- Những Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo
- Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
6
ÐỨC
PHẬT
Hòa
Thượng Narada Mahathera
Ðức Phật là một chúng sanh độc
nhất vô nhị. Ngài là nhà tư tưởng sâu xa nhất, diễn giả có tài
thuyết
phục nhất, người làm việc đầy nghị lực nhất, nhà cách mạng thành
công nhất, một vị đạo sư hết sức từ bi và khoan dung, người quản
lý
hành chánh có năng lực nhất. Ðặc tính trứ danh nhất của Ngài là sự
thanh tịnh tuyệt đối và thánh tính toàn hảo. Ngài hết sức thanh
tịnh
và hết sức thánh thiện khiến người ta gọi Ngài "Bậc Thánh Thiện
nhất trong các Bậc Thánh" Ngài là gương mẫu toàn vẹn của tất cả
các đức hạnh. Ngài thuyết giảng không bao giờ Ngài tỏ ra giới hạnh
yếu
kém. Người nào đã tiếp xúc với Ngài đều phải công nhận sự vĩ đại
không thể nghĩ bàn và đều bị ảnh hưởng sâu xa bởi cá tính có sức
lôi cuốn như nam châm của Ngài. Thiện chí, trí tuệ, từ bi, phục
vụ, từ
bỏ thế tục, cuộc đời gương mẫu, phương pháp không thể chê trách
dùng trong việc truyền bá giáo pháp, và sự thành công cuối cùng
của
Ngài - tất cả những yếu tố trên đây đã góp phần tôn vinh Ðức Phật
bậc Ðạo Sư vĩ đại nhất.
Ðức Phật
là nhà truyền giáo đầu tiên tích cực nhất trên thế giới. Ngài đi
hết
chỗ này đến chỗ kia trong 45 năm dài để thuyết giảng cho đại chúng
và giới trí thức. Cho đến giờ phút cuối cùng, Ngài phục vụ nhân
loại
cả về gương mẫu lẫn giới luật. Những đệ tử xuất sắc của Ngài
theo gương Ngài. Không một đồng xu dính túi, những đệ tử này đã đi
tới
miền đất xa xăm để truyền bá giáo Pháp, không mong được đền đáp
gì.
"Hãy
tinh tấn lên các con" đó là lời nói cuối cùng của Ðức Phật.
Giải thoát và thanh tịnh không thể đạt được nếu không có nỗ lực
cá nhân. Những lời cầu nguyện xin can thiệp hộ bị phản đối kịch
liệt
trong Phật Giáo, thay vì cầu nguyện là thiền định dẫn đến tự kiềm
chế, thanh tịnh và giác ngộ. Mục tiêu sứ mạng của Ðức Phật là để
cứu chúng sanh thoát khổ đau bằng cách diệt trừ nguyên nhân gây ra
và chỉ
dạy phương cách chấm dứt sanh tử nếu ai mong muốn. Tuy nhiên, Ðức
Phật
cũng dẫn giải chi tiết trong nhũng bài thuyết pháp hướng về sự
tiến bộ
thế giới. Cả hai sự tiến bộ vật chất lẫn tinh thần đều cần thiết
cho việc phát triển một quốc gia có tư tưởng chủ nghĩa vật chất
trên
thế giới. Ta không nên tách rời cái này với cái kia, và cũng chẳng
nên
chỉ hoàn tất tiến bộ vật chất bằng cách hy sinh tiến bộ tinh thần
như
chúng ta thấy ngày nay ở một số quốc gia duy vật chủ nghĩa trên
thế giới.
Pandit Nehru
thường nhắc đến Ðức Phật như người con vĩ đại nhất của Ấn Ðộ.
Tiến Sĩ S. Radhakrishman, một nhà lãnh đạo và triết gia Ấn, tán
thán Ðức
Phật với những lời sau: "Nơi Ðức Phật Cồ Ðàm chúng ta thấy trí
tuệ bậc thầy từ Phương Ðông khoâng thua kém ai về ảnh hưởng
đối
với tư tưởng và đời sống của loài người, và thiêng liêng đối với
tất cả là người khai sáng ra truyền thống tôn giáo mà ảnh hưởng
sâu
rộng hầu như không thua kém bất cứ tôn giáo nào khác. Ngài thuộc
về lịch
sử tư tưởng thế giới, là gia tài chung cho tất cả những người có
văn
hóa, xét bằng tri thức chính trực, tinh thần nghiêm chỉnh và tuệ
giác,
chắc chắn Ðức Phật là một trong những nhân vật vĩ đại nhất trong
lịch
sử."
Trong cuốn
"Ba nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử", sử gia H.G. Wells viết:
"Nơi Ðức
Phật, các bạn thấy rõ Ngài là một nhân vật đơn giản, chân thành,
lẻ
loi, phấn đấu cho ánh sáng, một nhân vật sống chứ không phải thần
thoại.
Ngài cũng có bức thông điệp gửi cho nhân loại hoàn vũ. Nhiều những
tư
tưởng tuyệt diệu hiện đại của chúng ta rất gần gũi tương đồng với
thông điệp của Ngài. Tất cả những đau khổ, bất mãn trong cuộc
sống,
theo Ngài dạy, là do lòng ích kỷ. Con người trước khi có thể trở
nên
thanh tịnh, người đó ph?i ngưng sống theo giác quan hoặc cho riêng
chính
mình. Rồi người đó mới trở thành một đại nhân. Nói một cách khác,
Ðức Phật kêu gọi lòng vị tha của con người năm trăm năm trước Chúa
Christ. Trong một số phương diện, Ngài rất gần gũi với chúng ta,
và nhu
cầu của chúng ta hơn. Ngài cũng tỏ ra sáng suốt hơn Chúa Christ
trong sự
quan tâm phục vụ và hy sinh cho con người và ít mơ hồ hơn đối với
vấn
đề trường tồn bất tử của kiếp nhân sinh."
Ðức Phật
quả thực là một người nhưng là một người phi thường. Ngài không
phải
sinh ra là một Ðức Phật nhưng Ngài tự phấn đấu rồi thành Phật.
Ngài
nhận thức được khả năng tiềm ẩn và năng lực sáng tạo của con người
mà không tự đề cao Ngài như thánh thần, khuyên dạy tín đồ tích cực
noi gương Ngài, vì Phật tính tiềm ẩn ở tất cả mọi người.
Ðức Phật
được tôn thờ như một đạo sư tinh thần tối thượng, nhưng không bao
giờ muốn được sùng bái như một thượng đế mong muốn đặc ân trần
tục hay tinh thần. Ðức Phật không để lại một dấu hiệu gì, hay bất
cứ gì để những tín đồ thuần thành có thể bám víu vào để suy tôn
Ngài như thần thánh. Tuy nhiên, phải công nhận rằng không có một
vị đạo
sư nào lại "quá vô thần và hữu thần như Ðức Phật", Bertrand
Russell gọi Ngài một cách đứng đắn là "Người theo thuyết vô thần
vĩ đại ở mọi thời đại".
Nhưng vô thần
đây không được hiểu lầm là đồng nghĩa với không tín ngưỡng. Muốn
có hòa bình và hạnh phúc thực sự trong nhân loại, thức tỉnh tôn
giáo
chân thành là hết sức cần trong thế giới đạo đức lụn bại này. Ðiều
quan trọng là không đặt niềm tin vào tín điều hay chỉ tuân hành
nghi thức
và lễ lạc, mà mà là đem lợi ích thực sự cho quần chúng, một cuộc
sống
tình thương lành mạnh, hữu ích, lẽ phải và công bằng căn cứ vào
những
nguyên tắc cao thượng của các đạo sư đáng kính.
Giáo Sư
Joad tuyên bố: "Vào thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên, tại Ấn Ðộ
và Trung Hoa, xuất hiện ba vị thầy vĩ đại, các vị này đã làm cho
con
người hiểu biết điều quan trọng chính đáng phải làm để tự cứu dù
có Thượng Ðế hay không có Thượng Ðế; trong ba vị ấy người quan
trọng
nhất là Ðức Phật Cồ Ðàm."
Ðức Phật
nhấn mạnh sự quan trọng của giới hạnh như phương tiện đi tới mục
đích. Ngài khuyên nên tu tập chánh tư duy về lòng vị tha, từ ái,
tính
không làm hại; chánh ngữ để có thể kiểm soát giọng lưỡi tác hại
của
mình; chánh nghiệp bằng cách kìm hãm không giết người hay muông
thú;
không trộm cắp trực tiếp hay gián tiếp, không tà dâm; và chánh
mạng là
thoát khỏi sự bóc lột và biển thủ hoặc bằng bất cứ phương tiện gì
bất hợp pháp để thủ đắc của cải hay tài sản. Những dạng thức
này hình thành nền tảng của giới hạnh.
Ðức Phật
truyền đạt thông điệp cao quý của Ngài về phục vụ vị tha, giới
hạnh
và lòng từ ái vô bờ bến không những đến cho các vua, hoàng tử, nhà
quý phái và người triệu phú, mà cũng cho người nghèo, người cùng
đinh
và thiếu thốn. Ngài giúp cơ hội đồng đ?u cho tất cả mọi người và
nâng cao địa vị con người. Ngài tuyên bố con đường đi đến phát
triển
tinh thần mở rộng cho tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh cuộc
sống,
sang hay hèn, thánh nhân hay tội lỗi, bất cứ ai muốn cải tà qui
chính và
tìm sự toàn bích.
Thường nhật
Ngài thuyết giảng cho cả các thầy tu và cư sĩ. Ðiều mà Ngài dạy
chỉ
là một phần nhỏ nhoi của những điều mà ngài biết. Trong một dịp,
Ngài cầm một nắm lá trong tay, và so sánh những điều Ngài giảng
dạy chỉ
như những lá trong tay; những điều Ngài không giảng dạy nhiều như
lá
trong rừng. Ngài chỉ dạy điều cần thiết cho sự giải thoát của
chúng
ta.
Thường lệ
hàng ngày, Ngài nhằm vào người cần đến sự giúp đỡ của Ngài; Ngài
chỉ dẫn, cổ vũ các đệ tử đã quy y tụ tập để nghe Ngài giảng,
Ngài trình bày chi tiết pháp đến cả chư thiên. Ngày dạy Pháp cho
quần
chúng, cho những nhà trí thức. Lời Ngài dạy như sữa cho em nhỏ và
như
thịt cho người lớn. Trước khi thuyết giảng, Ngài thấy rõ người đói
cần được ăn, thực phẩm cần thiết cho cơ thể thì pháp cũng cần
thiết
cho tâm. Ngài săn sóc người bệnh bằng chính bàn tay Ngài, Ngài
tuyên bố:
"Ai săn sóc người bệnh, người đó săn sóc Như Lai" .
Ðức Phật
thiết lập một xã hội không giai cấp bằng cách mở cửa Ðoàn Thể Tăng
Già cho bất kỳ cá nhân nào muốn gia nhập không phân biệt giai cấp
hay đẳng
cấp xã hội. Chỉ có sự phân biệt là sự thâm niên của sa di (samanera),
tỳ kheo (bhikkhus), mahathera (tỳ kheo đã có 20 tuổi
đạo) và sự
đạt được bốn quả vị thánh (tu đa hoàn, tư dà hàm, a na hàm, a la
hán). Sự thành lập Ðoàn Thể Tăng Già trên căn bản là dân chủ. Về
phương
diện này, (Hầu Tước, Phó Vương Ấn Ðộ) Lord Zetland tuyên bố: "Có
thể là một điều ngạc nhiên cho nhiều người biết rằng trong các
cuộc
Hội Nghị của Phật Giáo tại Ấn từ trên 2500 năm qua, người ta đã
thấy
những hoạt động giống như ngày nay của chúng ta thực thi tại nghị
trường".
Cũng giống
như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử, Ðức Phật thành lập đoàn thể
ni giới cho phụ nữ bất chấp đẳng cấp hay giai cấp xã hội. Ngài cho
phụ
nữ bình đẳng để phát triển tinh thần.
Cũng được
biết Ðức Phật là người đầu tiên trong lịch sử bãi bỏ chế độ nô
lệ bằng cách tiến dẫn khái niệm tình huynh đệ và phẩm giá con
người.
Ðức Phật thuyết giảng chống lại sự hiến tế các súc vật bất hạnh
làm lễ vật, và đem chúng vào trong phạm vi của lòng từ ái. Người
Phật
Tử thuần thành đem lòng từ ái tới mọi chúng sanh, không phân biệt
trong
bất cứ trường hợp nào.
Chính lòng
từ ái hình thành cơ sở cho tình huynh đệ giữa các quốc gia, giữa
các
tôn giáo, phá vỡ hàng rào ngăn cách quốc gia này với quốc gia kia,
xu hướng
tôn giáo này với xu hướng tôn giáo kia. Nếu những tín đồ của những
tín
ngưỡng khác nhau không cùng chung một cương lĩnh coi nhau như anh
chị em
đơn giản chỉ vì họ không cùng một tôn giáo, chắc chắn các vị đạo
sư cao quý đã thất bại trong sứ mạng cao cả vì chính nghĩa cho
nhân loại.
Ðức Phật
hết sức khoan dung, bất khoan dung là kẻ thù lớn nhất của tôn
giáo. Cho
nên Ðức Phật khuyên các đệ tử không nên giận dữ, bất mãn hay không
vừa lòng khi các người khác nói xấu Ngài, giáo pháp của Ngài hay
các
nhà sư. "Nếu bạn tỏ ra bất bình" Ngài nói " Không những bạn
tự mang bạn đến nguy hiểm mất tinh thần mà bạn còn không thể suy
xét
những người ấy nói đúng hay sai". "Một cảm nghĩ giác ngộ nhất,
cả đến sau 2500 năm của sự giác ngộ", Tiến Sĩ Radhakrishnan nói
như
trên.
Ðức Phật
giải thích không có tín điều nào mà ta phải mù quáng tin theo,
không có
tín điều hay tín ngưỡng nào mà ta phải chấp nhận mà không suy
luận,
không có nghi thức hay các cuộc lễ dị đoan bắt ta phải gia nhập
vào
nhóm người cùng chung niềm tin, và không có sự hiến tế và sự hành
xác
vô nghĩa cho ai muốn thanh tịnh hóa. Ðức Phật trình bày chân lý
đơn giản
cho quần chúng và lời dạy triết lý sâu xa cho người trí thức. Ngài
khuyên những người đi tìm chân lý không nên chấp nhận bất cứ điều
gì
do thế lực hay lý do gì khác mà phải tự mình suy luận và phán xét
điều
đó đúng hay sai.
Trên chặng
đường hòa bình hoằng truyền giáo pháp của Ngài từ 2500 năm qua,
không một
giọt máu đổ trong việc truyền bá giáo pháp, và không một ép buộc
đổi
đạo bằng sức mạnh hay những phương pháp ghê tởm. Quả thực Ðức Phật
là một nhà truyền giáo thứ nhất và vĩ đại đã từng sống trên trái
đất này.
Giáo lý tuyệt
vời của Ðức Phật đã lan tỏa và vẫn đang kiến tạo hòa bình trên
đường đi vào ngày càng nhiều các quốc gia trên thế giới do tính
cách hữu
lý, khả thi, hữu hiệu, không quá khích, bao dung và đại chúng.
Phật pháp
đóng góp to lớn vào sự tiến bộ văn hóa của nhiều quốc gia Á Châu.
Tóm lại, tất cả những quốc gia Phật Giáo lớn mạnh trong cái nôi
Ðạo
Phật.
Những quốc
gia hình thành và tan rã, những đế chế thế lực hùng mạnh đã thịnh
vượng
rồi lụi tàn, nhưng đế chế của giáo pháp thành lập bởi Ðức Phật
trên tình thương yêu, từ bi, và lẽ phải, vẫn thăng hoa và sẽ tiếp
tục
thăng hoa.
7
NHỮNG
ÐỨC HẠNH LÝ TƯỞNG CỦA ÐỨC PHẬT
Hòa
Thượng Tiến Sĩ K.
Sri Dhammananda
Ðức Phật là hiện thân của tất
các đức hạnh lý tưởng. Ở nơi Ngài ta thấy sự hiện thân của luân
lý cao nhất (giới), tập trung sâu xa nhất (thiền định) và trí tuệ
thâm
sâu (huệ) - những đức tính không ai vượt qua được và không sánh
được
trong lịch sử loài người. Những đức tính cao cả ghi trong các
kinh, những
bài thuyết giảng của Ðức Phật.
Phật Tử
trên khắp thế giới tụng niệm và hành trì chín đức hạnh tối thượng
ghi trong hệ thức tiếng Pali, trong việc tu tập hàng ngày. Mặc dù
Ðức Phật
có nhiều những đức tính cao thượng khác, ở đây trong hệ thức này,
chỉ
chín điều được lấy ra. Không phải là không kể đến tại một số
trường phái Phật Giáo, các tín đồ đã tiến dẫn một số Ðức Phật
ám chỉ một số đức tính vĩ đại của Ðức Phật. Tuy nhiên dù cách thức
giới thiệu Ðức Phật ra sao, thực tế tất cả các Ðức Phật lịch sử
thỉnh thoảng xuất hiện trên thế giới này, đều thấm nhuần những đức
hạnh ấy, cùng với sự giác ngộ giống nhau. Cho nên không có sự khác
biệt
gì phải tôn kính bất cứ Ðức Phật đặc biệt nào, nếu Ðức Phật
được chọn là một Ðức Phật thực sự. Vì vậy cho nên không có một
lý lẽ gì cho rằng Ðức Phật này thần thông hay cao hơn Ðức Phật
kia.
Những câu
kệ sau đây bằng tiếng Pali, nêu lên những đức hạnh thực chất bên
trong của Ðức Phật mà người Phật Tử trì tụng khi họ vinh danh Ðức
Phật:
"Itipi
So Bhagava Araham Samma-Sambuddho
Vijja-Carana-Sampanno Sugato Lokavidu
Anuffaro Purisa Damma-Sarathi Sattha Deva-
Manussanam Buddho Bhagavathi"
Sự trung thực
của câu kệ này không thể nghi ngờ vì nó bắt nguồn từ nhiều bản
kinh
quan trọng trong Tam Tạng Kinh Ðiển theo qui chuẩn Phật Giáo đã
xác nhận
cũng như từ nơi bốn mươi phương pháp thiền định tư duy về những
Ðức
Hạnh của Ðức Phật.
Chuyển ngữ
ngắn gọn từ tiếng Pali như sau:
Araham
- Ứng Cúng (bậc đáng được nhận sự cúng dường của Người và Chư Tiên
vì dứt hết phiền não), Samma Sambuddhdho - Chánh Biến Tri
(bậc biết
hết tất cả pháp); Vijjacarana Sampanno - Minh Hạnh Túc (bậc
có đủ
trí tuệ và đức hạnh); Sugato - Thiện Thệ (đã làm xong các
hạnh
lành, trên đường đi đến Niết Bàn); Lokavidu - Thế Gian Giải
(bậc
hiểu rõ kiến thức thế gian); Anuttaro Purisadamma-Sarathi -
Vô Thượng
Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu (bậc cao hơn hết trong hạng chúng sanh
thống trị
lấy mình như bậc trượng phu cầm cương ngựa đi vào đường lành); Sattha-Deva-Manussanam
- Thiên Nhân Sư (bậc đạo sư của hàng người và hàng Chư Thiên,
dạy
việc nên làm và việc chẳng nên làm); Buddho - Phật (bậc
giác ngộ
hoàn toàn); Bhagavathi - Thế tôn (bậc cao hơn hết trong cõi
thế, được
tất cả cõi thế, tất cả chúng sanh tôn trọng)
1- Araham
- Ứng Cúng
Ðức Phật
miêu tả một Vị Ứng Cúng có năm phương diện chính:
* đã loại
bỏ tất cả ô trược;
* đã tiêu diệt được tất cả những kẻ thù liên quan đến việc loại
bỏ các ô trược;
* đã tiêu diệt được những nan hoa chống đỡ bánh xe cuộc sống
(thăng
trầm cuộc đời);
* đáng được lãnh sự cúng dường và tôn vinh;
* không giữ bí mật đặc tính cũng như giáo lý của mình.
Ðức Phật
là nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử loài người, với một cuôc đời
toàn bích, không hề sai lầm, không thể chê trách và không tỳ vết.
Dưới
cội cây bồ đề Ngài chiến thắng tất cả ma vương và đạt được thánh
quả ở bậc cao nhất. Ngài chấm dứt tất cả khổ đau, đạt Niết Bàn.
Ngài là nhân vật được toàn thế giới vinh danh và tôn kính trên mọi
phương
diện. Giáo lý của Ngài không chứa đựng huyền bí hay bí mật, giống
như
một cuốn sách mở cho tất cả ai muốn đến xem.
2.
Samma-Sambuddho - Chánh Biến Tri
Ðức Phật
được gọi là Chánh Biến Tri vì Ngài thấu rõ cuộc sống trên thế giới
với viễn cảnh xác đáng, và Ngài đã khám phá ra Tứ Diệu Ðế do sự
thấu
triệt của Ngài. Sinh ra là một hoàng tử, Ngài đã từ bỏ trần tục và
phấn đấu trong sáu năm dài tìm giác ngộ. Trong thời gian ấy, Ngài
đã
tìm đến tất cả những đạo sư nổi tiếng, Ngài đã tu tập tất cả những
phương pháp của các đạo sư này. Ngài đã đạt được tất cả và ngang
hàng với các vị thầy của Ngài, nhưng vẫn không tìm ra được ánh
sánh
giác ngộ. Cuối cùng, căn cứ vào sự tìm tòi hiểu biết một cách hữu
lý, và bước vào con đường trung đạo, khởi đi từ phương cách truyền
thống về niềm tin đạo lý nổi tiếng này cùng những sự tu tập, Ngài
tìm ra giải pháp cuối cùng cho những vấn đề chung vềà bất toại
nguyện,
mâu thuẫn và bất mãn (Khổ) trên hoàn vũ. Ngài khám phá ra Luật
Duyên Khởi-
Luật Nhân Quả, do những định luật này, Ngài tìm ra sự thật trần
thế
và trở thành bậc Ðại Giác.
3.
Vijja-Carana Sampanno - Minh Hạnh Túc
Cụm từ ngữ
'Minh Hạnh Túc' có nghĩa là Ðức Phật được thiên phú với một cái
nhìn rõ ràng toàn hảo và một tư cách đạo đức gương mẫu. Hai khía
cạnh
có ý nghĩa được thấy trong ba đẳng kiến thức và tám đẳng trí tuệ.
Ba đẳng kiến thức ấy là:
* Thứ nhất,
Ðức Phật có thể nhớ lại những lần sanh trong quá khứ và có thể
nhìn lại kiếp trước của Ngài và của người khác.
* Thứ hai,
ngoài việc có thể ôn lại quá khứ, Ngài có một sức nhìn độc đáo là
có thể nhìn thấy tương lai và hình dung được tất cả vũ trụ bất cứ
trong một khoảnh khắc nào.
* Thứ ba,
Ngài có kiến thức sâu xa về thánh tính (tứ quả thanh văn)
Về tám đẳng
trí tuệ, Ðức Phật duy nhất thiên phú bởi tuệ giác, thần thông thi
hành kỳ công, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, và nhiều thần thông
vật
lý, khả năng nhớ lại những lần sanh trong quá khứ, thiên nhãn
thông, và
kiến thức nhạy bén về cuộc đời thanh tịnh thánh tính.
Về chữ
"Carana" hay tư cách đạo đức, phương diện này được chia
thành mười lăm loại hay loại đức hạnh thấm nhuần tràn đầy nơi Ðức
Phật. Những đức hạnh khác cộng thêm vào được xếp loại như kiềm chế
hành động và lời nói, kiềm chế trong sự miệt mài tác động giác
quan,
điều độ trong việc dùng thực phẩm, tránh ngủ quá nhiều, giữ niềm
tin trong sáng, biết xấu hổ khi phạm tội lỗi, biếtù sợ hãi khi
phạm lỗi,
khát vọng kiến thức, nghị lực, chú ý, và hiểu biết bốn xu hướng
gắn
liền với lĩnh vực vật chất - Panna và Karuna phản ảnh như trí tuệ
và
từ bi, cả hai là cặp song sanh cơ bản trong khi karuna cho Ngài
lòng từ bi
phục vụ nhân loại. Do trí tuệ Ngài nhận thức điều gì phải điều gì
trái cho tất cả chúng sanh, và do lòng từ bi Ngài dẫn dắt các tín
đồ
khỏi tội lỗi và lầm than. Những đức tính vĩ đại của Ngài đã khiến
Ngài làm cho Ngài có khả năng đem tình huynh đệ và đức tính tốt
thực
sự mưa móc cho tất cả chúng sanh với mức độ tột cùng.
4. Sugato
- Thiện Thệ
Ðức Phật
cũng được gọi là Ðấng Thiện Thệ có nghĩa con đường của Ngài là
tốt,
nói đến là thượng hạng, lời nói và phương pháp sử dụng là con
đường
rất hòa hài và không thể chê trách. Con đường đạt hạnh phúc chính
đáng
là thanh tịnh đứng đắn, không cong queo, thẳng thắn và chắc chắn.
Lời dạy của
Ngài tuyệt vời không thể sai lầm được. Nhiều sử gia nổi tiếng và
khoa học gia vĩ đại đã phẩm bình giáo lý duy nhất đứng vững không
bị
thách thức bởi khoa học và các nhà tự do tư tưởng là lời dạy của
Ðức
Phật.
5.
Lokavidu - Thế Gian Giải
Thuật ngữ
Lokavidu (Thế Gian Giải) sử dụng với Ðức Phật như một người
có
kiến thức thế giới tuyệt vời. Bậc Ðại Ðạo Sư có kinh nghiệm, hiểu
biết thâm sâu tất cả khía cạnh của cuộc đời cả về vật chất lẫn
tinh thần. Ngài là người đầu tiên nhận xét có hàng ngàn hệ thống
thế
giới trong vũ trụ. Ngài là người đầu tiên tuyên bố thế giới chẳng
là gì cả mà chỉ là thế giới khái niệm. Theo lời Ngài, việc ức đoán
nguồn gốc và nơi tận cùng của thế giới hay vũ trụ coi như vô
nghĩa.
Theo quan điểm của Ngài, nguồn gốc thế giới, sự tận cùng và con
đường
đi đến tận cùng sẽ tìm thấy trong phạm vi chiều sâu có thể hiểu
được-
xác thân dài (một sải)- con người với nhận thức và ý thức.
6.
Anuttaro Purisa-Damma-Sarathi - Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu
Anuttaro (Vô
Thượng Sĩ) có nghĩa vô song và không còn ai có thể vượt hơn.
Purisa-damma
nói đến người thiên phú giáo pháp và Sarathi có nghĩa người lãnh
đạo.
Ba từ ngữ này nói lên vị lãnh đạo vô song có khả năng mang con
người
vào con đường chánh đạo. Trong số những người quyết định theo con
đường giáo Pháp và tránh xa tội lỗi có những kẻ giết người khét
tiếng
như Angulimala, Alavaka, Nalagiri, hàng trăm kẻ đạo tặc, ăn thịt
người và
ngoan cố như Saccake. Tất cả những người ấy đều được thấm nhuần
giáo pháp và một số đạt được thánh quả ngay trong đời hiện tiền
của
họ. Ngay cả Devadatta (Ðề Bà Ðạt Ða), kẻ thù không đội trời chung,
cũng vẫn được Ðức Phật cho phục hồi do lòng từ bi vĩ đại của Ngài.
7. Sattha
Deva-Manussanam - Thiên Nhân Sư
Phiên dịch
cụm từ này có nghĩa Ðức Phật là Thầy của trời và người. Ghi nhận
'devas' (Trời) dùng trong phạm vi này tức những chúng sinh, do
những nghiệp
lành, đã vượt qua giai đoạn hàng người nhưng không phải là giai
đoạn
cuối cùng của sự tiến hóa về sinh vật học. Hàng Trời trong văn
cảnh
Phật Giáo không liên quan gì với truyền thuyết thần thoại cổ xưa.
Ðức
Phật là một vị Thầy phi thường linh động có khả năng phân chia một
cách rất kỹ thuật phù hợp các đẳng cấp tinh thần của hàng trời và
hàng người. Ngài dạy mọi người sống theo chánh đạo. Ðức Phật là vị
Ðạo Sư hoàn vũ.
8. Buddho
- Phật
Tính ngữ
đặc biệt Buddho, có vẻ như lập lại lần thứ hai, mặc dù nó
có
ý nghĩa rộng hơn. Buddho có nghĩa Vị Chủ Tể toàn trí toàn
thức,
có những thần thông lạ thường có thể thuyết phục người khác bằng
sự
khám phá to lớn của mình qua nghệ thuật giảng dạy người khác Pháp
của
Ngài. Kỹ thuật của Ngài không có vị đạo sư nào có thể sánh bằng. Buddho
cũng có nghĩa thứ hai là "tỉnh thức" vì trạng thái bình thường
của con người không ngưng ở trong trạng thái sững sờ. Ðức Phật là
người
đầu tiên "tỉnh thức", và giũ sạch trạng thái sững sờ. Rồi
Ngài thuyết phục người khác tỉnh thức, và tránh xa trạng thái mê
mờ
hay sững sờ.
9. Bhagava
- Thế Tôn
Từ ngừ
này dùng để chỉ Ðức Phật, từ 'Buddho' hay 'Bhagava'
dùng
riêng từng chữ hay ghép lại 'Buddho Bhagava' có nghĩa là
'Ðấng Thế
Tôn' ('Ðấng Thiêng Liêng') thường được thông dụng trong dân gian.
Ðáng được
kính sợ và tôn kính, Thế Tôn là danh hiệu của Ngài. Cho nên chữ 'Bhagava'
có nhiều nghĩa như đề nghị của một số phê bình gia. Ðức Phật được
gọi là Ðấng Thế Tôn vì Ngài là người hạnh phúc và may mắn nhất
trong nhân loại đã chiến thắng được ma vương, đã thuyết giảng chi
tiết
Pháp cao nhất và là người thiên phú với khả năng tri thức siêu
nhiên,
siêu phàm.
* * *
Chín Ðức
Tính vĩ đại của Ðức Phật có thể sử dụng làm đề tài cho thiền định
nếu những sự giải thích của mỗi từ ngữ đặc biệt được thận trọng
nghiên cứu kỹ lưỡng và mục đích thực sự cùng bản chất được tóm
thâu và thấu triệt. Chỉ lướt qua từng đoạn, không hiểu thấu hoàn
toàn không thể coi như hữu hiệu dù cho có sùng đạo. Phương pháp
tốt nhất
là tụng đi tụng lại đồng thời nắm vững ý nghĩa hoàn toàn của các
sự
bày tỏ ấy. Trong khi làm như vậy, ta cũng nên tập trung vào những
đức tính
có chân giá trị ấy như những đức hạnh thực sự cần được tích cực
noi gương bởi tất cả tín đồ của Ðức Phật.
8
THẾ
NÀO LÀ NGHIỆP?
Hòa
Thượng U. Thittila
Nghiệp, tiếng Pali là Kamma,
có nghĩa là hành động. Tiếng Sanskrit, Nghiệp được gọi là Karma.
Trong nghĩa thông thường Nghiệp có nghĩa tất cả những hành động
tốt
hay xấu. Nó bao trùm tất cả những hành động có dụng ý dù là tinh
thần,
nói năng hay vật chất, tư tưởng, lời nói, và hành vi. Trong nghĩa
chủ yếu
Nghiệp có nghĩa là tất cả những ý muốn đạo đức hay vô đạo đức.
Ðức Phật nói: "Này các tỳ kheo, ý muốn là cái mà ta gọi hành động
tức Nghiệp. Do có ý mà ta hành động thân, khẩu và tư tưởng" (Kinh
Tăng Chi, Anguttara Nikaya III. 415)
Nghiệp chẳng
phải là tiền định mà cũng chảng phải là học thuyết theo số mệnh.
Quá khứ ảnh hưởng hiện tại nhưng không át hẳn, với Nghiệp quá khứ
và hiện tại cũng như nhau. Quá khứ và hiện tại ảnh hưởng tương
lai.
Quá khứ là cái nền dựa vào đấy đời sống tiếp diễn từng khoảnh
khắc.
Tương lai chưa tới. Chỉ có hiện tại và trách nhiệm sử dụng hiện
tại
làm việc thiện hay việc ác nơi từng cá nhân.
Mỗi hành
động phát sanh một hậu quả và đó là nguyên nhân trước và hậu đó
là hậu quả tiếp theo. Cho nên chúng ta nói về Nghiệp tức "luật
nhân quả". Thí dụ, ném một hòn đá là một hành động. Hòn đá đập
vào cửa kính, làm vở kính. Vỡ kính là quả của hành động ném, nhưng
chưa phải là tận cùng. Cửa kính vỡ là nguyên nhân của những việc
xảy
ra sau này. Phải có một số tiền để thay kính, ti?n ấy lẽ ra là để
dành
hay dùng để làm việc khác, và hậu quả đã làm cho ta có cảm giác
thất
vọng. Ðiều này có thể làm cho ta bứt rứt, và nếu không cẩn thận,
bứt
rứt này có thể làm thành nguyên nhân của một việc làm sai khác, và
cứ
thế tiếp tục. Không có sự chấm dứt về những kết quả của hành động,
không có sự chấm dứt của nghiệp, cho nên chúng ta phải hết sức
thận
trọng về hành động của chúng ta, để hậu quả được tốt hơn. Cho nên
rất cần thiết cho chúng ta làm điều lành, hành động có ích sẽ trở
về
chúng ta thành nghiệp lành và làm cho chúng ta đủ sức mạnh để bắt
đầu
một Nghiệp tốt.
Ném một
hòn đá xuống nước và nhìn hiệu quả. Thấy nước tóe lên và những gợn
sóng lăn tăn nổi lên khi mặt nước va chạm với hòn đá. Rồi thấy ra
sao những gợn sóng vòng tròn mới đầu nh? cứ rộng ra mãi, rộng mãi
cho
đến khi mắt ta không thể nhìn theo được nữa. Một viên đá nhỏ nhiễu
loạn nước trong hồ, nhưng việc chưa chấm dứt. Khi những gợn sóng
nhỏ
đến bờ hồ, nước lại quay trở lại tới viên đá đã nhiễu loạn nó.
Những hậu
quả của những hành động trở lại chúng ta như những gợn sóng với
hòn đá, và chừng nào mà ta còn hành động với ác ý, những làn sóng
mới
và hậu quả sẽ trở lại đánh chúng ta và nhiễu loạn chúng ta. Nếu
chúng ta lương thiện và giữ an lạc, những đợt sóng khó khăn quay
về sẽ
càng ngày càng yếu đi cho đến khi chúng tắt và Nghiệp lành sẽ trở
về
với phước lành. Chẳng hạn, nếu chúng ta trồng hạt soài, cây soài
sẽ
mọc lên và mang trái soài, và nếu ta gieo một hạt ớt, cây ớt sẽ
mọc
lên và mang trái ớt.
Ðức Phật
nói:
Trồng nhân
nào thì mang quả nấy
Làm điều thiện, đạt điều tốt
Làm điều ác, gặp ác
Gieo nhân nào, gặt quả nấy. (Samyutta Nikya - Tương Ưng)
Mọi việc
đến thật đúng với chúng ta. Khi điều vui đến và làm chúng ta hạnh
phúc, chắc chắn rằng Nghiệp đến cho thấy chúng ta hành động chính
đáng. Khi
điều bất hạnh đến, làm chúng ta đau, hay làm cho chúng không hạnh
phúc,
Nghiệp đến cho chúng ta thấy lỗi lầm của chúng ta. Chúng ta không
bao giờ
quên Nghiệp lúc nào cũng rất công bằng. Nghiệp chẳng thương mà
cũng chẳng
ghét, chẳng thưởng mà cũng chẳng phạt. Nó cũng chẳng bao giờ giận
dữ,
và cũng chẳng bao giờ làm vừa lòng. Ðơn giản nghiệp là định luật
của
nguyên nhân và hậu quả.
Nghiệp
không biết gì về chúng ta cả. Lửa không biết gì khi đốt cháy chúng
ta
phải không? Không biết gì . Bản chất của lửa là cháy lên để cho
sức
nóng. Nếu chúng ta sử dụng đúng cách, nó cho ta ánh sáng, nấu đồ
ăn
hay đốt đi những gì chúng ta muốn, nhưng nếu chúng ta không sử
dụng đúng
cách, nó sẽ đốt cháy chúng ta và tài sản của chúng ta. Việc của
lửa
là làm cháy lên, và việc của chúng ta là phải sử dụng nó cho đúng.
Chúng ta dại dột nếu chúng ta giận dữ và trách cứ khi bị cháy vì
chúng ta đã lầm lỗi.
Có nhiều bất
bình đẳng và nhiều dị biệt về số phận con người trên thế giới.
Thí dụ có kẻ thấp, người cao. Có kẻ bị chết yểu có kẻ sống lâu
đến tám mươi hay một trăm tuổi. Có kẻ bệnh hoạn và tàn tật, có kẻ
lại tráng kiện và khỏe mạnh. Có kẻ sinh ra trong giàu sang phú
quý, có kẻ
sinh ra trong lầm than. Có kẻ sinh ra là triệu phú, có kẻ lại
nghèo hèn.
Có kẻ là thần đồng có kẻ lại ngu đần.
Tại sao lại
có những sự không đồng đều như thế hiện hữu trên thế giới? Người
Phật Tử không tin những sự chênh lệch như thế là kết quả của sự
ngẫu
nhiên. Chính khoa học cũng chống lại thuyết "ngẫu nhiên", trong
thế
giới khoa học gia, tất cả mọi việc đều do định luật nhân quả chi
phối.
Người Phật Tử cũng chẳng tin những sự chênh lệch trên thế giới là
do Thượng Ðế-Ðấng Sáng Tạo.
Một trong
ba quan điểm khác nhau thịnh hành trong thời Ðức Phật là:
- Dù con người
có kinh qua hạnh phúc hay đau khổ hay cảm tưởng không rõ ràng thì
tất cả
đều do sự sáng tạo của một Vị Trời Tối Thượng, (Gradual Sayings -
Tăng Chi, 1.158). Bình phẩm về quan điểm định mệnh này, Ðức Phật
nói:
"Vậy thì, theo sự sáng tạo của vị Trời Tồi Thượng này, con người
sẽ trở thành kẻ giết người, trôm cắp, dâm ô. nói dối, kẻ vu khống,
lạm dụng, kẻ bép xép, tham lam, hiểm độc, và quan điểm ngoan cố.
Như vậy
những người rơi vào sự sáng tạo của một Thượng Ðế là lý do thiết
yếu, chẳng cần ham muốn làm gì và cũng chẳng cần thiết làm hành vi
này hay tránh hành vi kia.
Nói về những
nhà tu khổ hạnh lõa thể theo cách tự hành xác, Ðức Phật nhận xét:
"Này các Tỳ Kheo, nếu chứng nghiệm đau khổ hay hạnh phúc là do
Thượng
Ðế quyết định, chắc chắn những nhà tu khổ hạnh lõa thể này phải
do một Thượng Ðế ác độc tạo nên vì họ đang chứng nghiệm những sự
đau đớn ghê gớm". (Devadaha Sutta, No 101, Majjihima Nikaya -
Trung Bộ, II,
222).
Theo Phật
Giáo, những sự bất bình đẳng hiện hữu trong thế giới này là do một
phần là do nơi di truyền và môi sinh, và một phần lớn do nguyên
nhân hay
những nguyên nhân (Nghiệp) không chỉ ngay bây giờ, mà còn ở quá
khứ gần
hoặc xa. Chính con người chịu trách nhiệm về hạnh phúc và lầm than
của
mình. Con người tự tạo thiên đường hay địa ngục cho chính mình.
Con người
là chủ tể định mệnh của mình, kết quả của quá khứ và nguồn gốc
của tương lai.
Những
Qui Luật Về Trật Tự Vũ Trụ
Mặc dù Phật
giáo dạy Nghiệp là nguyên nhân chính của các sự bất bình đẳng
trong thế
giới nhưng không dạy thuyết định mệnh hay học thuyết tiền định, và
cũng không giữ quan niệm cho rằng mọi thứ đều do quá khứ. Luật
nguyên
nhân mô tả trong triết lý Phật Giáo, là một trong năm trật tự mà
chính
chúng là luật hành hoạt trong vũ trụ. Chúng là:
1. Utu
Niyama, Luật vật lý vô cơ tức hiện tượng về gió mưa của
mỗi
mùa. Trật tự chính xác về mùa, những thay đổi và biến chuyển theo
đặc
thù của mùa gây ra gió mưa, tính chất nóng bức vân vân, thuộc nhóm
này.
2. Bija
Niyama, Luật về mầm và hạt giống (vật lý hữu cơ) như gạo,
gạo
lấy ra từ thóc, đường từ mía hay mật, đặc tính của một số trái
cây vân vân... Thuyết khoa học về tế bào và 'gien' và những cái
giống
nhau về mặt vật lý thuộc định luật này.
3. Kamma
Niyama, luật về kết quả của hành động, như hành động tốt
xấu
sanh kết quả tương úng tốt xấu. Cũng như nước tự tìm mức độ nông
cạn, Nghiệp cho cơ hội, tạo kết quả không tránh được, không phải
dưới
hình thức thưởng phạt mà là sự liên tục bẩm sinh. Sự liên tục của
hành vi và hậu quả tự nhiên và cần thiết như con đường của mặt
trăng và các tinh tú.
4. Dhamma
Niyama, luật về tiêu chuẩn như hiện tượng thiên nhiên xẩy
ra lúc
Bồ Tát giáng sanh trong lần sanh cuối cùng. Luật hấp dẫn và những
luật
thiên nhiên tương đương, lý lẽ cho là tốt vân vân... cũng có thể
gồm
trong nhóm này.
5. Citta
Niyama, luật về tâm hay luật tâm linh như tiến trình của
thức, sự
phát sanh và mất đi của thức, yếu tố cấu tạo thức, sức mạnh của
tâm
vân vân..., thần giao cách cảm, hình ảnh do viễn vọng, nhận thức
bằng
hồi tưởng, linh cảm, nghe được, đọc được tư tưởng, tất cả những
hiện tượng tâm linh không thể giải thích được bởi khoa học hiện
đại
gồm trong điều này. (Abihdhammavatara, Trang 54).
Năm luật
trên bao gồm mọi thứ trong thế giới và mọi hiện tượng tinh thần
hay vật
chất có thể giải thích bằng những luật ấy. Chúng là luật trong
chính
chúng, không cần ai ban hành và Nghiệp cũng vậy là một trong
chúng.
Phân Loại
Nghiệp
Nghiệp chia
thành bốn loại theo thời gian kết quả nảy sinh. Nghiệp chín mùi
cùng đời,
chín mùi đời sau, chín mùi trong những lần sanh liên tiếp. Ba loại
nghiệp
này đi đến sinh kết quả như hạt giống sắp sửa nảy mầm. Nhưng hạt
giống nảy mầm phải có một số nguyên nhân phụ thuộc như, đất, mưa
vân
vân.... Cũng vậy Nghiệp trổ quả cũng cần một số nguyên nhân phụ
thuộc
như hoàn cảnh, môi trường chung quanh vân vân.... Ðôi khi ngẫu
nhiên là
vì không có những nguyên nhân phụ thuộc nên Nghiệp không trổ quả.
Nghiệp
này gọi là "Ahosi-Kamma" hay Nghiệp vô hiệu quả.
Nghiệp cũng
được phân loại thành bốn loại theo chức năng đặc biệt của nó. Dẫn
Nghiệp là điều kiện của lần sanh tương lai. Hỗ Trợ Nghiệp giúp và
duy trì kết quả của Nghiệp đã hiện hữu. Phản ứng Nghiệp, kìm nén
hay thay đổi kết quả của Nghiệp tái sanh, và Nghiệp Phá Hoại tiêu
diệt
nghiệp lực hiện hữu và thay thế bằng hợp lực của chính nó.
Có một
cách phân loại theo tầm quan trọng của kết quả. Có Cực Trọng
Nghiệp
do nghiệp lành hay nghiệp dữ lớn lao phát sinh ngay trong đời này
hay đời
sau. Về mặt tinh thần của Nghiệp này, tình trạng đạt được tinh
thần
thanh lọc ở mức độ cao gọi là Ðắc thiền hay Hỷ lạc rất mạnh vì
nó mang kết quả nhanh hơn trạng thái tinh thần bình thường không
được
thanh lọc. Về phía đối lập, có năm loại trọng tội tạo nghiệp dữ
lớn
lao. Những trọng tội này là giết cha, giết mẹ, giết A La Hán (bậc
thánh) làm thân Phật chảy máu hay tạo ly gián trong Tăng Ðoàn.
Cận Tử
Nghiệp là hoạt động mang đến lúc sắp chết về vật chất hay tinh
thần
- tinh thần bằng việc suy nghĩ đến những hành động xấu tốt trước
đây
hay có tư tưởng xấu hay tốt. Chính Nghiệp này nếu không phải là
nghiệp
dữ, quyết định điều kiện cho lần sanh tới.
Tập Quán
Nghiệp là hoạt động mà ta làm theo thói quen hàng ngày. Nghiệp
này, nếu
vắng Cận Tử Nghiệp phát sanh, quyết định lần sanh tới.
Tích Lũy
Nghiệp là nghiệp cuối cùng theo thứ tự ưu tiên. Ðó là nghiệp chưa
cạn
hết của một chúng sanh đặc biệt và nó là điều kiện của lần sanh
tới
nếu tập quán nghiệp không hành hoạt.
Một cách
phân loại Nghiệp nữa theo cảnh giới do kết quả mang đến:
(1) Nghiệp
Vô Luân (dữ) mang hậu quả vào cảnh giới lầm than.
(2) Nghiệp Lành mang hậu quả vào dục giới
(3) Nghiệp Lành hậu quả vào sắc giới
(4) Nghiệp Lành hậu quả vào vô sắc giới
Mười Hành
Ðộng Vô Luân Và Hậu Quả:-
I. Nghiệp
vô luân bắt rễ từ Tham, Sân và Si.
Có mười hành
động vô luân - đó là Giết, Trộm Cướp, Tà Dâm, (ba điều này là do
thân), Nói Dối, Vu Khống, Nói lời Ðộc Ác, Nói Chuyện Phiếm (bốn
điều
này là do khẩu). Tham, Ác Ý, và Tà Kiến (Ba điều này là do tâm ý) .
Trong mười
điều này, giết có nghĩa là tiêu diệt bất cú một chúng sanh nào kể
cả
tất cả các loại súc vật. Hành động giết cóù năm điều kiện chính
tức
là: một chúng sanh, biết là một chúng sanh, có ý giết, cố gắng và
kết
quả cái chết.
Hậu quả của
tội ác giết người là: Chết non, bệnh hoạn, luôn luôn phiền não vì
phải
xa người thân, luôn luôn sợ hãi.
Hành động
trộm cướp gồm có năm điều kiện chính tức: Lấy tài sản của người
khác, ý thức được việc này, có ý trộm cướp, có nỗ lực và hậu quả
lấy đi. Hậu quả của trộm cướp là: nghèo khổ, bất hạnh, không đạt
được ước muốn, và phải sống nhờ vả.
Hành động
tà dâm gồm có ba điều kiện chính, tức: có dụng ý vui hưởng mục
tiêu
đã bị cấm, chiếm đoạt mục tiêu. Tà dâm mang hậu quả: có nhiều kẻ
thù, gặp người bạn đường không chung thủy.
Nói dối gồm
có bốn trường hợp chính, tức: nói không đúng, dụng ý đánh lừa, có
sự
cố gắng và nói hai chiều. Hậu quả của nói dối là: bị nhục mạ, bị
phỉ báng, không ai tin, và miệng hôi hám.
Hành động
vu khống gồm có bốn điều chính, tức: chia rẽ, có dụng ý chia rẽ,
có
sự cố gắng, và đưa chuyện. Hậu quả của vu khống là bị mất bạn hữu
vô cớ.
Hành động
nói lời độc ác có bốn điều kiện chính, tức: sỉ nhục người, giận
dữ, chửi rủa người. Hậu quả của nói lời độc ác bị người ghét bỏ
dù không lỗi, giọng nói thô lỗ.
Hành động
nói chuyện phiếm có hai điều kiện chính, tức: hướng về chuyện
phiếm
vô ích và kể lể. Hậu quả hành động nói chuyện phiếm vô ích là cơ
thể bị xáo trộn, nói không ai nghe.
Hành động
tham lam gồm hai điều kiện chính: muốn lấy tài sản của người khác,
và lòng tham muốn có tài sản ấy, kẻ ấy nói: "tài sản này là phải
của tôi". Hậu quả của tham lam là không đạt được ước muốn.
Hành động
ác ý gồm hai điều kiên chính, tức: một chúng sanh khác và có ý làm
hại
chúng sanh đó. Hậu quả của ác ý là xấu xí, bệnh tật và bản tính
đáng
ghét.
Tà kiến
có nghĩa là nhìn sự vật ai, không biết chúng thật sự đúng như thế
nào.
Tà kiến gồm hai điều kiện chính là cách đối xử sai lầm trong quan
điểm
với đối tượng, hiểu lầm đối tượng ấy theo quan điểm đó. Hậu quả
của tà kiến là: luyến chấp, thiếu trí tuệ, trí khôn thấp kém, bệnh
tật
kinh niên và tư tưởng đáng trách. (Expositor, Pt. 1.p. 128)
II.
Nghiệp Lành Mang Hậu Quả Ở Dục Giới.
Có mười hành
động tinh thần - đó là, độ lượng, giới, thiền, kính trọng, phục
vụ,
hồi hướng công đức, hoan hỉ công đức của người khác, nghe pháp,
giảng
pháp, và thiết lập quan điểm đứng đắn.
"Ðộ lượng"
mang của cải. "Giới" khiến người ta được sinh trong một gia đình
quý phái hạnh phúc. "Thiền" giúp sanh sinh vào cõi sắc hay vô sắc
và giúp đạt kiến thức cao và giải thoát.
Kính trọng
người, ta được người kính trọng lại. Phục vụ người khác, ta được
người khác phục vụ lại. "Hồi hướng công đức giúp ta có nhiều của
cải để cho trong kiếp sau. "Hoan hỉ công đức của người khác"
tạo niềm vui tại bất cứ nơi đâu ta sinh ra. Nghe pháp và giảng
pháp dẫn
đến trí tuệ.
III.
Nghiệp Lành Mang Hậu Quả Ở Sắc Giới.
Có năm loại
hoàn toàn về tinh thần mang lại trong tiến trình hành thiền, tức:
(1) Trạng
thái thứ nhất của Ðắc Thiền hay Hỷ Lạc có năm thành phần cấu tạo:
sơ thiền, nhị thiền, trạng thái say mê, sung sướng, gom tâm vào
một điểm.
(2) Trạng thái thứ hai của Ðắc Thiền xẩy ra cùng lúc với nhị thiền
được chấp nhận, trạng thái say mê, sung sướng, gom tâm vào một
điểm.
(3) Trạng thái thứ ba của Ðắc Thiền xẩy ra cùng lúc với trạng thái
sây mê, sung sướng và gom tâm vào một điểm.
(4) Trạng thái thứ tư xẩy ra cùng một lúc với sung sướng và gom
tâm
vào một điểm.
(5) Trạng thái thứ năm của Ðắc Thiền cùng với sự thanh thản và gom
tâm vào một điểm.
IV.
Nghiệp Lành Mang Hậu Quả Ở Vô Sắc Giới.
Có bốn loại
hoàn toàn tinh thần thực hiện trong tiến trình thiền, tức:
(1) Không
vô biên xứ (thần thức ở trong sự vô tận của không gian)
(2) Thức vô biên xứ (Thần thức ở trong sự vô tận của ý thức)
(3) Vô sở hữu xứ (thần thức ở tình trạng không tồn tại).
(4) Phi tưởng Phi phi tưởng xứ (Thần thức ở nơi mà tri giác cực vi
tế
đến nỗi không thể nói có hay không)
Tự Do Ý
Chí
Nghiệp như
đã nói ở trên, không phải là số phận, không phải là một định mệnh
không thể thay đổi được. Nó cũng chẳng phải là buộc ta phải gặt
hái tất cả những gì ta đã gieo cho cân xứng. Những hành động của
Nghiệp
không phải là tuyệt đối không thay đổi được và chỉ có một số ít
thôi. Thí dụ, bắn một viên đạn qua nòng súng, ta không thể gọi
viên đạn
quay về hay làm lệch mục tiêu của nó. Nhưng thay vì viên đạn chì
hay
viên đạn thép bắn qua không khí mà là một quả bóng bằng ngà voi
bắn
vào một thảm xanh bằng phẳng ta có thể dùng cây gậy chơi bi da để
di
chuyển quả bóng, và sau đó ta có thể chọc đàng sau nó, và với
nhanh nhẹn
và không chọc quá mạnh, ta có thể chạy vòng sang phía kia bàn bi
da, chọc
theo hướng ngược lại làm cho nó chạy thẳng đúng hướng và ngừng lại
ở một chỗ. Với hành động sau bằng cái gậy bi da, ta thay đổi, hay
trong trường hợp thuận lợi, ta có thể hoàn toàn làm mất tác dụng
hành
động trước đây. Cũng giống như vậy, Nghiệp hành hoạt trong dòng
suối
mênh mông của đời người. Cũng vậy, một hành động của Nghiệp ở ngày
hôm sau có thể thay đổi hậu quả của nghiệp ở ngày hôm trước. Nếu
không vậy, làm sao một người có thể thoát khỏi tất cả các Nghiệp?
Nghị lực tự nơi minh tiếp tục sẽ vĩnh viễn không bao giờ chấm dứt.
Cho nên, con
người có tự do ý chí, và có khả năng uốn nắn đời sống mình hay
thay
đổi những hành động. Cả đến một người tội lỗi nhất nhưng với
thiện chí và cố gắng có thể trở thành một người đạo đức nhất.
Ta có thể bất cứ lúc nào thay đổi thành tốt hơn hay xấu hơn. Mọi
sự
trên thế giới kể cả chính con người cũng tùy thuộc vào hoàn cảnh
nếu
không có hoàn cảnh không có gì có thể phát sanh hay tiến tới hiện
hữu.
Cho nên con người có một số tự do ý chí tuy không hẳn là tuyệt đối
tự
do ý chí. Theo triết lý Phật Giáo, mọi thứ, tinh thần hay vật
chất,
phát sanh theo định luật và hoàn cảnh. Nếu không như vậy, sự hỗn
loạn
và sự ngẫu nhiên ngự trị. Tuy nhiên việc như vậy không thể được,
và
nếu không, tất cả những định luật thiên nhiên mà khoa học hiện đại
khám phá ra đều bất lực.
Sự thật,
bản chất thực về hành động Nghiệp của con người là tinh thần. Khi
một
tư tưởng hiện lên trong tâm của một con người nhiều lần, có một
khuynh hướng nhất định trở lại tư tưởng đó.
Khi một
hành động được thực hiện nhiều lần, có khuynh hướng nhất định tái
diễn hành động ấy. Cho nên, mỗi hành động, tinh thần hay vật chất,
có
khuynh hướng luôn luôn nảy sanh giống như vậy, và quay trở lại
phát
sanh. Nếu một người có tư tưởng tốt, nói lời lương hảo, hành vi
tốt,
hậu quả tác động đến người đó sẽ tăng khuynh hướng lòng tốt nơi
người đó, làm người đó trở thành một người tốt hơn. Nếu trái lại,
người đó có hành vi xấu trong tư tưởng, lời nói hay hành động,
người
đó sẽ tự củng cố khuynh hướng xấu, chính người đó đã tự mình
làm mình trở nên người xấu hơn. Ðã trở thành một người xấu, người
ấy sẽ hướng về làm bạn với các người xấu trong tương lai, và phải
chịu tất cả mọi loại bất hạnh của đời sống đối với hạng người
như vậy. Trái lại, phần chính của đặc tính càng tiếp tục lớn mạnh
tốt hơn, đương nhiên thu hút làm bạn vào nhóm người tốt, vui hưởng
lạc
thú, tiện nghi, không bị những chuyện bất ngờ, đôt ngột trong cuộc
sống
con người bao hàm trong xã hội.
Trong trường
hợp với người có văn hóa, cả đến những tội lỗi lớn cũng có thể
được giảm thiểu, trong khi với người không văn hóa tội ít cũng
phát
sanh hậu quả lớn đến múc tối đa tuy theo hoàn cảnh thuận hay không
thuận
lợi.
Những
Bài Học Dạy Bởi Nghiệp
Càng hiểu
nhiều về Nghiệp luật, ta càng thấy phải cẩn thận như thế nào trong
mọi
hành động, lời nói, tư tưởng, và trách nhiệm như thế nào đối với
người đồng chủng. Sống trong ánh sáng của kiến thức này, chúng ta
học
được một số bài học từ học thuyết về Nghiệp.
1.
Kiên Nhẫn
Biết Nghiệp
luật giúp đỡ ta rất nhiều, nếu chúng ta sống theo luật, không điều
hại
gì đến với chúng ta nếu chúng ta làm theo luật, phước lành đến với
chúng ta đúng lúc, chúng ta học được bài học to lớn về kiên nhẫn,
không phải để bị kích động mà là cái không kiên nhẫn ấy kìm hãm
tiến
bộ. Trong khi đau khổ, chúng ta biết chúng ta phải trả nợ, chúng
ta biết,
nếu khôn ngoan chúng ta không tạo thêm đau khổ cho tương lai.
Trong khi hoan
hỉ, chúng ta cảm ơn những điều thú vị, và học hỏi, nếu chúng ta
khôn ngoan, chúng ta càng tốt hơn nữa. Kiên nhẫn đem hòa bình,
thành công
hạnh phúc và yên ổn.
2. Tin
Tưởng
Luật đúng,
toàn hảo, thì một người hiểu biết không thể bị khó chịu về luật
ấy. Nếu chúng ta khó chịu và không có tin tưởng, nó chứng tỏ rõ
ràng
chúng ta không nắm vững sự thật của luật. Chúng ta thực sự an ổn
dưới
đôi cánh của luật, không có gì phải sợ hãi trong tất cả vũ trụ
rộng
lớn này ngoại trừ những hành vi lầm lẫn của chính mình. Luật làm
con
người đứng vững trên đôi chân và tăng lòng tự tin. Tin tưởng tăng
sức
mạnh, chứ không nhận chìm hòa bình, và hạnh phúc của chúng ta, làm
chúng ta thoải mái, can đảm dù đi đến đâu Luật cũng là người bảo
vệ
chúng ta.
3. Tự
Tin
Vì quá khứ
làm chúng ta thành ngày nay, cho nên bởi những gì chúng ta làm bây
giờ sẽ
quyết định tương lai. Hiểu được sự việc này, vinh quang ở tương
lai
vô tận, cho chúng ta lòng tự tin, và không còn khuynh hướng kêu
gọi sự
giúp đỡ ở bên ngoài, mà thực ra chẳng có sự giúp đỡ nào cả, Ðức
Phật dạy: "Thanh tịnh hay không thanh tịnh do nơi chúng ta, không
ai có
thể thanh tịnh hóa người khác được"
4. Kiềm
Chế
Ðương nhiên,
nếu chúng ta nhận thức được tội lổi sẽ trở về làm chúng ta đau
khổ,
chúng ta phải hết sức thận trọng về việc làm, nói năng và nghĩ
ngợi,
điều gì không tốt không thanh tịnh và không đúng. Kiến thức về
Nghiệp
sẽ giữ chúng ta không làm điều sai trái vì lợi ích cho người khác
cũng
như cho chính mình.
5. Sức
Mạnh
Càng lấy học
thuyết về nghiệp làm một phần của đời sống, chúng ta càng có sức
mạnh,
không những chỉ đường tương lai, mà còn giúp đỡ người đồng chủng
hữu hiệu hơn. Thực hành Nghiệp Lành, khi phát triển đầy đủ, chúng
ta
có thể vượt qua tội lỗi và giới hạn, phá vỡ tất cả gông cùm trói
buộc không cho chúng ta đạt mục tiêu, Niết Bàn.
9
NHỮNG
CÔNG NĂNG VĨ ÐẠI CỦA PHÁP
Tiến Sĩ
K.Sri. Dhammananda
Lời Phật dạy thường được gọi
là Pháp (Dhamma hay Dharma). Lời dạy này chẳng phải là một
khám phá
hay một ức đoán truyền thuyết với sự quanh co thần học. Ðó là Chân
Lý lan tràn trong Vũ trụ, là sự khám phá duy nhất của một đại đạo
sư giác ngộ. Tuy nhiên, Phật giáo là thuật ngữ hiện được dùng cho
Pháp và được đặt tên sau khi khám phá ra. Ðức Phật Cồ Ðàm, nhận
thức
ra Chân Lý và phổ biến chân lý này cho thế giới. Chắc chắn có sự
khó
khăn cho một người bình thường thấu triệt được đúng vì tâm ý họ
còn bị vẩn đục bởi ảo tưởng.
Có nhiều
công năng trong Pháp khiến Pháp tuyệt vời và toàn bích trong ý
nghĩa cao cấp
nhất của thuật ngữ này. Tuy nhiên có ba khía cạnh về Pháp cần được
ghi nhận. Khía cạnh thứ nhất là lý thuyết phải được học trong sự
thanh tịnh ban sơ. Khía cạnh thứ hai là sụ áp dụng thành thực, sự
thực
hành lời giáo huấn, sống theo lời dạy của Ðức Phật bằng cách tránh
tất cả tội lỗi, làm điều thiện và thanh tịnh tâm ý. Khía cạnh thứ
ba là phát triển trí tuệ, đạt được sự hiểu biết hoàn toàn về sự
thực của những hiện tượng.
Trong số
nhiều các công năng, sáu đặc tính nổi bật ghi trong các bản văn có
căn
cứ đích xác. Những Pháp Ðức Hạnh này được tụng trong các khóa tụng
niệm hàng ngày của người Phật Tử. Kệ bình dân bằng tiếng Pali giải
thích những Pháp đức hạnh ấy như sau:
Svakkhata
Bhagavata Dhammo, Sanditthiko, Akaliko, Ehipassiko, Opanayiko and
Paccatam Vedittabo
Vinnuhi.
Chi tiết về
những đặc diểm nổi bật này được miêu tả và giải thích như sau:
1.
Svakkhato Bhagavata Dhammo
Thuật ngữ
này có nghĩa là Pháp được khám phá ra và công bố bởi Ðức Thế Tôn.
Pháp này được coi như công năng chung của tất cả ba khía cạnh Giáo
Lý,
gọi là lý thuyết, sự tu tập chân thành và thấu triệt hoàn toàn
trong
khi phần từ ngữ còn lại liên quan với siêu trần (lokuttara)
gồm
có tám giai đoạn đạt thánh quả và Niết Bàn - coi như cứu cánh
tuyệt
đối của Phật Giáo.
Pháp được
giải thích cặn kẽ bởi Giáo Chủ. Phần đầu xuất sắc, phần giữa xuất
sắc và phấn cuối cũng xuất sắc. Không có mâu thuẫn, không có sự tự
ý thêm vào và cũng không chệch hướng. Cũng như mỗi giọt nước trong
biển
cả chỉ có một vị, vị của muối mặn, Pháp chỉ có một, chỉ có một
vị bất cứ lúc nào, vị hạnh phúc Niết Bàn. Pháp chân thật cả chữ
lẫn
ý. Môn học về Pháp bắt đầu với Giới (Sila) tức hạnh kiểm tốt, với
Ðịnh (Samadhi), ý thức của tâm thanh thản, và với Huệ hay Trí Huệ
(Panna) phát sanh sau khi đạt được Ðịnh.
Muốn đạt
kiến thức về Pháp phải bắt đầu với việc nghiên cứu Pháp bằng cách
nghe những bài thuyết trình thông thái giải thích cặn kẽ sự phức
tạp
của nó và hiểu thấu phương pháp để áp dụng vào thực tiễn. Do sự tu
tập kiên trì, ta có thể loại bỏ những ô trược tinh thần đưa đến
kết
quả tâm trở nên thanh thản, bình tĩnh và hạnh phúc. Hoàn tất được
trạng
thái tinh thần như vậy sẽ dọn đường cho việc đạt được kiến thức
cao hơn gọi là tuệ giác hay tuệ minh sát (Vipassana). Kiến thức
nội tâm
này khi phát triển vững vàng tức đạt vinh quang hoàn hảo của sự
chứng
đắc rực rỡ, điều có thể đạt được ngay trong hiện đời.
Lời giải
nghĩa của Ðức Phật về chúng sanh và thế giới tạo thành kiểu mới
nhất
về tư tưởng con người. Căn cứ vào sự khám phá trên căn bản sự hiểu
biết hữu lý, không dính dấp gì đến truyền thuyết thời đại, Ðức
Phật
đi sâu vào cốt tủy Pháp và xuất hiện với sự khám phá về sự hiểu
biết nằm dưới tất cả sự hiện hữu có thể nhận thức bằng giác
quan. Không độc tài hay độc quyền, Ngài tuyên bố Pháp- giáo lý
thay thế
cho tất cả giáo lý khác.
Pháp không
liên quan gì tới bất cứ cái gì gọi là thần thông tối thượng, nhưng
được trình bày bởi Ðức Phật trên cơ sở cá nhân, tức người này đến
người kia cho phép hành giả nhận định và suy ngẫm cho chính mình
những
phương cách để đạt giải thoát không cần tìm đến sự giúp đỡ bên
ngoài. Pháp có trên hoàn vũ, và là một lợi ích sống còn cho nhân
loại tở
bất cứ nơi nào trên thế giới vào bất cứ lúc nào.
Thật ý nghĩa
Ngài đưa ra sự giải thích hữu lý và khoa học riêng của Ngài về tất
cả
những ngôn ngữ triết lý trước khi chúng được đem sử dụng trong
giáo
lý của Ngài về Pháp. Chẳng hạn trước Ðức Phật, Nghiệp chỉ có nghĩa
là hành động, nhưng nay có nghĩa mới là ý muốn đằng sau hành động.
Pháp cao thượng
không ngừng tố cáo sự bất công như chế độ đẳng cấp khắc nghiệt,
nô lệ và kỳ thị thân phận thấp hèn về phụ nữõ. Ðức Phật chẳng
bao giờ là nhà độc tài mà là vị Ðạo Sư dân chủ.
Bắt đầu
với Ba nơi Nương Tựa (Tirana), và cuối cùng dẫn đến việc
đạt
được hạnh phúc Niết Bàn, tín đồ của Ðức Phật thấy mình hết sức
an ổn dưới sự hướng dẫn và che chở của Pháp đuợc tuyên bố là - Savakkhato.
2.
Sanditthiko
Sanditthiko
đem ý nghĩa là nếu Pháp được nghiên cứu kỹ, và mang ra thực hành
chân
thành, kết quả lợi ích sẽ nhìn thấy ngay tại chỗ và ngay tức khắc.
Chẳng hạn, ngay cả một người ác, có thể là một tai họa thực sự cho
chính hắn và xã hội, tìm nương tựa nơi Ðúc Phật và Pháp, và bắt
đầu
một cuộc sống mới, tất cả những khó khăn và lầm than sẽ chấm dứt.
Như đã được chứng minh bằng cuộc đời Hoằng Ðế A Dục Vương
(Asoka), sau khi đi theo Phật Giáo, ông đã thay đổi từ một người
cầm
quyền độc ác gọi là Candasoka thành một người chánh đáng
Dhammasoka.
3. Akaliko
Akaliko
ngụ ý hậu quả lợi lạc từ việc tu tập Pháp không bị chậm trễ.
Pháp, mặc dù khoảng thời gian dài từ khi được tuyên bố đã trôi
qua, vẫn
như mới và không hề hấn gì. Pháp tiếp tục tồn tại song song với tư
tưởng khoa học mới nhất. Nếu có chân lý, chân lý ấy không bao giờ
lỗi
thời. Pháp là Chân Lý ấy không bao giờ già nua theo thời đại vì nó
miêu tả sự thật nằm dưới tất cả hiện tượng hiện hữu trong luân
hồi.
Tóm lại, Pháp nói rằng thế gian là bất toại nguyện và chính cái
tham
này là nguyên nhân không tránh được về tình trạng các biến cố hiên
nay. Biện pháp cứu chữa sự bất mãn này là loại bỏ lòng tham qua sự
tu
tập tám yếu tố khéo léo gọi là Bát chánh Ðạo.
4.
Ehipassiko
Ehipassiko
là công khai mời tất cả mọi người đến xem, điều tra, nghiên cứu kỹ
lưỡng Pháp, và nếu cần phê bình trước khi chấp nhận vì không có
điều
gì là hoang đường hay huyền bí cả. Pháp trong sạch và trong suốt
như pha
lê. Nó nguyên chất như vàng thoi. Chính Ðức Phật đã tuyên bố:
"Ðừng
chấp nhận điều gì tôi nói, chỉ vì kính trọng tôi mà chấp nhận là
không nên. Cũng như vàng nguyên chất chỉ biết chắc khi đem thử lửa
hay
mài rũa bằng đá mài, giống như vậy, Pháp chỉ nên chấp nhận sau khi
đã
nghiên cứu kỹ lưỡng." Sự khẳng định không hề sợ sệt này cho
phép nghiên cứu kỹ càng giáo lý chứng tỏ sự vĩ đại của Ðức Phật,
và chân lý vững chắc của Giáo Pháp tuyệt vời.
5.
Opanayiko
Opanayiko
có nghĩa là tất cả những ai trung thành với Giáo Pháp, sẽ bước vào
con
đường dẫn đến hòa bình và hạnh phúc trường cửu. Pháp cho biết có
bốn
tầng thánh quả đạt được bằng cách phát triển theo thứ tự lớp lang.
Pháp dẫn môn đồ từ tầng này đến tầng kia cho đến khi giải thoát
hết
tất cả những ràng buộc và gông cùm của cuộc sống.
6.
Paccattam Veditabbo Vinnuhi
Nhóm từ
trên ngụ ý Pháp được lĩnh hội bởi người trí. Không ai có thể thâm
nhập Pháp thay thế cho người khác, giống như không ai có thể làm
cho người
khác hết khát trừ khi chính người khát phải uống nước. Quan sát
thấy
có hai khía cạnh có ý nghĩa trong thuật ngữ này: thứ nhất, đạt
giác ngộ
có tính cách cá nhân, thứ nhì, Giáo Pháp chỉ có thể thấu triệt bởi
người
trí.
Ðức Phật
không phải là vị cứu thế mà là vị thầy - Người thầy chỉ con đường
cho người khác theo. Phần còn lại là do cá nhân liên hệ phải giữ
giới.
Giữ Giới (Sila), tu tập Thiền Ðịnh (Samadhi), tập
trung tư tưởng
và sau đó phát triển huệ (Panna), trí tuệ trực giác giúp
cho cá
nhân thành công trong việc giải thoát bằng nỗ lực của chính mình.
10
ÐƯỜNG
ÐẾN HẠNH PHÚC TỐI THƯỢNG
Tổng hợp
từ nhiều tài
liệu
Tất cả mọi người đều muốn
được sung sướng. Tất cả mọi người đi tìm hạnh phúc. Con người tìm
hạnh phúc hết thời đại này đến thời đại khác nhưng chẳng bao giờ
tìm thấy trong đường lối đã được tìm kiếm bằng cách thích nghi
những
điều kiện của thế giới bên ngoài và không lưu ý gì đến thế giới
bên
trong của tâm. Lịch sử thế giới chứng minh điều đó. Cải cách xã
hội,
cải tổ kinh tế, sửa đổi luật pháp, canh tân chính trị, tuy có ý
tốtá
và tính toán kỹ nhưng chưa bao giờ mang được hạnh phúc hoàn toàn
và thực
sự cho con người. Tại sao?
Khi một mớ
hoàn cảnh bất toại nguyện này được loại bỏ, một bất toại nguyện
khác lại xuất hiện, và khi bất toại nguyện này được loại bỏ thì
một
bất toại nguyện khác lại hiện ra. Cái xuất hiện và tái xuất hiện,
cái phát sanh rồi lại tàn đi là cốt lõi của tất cả sự vật và hoàn
cảnh thế gian. Không bao giờ có thể có được việc sản xuất hàng
loạt
hạnh phúc thực sự. Ðó là một điều gì riêng tư và cá nhân. Ðiều đó
đến từ bên trong chứ không phải bên ngoài. Ðiều đó cũng không phải
là vì thế giới bên ngoài mà ta đi tìm kiếm hạnh phúc mà là thế
giới
bên trong của tâm.
Khoa học hiện
đại tuyên bố không có gì trong vũ trụ này tĩnh lặng. Mọi thứ đều
năng động, mọi thứ đều chuyển động. Không có gì đứng nguyên một
chỗ. Chúng ta hoặc tiến lên hoặc lùi xuống. Chúng ta hoặc trở nên
tốt
hơn, hạnh phúc hơn hoặc tiến về hướng tội lỗi và tích lũy phiền
não.
Muốn được hạnh phúc thì phải vượt qua phiền não. Muốn thắng lướt
phiền não, Ðức Phật chỉ cho nhân loại con đường dẫn đến loại bỏ
phiền não.
Con đường
tới hạnh phúc là Ðường Bát Chánh Ðạo cao quý. Con đường này dược
ai đó đặt chân vào trước khi ta có thể gọi là Con Ðường Bát Chánh
Ðạo.
Trong từ "Ðạo" (Ðường) vốn được nghĩ người nào đó đã giẫm
bước vào trước đây.
Con Ðường
không thể đột nhiên hiện hữu. Người nào đó phải trước tiên cắt
rừng,
làm cho quang đãng rồi mới bước đi được. Tương tự như vậy, Bát
Chánh Ðạo cao quý đã được đặt bước trước đó bởi nhiều Ðức Phật
và các bậc A La Hán. Ðức Phật đã khám phá ra con đường này nhưng
không
tạo ra nó, vì nó đã hiện hữu từ quá khứ xa xăm. Ðương nhiên đó là
một con đường cổ (Parana Magga).
Bát Chánh
Ðạo cao quý là Con Ðường phải bước vào. Ðường này là một điều thực
tiễn thiết yếu. Muốn biết và chứng nghiệm chân lý này, ta phải
giẫm
bước vào con đường đó. Con đường này chứa đựng một sự tập hợp
thận trọng và khôn ngoan tất cả những điều kiện quan trọng tất yếu
cho việc phát triển tinh thần của con người. Bát Chánh Ðạo được
phân
chia thành ba nhóm: Giới (Sila: hạnh kiểm, đạo đức), Ðịnh (Samadhi:
kỷ luật tinh thần), và Huệ (Panna: trí tuệ). Con đường này
duy nhất
với Phật Giáo, và khác biệt hẳn với tất cả tôn giáo và triết lý
khác. Ðó là tiêu chuẩn về tinh thần và hạnh kiểm dẫn đến chấm dứt
khổ đau, phiền não, và thất vọng để kiện toàn hòa bình, Niết Bàn.
Tám yếu tố
của Bát Chánh Ðạo là:
HUỆ:
1. Chánh Kiến
2. Chánh Tư Duy
GIỚI:
3. Chánh Ngữ
4. Chánh Nghiệp
5. Chánh Mạng
ÐỊNH:
6. Chánh
Tinh Tấn
7. Chánh Niệm
8. Chánh Ðịnh
Nhắc đến
con Ðường này, trong bài thuyết giảng đầu tiên, Ðức Phật gọi con
đường
này là Trung Ðạo (Majjihima patipada), vì nó tránh hai cực
đoan. Quá
say mê lạc thú nhục dục trần tục thấp hèn dẫn đến tai hại là một
cực đoan, tự hành xác dưới hình thức tu khổ hạnh làm cho đau đớn,
thấp
hèn dẫn đến tai hại là một cực đoan.
Ta phải nhớ
rằng 'con đường' chỉ là cách diễn đạt bóng bẩy. Theo quy ước chúng
ta nói về đi trên con đường, trong nghĩa ý nghĩa tột cùng, tám
bước có
nghĩa tám yếu tố tinh thần. Chúng phụ thuộc và liên quan lẫn nhau
và ở
mức độ cao nhất, chúng hành hoạt đồng thời, chúng không hoạt động
lần
lượt theo số thứ tự. Ngay cả ở mức độ thấp, mỗi yếu tố có đượm
vẻ chánh kiến ở một mức độ nào đó, vì đó là ý chủ đạo của Phật
Giáo.
Với lời
nói mạnh mẽ, Ðức Phật đã cảnh cáo tín đồ không được chỉ chú ý
vào sách vở như sau:
- Dù tụng
nhiều kinh, mà không hành động phù hợp, con người vô ý này giống
như
người chăn bò đếm trâu bò không phải của mình (không có được sản
phẩm về bò). Người đó không có phần thành quả của một người tĩnh
lặng.
- Dù tụng
kinh ít, nhưng hành động đúng theo giáo lý, bỏ tham, sân si, có
chánh kiến,
tâm người đó hoàn toàn giải thoát, không vương mắc điều gì ngay
bây
giờ và sau này, người đó có phần thành quả của người tĩnh lặng.
(Kinh Pháp Cú)
Sự đạt
được mục tiêu cuối cùng của Phật Giáo (Niết Bàn) không đòi hỏi sự
tinh thông triết lý sâu xa và thâm thúy của Phật Giáo. Ðiều đòi
hỏi
là sự phát triển không ngưng tâm ý qua quá trình đạo đức và thiền
định.
Ðúc Phật tuyên bố: "Giữ giới và rèn luyện tâm ý, ta chứng nghiệm
kiến thức dẫn đến giải thoát".
Giới
Vậy thì,
giới, căn cứ trên tình thương yêu và lòng từ bi, gồm có ba yếu tố
của
Bát Chánh Ðạo. Ðó là Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp vá Chánh Mạng.
Ðức Phật
dẫn giải giáo lý của Ngài vì lợi ich cho chúng sanh, vì hạnh phúc
cho
chúng sanh xuất phát từ lòng từ bi cho thế giới.
Giới,
giai đoạn tiên khởi của Bát Chánh Ðạo, căn cứ vào lòng từ ái này.
Tại
sao ta nên kìm hãm, không hãm hại và cướp bóc người khác? Phải
chăng vì
thương chính mình và người khác? Tại sao ta nên cứu trợ kẻ nghèo
kẻ
thiếu thốn và những người trong nguy khốn? Phải chăng vì lòng từ
bi với
họ?
Tránh tội
lỗi và làm điều thiện là chức năng của giới, chuẩn tắc hạnh kiểm
đạo đức dạy trong Phật Giáo. Chức năng này không bao giờ làm mất
giá
trị lòng từ ái. Giới bao gồm những đức tính của tâm như
thương yêu, nhũn nhặn, khoan dung, hiếu thảo, nhân từ, và vui vẻ
với sự
thành công của người khác.
Theo Phật
Giáo một người hoàn hảo phải phát triển hai đức tính bằng nhau:
một
mặt từ bi và một mặt trí tuệ. Nơi đây từ bi tượng trưng bằng tình
thương yêu, nhân từ, tử tế, khoan dung, và những đức tính cao quý
như vậy
về mặt cảm xúc hay những đức tính của con tim, trong khi trí tuệ
đứng
về mặt trí thức hay đức tính của tâm ý. Nếu một người chỉ phát
triển mặt cảm xúc và không lưu ý đến phần trí thức, có thể trở
nên một người ngốc tốt bụng; trong khi chỉ phát triển mặt trí
thức,
không lưu ý mặt cảm xúc, có thể trở thành một người tri thức nhẫn
tâm
không có sự thông cảm với người khác. Cho nên muốn hoàn toàn, ta
phải
phát triển đồng đều cả hai.
Chánh
Ngữ có nghĩa không:
* nói dối,
* nói xấu, vu khống và nói năng có thể mang sân hận, thù oán, chia
rẽ
và bất hòa giữa cá nhân hay nhóm người.
* nói lời cục cằn, thô lỗ, không lễ độ, hiểm độc và những lời sỉ
nhục, và
* chuyện phiếm, chuyện bép xép vô ích và dại dột, ngồi lê dôi
mách.
Khi ta gìn giữ không nói những lời sai trái và có hại như vậy,
đương
nhiên ta nói điều chân thật, dùng những lời nói thân hữu và nhân
đức,
vui vẻ và lịch sự, có ý nghĩa và ích lợi. Ta không nên nói bừa
bãi: lời
nói phải đúng lúc và đúng chỗ. Nếu không nói được điều ích lợi,
ta nên giữ im lặng cao thượng.
Chánh
Nghiệp là gìn giữ không:
* giết,
* trộm cắp, và
* tà dâm, nên trau dồi từ bi, chỉ lấy khi được cho, và sống thanh
tịnh
và trong sạch.
Chánh
Mạng là bỏ lối sống sai trái mang tai hại và khổ đau cho
người
khác: Buôn lậu
* súng ống
và vũ khí gây chết người,
* súc vật để giết thịt,
* người (tức mua bán nô lệ lan tràn trong thời Ðức Phật)
* các thứ nước uống có chất say; và
* thuốc độc
và nên sống
bằng nghề nghiệp không ai chê trách, không làm hại mình, hại
người.
Ta có thể
nhìn thấy rõ ràng nơi đây Phật Giáo chống lại mạnh mẽ bất cứ hính
thức chiến tranh nào, buôn bán súng ống và vũ khí giết người là
một tội
lỗi và là phương cách kiếm sống bất chính.
Nên hiểu rằng
đạo đức và hạnh kiểm luân lý (Giới) của Phật Giáo nhằm vào vận
động
một đời sống hạnh phúc và hài hòa cho cá nhân và xã hội. Giới được
coi như nền tảng cần thiết cho tất cả đạt quả vị tinh thần cao
hơn.
Tinh thần không thể phát triển được nếu không có luân lý căn bản
ấy.
Những nguyên tắc luân lý này mục đích làm xã hội an ninh bằng cách
vận
động đoàn kết, hòa hợp, sự quan hệ đứng đắn giữa người dân.
Trong Phật
Giáo, đạo đức chưa phải là mục đích. Nó chỉ là một phương tiện để
đi đến mục đích. Hạnh kiểm toàn hảo tách ra khỏi mục đích, không
tiến
về mục đích mong muốn, có rất ít ý nghĩa từ quan điểm của người
Phật
Tử. Không chỉ tội lỗi mà điều thiện cũng phải được siêu việt. Cả
đến giáo lý của Ngài phải siêu việt. Ðức Phật so sánh giáo pháp
của
Ngài với một cái bè sử dụng bởi chúng ta Nissaranatthaya tức chỉ
với mục
đích vượt qua sông, và Nagahanatthaya - tức không phải giữ bè lại.
Khi
chúng ta sang được bờ bên kia, chúng ta không cần phải mang theo
cái bè
ấy nữa. Bè đó phải được bỏ lại.
Kỷ Luật
Tinh Thần
Tiếp theo là
kỷ luật tinh thần gồm có ba yếu tố trong Bát Chánh Ðạo là Chánh
Tinh Tấn,
Chánh Niệm và Chánh Ðịnh.
Chánh
Tinh Tấn là sự nỗ lực kiên trì:
* để ngăn
chặn các tư tưởng tội lỗi và bất thiện chưa phát sanh,
* loại bỏ những tư tưởng tội lỗi đã phát sanh,
* làm cho phát sanh và phát triển tư tưởng thiện chưa phát sanh,
và
* đẩy mạnh, củng cố tư tưởng thiện đã phát sanh.
Cho nên chức
năng của Chánh Tinh Tấn là thận trọng, kiểm soát tất cả những tư
tưởng
không lành mạnh, trau dồi, thúc đẩy và duy trì tư tưởng thiện và
trong
sạch phát sanh trong tâm con người.
Người khôn
ngoan làm chủ lời nói và hành động nhờ Giới (sila) gắng sức
nghiên
cứu kỹ lưỡng tư tưởng và các yếu tố tinh thần của mình, và tránh
làm rối tư tưởng.
Chánh
Niệm là luôn tỉnh thức, chú ý và lưu tâm đến:
* những hoạt
động của thân (kaya),
* cảm giác hay cảm nghĩ (vedana),
* những hoạt động của tâm (citta), và
* ý kiến, tư tưởng, quan niệm và pháp (dhamma)
Tu tập về
tập trung hơi thở (anapanasati) là một trong những phương
pháp rèn
luyện có quan hệ với thân để phát triển tinh thần. Có một vài
phương
cách khác để phát triển sự chú ý liên quan đến thân - những phương
pháp
về thiền.
Về cảm
giác và cảm nghĩ, ta nên tỉnh thức với tất cả các dạng cảm giác và
cảm nghĩ, hài lòng, không hài lòng và cảm giác không rõ rệt, chúng
phát
sinh và biến đi trong ta như thế nào.
Về hoạt
động của tâm, ta nên tỉnh thức xem có phải tâm ta có đầy dục vọng
hay không, có sân hận hay không, có lừa dối hay không, có xao lãng
hay tập
trung vân vân.. Theo cách đó, chúng ta nên giác tỉnh xem tất cả
những hoạt
động của tâm xuất hiện và biến đi như thế nào.
Về ý kiến,
tư tưởng, quan niệm và pháp, ta nên biết bản chất của chúng, chúng
xuất
hiện và biến đi ra sao, phát triển ra sao, bị đè nén và tiêu diệt
ra sao
vân vân.
Ðiều thứ
ba và là yếu tố cuối cùng của Kỷ Luật tinh thần là Chánh
Ðịnh
dẫn đến bốn giai đoạn của Thiền, thường được gọi là nhập định.
Ở tầng thứ nhất, những ham muốn say mê, và một số tư tưởng bất
thiện
như dâm dục, ác ý, bạc nhược, lo lắng, bồn chồn, và nghi ngờ bị
loại
bỏ, và cảm nghĩ vui và hạnh phúc được duy trì với một số hoạt động
tinh thần. Ở tầng thứ hai, tất cả những hoạt động tinh thần bị
loại
bỏ, tĩnh lặng và nhất điểm tâm phát triển, và cảm nghĩ hỉ lạc,
hạnh
phúc vẫn còn. Ở tầng thứ ba, cảm nghĩ hỷ lạc, là một cảm giác tích
cực, cũng biến đi, trong khi khuynh hướng hỷ lạc vẫn còn thêm vào
sự
thanh thản trong tâm. Ở tầng thứ tư, tất cả những cảm giác, cả dến
hạnh phúc hay không hạnh phúc, vui và phiền não, biến đi, và chỉ
còn lại
sự tĩnh lặng thanh tịnh và tỉnh thức còn lại.
Cho nên tâm
được huấn luyện, rèn luyện và phát triển nhờ Chánh Tinh Tấn, Chánh
Niệm
và Chánh Ðịnh.
Huệ
Hai yếu tố
còn lại là Chánh Kiến và Chánh Tư Duy thuộc về Huệ.
Chánh
Tư Duy gồm tư tưởng bao hàm các ý nghĩ về từ bỏ trần tục,
thiện
chí, từ bi hay không làm hại. Những tư tưởng này phải được trau
dồi
và mở rộng tới tất cả các chúng sanh không phân biệt giống nòi,
đẳng
cấp xã hội, bè này phái kia. Vì chúng bao gồm tất cả những điều
cần
thiết nên không có giới hạn. Những tư tưởng cao quý như vậy không
thể
có được nơi một người vị kỷ, chỉ biết mình.
Một người
có thể là thông minh, uyên bác, và học rộng, nhưng thiếu tư tưởng
chính
đáng, theo như giáo lý của Ðức Phật, người đó là người ngốc nghếch
(bala) không phải là một người hiểu biết chính đáng và tuệ
giác. Nếu nhìn sự vật với nhận thức vô cảm, chúng ta sẽ hiểu rằng
ham muốn vị kỷ, sân hận và bạo lực không thể đi đôi với Trí Huệ
thực sự. Chánh Kiến và Huệ (Trí Huệ) bao giờ cũng thấm nhuần với
tư
tưởng chính đáng, không bao giờ làm mất chúng.
Chánh
Kiến là hiểu biết sự vật chúng đúng là như thế, Tứ Diệu Ðế
giải thích sự vật chúng đúng như thế nào. Cho nên Chánh Kiến chủ
yếu
là hiểu rõ Tứ Diệu Ðế. Sự hiểu biết này là trí tuệ cao cả nhất
nhìn thấy Sự Thật Tối hậu.
Theo Phật
Giáo có hai loại hiểu biết: Cái mà ta thường gọi hiểu biết là kiến
thức về một sự tích lũy của trí nhớ, một sự tóm thâu trí thức của
một vấn đề theo một số dữ kiện. Ðiều này gọi là
'cái-biết-phù-hợp'.
Nó không sâu lắm. Hiểu biết thật sâu xa gọi là 'thâm nhập'
(pativedha),
nhìn sự vật theo đúng bản chất, không phải tên và nhãn hiệu. Sự
thâm
nhập này chỉ có thể có được khi nào tâm đã gột rửa được hết những
bất tịnh và đã hoàn toàn phát triển qua thiền định.
Chánh Kiến
hay thâm nhập Trí huệ là kết quả của sự tu tập thiền định không
ngưng,
kiên trì hay sự trau dồi cẩn thận về tâm. Một người có Chánh Kiến
không thể có một quan điểm mờ mịt về hiện tượng, với người đó
không thể còn nhiễm những bất tịnh vì đã đạt được sự giải thoát
không lay chuyển về tâm.
Ði Theo
Ðường Ðạo
Những lời
dạy của Ðức Phật giải thích chức năng, mục đích cua việc trau dồi
đức hạnh, kỷ luật tinh thần, và trí tuệ. Giải thoát có nghĩa là
kinh
nghiệm sống về sự chấm dứt được ba nguyên nhân gốc rễ tội lỗi,
Tham Sân Si và vô minh tấn công vào tâm con người. Những nguyên
nhân gốc
rễ ấy phải được loại bỏ bằng giới hạnh, kỷ luật tinh thần và
trí tuệ.
Cho nên rõ
ràng giáo lý của Ðức Phật nhằm vào sự thanh tịnh hóa cao nhất,
tinh thần
lành mạnh toàn hảo, thoát khỏi tất cả những thôi thúc ô uế.
Vậy thì sự
giải thoát này khỏi ô nhiễm tinh thần, khỏi ác ý, hoàn toàn và
tuyệt
đối nằm trong tay của chính mình chứ không phải người nào khác hay
thần
thánh. Ngay cả đến Ðức Phật tối thượng cũng không chuộc con người
khỏi các gông cùm của cuộc sống ngoại trừ chỉ cho người ấy biết
con đường.
Con đường
Giới, Ðịnh, Huệ đôi khi được tham chiếu như Tam (vô lậu) học (tividhasikkha),
một trong ba cũng không phải là mục đích, mỗi một chỉ là phương
tiện
để đi đến mục đích. Một không thể hoạt động độc lập riêng rẽ
mà không tùy thuộc những cái kia. Giống như trường hợp một kiềng
ba chân
sẽ ngã khi một chân bị lấy đi, nơi đây cũng vậy, môt không thể
hoạt
động được nếu không có sự hỗ trợ của những chân kia. Ba cái cùng
nhau hành hoạt, cái này hỗ trợ cái kia. Giới hay đạo đức củng cố
Kỷ
luật tinh thần, và Kỷ Luật tinh thần (Ðịnh) đến lượt đẩy mạnh Huệ
(Trí Huê). Trí huệ giúp ta nhìn rõ sự vật - nhìn đời đúng như nó
là
thế - phải nhìn đời sống và tất cả sự vật thuộc đời sống phát
sanh và mất đi ra sao.
Mặc dù kiến
thức khoa học lớn mạnh vững vàng, con người trên thế giới vẫn bồn
chồn và nhức nhối với sợ hãi và bất mãn. Họ vẫn say sưa với lòng
ham muốn thích được nổi tiếng, có của cải, quyền hành, và làm vừa
lòng giác quan. Thế giới hỗn loạn này vẫn sôi động với hận thù,
ngờ
vực, ham muốn vị kỷ, và bạo lực, lúc này cần thiết hơn bao giờ hết
thông điệp tình thương và hiểu biết của Ðức Phật, Bát Chánh Ðạo,
dẫn
đến việc chứng nghiệm Niết Bàn. Chỉ có kiến thức về con Ðường
không
thôi, tuy đầy đủ, sẽ không kết quả. Trong trường hợp này, bổn phận
của chúng ta là phải theo con đường và giữ lấy nó.
Ðuơng nhiên
con đường này là khó khăn nhưng chúng ta luôn luôn chú ý và giác
tỉnh
hoàn toàn, bước vào từng bước một, một ngày nào đó chúng ta sẽ tới
đích. Ðứa trẻ học đứng học đi cũng gặp khó khăn. Cũng vậy, có
những
vĩ nhân trải qua giai đoạn này đến giai đoạn khác tuy chồng chất
nhiều
thất bại nhưng cuối cùng vẫn đi đến thành công. Ðó là con Ðường
dẫn
đến sự chứng nghiệm Sự Thật Tối Hậu, tự do hoàn toàn, hạnh phúc,
hòa bình nhờ sự toàn hảo về luân lý, tinh thần.
Từ bản tường
trình tóm tắt này, ta có thể nhìn thấy đó là cách sống phải theo,
tu tập
và phát triển bởi mỗi cá nhân. Ðó là sự tự kỷ luật về thân, khẩu
và tâm ý, sự tự phát triển và sự tự thanh tịnh hóa. Con đuờng này
không có liên quan gì đến niềm tin, cầu nguyện, sùng bái, hay lễ
nghi.