn này lấy đạo tham làm gốc. Người này mắc nợ thân mạng người kia, người
kia trả nợ cho người này, do nhân duyên ấy trải trăm ngàn kiếp, thường ở trong
đường sống chết. Người này yêu cái tâm, đức hạnh, tánh nết người kia, người kia
ưa cái sắc, dễ thương, đáng yêu, xinh xắn của người này, do nhân duyên ấy trải
qua trăm ngàn kiếp thường ở trong vòng ràng buộc.
Duy ba món sát đạo dâm làm gốc
và vì nhân duyên đó nghiệp quả tiếp tục.
Ba thứ tiếp tục điên đảo này,
đều do tánh sáng suốt rõ biết của giác minh, nhân rõ biết mà phát ra có tướng,
theo vọng tưởng mà kiếp chấp sinh ra, các tướng hữu vi núi sông, đất liền thứ
lớp dời đổi, đều nhân cái hư vọng ấy mà có xoay vần trước sau.
Đức Phật dạy: Tỳ kheo không tự
nấu ăn, gởi cái sống thừa tạm bợ trong ba cõi, quyết không ăn thịt chúng sanh
thì túc trái từ vô thủy trong một thời trả hết, cáo từ thế gian, thoát hẳn các
lậu, thị hiện chỉ đi về một phen, đi rồi không trở lại. Quyết định rời bỏ cả
thân tâm, thân thịt xương máu thành sở hữu chung của chúng sanh. Đức Phật dạy
phải quán sát thân này là bất tịnh và vô thường. Chúng ta (thế gian) si mê, ngã
quỵ trong phiền não, chịu quả báo sáu đạo, gia tăng thói xấu, tạo thêm nghiệp
ác, vòng luân hồi cứ thế xoay vần không cùng tận.
Chúng ta vâng lời Phật, một mặt
tự giác thấy lỗi lo sám hối. Một mặt quán vô thường, vô ngã để nhổ tận gốc vô
minh. Các kiết sử theo đây mà bật rễ. Trong không chấp ngã, ngoài không chấp
pháp bảo đảm bình an.
Cuộc đời không chấm dứt với cái
chết, lo rằng còn nhiều đời sau nữa. Đa số chúng ta không chuẩn bị cho cái chết
cũng như đã không chuẩn bị cho cái sống.
Milarepa, một thánh nhân ở Tây
Tạng đã nói: ‘Tôn giáo của tôi là làm sao để sống và chết không ân hận’. Cổ đức
thường nói: ‘Sanh ký, tử quy’. Coi cuộc đời hiện tại là một quán trọ, con người
là lữ khách đến để rồi đi. Có người nào điên mà đem hết tiền của, cẩn thận
trang hoàng căn phòng khách sạn mà mình chỉ mướn có vài ngày.
Chúng ta đã phí cả một đời để
theo đuổi những hư vọng để lo cho nhà trọ trong khi mình sẽ đi. Nhịp điệu đời
sống rộn ràng đến nỗi không có thời gian để nghĩ đến chân lý. Loài người trọn
đời lo lắng xếp đặt hết việc này sang việc khác chỉ để thình lình cái chết sập
đến mà họ hoàn toàn không chuẩn bị. Chỉ ai thấy rõ tánh mong manh của đời sống
mới biết sự sống quý biết ngần nào.
Luận Nguyên thủy và Luận Đại
thừa đồng thanh nhắc chúng ta rằng ai ai cũng có ba thứ hữu dư: 1) Tập khí; 2)
Báo chướng; 3) Phiền não. Từ nhiều kiếp ta đã tạo vô biên tội ác. Những tội
nặng đã trả quả ở địa ngục, ngạ quỷ rồi. Tham ái nhẹ tái sanh làm loài chim cá;
sân hận nhẹ tái sanh làm loài rắn, mèo, hổ, báo; ngu si nhẹ tái sanh làm loài
voi, heo, ruồi, kiến. Nay còn dư báo phải trả đền:
1) Vì tập khí nên xuất gia dễ
phạm sát đạo dâm vọng hay là Phật tử tại gia nhưng các giới giữ vẫn không được
trọn vẹn.
2) Vì dư báo nên câm điếc hoặc
gặp nhiều hẩm hiu, các thứ chướng nạn.
3) Dễ bị phiền não chi phối khó
điều ngự được. Vì phiền não nên dễ vun bồi thêm nhân ác tham sân si để đời đời
đi lại trong tam đồ.
May mắn là kết quả của thiện
nghiệp. Rủi ro là kết quả của ác nghiệp. Nếu có trí tuệ thì trường hợp nào cũng
là tiến bộ. Người này giác tỉnh mỗi khi gặp tai nạn liền biết là trả nghiệp,
coi đây như cái chổi để quét sạch tội xưa.
Thiền sư Viên Chiếu: Tất cả
chúng sanh từ đâu tới, sau khi trăm tuổi sẽ về đâu? – Rùa mù soi vách đá, trạch
què leo núi cao.
Nicolem thưa rằng: Người đã già
thì sanh lại làm sao được? Có thể nào trở lại bụng mẹ và sanh lại lần thứ hai
sao? Chúa Jesus đáp: … Chớ lấy làm lạ về điều ta đã nói với người: Các ngươi
phải sanh lại. Gió muốn thổi đi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng động nhưng chẳng
biết gió từ đâu đến và cũng không biết đi đâu… Quả thật, quả thật, ta nói cùng
người, ta nói điều mình biết, xác quyết điều mình đã thấy. Còn các ngươi chẳng
hề nhận lấy lời chứng của ta. Ví bằng ta nói các việc về đất (cụ thể) các ngươi
còn chẳng tin, huống hồ ta nói các việc thuộc về trời (trừu tượng) thì các
ngươi tin sao được…” (Jean)
Đức Phật khi thành đạo xem loài
người như một ao sen: một số còn nằm trong bùn, một số vượt khỏi bùn nhưng còn
nằm trong lòng nước, một số vươn lên mặt nước, một số vượt mặt nước đứng trong
hư không, nở hoa toả hương. Chúng ta xem xét mình thuộc loại nào? Nếu còn ở
dưới nước thì coi chừng, chẳng thoát được lũ cá rùa rúc rĩa, còn ở luân hồi dù
ở cõi trời, người vẫn không thể là chỗ bình an được. Trí tuệ xuất thế chúng ta
cần có thiện tri thức đồng tâm, đồng lực, đồng nguyện, đồng hành như những giọt
nước giúp đỡ sức mạnh cho nhau. Phải ở trong dòng mới xuôi về biển rộng.
Vô minh là hoặc đạo, nghiệp là
tập đạo. Do mê hoặc mà gây ra hành nghiệp nên nói vô minh duyên hành. Đức Phật
dạy khoen ‘hành’ vẽ ông thợ đồ gốm đang nặn chiếc bình. Bình là kết quả theo ý
muốn của ông thợ, theo hai bàn tay khéo léo hay vụng về của ông mà ra. Nghiệp
cũng vậy, thường xuyên thay đổi theo tâm biến hoá hoặc tùy theo dòng vận hành
của tâm. Một ác nhân ngày hôm nay có thể trở thành một thánh nhân ngày mai. Một
người tốt có thể vì một lý do nào đó trở thành tội nhân.
Dòng nghiệp lực còn được cung
cấp bằng những khối nước bùn lầy tham sân si, còn tiếp tục chảy. Tái sinh là
kết quả tất nhiên của nghiệp lực. Ví như ánh sáng đèn điện, bóng đèn vỡ, ánh
sáng tắt, nhưng vì điện lực không mất nên ánh sáng sẽ trở lại với một bóng đèn
khác hoặc vuông, tròn, neon, ống tiếp, đèn ngủ với nhiều màu sắc. Thân ta dù
tan rã, nghiệp lực còn tồn tại, hẳn còn tái sanh. Vậy luân hồi chỉ ngừng khi
chúng ta không còn tạo nghiệp. Tóm lại, quả
khổ chuyền theo nghiệp, nghiệp chuyền theo tâm. Chỉ cần soi sáng cái tâm là hết
khổ. Vì thế ánh sáng giác ngộ của Tam bảo là cứu tinh của muôn
loài. Tam bảo thường trụ thế gian là nhờ tăng ni kế tiếp truyền đăng, chúng
sanh nương tam bảo thoát khổ, tiến lên quả vị thánh hiền, cho đến ngày thành
Phật.
Biết
thân như đồ gốm
Hộ tâm
như thành trì
Dẹp ma
với gươm trí
Hãy giữ
gìn chiến thắng
Vượt
ngoài mọi nhiễm ô. [2]
Muốn vào tri kiến Phật, trước
hết phải xa lìa tri kiến chúng sanh. Cần phải bỏ tay ấn mắt để thấy mặt trăng
thật. Việc đầu tiên là phát tâm bồ đề, chớ tham luyến trần duyên. Trăng đáy
nước là một bóng ảnh giả, chỉ có tướng sáng mà không có lực dụng chiếu soi phá
tối. Vọng tâm do nhân duyên sanh. Nhân là nghiệp. Duyên là sáu trần. Như người
có nghiệp tham, thấy tiền liền khởi tâm ăn cắp, người ngu si sống với vọng tâm,
không giác tỉnh (sáu căn huyễn hoá, sáu trần ảo ảnh, sáu thức mê lầm), khởi
tưởng chấp ta, chấp cảnh, rông rỡ sát đạo dâm vọng, khổ báo chướng nạn chẳng
thể trở về chân tâm bản tánh, pháp thân thường trụ.
Quán bất tịnh để tiêu ba độc
tham sân si, quán vô thường để giải thoát ngã mạn tự ái, quán hơi thở để điều
hoà cả thân và tâm.
Ngửa lên nhìn mặt trăng thật,
nghĩa là vận sức trí tuệ quay về sống với bổn giác, khi ấy sẽ thấy năm ấm hư
vọng vốn là Như Lai tạng. Trong đêm dài sanh tử, muôn loài chìm đắm. Muốn trở
về nhà phải nương mặt trăng thứ hai tức là thức tinh nguyên minh, làm nhân địa
tu hành để vong trần hợp giác. Có lần đứng bên Xá Lợi Phất than rằng: ‘Thương
thay! những kẻ mò trăng đáy nước đến nỗi chết chìm’. Phật đáp; ‘Đúng thế, nhưng
thật đáng thương hơn nữa là những kẻ chấp rằng vũ trụ không trăng’.
Chúng ta không quên vô số sinh
linh đang quằn quại trong vòng ‘Hoặc Nghiệp Khổ’, chúng ta nguyện cố gắng và cố
gắng hơn nữa, nương ánh sáng trí tuệ và gương mẫu từ bi của chư Phật, bồ tát
tìm về ánh trăng chân thật để trên đền bốn ân, dưới cứu khổ muôn loài.
Kinh Pháp Cú tả sự tự tại của
bậc giải thoát:
“Tài sản
không tích chứa,
Ăn uống
biết suy tư,
Tự tại
trong cảnh giới,
Không vô
tướng giải thoát,
Như chim
bay hư không,
Hướng đi
thật khó tìm.”[3]
Kinh Lăng Nghiêm trong mục ‘Chỉ
Hai Thứ Cỗi Gốc Để Phân Biệt Mê và Ngộ’[4], Đức Phật bảo A-nan: Tất cả chúng
sanh từ vô thủy đến nay điên đảo nhiều cách, giống nghiệp tự nhiên nhóm lại như
chùm quả ác xoa.
Những người tu hành không thành
được đạo Vô thượng bồ đề đến nổi thành Thanh văn, Duyên giác hay thành ngoại
đạo, chư thiên, ma vương hay bà con quyến thuộc của ma đều do không biết hai
chữ cỗi gốc, tu tập sai lầm như nấu cát mà muốn thành cơm, dầu trải qua nhiều
kiếp như vi trần, rốt cuộc vẫn không thể nào thành được.
Thế nào là hai thứ cỗi gốc:
1) Cỗi gốc sống chết vô thủy:
tức như ông ngày nay cùng các chúng sanh dùng tâm phan duyên mà làm tự tánh;
2) Thể bản lai thanh tịnh bồ đề
niết bàn vô thủy thì như hiện nay cái tính bản minh thức tinh của ông sinh ra
các duyên mà bị bỏ rơi.
Do chúng sanh bỏ rơi cái bản
minh ấy nên tuy cả ngày sống trong tính bản minh mà không tự giác, oan uổng vào
trong lục đạo.
Ông không nghe Như Lai nói: các
pháp phát sinh là duy tâm biến hiện. Tất cả nhân quả, thế giới, vi trần đều
nhân cái tâm thành có thể tính.
A-nan, như trong thế giới hết
thảy sự vật hiện có, cả đến ngọn cỏ, lá cây, sợi dây, thắt nút, gạn xét cỗi
gốc, đều có thể tính, dầu cho đến hư không cũng có tên, có tướng, huống chi cái
tâm sáng suốt thanh tịnh nhiệm màu làm cho hết thảy sự vật có thể tính mà lại
tự mình không có thể tính.
Chúng sanh lấy động làm thân,
lấy động làm cảnh, niệm niệm sanh diệt, quên bỏ chân tâm, điên đảo tạo nghiệp,
oan uổng luân chuyển, thật là đáng thương, nhưng dù đọa lạc ba đường hay thành
thánh quả, tánh thấy tánh nghe vẫn không biến đổi. Kinh Lăng Nghiêm dạy đó là
Như Lai mật nhân, đích chỉ thức tinh nguyên minh là căn bản bồ đề.
Nhà thiền gọi là:
Có thì
muôn sự có,
Không
thì muôn sự không,
Có không
trăng đáy nước,
Đừng mắc
có cùng không.[5]
Muôn
pháp về không không chỗ nương,
Chân như
lặng lẽ hiện tỏ tường,
Thấu tột
nguồn tâm không chỗ chỉ,
Nước tâm
bóng nguyệt bặt nghĩ lường.[6]
Bậc trí sát na, sát na gột trừ
cấu uế như anh thợ vàng cần mẫn lọc trừ bụi đất ra khỏi chất vàng ròng. Phải
thiết tha đổi thân sanh già bịnh chết này thành giới thân tuệ mạng thì chúng ta
không làm tử thi bẩn mặt đất mà được khen là lành thay sự sống có phẩm chất
người.
Quán sát trong thân những thứ
kiên ngưng thuộc về đất, lưu nhuận là nước, nhiệt lực là lửa, tác động thuộc
gió, không gian thuộc hư không, phân biệt thuộc tâm thức. Quan sát tính cách
tương quan, tương duyên giữa ta và vạn vật. Mặt trời nằm ngoài cơ thể, nhưng
nếu không có mặt trời thì thân này đâu có sống được.
Can đảm nhìn vào sự thật sẽ hết
bi quan mà biết quý đời sống, làm thế nào để khỏi phí uổng kiếp người khó được,
hoà vui với tất cả xung quanh như niềm vui của Trịnh Công Sơn qua bài hát ‘Mỗi
ngày tôi chọn một niềm vui’:
“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui.
Chọn những bông hoa và nụ cười.
Tôi nhặt gió trời, mời em giữ
lấy,
Để mắt em cười tựa lá bay
Và như thế, tôi sống vui từng
ngày
Và như thế, tôi đến trong cuộc
đời
Và như thế, tôi đã yêu cuộc đời
này bằng trái tim tôi.”
Chúng ta thuộc căn cơ hạ hạ, nội
phần chúng sanh quá nặng nề. Ngoại phận thánh hiền gần như chỉ được học trên
kinh điển, chính bản thân không có chút giác tỉnh.
Vô số các chuyện của các bậc
thánh hiền đáng để cho chúng ta suy gẫm và soi rọi lại cuộc đời mình. Chính
những niềm vui, những giây phút để suy tư về đời sống và các lời nói bất hủ của
các danh nhân là bước đầu để chuyển hoá nội tâm ta, để ta thắng lướt hoàn toàn
một phần tập khí xấu xa còn âm thầm đọng lại. Và sự chuyển hóa nội tâm là nền
tảng vững chắc cho sự chuyển nghiệp kế tiếp, là khởi điểm của công cuộc chuyển
hoá nội tâm.
Tổ Lâm Tế xướng rằng:
“Tùy
duyên tiêu cựu nghiệp,
Nhậm vận
trước xiêm y”.
Tạm dịch:
“Tùy
duyên tiêu nghiệp cũ,
Hồn
nhiên mặc áo xiêm.”
Taici,
nhà thơ Nhật bản nói:
“Giữa
mùa thu tàn,
Vươn lên
từ rác,
Một cành
triêu nhan.”
Hay Bashô:
“Ta nhìn
sâu xa,
Bên hàng
dậu nở,
Cành
Nazuna.
Ta nhìn sâu
xa,
Dưa nằm
trong cỏ,
Hé mấy
nụ hoa.”
Phải nghiên cứu kỹ lưỡng ba vòng
Hoặc-Nghiệp-Khổ, tin chắc lý nhân quả, thấy được nụ hoa Phật tánh bản hữu của
mình mới hy vọng có thể hoàn thành chí nguyện giải thoát cho mình và người.
Kính chúc tất cả quý Phật tử
thành công trong sự nghiệp giải thoát ngay tại thế gian này.
Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát ma
ha tát.
SÁCH
THAM KHẢO
1/ Dhammapala, tr. Ven. Narada
Maha Thera, Maha Bodhi in Sarnath,
2000.
2/ Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tâm Minh dịch, NXB. TP HCM, 1999.
3/ Kinh Nhân Duyên, Tỳ Kheo Ni An Vui, chùa Hương Sen, Đại
Ninh, 2004.
4/ Kinh Tương Ưng trong www.buddhismtoday.com
[1] Nt, tr. 290-3.
[2] Dhammapala, (versse) kệ số
251.
[3] Nt, câu kệ số 92.
[4] Nt, tr. 66-7.
[5] Thiền sư Đạo Hạnh.
[6] Thiền sư Tịnh Giới.