Chương 5.
Vòng 12 Nhân Duyên
Đây là
vòng 12 nhân duyên. Nhân là đưa đến kết quả (năng sanh). Duyên là giúp nhân
thành quả (sở sanh). 12 nhân duyên còn gọi là 12 hữu chi (có cành nhánh), 12
trùng thành (gặp nhân duyên tạo thành), 12 kinh cước (chỉ móc nối với nhau), 12
liên hoàn (liên đới và trở lại). Tùy khả năng đọan một khoen là cả vòng 12
khoen tan rã.
Sao mai vừa mọc ngày mồng 8
tháng 12, bồ tát Cồ Đàm chứng ngộ lý Duyên khởi tức 12 nhân duyên này. Từ đó,
ngài dùng ánh sáng duyên khởi làm đuốc soi đường, mở cửa bồ đề cho thế gian
chúng sanh.
12 vòng (khoen) nhân duyên là:
1. Vô minh
|
2. Hành
|
3. Thức
|
4. Danh sắc
|
5. Lục nhập
|
6. Xúc
|
7. Thọ
|
8. Ái
|
9. Thủ
|
10. Hữu
|
11. Sanh
|
12. Lão tử
|
1. VÔ MINH
Vẽ hình ảnh bà già mù chống gậy
đi trong rừng xương. Rừng xương vì xương sống, xương sườn chúng ta đã bỏ từ bao
kiếp luân hồi.
Mù là không sáng, khởi niệm quên
lửng chân không diệu tánh. Rừng là cũ kỹ, rậm rạp là nhiều. Con đường toàn
xương chúng ta đã đi từ vô thủy, chúng ta đã biết chán chưa? Chúng ta còn đăm
đăm trước mắt chuyện con rắn, heo, gà trước mắt. Còn tham lam, giận hờn cả
ngày, đâu có thời gian nhận được mình là bà già mù đi trong rừng xương.
Quán duyên khởi, thấy mối tương
quan của vạn pháp, huyễn sanh, huyễn diệt. Người có trí biết thương kẻ đồng
nghiệp, tha thứ khoan dung những mê dại. Một lòng từ bi hỉ xả để độ tha.
Vô minh là khởi niệm khiến quên
mất chân tánh và mất sự sáng suốt của trí tuệ. Do vô minh nên mới tạo nghiệp
thiện hay ác để tiếp nối vòng luân hồi sanh tử là hành. Cho nên vô minh (là
hoặc, nhân) duyên hành (nghiệp, quả).
Thập triền (phẩn, phú, hôn trầm,
thụy miên, hỷ du, trạo cử, vô tàm, vô quý, khan và tật đố). Triền là dây trói
buộc chúng sanh, khiến chúng ta không ra khỏi sanh tử được mà bị ràng buộc
hoài, không thoát khỏi được sợi dây ái nhiễm, dục nhiễm mà được lên bờ giải
thoát an lạc. Thập triền này là thức ăn của vô minh. Khi vô minh bị đoạn trừ
thì minh khởi.
Chúng ta cần phải làm giàu trí
óc mình, thay đổi hiểu biết và chuyển hoá mình bằng những kho tàng tri kiến của
các bậc cổ đức, cần mở mang và hoàn thiện tâm hồn bằng những dấu vết bước đi
của người xưa.
Chìa khóa hạnh phúc là tánh giản
dị. Do đây ta có đầu óc rảnh rang để lo sự nghiệp tâm linh, không chăn ba con
gà, rắn và heo nữa.
2. HÀNH
Trong kinh Pháp Cú, Đức phật
dạy: nếu mình nói hay hành động với tâm thanh tịnh hay ô nhiễm thì an vui hay
khổ não sẽ theo liền với mình như bóng theo hình hay như bánh xe lăn theo dấu
chân con bò.
“Ý dẫn
đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý ô nhiễm
Ta nói hay hành động
Khổ não sẽ theo ta
Như bánh xe lăn theo
Bước chân của con bò.” (1)
“Ý dẫn
đầu các pháp
Ý làm chủ ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh
Ta nói hay hành động
An vui sẽ theo ta
Như bóng chẳng rời hình.” (2)
Như anh thợ gốm đang nắn chiếc
bình. Nắn khéo thì bình đẹp (thanh tịnh). Vụng thì bình méo (ô nhiễm).
Hãy nắn cẩn thận tức là chính
thân miệng ý hiện tại đang tô điểm hoặc bóp méo tương lai của chúng ta. Lành
thiện thì cuộc đời mai sau sẽ huy hoàng. Mê dại xấu ác thì thảm hại đáng thương
đang chờ đợi, tức hành vi hiện tại đem quả báo mai sau nên Hành duyên Thức,
nghĩa là những hành vi hiện tại có năng lực tiềm ẩn, điều khiển thúc đẩy tâm
thức trong chiều sâu, để dẫn dắt hữu tình đi đến tương lai. Nghiệp thường xuyên
thay đổi theo tâm biến hoá của mình như người thợ tùy sở thích mà nắn vạn hình
thiên kiểu.
Nương lời dạy của Đức Phật, biết
rõ hành uẩn duyên sanh, vô thường vô ngã, nhờ định lực, hành vô hành, đắc vô
đắc, có thể dừng bước trên con đường sanh tử vô tận.
Kinh Tương Ưng III, Phẩm Tham
Luyến (3) , Đức Phật dạy:
“Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hành? Có sáu tư thân này: sắc tư, thanh tư, hương tư, vị tư, xúc tư, pháp tư.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hành. Do xúc tập khởi nên các hành tập khởi. Do xúc
đoạn diệt nên các hành đoạn diệt. Đây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến đoạn
diệt, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.”
Đức Phật dạy sắc tư, thanh tư,
hương tư, vị tư, xúc tư và pháp tư là tâm suy nghĩ về sắc thanh hương vị xúc
pháp, 6 trần gọi là Hành. Tư là động lực đưa đến tái sanh, tức là tùy bàn tay
khéo vụng mà thành bình đẹp xấu.
Ý nghiệp là căn bản sanh tử. Tâm
trong sạch là gốc giải thoát. Ý thanh khiết là nền tảng tiến hóa. Ý nghiệp niệm
niệm phan duyên, kích động sáu căn, dung thông khắp cơ thể. Bao nhiêu nghiệp
thiện ác nặng nhẹ, ý đều làm chủ. Ý nghiệp vi tế rất khó khăn cho chú mục đồng
chăn giữ. Chúng ta phải tự điều phục tâm mình như kinh Pháp Cú dạy:
“Người
dẫn thủy, dẫn nước;
Kẻ làm cung, nắn tên;
Người thợ mộc, uốn ván;
Bậc chí thiện, tự điều.” (4)
Tâm ta như một dòng sông. Sự
chuyển động của dòng sông là tổng hợp của tất cả những chuyển động từng giọt
nước. Cũng thế, tâm chúng ta là một chuỗi thiện ác, vui buồn yêu ghét. Sự liên
tục xê dịch, đổi dời, triền miên chuyển động biến hóa này là Hành ấm. Rời các
niệm tưởng suy nghĩ không có hành ấm nên nói hành vô ngã.
3. THỨC
Tranh vẽ cảnh chú khỉ nhảy từ
cành này sang cành khác. Cành cũ (nghiệp cũ) đã khô cằn, cành mới trĩu đầy quả
(có thể lành hay độc). Tâm thức thật thể ở khắp pháp giới nhưng vì vô minh cứ
gặp cảnh là thọ khổ vui, khởi yêu ghét. Không ngờ đã mắc chỗ đầu thai đem đến
danh sắc. Thân sau gọi là tái sanh. Thân này là hậu quả của năm uẩn cũ. Thần
thức theo nghiệp chịu báo tái sanh để đền ơn hay trả oán hoặc hưởng phước hoặc
chịu tội gọi là thức duyên danh sắc.
Tâm thức là một chuỗi biến đổi
duyên sanh làm sống bào thai và là cái biết của sáu giác quan sau này. Nếu định
nghiệp sắp làm con trai thì thân trung ấm dấy niệm thương mẹ. Nếu là con gái
thì thân trung ấm dấy niệm thương cha. Nhơn lòng yêu làm hạt giống, nạp tưởng
điên đảo nên thai để gá vào mẹ, nên nó là hành duyên thức. Cái hành nó chuyền
níu qua thức.
Khi thần thức hoan hỉ với lúc
cha mẹ giao hợp, ba hơi nóng hay điểm này (cha, mẹ, trung ấm) nhập cục với nhau
như một điểm hồ đặc ở trong tử cung. Thức ấy là tinh thần; tinh cha huyết mẹ là
vật chất. Bấy giờ trong bào thai có ba nguyên tố là mạng sống, hơi ấm của ba
lửa (cha, mẹ, thần thức) và thức: tánh biết, tánh Phật mà khi cuộc vào thân
người thì gọi là thức A-lại-da. Khi đầu thai, thức này đến trước nhất, rồi lần
hồi nảy sanh bảy thức kia. Thức tâm là danh (phần vô hình), phôi thai là sắc
(hữu hình) nên bảo thức duyên danh sắc, thức leo qua danh sắc.
Lớn lên khi sáu căn tiếp xúc sáu trần sinh phân biệt sáu thức. Nếm mật ong thì
ngon ngọt, ăn ‘cơm không’ ta thấy vị lạt nhạt nhẽo. Các thực phẩm mỗi thứ, một
vị nhưng khi bài tiết ra, chúng chẳng khác nhau. Cái tô so với cái tách là lớn
nhưng so với cái chậu lại bé. Tâm phân biệt theo nghiệp mà nhuốm màu vạn vật.
Thế giới sáu trần chính nó tạo ra toàn những bất đồng.
Đường ngọt, muối mặn, khổ vui,
động tĩnh chung quy cũng chỉ là nhân duyên sanh nên vô ngã, vô thường, khổ và
không. Chỉ cần chúng ta luôn tự chủ và sáng suốt. Những cảm giác khởi lên chúng
ta ghi nhận, biết rồi để mặc chúng tan đi với tánh cách vô thường của chúng.
Vọng tâm như con khỉ nhảy nhót, ưa thích rồi chán bỏ, rồi lại ưa thích rồi lại
chán bỏ… giác quan tiếp xúc sự vật. Yêu và ghét phát sanh. Thế là có anh si mê
đứng đấy. Nhưng với chánh niệm thì đấy là lúc trí tuệ phát sanh. Bắt buộc phải
có mặt ở một nơi mà các giác quan bị quấy rầy. Đừng ngại, giác ngộ không có
nghĩa là điếc hay mù, chỉ cần chánh niệm, không dính mắc. Bản chất là ảo ảnh
nên sáu trần tự trôi qua. Điều cần yếu là phải học cách kiểm soát và làm chủ
con khỉ.
Tám thức phân biệt tài tình
tuyệt diệu.
- Nhãn thức tâm vương là chủ tể biến ra thế giới
màu sắc, hình tướng.
- Nhĩ thức tâm vương biến ra thế giới âm thanh.
- Tỵ thức tâm vương biến ra thế giới thơm hôi.
- Thiệt thức tâm vương biến ra thế giới ngọt
chua.
- Thân thức tâm vương úm bala biến ra thế giới
nóng, lạnh, trơn và rít.
- Hoàng đế ý thức tâm vương tài ba lanh lẹ, quán
xuyến vào các pháp trần, chiếu rọi quá khứ, hiện tại, vị lai và thống lý
cả năm quốc gia trên.
Năm thức trên tuần nghiệp theo
duyên biến ra năm trần cảnh, kiến hoặc chấp năm trần là thật. Ý thức phân biệt
xấu đẹp hay dở là tư hoặc. Kiến hoặc, tư hoặc là gốc trầm luân.
Ai chăm quán vô ngã, vô ngã sở thì ý thức chuyển thành Diệu quan sát trí, mở
đường cho tạng thức trở về đại viên cảnh trí, thành chánh đẳng chánh giác.
Thật ra nhãn thức không nhìn thấy cảnh bên ngoài đâu.
- Thần kinh: ta đang nhìn sự vật ở thần kinh
trong con mắt. Do ánh sáng mặt trời chiếu vào bông hoa ở ngoài vườn, phản
chiếu qua con ngươi vào thị giác thần kinh.
- Bóng ảnh: tâm liền thấy một bóng ảnh gọi là
nhãn thức đã sanh.
- Bóng ảnh theo nghiệp người: theo nghiệp người,
cha mẹ, gia đình, nhà trường đã dạy ta gọi là hoa vạn thọ…Trước kia ta yên
chí là ta thấy bông hoa thật ở ngoài vườn. Đâu ngờ mình chỉ thấy bóng ảnh
ở thần kinh của nghiệp người, theo duyên hiện lên gọi là nhãn thức sanh;
rồi lại theo duyên tan đi, gọi là nhãn thức diệt.
Bóng ảnh này không phản ảnh
trung thành sự thật đâu. Nó theo duyên ánh sáng mặt trời, giả hiện trong lòng
mắt đang tối của loài người. Mắt cua tròn xoe lồi ra ngoài hẳn lãnh tia sáng
một cách khác. Bông hoa hiện lên hẳn cũng phải là một hình sắc khác. Các công
nghệ sản xuất gương hiện nay minh chứng điều đó cảnh vật tuần nghiệp phát hiện.
Thế cho nên, nhãn thức hư vọng vô ngã và nhãn thức hư vọng thế nào thì năm thức
kia cũng vậy.
4. DANH SẮC
Phật dạy vẽ một chiếc thuyền
đang chở bốn thùng đồ vật (đất, nước, gió và lửa). Vọng thân như con thuyền
đang trôi trên dòng sông sanh tử.
Danh là tâm (sắc là đất nước gió
lửa) chính những yêu ghét mừng giận của chúng ta hàng ngày đưa chúng ta đi đầu
thai, như khỉ theo nghiệp leo trèo mà có lên hay xuống. Đức Phật gọi bào thai
là danh sắc.
Tâm là danh, người chèo lái con
thuyền tức thức A-lại-da. Một khi thân đã thành tựu hoàn mãn rồi, thức này sẽ
lần hồi nảy sanh bảy thức kia. Cái nghiệp (vọng thân) của mình như thuyền đang
trôi trên dòng sông sanh tử. Có Danh Sắc bào thai thì có sáu căn. Nên danh sắc
duyên lục nhập.
5. LỤC NHẬP
Lục Nhập là sáu căn (bào thai
hoàn mãn ra khỏi bụng mẹ). Phật dạy vẽ nhà có sáu cửa vì sáu trần sẽ từ sáu căn
đi thẳng vào tâm.
Căn nhân trần phát ra cái biết
và trần nhân căn mới có tướng hiện; từ đó thức phân biệt là đầu mối chia chẻ
nhị biên, khiến ngã tánh sai lầm mọc rễ. Chủ thể nhận thức (tâm) và đối tượng
nhận thức (cảnh) dựa nhau đồng khởi là do môi giới sáu căn.
Kinh Lăng Nghiêm (5) , mười
phương Như Lai khác miệng đồng lời xác nhận rằng: “Đầu nút câu sanh vô minh
khiến luân hồi sanh tử chính là sáu căn, cho nên y sáu căn mà cởi gỡ thì được
tịch thường đạo quả an vui giải thoát” (Tri kiến lập tri tức vô minh bản; tri
kiến vô kiến tư tức Niết bàn).
Thế thì sở dĩ bây giờ chúng ta
là chúng sanh và Phật là bậc thánh vì ngài khi sáu căn tiếp xúc sáu trần thì
không khởi niệm, còn mình thì mở tung các căn như căn nhà mở toang các cửa để
thu nạp và lãnh trần cảnh, rồi tính toán khôn dại, hơn thua, lợi hại. Thế là vô
số tham, sân, si khởi dậy và tạo ra nghiệp sát, đạo, dâm, vọng…
Do có sáu căn mở toang tiếp cảnh
ngoài nên có xúc chạm, vì thế lục nhập duyên chuyền níu qua xúc.
6. XÚC
Căn trần xúc chạm (mắt xúc trần,
tai xúc thanh, mũi xúc hương, lưỡi xúc vị, thân xúc chạm và ý xúc pháp) nhưng
nguy hiểm nhất là nam nữ hai thân xúc chạm. Đây là nguồn chảy thành biển trầm
luân sanh tử thế gian.
Thân này là quả của dục nhiễm.
Rồi trong lúc có thân, chúng ta lại tiếp tục tạo vô số các nhân mới để tạo quả
vị lai. Hàng ngày yêu thích cái áo này, ký tên với cây viết này mới chịu, làm
việc với người mình hạp, chỉ thoả mãn với món ăn mình thích, chỉ nói chuyện hay
email với người mình ưa… những việc nho nhỏ đó đều biểu lộ chủng tử lòng ái
nhiễm, lòng tham ái của con gà hay bồ câu và ta cứ vô minh, vô tình hay cố ý
tạo những hạt giống chủng tử đó.
Thế nên bổn phận đầu tiên của
người xuất gia là hộ sáu căn (hộ mắt đừng để thấy sắc ái nhiễm, hộ tai đừng
nghe tiếng bậy, hộ lưỡi đừng thốt lời ám muội, hộ mũi đừng ngửi hương son phấn,
hộ thân đừng đam mê xúc chạm, hộ ý đừng để tư tưởng bất chính khởi lên). Quán
thân do bốn đại đất nước gió lửa giả hợp, không ta, không người, không thọ và
không mạng.
Sự xúc chạm là pháp không có.
Chỉ có sự có mặt hai duyên căn trần. Rộng quán sát sẽ thấy tất cả vạn pháp đều
không tự có. Thực sự chỉ là sự có mặt của duyên. Ai am hiểu sự thật này là hiểu
Phật pháp.
Không nhận thức được thật tướng
của các pháp, không thấu đáo được chân tướng của chính mình, không có chánh
kiến là vô minh. Bà già mù vô minh vẫn ngự trị muôn loài cho tới bao giờ chúng
ta chịu mở mắt theo ánh sáng giác ngộ của Như Lai.
7. THỌ
Hàng ngày chúng ta thọ cơm, thọ
nước uống, thọ dưỡng khí vào, thọ hơi ấm mặt trời. Rồi chấp thủ đất, nước, gió,
lửa vô thường này là ta. Thân kiến là gốc tất cả tà kiến. Cho thân là ta nên
mỗi khi căn chạm cảnh, tâm liền thọ trần mà có khổ vui. Tất cả chỉ có thọ ấm
vọng lãnh nạp hư phát minh mà thôi. Thọ uẩn là yếu tố kích thích, trói buộc và
sai sử chúng ta rõ ràng nhất.
Thọ thì khổ vì có nhận lãnh là
có khổ. Thọ thân này là thân riêng của ta. Thọ tâm này là tâm riêng của ta là
cái thọ đầu tiên để từ đó có những cái thọ khác. Nào là thọ cái ăn, thọ cái
mặc, thọ cái ở, thọ sắc, thanh, hương, vị, xúc, thọ những cái làm ta thích thú,
thọ những cái cần thiết, thọ những cái không cần thiết, rồi thọ những cái xa
xỉ, thọ những cái thừa thãi, vô ích vì thói quen góp nhặt tham lam không thể bỏ
qua. Mỗi chúng sanh, mỗi cuộc đời là một chuỗi những thọ nhận liên tiếp.
Thọ cuộc đời là một trường đau
khổ (khổ đế: tám khổ). Còn nhiều nỗi khổ khác do thọ mà ra như nhận được một
cái quý thì nơm nớp sợ mất, lo giữ nhưng chắc gì còn với mình. Người giàu sợ
mất của. Người có địa vị sợ mất địa vị. Người có người yêu sợ mất người yêu.
Người có danh vọng sợ mất danh vọng. Thọ thuận thì vui. Thọ nghịch thì khổ. Thọ
không thuận không nghịch thì si. Đây là lạc thọ, khổ thọ và si thọ. Tóm lại ba
thọ đều là khổ.
Thân vô ngã (vọng thân vì bao
gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), tâm cũng vô ngã (là vọng tâm vì thọ,
tưởng, hành và thức là không). Thân và tâm không phải là hai thực thể riêng
biệt, độc lập và tách rời. Chúng luôn đi đôi, quan hệ liên đới chặt chẽ, đồng
xuất phát từ một tạng thức u mê nhưng tài tình kỳ diệu.
Hàng ngày sáu căn tiếp xúc sáu
trần, thọ khổ vui, tưởng yêu ghét, hành suy nghĩ và thức phân biệt. Ai cũng
biết thọ chỉ là cảm giác nhân duyên sanh. Đã là cảm giác thì hẳn hư vọng. Nhân
duyên sanh là trong chấp ngã (cho thân này là thật), ngoài chấp pháp (cho sáu
trần là thật). Ví dụ: Mắt nhìn thấy một người thân thương, tâm vui (thọ lạc,
vui vì gặp thuận cảnh, đưa đến ái ngã); Nhìn ra vườn thấy ai dẹp những chậu hoa
cúc dễ thương của mình đi, bực bội (khổ thọ, vì chạm cảnh trái ý). Nhìn cảnh
không buồn không vui (si thọ vì chấp có ta đang nhìn cảnh ấy). Nếu vui từ tâm
ra thì sao không thường vui, nếu vui từ cảnh ra thì can hệ gì đến ta, rõ ràng
thọ trống rỗng hư vọng không thật thể. Hàng ngày sáu căn tiếp xúc sáu trần,
nuôi dưỡng ba độc tham sân si. Các tổ có tuệ giác nên bình thản, gọi là xả thọ.
Chúng sanh cho thọ là vui nên
càng thọ càng tốt. Đức Phật dạy thọ thì khổ.
- Hoại khổ: ta gọi vui (lạc thọ), Phật gọi là
hoại khổ vì vạn pháp tánh chất vô thường, quá khứ đã qua, hiện tại đang
mất, thấy vui chỉ là do pháp trần lạc tạ ảnh tử.
- Khổ khổ: ta gọi khổ (khổ thọ), Phật gọi khổ
khổ vì thân sanh già bịnh chết đã khổ còn thọ thêm cảnh khổ bên ngoài.
- Hành khổ: ta gọi bình thường, không khổ không
vui (si thọ), Phật gọi là hành khổ vì si mê cho căn trần là thật, chấp ngã
chấp pháp càng huân càng dày thì quyết định chỉ đi đến tam đồ khổ báo, thế
nên cả ba thọ đều khổ.
Thọ khổ là khổ, vì tăng trưởng
sân não.
Còn bình thường huân tập ngu si
không tuệ, nên thọ si là khổ.
Còn vui thì tăng trưởng lòng
tham, lún sâu vào biển vô minh, khó nghĩ tới sự ngóc đầu ra, nên lạc thọ là
khổ.
Dòng sông là những giọt nước
đang xê dịch. Thân thể ta là một dòng sông. Vô biên tế bào đang chuyển biến.
Tâm ta cũng là một dòng sông. Các cảm thọ sanh diệt, diệt sanh không ngừng,
theo sự hoạt động của sáu giác quan. Cảm thọ vui đưa đến tham luyến, khổ đưa
đến chán bỏ. Mỗi cảm thọ đều kích thích tham và sân nổi dậy. Nay chánh niệm thì
tình trạng bắt đầu thay đổi. Cảm thọ được diễn biến chiếu soi dưới ánh sáng của
ý thức. Chánh niệm không nhận nó là ta nữa, không nói tôi ưa thứ này, tôi chịu
thứ kia, tôi vui, tôi khổ.
Kết quả đầu tiên là khôi phục
lại chủ quyền, do đây cảm thọ đã mất đi ma lực của nó.
Kết quả thứ hai là thấy được nguồn gốc của nó là vô minh. Do chấp ngã, chấp
pháp mà có cảm thọ.
Kết quả thứ ba là biết tự tánh
nó hư vọng, không có bản chất, chỉ là những cảm giác sanh và diệt theo nhân
duyên.
Có khi tu tập cả chục năm qua
rồi mình vẫn chưa vô được những ý nghĩa này. Xin hãy suy nghĩ.
Cả ngày gắt gỏng cau có do
nguyên nhân vì thức khuya, thiếu ngủ, đây là cảm thọ khổ gốc từ sinh lý. Bị một
người bạn hiểu lầm, bực tức, thọ khổ, đây gốc là từ tâm lý. Đi về thấy ai bày
trong phòng mình rác bẩn, đồ đạc lộn xộn bừa bãi, phát cáu, đây là thọ khổ vì
vật lý. Được khen ta vui, quán chiếu, khám phá ra căn bản thọ vui là từ ngã ái
và lạc thọ này đưa đến ảo tưởng. Có tỉnh ra mới tránh được những tự hào, tự mãn
vô ích. Một khi lạc thọ ảo hoá tan biến nhường chỗ cho những niềm vui lành mạnh
có tác dụng nuôi dưỡng giác ngộ, trưởng dưỡng thánh thai, thế nên cảm thọ rõ
ràng bất định. Khổ vui tùy theo bản chất mọi người.
Bởi vậy, Phật dạy vẽ minh họa sự
xúc thọ như người bị mũi tên độc bắn vào mắt. Nếu người khôn thì rút ra rồi,
nhưng chúng ta cứ cắm mũi tên ấy tự đâm vào mình từ sáng đến chiều, ngày này
sang ngày khác cho nát thây ra, nếu có ai hỏi thì rút ra đâm vào người khác
nữa. Ví dụ có người nói vu oan cho ta, tức là bị một mũi tên đâm vào mắt, vào
tim. Chúng ta đâu có chịu quên lời nói trái tai ấy đâu. Mỗi lần nhớ là một lần
đâm sâu vào mắt. Chưa đủ, ta lại điện thoại hay email cho người ở Sa Đéc, Cà
Mau… rồi Ấn độ, Hoa kỳ… kể nỗi oan khổ của mình cho người khác nghe, thế là đưa
tiếp những mũi tên khác đâm vào mắt người khác. Cứ thế mỗi ngày chuyển không
biết mũi tên đi để tự đâm vào mắt người mà không biết lời thị phi đó chỉ là trò
chơi của động và tĩnh, là làn sóng âm ba, là cái không có. Chỉ bậc thánh nhân
xả thọ mới an ổn tinh thần, tìm được sự thanh thản mát mẻ. Một thiền sư nói
rằng:
“Thị phi
rơi rụng như hoa sớm
Để lòng lạnh băng với gió sương.”
Hàng ngày quán chiếu thân, tâm và
cảnh đều giả nên an định tinh thần. Nhiều mũi tên có bay đến, nhưng cả các
thánh nhân không nhận và không giữ, thế là chúng tự gẫy và rụng xuống như hoa
rơi. Nếu không thế thì dù xuất gia vẫn sâu kết phiền não, gồng gánh trọn đời.
“Kẻ hơn
mua oán,
Thua ngủ không yên,
Hơn thua đều xả,
Tự tại bình an.” (6)
Yêu tương tư là mũi tên cắm phập
sâu nhất.
“Thương
em mười kiếp vẫn chờ
Trăm ngàn năm nữa vẫn thương em mà”.
Vì đưa đến tham đắm, dấn vào
biển vô minh, cho nên đời đời, kiếp kiếp ràng buộc gặp nhau hoài. Mỗi tên này
nhiều vị độc, mũi tên tình ái. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Có ba loại người không sợ
trời sập là kẻ điên, kẻ say và người đang yêu” vì những kẻ này bị tên cắm quá
sâu, đắm nhiễm mà không màng gì đến sự nguy hại xung quanh.
Tứ Niệm Xứ là kiện tướng để hàng
phục vọng tưởng hay thọ tưởng ái nhiễm này. Chúng ta từ nhiều kiếp quay cuồng
chỉ vì bốn đảo:
1) Thân bất tịnh mà cứ quý
chuộng mê say cho là nơi nương tựa;
2) Thọ thì khổ mà cứ khao khát,
những mong càng được nhiều càng hay;
3) Tâm vô thường, vọng tưởng mà
cứ tin chắc là một phiến thủy chung sáng suốt;
4) Pháp không thật mà cứ cho nội sáu căn, ngoại sáu trần, chặng giữa là sáu
thức là thật.
Quán chiếu thuần thục mới không
nô lệ sáu trần, khôi phục lại quyền tự do độc lập.
Tứ niệm xứ dạy chúng ta dùng hơi
thở quán chiếu sự có mặt của khổ vui, của tình cảm ái nhiễm, rồi từ từ điều
phục. Hơi thở nhẹ nhàng an tịnh dần dần. Thân tâm nhẹ nhàng an tịnh dần dần. Cứ
như thế chúng ta an tịnh hoá cả ba thọ, ba tưởng. Chánh kiến thấy rõ nguồn gốc,
bản chất và hậu quả của những cảm thọ khổ vui nên giải thoát được sự khống chế
của nó. Đối trị thọ với chánh niệm không nhận là mình. Biết nguồn gốc thọ là vô
minh, tánh nó là hư vọng.
Quang trạch được khu rừng năm ấm
sẽ được hưởng bình an, thong thả đi trong đời không bị dính mắc, là con đường
Niết Bàn.
Hãy quán có thọ thì có khổ. Có
lãnh thọ nhiều thì khổ nhiều. Có lãnh thọ ít thì khổ ít. Đức Phật dạy như nhiên
để nó đến rồi đi, thọ mà không thọ.
8. ÁI
Như người say rượu, đã uống mấy
chai rồi, say lỉ bỉ, mấy chai không nằm nghiêng ngả lăn dưới đất. Trên bàn một
chai để sẵn sắp sửa uống và còn mấy chai nữa sắp hàng chờ đợi. Ý nghĩa bức
tranh này cho ta biết khát khao thọ cảm vẫn vô tận trong lòng muôn thú, trong
lòng chúng ta, quá khứ cũng thọ ái dục, hiện tại vẫn thọ và mãi đến vị lai. Ái
dục ngọt ngào khiến càng say sưa đắm đuối mất chánh kiến.
Tri giác khởi liền sau thọ. Yêu
thích tham luyến tiếp liền sau thọ vui. Ghét bỏ xa lánh tiếp liền khổ thọ. Do
đó, hết yêu đến ghét, hết ghét lại yêu, cứ vậy triền miên niệm niệm vọng tưởng.
Thật ra tưởng tức không, vì rời đối tượng hiện tại và các pháp trần nhớ về quá
khứ, vị lai, tưởng quả tình không có, chỉ đối duyên tạm có, duyên diệt ảo tưởng
liền tan.
Ngài Quán Tự Tại bồ tát thấy nghe
hay biết đủ thứ, không bị che mờ, không bị chi phối. Tất cả hay dở, lành dữ đều
bay qua như gió thoảng, như hư không. Được như vậy nên hết khổ. Lời nói là thứ
hư vọng, chỉ là trò chơi động tĩnh, trò chơi của khí hơi, do không khí chuyển
động (làn sóng âm ba) mà thính giác thần kinh tự biến ra âm thanh để phân biệt.
Trí tuệ Bát Nhã biết lời nói là gió thoảng nên không bận lòng. Không ôm không
khí chuyển động đó để suy nghĩ rồi sinh oán ghét hay thương yêu.
Thực hành sâu xa Bát Nhã không
có nghĩa là chìm nghỉm trong đó mà là tự tại không gián đoạn. Tâm an định một
phiến. Tưởng uẩn không lúc nào bị chi phối. Thế là hết khổ. Chúng ta khi đang
quán thì tưởng uẩn trừng lặng. Nhưng khi xúc sự vẫn nhận vọng tưởng là mình.
Thế là thực hành Bát Nhã chưa sâu nên hễ đụng chuyện liền khổ.
“Ái bất nhiễm bất sanh ta bà” vì
nhân ái nhiễm nên chúng ta hiện diện ở đây. Vì thế, Đức Phật dạy ở khoen xúc
rằng sự xúc chạm của nam nữ là nguồn chảy thành biển trầm luân sanh tử thế
gian.
Loại tình cảm được đề cập đến
nhiều nhất trong các tác phẩm nhân loại đó là tình yêu nam nữ. Đây là loại tình
cảm mãnh liệt hơn các loại tình cảm khác bởi vì nó liên quan đến bản năng sâu
kín của con người. Con người luôn muốn chiếm đoạt về mình mẫu người có thể đem
lại hạnh phúc cho mình. Đây là tâm lý vị kỷ và tình nam nữ có sự thôi thúc âm
thầm của hoạt động tình dục, một loại hoạt động gây khoái cảm xác thịt rõ rệt
nhất là duyên hệ lụy ràng buộc của nhiều đời, là nguồn máy để tạo ra bánh xe
luân hồi quay chuyển. Nếu không có thiện căn thâm sâu, không nguyện lực kiên
cố, không có thiện tri thức hỗ trợ thì tăng cũng như tục khó thoát khỏi lưới ái
nhiễm này.
Nhìn sâu vào thì tình yêu cũng
chỉ là bản chất ích kỷ tăng thêm ngã ái, ngã luyến; người thương mình nên mình
thương lại và đây cũng là sự hưởng thụ của bản năng con người. Chính bản năng
thích hưởng thụ đã thúc đẩy nam nữ tìm đến nhau, và ngược lại nó cũng thúc đẩy
họ làm khổ lẫn nhau (biết bao nhiêu vợ chồng gây gỗ, đánh đập, li dị, ngoại
tình; nhưng ngược lại cũng có những cặp có tình thương chân chính của sự hy
sinh, độ lượng, vị tha… thì tình yêu đó có thể bớt đi màu sắc bi quan của bản
năng ích kỷ).
Mặt trái của ái, yêu là ố, là
ghét. Yêu ham điều này, chán ghét điều khác, nên thọ duyên ái ố. Ca dao Việt Nam có
câu:
“Thương
nhau cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.”
Hay:
“Thương
nhau trái ấu cũng tròn
Ghét nhau bồ hòn cũng méo.”
Yêu cũng nhớ mà ghét càng nhớ
hơn. Tâm vướng mắc dù thân không có cạnh nhau nhưng vẫn mang nỗi không ưa trong
lòng. Ràng buộc khổ não đâu có chịu xả ra mà càng nhớ thì càng si mê. Càng mê
càng khổ, càng khổ càng mê. Cứ thế đi đến vô cùng. Chúng ta có hai câu thơ:
“Vũ vô
kềm tỏa năng lưu khách,
Sắc bất ba đào dị nịch nhân.”
Mưa không có kềm dây nhưng có
khả năng lưu giữ bước chân khách.
Mỹ sắc không phải sóng ba đào
nhưng có thể dìm chìm kẻ anh hùng hào kiệt.
Đây là sức mạnh của ái tình và
lòng ái nhiễm.
Kinh Pháp cú có rất nhiều lời
dạy của Đức Phật về lòng ái nhiễm như:
“Dòng ái
dục chảy khắp,
Như dây leo mọc tràn,
Thấy dây leo vừa sanh,
Dùng kiếm tuệ đoạn gốc.” (7)
“Ai sống
trong đời này,
Ái dục được hàng phục,
Sầu khổ tự tiêu dần,
Như nước giọt lá sen.” (8)
“Biết
thân như bọt nổi,
Giác thân to huyễn hóa,
Bẻ mũi tên ma ái,
Vượt tầm mắt tử thần.” (9)
“Người
nhặt hoa dục lạc,
Tâm ái nhiễm mê cuồng,
Đắm say trong dục vọng,
Bị nô lệ tử thần.” (10)
“Do vậy
chớ yêu ai,
Ái biệt ly là khổ,
Những ai không yêu ghét,
Không có thể buộc ràng.” (11)
“Luyến
ái sinh ưu tư,
Luyến ái sinh sợ hãi,
Ai giải thoát luyến ái,
Không ưu không sợ hãi.” (12)
“Tham ái
sinh ưu tư,
Tham ái sinh sợ hãi,
Ai giải thoát tham ái,
Không ưu không sợ hãi”. (13)
Trong Tương Ưng: “Từ vô thủy
luân hồi, này các Tỳ Kheo, không dễ gì tìm được chúng sanh trong thế gian này
lại không lần nào làm cha hay làm mẹ.”
Tuần báo News Week ra ngày 03
tháng 11 năm 2003, Robert J. Samaelson, một kinh tế gia nổi tiếng nói:
“Thường những người trẻ thì muốn
già hơn, còn người già thì muốn trẻ hơn. Đây chẳng qua chỉ là một đoạn đường
trong nỗ lực kiếm tìm hạnh phúc thiên thu bất tận của con người”.
Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật dạy
rất rõ về giới dục nhiễm (14) này:
“Nếu chúng sanh lục đạo các thế
giới, cái tâm không ái nhiễm, dục vọng không theo dòng sanh tử tiếp tục. Nếu tu
theo pháp tam muội cốt để ra khỏi trần lao, nếu không trừ lòng ái nhiễm thì ra
khỏi trần lao được. Dù có nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn trừ
lòng ái nhiễm thì không ra khỏi trần lao được. Dù có nhiều trí thiền thiền định
hiện tiền, nếu không đoạn trừ lòng ái nhiễm thì cũng lạc vào ma đạo. Hạng trên
thành ma vương, giữa thành ma dân, dưới thành ma nữ. Các bọn ma này cũng có đồ
chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô thượng.
Sau khi Như Lai diệt độ, trong
thế gian có nhiều loại ma này, giả làm thiện tri thức, khiến các chúng sanh sa
vào hầm ái kiến, bỏ mất con đường bồ đề. A-nan, nếu ông dạy chúng sanh tu pháp
tam-ma-đề trước hết phải đoạn dục vọng trong tự tâm. Ấy gọi là lời dạy rõ ràng
thanh tịnh, quyết định thứ nhất của các đức Như Lai, Phật, Thế Tôn. Thế nên
A-nan, nếu không đoạn lòng ái nhiễm, tà hạnh mà tu thiền định thì cũng như nấu
cát, nấu đá mà muốn thành cơm. Dẫu trải qua trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là cát
nóng, đá nóng. Vì cớ sao? Vì đó là giống cát, giống đá, không phải là bản nhân
của cơm vậy.
Ông đem thân tâm cầu diệu quả
của Phật, dầu được diệu ngộ cũng chỉ là gốc dục vọng, cỗi gốc đã thành dâm thì
phải trôi lăn trong tam đồ, chắc không ra khỏi, còn đường nào tu chứng niết
bàn. Chắc phải khiến cho thân tâm đều đoạn hết giống ái nhiễm cho đến tính đoạn
cũng không còn nữa thì mới trông mong chứng quả bồ đề của Phật. Như lời tôi nói
đây, gọi là lời nói của Đức Phật. Không như lời nói đó, tức là lời nói của ma
Ba tuần.”
Ma ba tuần là ma ở trên cõi trời
dục giới hay phá hoại bậc tu hành bằng hình thức hiện mỹ nữ hay dùng danh lợi
để lung lay chí nguyện người tu hành.
9. THỦ
Tâm đã có thủ chấp, yêu ghét đã
quyết định thì hăng hái tạo nghiệp, nên Phật dạy vẽ một người đang cố vươn mình
lên để hái trái (có thể quả độc hay lành), không biết xả đi để tìm an vui tinh
thần.
Bởi lòng tham ái càng ngày càng
thấm, càng nhiều nên bôn ba theo đuổi tìm kiếm khắp nơi, giáp xứ để tiến thủ
lấy công việc làm ăn, ở và lo bảo thủ lấy tên tuổi công danh, sự nghiệp, người
thương… nên nói ái duyên thủ. Hễ yêu muốn sự chi thì nó chuyền leo đến để bám
giữ. Ái và thủ thuộc hoặc.
Con người là năm thủ uẩn (sắc,
thọ, tưởng, hành và thức) nghĩa là có thói quen tự cột chặt vào năm uẩn. Bao
nhiêu tập khí vô minh đều nhận là tôi: thân tôi, tôi khổ, tôi vui, tôi ưa
thích, tôi nóng tánh… nên cứ bị kích thích, tạo nghiệp. Gốc khổ không phải ở
năm uẩn mà ở chỗ cứ vơ lấy năm uẩn nhận là mình. Nếu giác tỉnh, bình tĩnh, sáng
suốt, không thủ chấp thì năm thứ mê này sẽ tan dần. Muốn tỉnh giác phải vâng
theo lời Phật, tu các pháp quán: sắc ấm là kiên cố vọng tưởng, thọ ấm là hư
minh vọng tưởng, tưởng là dung thông vọng tưởng, hành ấm là u uẩn vọng tưởng và
thức ấm là vi tế tinh tưởng.
10. HỮU
Hễ có thủ chấp liền tạo nghiệp
nên vẽ một thiếu phụ mang thai (tạo nghiệp là gieo vào tạng thức một cái nhân để
ngày mai có quả báo trong sáu nẽo luân hồi, như cái thai là nhân sau này có hài
nhi).
Giữ năm giới là nhân sanh về cõi
người. 10 thiện là lên cõi trời. Có thêm thiền định thì lên sắc và vô sắc giới.
Tất cả những hành vi thiện lành mà không có trí tuệ Bát Nhã soi sáng, đều có
một năng lực tiềm ẩn để trổ quả trong tương lai, kéo dài hành trình sanh tử,
nghĩa là khi chúng ta làm một Phật sự hay phước thiện gì mà không quán tam luân
không tịch (ta không, người không và sự bố thí là không) hay quán đây diệu dụng
để trang nghiêm biển phước bồ đề mà thường chúng ta muốn hưởng quả của việc thí
đó, thì chúng ta sẽ được quả, do đó chúng ta cứ đi lên để hưởng phước thiện ở
cõi trời, người và a-tu-la, nhưng cũng có khi đi xuống để đền nợ, trả oán, chịu
quả ở cõi địa ngục, ngạ quỷ và bàng sanh, do đó bánh xe luân hồi lăn hoài từ vô
thủy (không chỗ bắt đầu) mà không gián đoạn đến vô chung (không chỗ kết thúc).
11. SANH
Vẽ đứa trẻ sơ sanh từ bụng mẹ
sanh ra. Đã có thân hình ắt có sợ hãi, có già bịnh. Đây là một ổ phiền não. Đây
là nguồn gốc của tất cả khổ đau.
Vũ trụ là một cơ thể sống thống
nhất với nhau, trong đó mọi vật thể đều dường như có một sức sống thầm kín ẩn
dấu bên trong dù đó là chất hữu cơ hay vô cơ (hữu tình hay vô tình).
Tất cả đều theo quy trình sanh,
trụ, dị và diệt. Ngay cả sự hủy diệt của một hành tinh, cũng chỉ là sự sinh hoá
kế tiếp theo sau của vũ trụ. Ngay cả một chiếc lá vàng rơi rụng, một gốc cây
khô già cỗi, một bô lão nằm xuống… cũng không nằm ngoài tiến trình sống của
nhân loại và vạn hữu. Tất cả đều sống và đều sinh hoá vô tận.
Krishna Murti, nhà văn và triết
gia Ấn độ đã nói rằng: “Sáng nay hoa lá vĩnh viễn, vượt thời gian và tư tưởng,
bao dung tình yêu và niềm vui… Hoa sẽ chết đi chiều nay, nhưng ẩn tàng sự sống.
Cánh hoa nào cũng chết, nhưng chết trong sự sống. Cánh hoa nào cũng sẽ rơi
nhưng rơi trong sự sanh khởi…”
Trong vòng quay của hữu tình và
vô tình, sự sống được biểu hiện rõ nét nhất nơi đời sống của sinh vật qua quá
trình giao phối của hai giao tử đực và cái, nam và nữ, cha và mẹ để cho ra đời
những giống con tiếp tục duy trì chủng loại đó gọi là sanh.
Nếu định nghiệp sắp làm con trai
thì trung ấm thân dấy niệm thương mẹ, nếu là con gái thì dấy niệm thương cha.
Nhơn lòng yêu làm hạt giống, nạp tưởng điên đảo nên thai để gá vào mẹ.
Khi thần thức hoan hỉ với lúc
cha mẹ giao hợp, ba hơi nóng hay điểm này (cha, mẹ, trung ấm) này nhập cục với
nhau như một điểm hồ đặc ở trong tử cung. Thức ấy là tinh thần; tinh cha huyết
mẹ là vật chất. Bấy giờ trong bào thai có ba nguyên tố:
1) Mạng sống có kỳ hạn của thai
sanh;
2) Hơi ấm của ba lửa (cha, mẹ,
thần thức lẫn giữa khối tinh huyết ấy kêu là nhất điểm chơn dương);
3) Thức: tánh biết, tánh Phật mà
khi cuộc vào thân người thì gọi là thức Alaida. Khi đầu thai, thức này đến
trước nhất, rồi lần hồi nảy sanh bảy thức kia.
12. LÃO, BỊNH VÀ TỬ
Chết là cái chắc chắn đến với
mỗi chúng ta, nhưng khi nó đến vẫn mang cho chúng ta một nổi bàng hoàng, một sự
đau buồn to lớn… nhưng dù thế nào đi nữa, nó cũng là một sự cảnh tỉnh chúng ta
rằng mạng sống con người thật ngắn ngủi, không thể đoán trước được và thật mỏng
manh.
Chết là tiếng gọi chung từ tử
thần, là một định nghiệp chung và là mẫu số chung cho tất cả chúng ta.
Chết nhắc cho chúng ta về bản
chất phù du của mạng sống ngắn ngủi, khiến ta phải suy nghĩ lại về mình và
khuyên chúng ta sống có ý nghĩa hơn, đừng lãng phí thời gian theo những theo
đuổi tầm thường, theo những hoạt động vô tích sự, những lời nói sáo rỗng, những
bảo thủ ngu dốt, những sở hữu vật chất tầm thường… vì những cái này kết cuộc
chỉ gây đau khổ cho chúng ta.
Khi linh hồn chúng ta đi ra khỏi
thế giới này thì những sở hữu, những thành tựu, những danh tốt, tiếng thơm đều
trở thành vô dụng, chỉ có bản chất đạo đức con người mới có tồn tại… chỉ có
tính chánh trực, lòng tốt, kiên nhẫn, trí tuệ và sự hy sinh hết lòng vì người
khác là còn mãi. Hãy tu tập những phẩm tánh cao thượng này, thì cái chết đến sẽ
là một sự ra đi nhẹ nhàng, là một sự hoàn thành lớn và không có gì để sợ hãi.
Chết sẽ là sự hoan hỉ nên đánh vang tiếng trống, vui mừng vì ta đã hoàn thành
nhiệm vụ. Sanh tử đã hết, gánh nặng đã đặt xuống, những việc cần làm đã làm
xong. Không còn gì nữa.
Đức Phật dạy đối trị lòng tham
ái xác thân bằng hạnh đầu đà và quán về cái chết (cửu tưởng quán). Tập thấy
mình là một xác chết, một tử thi. Một cô gái trẻ đẹp đi qua kia chỉ là những bộ
xương bọc thịt, phủ một lớp da, xức dầu thơm, bản chất là 32 thể trược đang
chuẩn bị hoá dòi mủn nát trở về với cát bụi.
Niệm thân để đối kháng lại chỗ
thấy biết rất sai của mình.
Cháu đưa đám ông, con đưa đám
cha. Cứ thế nối dòng đào hố vô thường, kiếp kiếp đời đời không thay đổi tri
kiến, không thay đổi lối sống.
Tập thấy cơ thể ta và người chỉ
là những tập hợp vô thường đầy khốn khổ. Do đây giải thoát khỏi những hiểm nguy
của tham ái.
Nghĩ đến cái chết, đến sự hủy
diệt, ta sẽ không quyến luyến cuộc đời. Do đó tâm được hoan hỉ và định tâm. Bởi
biết sự vật đúng chân tướng của nó, ta không bị ràng buộc.
Nếu chúng ta không quán cái chết
và tính tất nhiên của nó, chúng ta sẽ không có sự chuẩn bị, chúng ta sẽ trở nên
mất chánh niệm khi cái chết đến, nhất là đối với người thân trong gia đình, bạn
bè hay chính bản thân chúng ta. Vì vậy, hãy chuẩn bị hành trang tâm lý cho cái
chết thanh bình. Nếu chúng ta để đời sống của chúng ta chạy theo vật chất thì
chúng ta sẽ chết trong lo âu và tiếc nuối. Ngược lại, nếu chúng ta sống hết
lòng phục vụ mọi người với tấm lòng từ bi thì chúng ta có thể chết với tâm an
ổn, hạnh phúc. Thế nên phương pháp tốt nhất chuẩn bị cho sự chết là hãy sống
một đời sống tận tụy phục vụ con người với trọn vẹn lòng yêu thương của mình.
Phần đông chúng ta bị nghiệp và
các thứ cảm xúc ngăn che không cho thấy bản tánh. Những hành nghiệp tiếp tục
trói buộc chúng ta vào vòng sanh tử không cùng tận. Bởi thế mọi sự đang bấp
bênh, tùy thuộc cách ta đang sống, suy nghĩ ngay giờ phút này. Nếp sống hiện
tại của ta có ảnh hưởng đến suốt kiếp vị lai.
Đó là lý do cấp thiết khiến ta
phải chuẩn bị con đường của mình với thái độ thông minh. Cần tránh thảm kịch
quay tròn trong 12 nhân duyên khổ nhọc. Kiếp sống này là thời gian và nơi chốn
duy nhất cho ta chuẩn bị. Ta chỉ có thể thực sự chuẩn bị bằng cách trở về chân
tâm. Tổ Liên Hoa dạy: ‘Đời người ngắn ngủi, đâu có thời giờ để tâm lang thang. Cần
thầy nghe quán tưởng không xao lãng để cầu giác ngộ. Có ba dụng cụ là văn, tư,
tu có thể giúp chúng ta thấy được sự thật ta là ai và thể hiện niềm vui giải
thoát gọi là trí vô ngã.’
Sống và chết là một chuyển tiếp.
Đức Phật không can thiệp vào đường đi của nghiệp lực. Đức Phật chỉ giảng về cơ
cấu và tác động của nó. Nguồn gốc của tái sanh là tham sân si. Mà tham sân si
được vẽ trên nền xanh hư vọng nghĩa là huyễn hóa không có, vì thế nhà thiền gọi
là không gốc:
“Vốn từ
không gốc,
Từ không mà đến,
Lại từ không mà đi,
Ta vốn không đến đi,
Tử sanh làm gì lụy.” (15)
“Sanh từ
chỗ nào đến?
Chết sẽ đi nơi nào,
Biết được chỗ đi đến,
Mới gọi người học đạo.” (16)
Đức Phật dạy chúng ta có năm
pháp bất định là:
- Mạng sống bất định: mạng sống là tuổi thọ,
chất ấm, thức thứ tám duy trì mạng căn, là năm uẩn, là sáu căn, sáu thức
hoạt động… Nó bất định vì chúng ta không biết khởi thủy của nó khi nào và
chung cuộc khi nào. Nó không chủ thể, nó muốn không sinh hoạt nữa thì
không sinh hoạt nữa gọi là mạng sống đã dừng.
- Bịnh tật bất định: do vi khuẩn nhập và theo
đạo Phật là tứ đại khi hoà, khi không hoà, khiến cho thân thể khi khoẻ,
khi bịnh bất định.
- Thời gian bất định: thời gian là sự biến dịch
và vận hành thay đổi, ngày đêm sáng tối, quá khứ, hiện tại và vị lai không
dừng và không định lại một chỗ.
Thời gian như ngựa ruỗi. Trần
thế như mây mờ. Đức phật biết tiết kiệm tối đa dù chỉ một phút, vì chết có thể
đến bất cứ lúc nào. Đối với người hiểu đạo thì thời gian là phương thuốc nhiệm
mầu để cảnh tỉnh vô thường, bồi dưỡng, tẩm bổ trí tuệ và kết quả hoa hương.
- Chết bất định: muốn chết là chết không theo ý
mình cho nên bất định. Có khi thật trẻ, có khi trung niên và có khi già
mới chết. Có khi do bịnh mà chết, do tai nạn và có khi không có nguyên
nhân gì cả cũng ngã lăn đùng ra chết. Chúng ta sanh một nơi, trú một nơi
hay nhiều nơi và chết thường khó định là nơi nào? Có thể là núi rừng hoang
vắng, cao nguyên lộng gió, đại lộ xe cộ, sông suối biển khơi, nơi chôn
nhau cắt rốn, mồ mả tổ tiên, chùa chiền tự viện…
Chết là sự gián đoạn một kiếp
người, gián đoạn của một hơi thở mà hơi thở thì rất mỏng manh.
- Nơi sanh bất định: đây là cảnh giới tái sanh
bất định (chớ không phải bịnh viện chọn để sanh con), là cảnh giới hiện
diện sau khi chết. Chết không phải là hết mà là một gian đoạn chuyển từ
kiếp sống này sang kiếp sống khác. Con người chỉ rời bỏ thể xác này đến
một cảnh giới khác.
Cứ thế mà làm nhân, làm quả
quyện nhau khiến bánh xe quay liên tiếp không dứt. Trong vòng luân hồi cái chết
và sống làm duyên cho nhau. Chết nơi này, sanh nơi khác, chúng sanh có mặt ở
một nơi thì cùng một lúc cũng có một chúng sanh vắng mặt ở một nơi. Có khi chết
sanh lại chỗ cũ cũng có. Muốn biết nghiệp tái sanh của mình hãy nhìn nghiệp
hiện tại của mình.
Mạng sống vốn bấp bênh, thân người luôn bịnh hoạn, thời giờ không ngừng bức
bách, nơi chết lại vô chừng, chỗ tái sanh thì bất định. Hãy sống thu thúc giới
hạnh và thanh tịnh.
13. SƠ ĐỒ 12 NHÂN DUYÊN
Trong 12 nhân duyên, cái nhân
làm duyên cho quả. Quả làm nhân cho duyên, tạo thành xâu chuỗi luân hồi vô tận
mà sự sống và chết từ thiên thu đã không ngừng tái diễn. Nếu chia theo nhân quả
chuyền níu của quá khứ, hiện tại, tương lai và ‘hoặc-nghiệp-khổ’ thì vòng 12
nhân duyên được hiểu như sau:
12 nhân duyên tùy ý đoạn được một cái nào thì các cái kia
đều tan rã.
Hễ nhân đã đoạn thì không còn hạt giống nữa.
Hễ duyên đã đoạn thì không còn cảnh phụ trợ.
Đức Phật kết vòng 12 nhân duyên như sau:
“Hai
pháp có thể biết và phải thông suốt là danh và sắc;
Hai pháp có thể biết và phải tận trừ là vô minh và ái dục;
Hai pháp có thể biết và phải thực tập là giới và định;
Hai pháp có thể biết và phải chứng ngộ là giải thoát và trí tuệ”.
(1) Dhammapala, tr. Ven. Narada
Maha Thera, Maha Bodhi in Sarnath, 2000, (versse) kệ số 1.
(2) Dhammapala, (versse) kệ số
2.
(3) Xem Web:
www.buddhismtoday.com, phần 22b
(4) Dhammapala, (versse) kệ số
80.
(5) Nt, tr. 354-7.
(6) Dhammapala, câu 201.
(7) Dhammapala, tr. Ven. Narada
Maha Thera, Maha Bodhi in Sarnath, 2000, (versse) câu 344.
(8) Nt, câu 336.
(9) Nt, câu 40.
(10) Nt, câu 349.
(11) Nt, câu 211.
(12) Nt, câu 214.
(13) Nt, câu 218.
(14) Kinh Lăng Nghiêm, tr. 53-5.
(15) Thiền sư Như Trừng Lân
Giác.
(16) Thiền sư Hương Hải.