19
CẦU NGUYỆN VÀ THỜ CÚNG
Tiến Sĩ G.P.
Malalasekera
Người
ta thường hỏi: "Người Phật Tử có cầu
nguyện không?" "Người Phật Tử đến Chùa làm gì?" và "
Thái độ của Người Phật Tử đối với cầu nguyện như thế nào?"
Cầu nguyện và thờ
cúng thực ra
hình thành một phần trọn vẹn của nhiều tôn giáo. Trong Phật Giáo,
cầu
nguyện có nhiều ý nghĩa. Trong tôn giáo hữu thần tin vào Thượng Ðế
toàn năng có quyền vô hạn là Ðấng Sáng tạo thế giới, là cha của
tất
cả sinh vật, cầu nguyện có nghĩa chính là cầu khẩn Thượng Ðế, yêu
cầu
Ngài, xin Ngài hướng dẫn và che chở, ban sức khỏe và hạnh phúc và
tha
thứ các tội lỗi.
Phải nói rằng ngay từ
đầu người
Phật Tử không tin vào một Thượng Ðế như vậy và cũng không cầu
nguyện
theo ý nghĩa ấy. Người Phật Tử tin vào Nghiệp luật nói hạnh phúc
hay bất
hạnh phúc là kết quả về hành động của chính mình. Thịnh vượng hay
ngược lại được tạo ra cho mỗi cá nhân bởi hành vi, lời nói và tư
tưởng của cá nhân ấy. Nghiệp luật vô tư, không có tác nhân nào sau
nó, chỉ huy hay quản trị nó. Vô tư, nó không nhân từ mà cũng không
tha
thứ. Tội lỗi chỉ có thể chuộc bằng cách làm điều thiện, điều thiện
sẽ khắc phục được hậu quả của hành động tội lỗi. Tội lỗi theo
ý nghĩa Phật Giáo không phải là vi phạm hay không tuân theo luật
đặt ra
có tính cách độc đoán của thượng đế bắt chúng sanh phải theo mà là
hành động sai lầm của thân, khẩu, ý nó làm hỏng tính nết và cản
trở
sự phát triển nhân cách.
Vậy nên trong Phật
Giáo không có cầu
nguyện được chấp nhận theo ý nghĩa thông thường của từ này trên
trần
thế. Con người tự mình chịu trách nhiệm về điều thiện và tội lỗi,
sung sướng và nghèo khổ và không chịu trách nhiệm cho ai cả. Thế
giới
không tùy thuộc vào sự tiến bộ hay thịnh vượng dựa vào bất cứ một
người bên ngoài nào và nó không được xây dựng bởi một ai bên ngoài
cả.
Người Phật Tử làm gì
khi đến
thăm chùa? Họ làm nhiều điều. Không có một ngày đặc biệt để thăm
viếng chùa chiền tuy có ngày trăng tròn, ngày trăng mới mọc là
những
ngày rất phổ thông trong số nhiều người Phật Tử. Vào những ngày đó
những người mộ đạo tu bát quan trai giới, mặc đồ trắng, đồ trắng
tượng trưng sự đơn giản, thanh tịnh, và khiêm nhường. Những người
mộ
đạo này mang theo hoa, dầu, hương và đôi khi bột gỗ đàn hương và
long
não. Tại Chùa, họ rửa chân tay vì thanh tịnh thân xác và tâm tư
được
Ðức Phật ca ngợi. Trong chùa có nhiều bàn thờ và nhiều chỗ để dâng
đồ cúng. Chỗ bàn thờ chính được gọi là Vihara (Chánh Ðiện)
có
nghĩa là tịnh xá nơi Phật cư ngụ.
Từ Vihara khởi
đầu dùng có
nghĩa là chỗ ở của Ðức Phật. Sau này nó cũng được dùng để chỉ chỗ
ở của các thầy tu. Trong nghĩa ấy nó tương đồng với từ tu viện.
Vihara cũng bao hàm hình ảnh của Ðức Phật, gợi ý cái gì đáng giá
và
đáng chú ý. Với người Phật Tử, hình ảnh tự nó không phải là một
đối tượng để thờ phượng, nó chỉ là biểu tượng và tượng trưng
Ðức Phật. Hình ảnh giúp cho người mộ đạo nhớ lại những đức hạnh
vĩ đại của Ðấng Giác Ngộ. Về mục đích của sự thờ phượng, thật
ra là không quan trọng dù có hình ảnh hay không hình ảnh nhưng
hình ảnh
giúp cho hành giả tập trung tư tưởng. Trong việc lễ lạy một hình
ảnh,
người Phật Tử không phải là một người sùng bái thần tượng gỗ, đất
sét, hay bằng đá, và sự buộc tội người Phật Tử sùng bái thần tượng
là do ngu muội hoặc cố ý xuyên tạc.
Có một điểm đáng lưu ý
nữa là
dùng từ Vihara để chỉ tòa nhà chứa đựng những vật tượng trưng cho
Ðức Phật. Như đã nói trước đây, từ đó có nghĩa là một tịnh xá,
cho nên với người Phật Tử, Vihara là nơi Ðức Phật sống, không
những
trong quá khứ mà ngay bây giờ trong hiện tại. Sự thờ cúng Ðức Phật
không phải là cho một người nào đó chết, đã ra đi và không còn nữa
mà là đối với một người nào đó vẫn sống và hiện diện trước mặt
mình. Ðiều đó không có nghĩa là người Phật Tử tin tưởng Ðức Phật
đã nhập diệt trước đây tại Câu Thi Na bây giờ vẫn sống tại một nơi
đặc biệt nào đó và đang thực sự hoạt động trên đời. Nhưng người
Phật Tử, vinh danh Ðức Phật, giống như hồi tưởng trong tâm đời
sống
hiện tiền của Ðức Giáo Chủ để hành động thờ cúng của mình sống
động và có nghĩa lý.
Ðức Phật đã qua đời
nhưng ảnh
hưởng của Ngài vẫn còn tỏa trên thế giới như hương thơm mà mùi
ngào
ngạt vẫn tiếp tục bay tỏa dù chất liệu tạo ra đã không còn. Cảm
nghĩ
của người Phật Tử là những đồ dâng cúng của mình cho một người vẫn
còn sống, cho Pháp Phật vẫn còn, và ký ức về cá tính rực rỡ của
Ngài vẫn mãi mãi xanh tươi. Ðiều này giải thích tại sao một số
Phật
Tử dâng cúng đồ ăn và đồ uống tại các bàn thờ. Những lễ vật như
thế duy nhất tượng trưng sinh khí về niềm tin và sự thành tâm của
họ;
không môt ai, cả đến người Phật tử ngu muội nhất tin là Ðức Phật
hiện nay lại ăn và uống các lễ vật ấy. Ðó là cách thức Phật Giáo
bày tỏ một hình thức lý tưởng quan niệm của chúng ta về Ðức Phật
như một ảnh hưởng sống động trong cuộc sống hàng ngày của chúng
ta.
Dâng hoa và hương là
một sự dâng lễ
thờ phượng, một hành động vinh danh, tôn thờ và tri ân dù lễ vật
này
không có giá trị thực chất. Cũng giống như chúng ta dâng một vòng
hoa
hay một bó hoa cho một người nào đó với ước vọng giãi bày lòng tôn
kính, kính trọng, cảm tình và lòng tri ân của chúng ta. Dâng cúng
hoa và hương
được theo sau bởi lời tụng câu kệ nhắc nhở trong tâm đến những đức
hạnh tuyệt vời của Ðức Phật.
Như Ngài Hòa Thượng
Nanamoli đã nói:
"Ðức Phật quả là một Ðấng Ban Phước Lành đã chấm dứt tất cả
phiền não và khổ đau, Ngài là người toàn bích, đáng được vinh
danh, Ngài
đã đạt được trí tuệ tối thượng và giác ngộ, Ngài đã chỉ dẫn
con đường của kiến thức chính đáng, tư cách đạo đức, Ngài đã tìm
ra hòa bình và hạnh phúc, nhận thức ra chân lý về thế giới, như
một
nhà hướng đạo và một người bạn không ai có thể bì kịp cho những ai
muốn tìm đến sự hướng dẫn cũa Ngài, Ngài là thầy của trời và
người."
Phải chú ý rằng không
có yêu cầu
để được ưu đãi, không có van nài để được che chở, mà là nhớ và
diễn tập lại đức hạnh của một vĩ nhân, đối với người Phật Tử
đó là con người vĩ đại nhất từ trước tới nay.
Sau đây trong một bài
kệ khác người
mộ đạo tuyên bố chấp nhận Ðức Phật là vị Ðạo Sư, là người chỉ
đạo chừng nào mình còn sống, và bằng đức hạnh của sự kiện này hạnh
phúc sẽ đến với mình. Ðó là sự xác nhận niềm tin của người ấy vào
Ðức Phật và chấp nhận lối sống do Ngài vạch ra. Quan trọng hơn nữa
là
người mộ đạo bày tỏ lòng cương quyết tự thắng mình nhằm đạt an lạc
Niết Bàn mà Ðức Phật đã đạt được do sự tu tập đức hạnh và chứng
đắc trí tuệ. Người mộ đạo nhớ trong tâm là trong hàng loạt sanh
tiếp
diễn, trong một thời gian dài, Ðức Phật (được biết trước đây là vị
Bồ Tát hay người tìm cầu giác ngộ hoàn toàn) trau dồi những đức
tính
ấy dẫn chúng sanh đến toàn hảo và giác ngộ tối thượng. Trên con
đường
tu tập, Vị Bồ Tát hay Phật-sắp-thành, coi sự cố gắng không quá khó
khăn,
không có sự hy sinh quá lớn. Không chỉ trong một lần sinh mà trong
nhiều
lần sinh, Ngài đã hy sinh mạng sống theo nguyên tắc mà Ngài đánh
giá cao
để phục vụ người khác.
Tất cả mọi người đều
có thể trở
thành Phật, nếu họ quyết tâm và có thiện chí theo con đường Phật
Ðạo.
Ðức Phật không đạt cái vĩ đại mà những người khác không thể đạt
được. Lối sống của Ðức Phật gọi là Pháp và người mộ đạo nhớ
lại bằng câu kệ, đức tính và những đặc đặc điểm và đặc tính nổi
bật của giáo lý. Vậy nên Phật Pháp được nói đến rõ ràng không
huyền
bí hay bí mật đằng sau mà hoàn toàn mở rộng như một bàn tay mở ra
mà
sự hữu hiệu được biểu hiện là rõ ràng và và hiển nhiên có bằng
chứng,
Phật Pháp bất diệt và vô tận, lúc nào cũng tốt đẹp khắp mọi nơi
mọi
lúc, chấp nhận thử thách, mời điều tra và nghiên cưú, Phật Pháp
không
chút dấu giếm, không nằm trên tin ngưỡng mà trên sự tin chắc,
không mơ
hồ mà xác thực trong mục tiêu vạch ra, mà chân lý và hạnh phúc có
thể
đạt được bởi cá nhân và nỗ lực tích cực không tùy thuộc vào ai
khác mà hùng mạnh xiết bao .
Người mộ đạo cũng nhớ
lại sự
khuyến khích và mở mang tinh thần của chính mình đang có, và
thường là
đã có, những người tự hiến dâng cho sự nhận thức toàn vẹn Pháp,
con
đường giải thoát, tranh đấu nghiêm chỉnh để tiến tới mục tiêu của
sư tìm kiếm - loại bỏ tham, sân và si. Họ là những tấm gương của
đời
sống lương hảo, hạnh kiểm tốt, chính trực, không có gì đáng trách
trong cư xử, đáng được vinh danh và tôn kính, đáng được mọi người
biết. Những người cao thượng này được biết là Tăng Già hay cộng
đồng
của những đệ tử giác ngộ làm trong sạch thế giới bằng điều thiện
và tính chất thiêng liêng của đời họ, tránh tội lỗi, thúc đẩy điều
lành, và tràn đầy vũ trụ với tư tưởng hữu nghị, thiện chí và hòa
bình. Người mộ đạo cúng dường cho những người thoát ly gia đình
thực
hành hạnh bố thí và rộng lượng. Nhớ đến những người cao thượng này
trong niềm hiếu thảo, người Phật Tử tu tập giữ giới và tràn ngập
tâm tư với tư tưởng cao cả, người đó dấn mình vào sự tu tập mức
độ cao hơn - thiền định hay trau dồi tâm (bhavana).
20
CÓ PHẢI NGƯỜI PHẬT TỬ SÙNG
BÁI
THẦN TƯỢNG KHÔNG?
Tiến Sĩ K. Sri
Dhammananda
Ðối Tượng
Của Sự Tôn Kính.
Trong
mọi tôn giáo, có một số đối tượng hay biểu
tượng về mục đích tôn kính. Trong Phật Giáo có ba đối tượng tôn
giáo chính về mục đích này:
* Saririka (Xá Lợi)
hay di vật (tro cốt)
xác thân Ðức Phật;
* Uddesika hay biểu tượng tôn giáo như hình ảnh Ðức Phật, Tịnh
Xá hay
Chùa;
* Paribhogika hay những vật dụng cá nhân Ðức Phật sử dụng.
Truyền thống của
người Phật Tử
trên khắp thế giới bầy tỏ lòng tôn kính với những vật thể này.
Cũng
có một truyền thống Phật Giáo là xây dựng hình ảnh của Ðức Phật,
Tịnh
Xá, hay Chùa, trồng cây Bồ Ðề tại mỗi Chùa dùng làm đối tượng tôn
giáo để tôn kính.
Nhiều người có cảm
tưởng người
Phật Tử cầu nguyện thần tượng. Ðiều này là do sự thiếu hiểu biết
giáo lý của Ðức Phật, thiếu kiến thức về tập tục và truyền thống
Phật Giáo.
Thần tượng có nghĩa
là xây dựng
hình ảnh một sồ thần hay nữ thần dưới nhiều hình thức bởi người
mộ đạo để cầu nguyện, để được ban phước che chở, sức khỏe, của
cải, thịnh vượng, một sự thực hành thấy có trong một số tôn giáo
hữu
thần. Một số cầu xin với thần tượng ban cho một số ưu đãi cá nhân
thậm chí ở mức phạm các hành vi bất thiện. Họ cũng xin được tha
thứ
những tội lỗi họ vi phạm.
Sự thờ cúng Phật là
một khía cạnh
khác hẳn. Thậm chí từ "thờ cúng" hoàn toàn không thích đáng
theo quan điểm Phật Giáo. Bày tỏ lòng tôn kính mới thật đúng.
Người
Phật Tử thường không cầu nguyện hình ảnh và thần tượng; điều họ
làm là bày tỏ lòng tôn kính với vị đại đạo sư đáng được tôn
vinh. Những hình ảnh được tạo dựng biểu hiện sự kính trọng và cảm
kích trước sự đạt được giác ngộ cao và toàn hảo nhất của một đạo
sư phi thường. Với người Phật Tử, hình ảnh chỉ là một biểu hiện,
một biểu tượng, một tượng trưng giúp cho họ nhớ đến hay tưởng nhớ
Ðức Phật.
Người Phật Tử quỳ
trước hình ảnh
và tỏ lòng tôn kính cái mà hình ảnh ấy tượng trưng. Họ không tìm
cầu
ân huệ trần tục từ hình ảnh ấy. Họ suy ngẫm và thiền định để
được sự cảm hứng từ cá tính cao thượng của Ngài. Họ cố gắng
tích cực kiện toàn bằng cách theo giáo lý cao thượng của Ngài.
Người
Phật Tử kính trọng đức hạnh vĩ đại và tính cách thiêng liêng của
vị
đạo sư như hình ảnh tượng trưng. Thực ra tín đồ của mỗi tôn giáo
tạo
những hình ảnh của các đạo sư tôn giáo của họ hoặc trong dạng thức
thị giác hay dạng hình ảnh tinh thần để tôn thờ; cho nên không hẳn
đúng
hay chính đáng khi phê bình người Phật Tử thờ cúng thần tượng.
Hành động bày tỏ tôn
kính Ðức Phật,
không phải là một hành động căn cứ vào sợ hãi, hay một hành động
van xin của cải trần tục. Người Phật Tử tin đó là một hành động
đáng
khen và một phước đức nếu họ tôn vinh và kính trọng những đức hạnh
vĩ đại của người thầy thông thái của họ. Người Phật Tử cũng tin
tưởng chính họ chịu trách nhiệm sự giải thoát của họ và không nên
tùy thuộc vào bên thứ ba. Tuy nhiên có những người khác tin tưởng
họ có
thể đạt giải thoát qua ảnh hưởng của một hình ảnh và đây chính là
những người tạo cảm tưởng cho những người khác nhận xét châm biếm
hạ thấp người Phật Tử cho rằng họ tôn thờ thần tượng, cầu nguyện
một người đã chết và ra đi từ lâu. Xác thân của một người có thể
tan rã và và hòa tan vào bốn yếu tố (đất, nước, gió, lửa) nhưng
đức
hạnh của người ấy vẫn còn mãi mãi. Người Phật Tử đánh giá cao và
tôn trọng những đức hạnh đó. Cho nên, luận điệu chống lại người
Phật Tử quả là đáng tiếc, hoàn toàn sai và không đáng.
Từ giáo lý, chúng ta
biết Ðức Phật
là một vị thầy đã chỉ con đường chính đáng để giải thoát nhưng
việc
này tùy thuộc tín đồ có sống một cuộc đời đạo lý và thanh tịnh
tâm trí hay không để đạt được tình trạng ấy mà không tùy thuộc vào
bậc đạo sư. Theo Ðức Phật, không có Thượng Ðế hay một đạo sư nào
khác có thể đưa người lên thiên đường hay xuống địa ngục. Con
người
tạo thiên đường hay địa ngục cho chính mình do tư tưởng, lời nói
và
hành động của mình. Cho nên cầu nguyện bên thứ ba để được giải
thoát
mà không loại bỏ những tư tưởng tội lỗi trong tâm cũng chẳng ích
lợi
gì. Tuy nhiên có những người ngay cả những người Phật Tử, trong
khi cầu
nguyện theo truyền thống trước hình ảnh, đem những khó khăn, bất
hạnh
và trở ngại cầu xin Ðức Phật giúp họ thoát khỏi vấn đề.
Mặc dù không phải là
một sự tu tập
thực sự Phật giáo, nhưng những hành động mộ đạo như vậy cũng đạt
được một tâm trạng khuây khỏa và cảm hứng cho người cầu xin khiến
họ có can đảm và quyết tâm giải quyết khó khăn. Việc này cũng là
một
lệ thường ở nhiều tôn giáo khác. Nhưng với những người có thể hiểu
biết nguyên nhân căn bản của vấn đề, họ không cần cầu đến những
sự thực hành như vậy. Khi người Phật Tử tỏ bày lòng tôn kính Ðức
Phật, họ tôn vinh Ngài bằng cách tụng một số câu kệ dẫn giải những
đức hạnh thuở xưa của Ngài. Những câu kệ này không phải là lời cầu
nguyện trong ý nghĩa cầu Thượng Ðế hay thần thánh rửa sạch tội lỗi
cho họ. Những câu kệ này có ý nghĩa đơn giản là tỏ bày lòng tôn
vinh
bậc đạo sư vĩ đại đã đạt giác ngộ và giải phóng nhân loại đi tới
một lối sống đặc biệt vì lợi ích của toàn thể nhân loại. Người
Phật Tử tôn kính vị đạo sư của họ để bày tỏ lòng tri ân trong khi
những người khác cầu nguyện và van vái vì lợi lộc và của cải. Ðức
Phật khuyên chúng ta "hãy vinh danh những người đáng tôn kính".
Cho nên người Phật Tử kính và vinh danh bất cứ vị đạo sư nào đáng
được tôn kính.
Thay vì cầu nguyện,
người Phật Tử
tu tập thiền định để huấn luyện tâm và kỷ luật tự giác. Về mục
đích của thiền định, đối tượng rất cần thiết; không có đối tượng
không dễ dàng gì có thể tập trung được. Ðôi khi người Phật Tử dùng
hình ảnh Ðức Phật như một đối tượng để có thể tập trung hầu huấn
luyện tâm.
Trong những đối tượng
về thiền định,
đối tượng thị giác có một tác động tốt hơn cho tâm. Trong năm giác
quan, đối tượng đư?c hiểu qua nhãn thức có ảnh hưởng lớn vào tâm
hơn
những đối tượng được hiểu qua các giác quan khác. Cho nên đối
tượng
được hiểu qua cơ quan mắt giúp thành tựu tốt hơn và tập trung dễ
dàng hơn.
Hình ảnh là tiếng nói
của tiềm thức.
Cho nên nếu hình ảnh của Ðấng Giác Ngộ được phản ảnh trong tâm như
hiện thân của người toàn hảo, phản ảnh như vậy sẽ đi sâu vào tiềm
thức và nếu nó đủ mạnh sẽ hành hoạt như cái thắng (phanh) tự động
chống lại những thôi thúc tội lỗi.
Hình ảnh của Ðức Phật
là một đối
tượng thị giác có một tác động mạnh vào tâm: sự nhớ lại những
thành quả của Ðức Phật tạo niềm vui, làm cho tâm hăng hái khiến
con người
thoát khỏi tình trạng bồn chồn, căng thẳng và thất vọng.
Một trong những ý
muốn của Như Lai
Thiền về Ðức Phật là tạo một cảm nghĩ thành sùng bái và tin tưởng
nơi Ðức Phật bằng nhận thức và cảm nhận sự vĩ đại của Ngài. Cho
nên, thờ cúng hình ảnh Ðức Phật là để tập trung và không nên coi
là
sùng bái thần tượng mà là một hình thức lý tưởng của thờ cúng.
Kính Chào
Một vài câu kệ mà
người Phật Tử
tụng để tưởng nhớ đến vị đại đạo sư của họ để tỏ niềm
cung kính tri ân, tán thán Ðức Phật như sau:
Namo
Tassa Bhagavato Arahato Samma
Sambudhassa -
"Vinh Danh Ngài, Ðấng Thiện Thệ, Ðấng Thế Tôn, Ðấng Ðại
Giác"
Thêm nữa họ tụng một
vài câu kệ
giải thích những đức tính và đức hạnh vĩ đại của Ðức Phật như:
"Iti
pi so Bhagava Araham Samma
Sambuddho Vijjacarana-sampanno Sugato Lokavidu Anuttara Purisa
Damma-sarathi Sattha Deva
Manussanam Buddho Bhavaga ti"
Những câu tụng này
bằng tiếng Pali,
bạn có thể tụng bằng bất cứ ngôn ngữ nào mà bạn có thể hiểu được.
Chuyển ngữ sang Việt Văn có nghĩa là:
"Như vậy, đương
nhiên Như Lai
là Ðấng Thiện Thệ, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thế
Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn".
Một Câu
Chuyện Phật Giáo
Ðây là một câu chuyện
giúp chúng ta
hiểu tại sao hình ảnh Ðức Phật lại quan trọng để gây cảm hứng và
hồi tưởng Ðức Phật trong tâm ý. Câu chuyện này được tìm thấy trong
tài liệu Phật Giáo nhưng không phải trong Tam Tạng Kinh Ðiển.
Vài trăm năm sau khi
Ðức Phật nhập
diệt, có một thầy tu sùng đạo tại Ấn Ðộ tên là Upagupta. Ngài là
một
nhà thuyết giảng rất nổi tiếng thời bấy giờ. Bất cứ lúc nào Ngài
thuyết pháp, hàng ngàn người tụ tập đến nghe Ngài giảng.
Một ngày nọ, Mara, ma
vương ganh ghét
về sự nổi tiếng của Hòa Thượng Upargupta. Mara biết Upagupta nổi
tiếng
trong việc hoằng dương giáo lý của Ðức Phật. Mara không vui khi
thấy lời
dạy của Ðức Phật tràn ngập trong lòng và tâm trí của mọi người.
Cho
nên Mara đã dùng một phương pháp xảo quyệt nhằm ảnh hưởng người
nghe. Ma vuơng lập kế hoạch để không cho người dân đến nghe Ngài
Upagupta thuyết pháp. Một hôm, khi Ngài Upagupta bắt đầu thuyết
pháp, Mara
tổ chức diễn kịch ngay kế chỗ Ngài Upagupta thuyết pháp. Một sân
khấu
đẹp đẽ đư?c dựng lên. Có những vũ nữ rất đẹp và những nhạc sĩ
chơi nhạc sống.
Những người nghe
thuyết pháp không
bao lâu quên những lời giảng và chạy sang chỗ trình diễn để thưởng
ngoạn. Upagupta thấy đám đông tan rã. Ngài quyết định theo đám
người này.
Sau đó Ngài quyết định dạy Mara một bài học.
Khi cuộc trình diễn
chấm dứt,
Upagupta tặng Mara một vòng hoa.
"Upagupta nói: "Ông
đã tổ chức
một buổi trình diễn tuyệt vời.
Ðương nhiên, Mara rất
sung sướng và
hãnh diện về thành quả của mình. Mara nhận vòng hoa do Upagupta
trao tặng
và kiêu căng ngẩng cao đầu.
Ðột nhiên việc xẩy
ra: vòng hoa biến
thành một cuộn dây như con rắn cuộn tròn. Từ từ cuộn dây này quấn
lấy
cổ Ma Vương và siết chặt. Bị siết chặt cổ, ma vương đau quá muốn
gỡ
cái dây ra. Dù đã hết sức cố gắng, nhưng hắn không làm sao tháo
được
dây ra. Hắn quyết định tìm đến Sakka, Vua của các thần để nhờ tháo
cái dây ra. Sakka cũng không lấy được cuộn dây ra khỏi cổ hắn.
Sakka
nói: "Ta không thể lấy ra được người hãy tìm đến Maha Brahma, một
người có sức mạnh nhất".
Mara bèn tìm đến Maha
Brahma và xin
giúp đỡ nhưng Maha Brahma cũng không thể làm gì được. Maha Brahma
khuyên
Mara: "Ta cũng không thể lấy cuộn dây ấy ra được, chỉ có người
đã đặt cuộn dây này vào cổ ngươi, người ấy mới lấy ra được."
Mara đành quay trở về
tìm gặp Ngài
Upagupta.
Mara van xin: "Xin
Ngài làm ơn gỡ
cuộn dây này ra cho tôi, tôi đau đớn quá "
"Upagupta trả lời:
"Ðược ta
sẽ cởi cuộn dây đó cho ngươi nhưng với hai điều kiện " Ðiều kiện
thứ nhất là người phải hứa từ nay không được quấy nhiễu những
người Phật Tử sùng đạo nữa. Ðiều kiện thứ hai là ngươi phải chỉ
cho ta coi hình ảnh thực sự của Ðức Phật. Vì lẽ ta biết ngươi có
nhiều
lần được nhìn thấy Ðức Phật, nhưng ta chưa bao giờ được thấy Ngài.
Ta muốn nhìn thấy hình ảnh thực sự của Ðức Phật đúng giống y như
Ngài với 32 vẻ đẹp"
Mara vui mừng và đồng
ý với
Upagupta. Mara nói: "Nhưng có một điều, nếu tôi biến thành Ðức
Phật,
Ngài phải hứa với tôi là Ngài đừng lạy tôi, vì tôi không phải là
người
thánh thiện, tôi cũng giống như Ngài thôi."
Upagupta hứa: "Ta sẽ
không lễ lạy
ngươi".
Ðột nhiên Mara biến
thành y như Ðức
Phật. Khi Upagupta nhìn thấy hình ảnh Ðức Phật, tim Ngài tràn đầy
cảm
hứng phấn khích, lòng thành kính sâu xa phát xuất từ con tim. Ngài
chắp
tay lại và lạy hình ảnh Ðức Phật.
Mara la lên: "Ông đã
không giữ lời
hứa" Ông hứa ông không lễ tôi bây giờ ông lại lễ tôi?"
Upagupta trả lời: "Ta
không lễ ngươi,
ngươi phải hiểu, ta lễ Ðức Phật đấy chứ".
Từ câu chuyện này,
chúng ta có thể
hiểu được hình ảnh của Ðức Phật quan trọng như thế nào đ? chúng ta
cảm hứng và hồi tưởng Ðức Phật tối thượng trong tâm để tôn thờ.
Những người Phật Tử chúng ta không lễ lạy biểu tượng hay hình thái
vật
chất tượng trưng Ðức Phật. Chúng ta bày tỏ lòng tôn kính với Ðức
Phật.
Cảm Hứng Từ
Hình Ảnh Ðức Phật
Ðức Phật đã nhập diệt
và nhập
Niết Bàn. Ngài không cần thờ cúng và lễ vật, tuy kết quả của sự
thờ
cúng sẽ đồng hành và người ta được lợi lạc khi theo gương Ngài và
suy nghĩ về sự hy sinh cao cả và những đức tính vĩ đại của Ngài.
Người Phật Tử không
dâng cúng các
con vật hiến tế dưới danh nghĩa Ðức Phật.
Khi người Phật Tử
nhìn thấy hình
ảnh của Ðức Phật, lòng mộ đạo và niềm vui xuất hiện trong tâm.
Lòng mộ đạo này và niềm vui này tạo tư tưởng đáng khen trong tâm
người
Phật Tử thuần thành. Hình ảnh của Ðức Phật giúp người ta quên đi
lo
âu, thất vọng và khó khăn khiến người ta có thể kiểm soát được tâm
mình.
Một số các triết gia,
sử gia và học
giả nổi tiếng trên thế giới thường giữ hình ảnh của Ðức Phật
trên bàn làm việc trong phòng đọc sách để có cảm hứng về cuộc sống
và tư tưởng cao cả. Nhiều những người không phải là Phật Tử. Nhiều
người vinh danh cha mẹ quá cố, thầy giáo, anh hùng vĩ đại, vua và
các nữ
hoàng, những nhà lãnh đạo quốc gia và chính trị, và các người thân
yêu bằng cách giữ giữ hình ảnh của các người ấy để ấp ủ những
kỷ niệm của họ. Họ đặt những vòng hoa để bày tỏ cảm nghĩ thương
yêu, biết ơn, tôn kính, cảm nhận lòng thành kính. Họ nhớ lại những
đức
tính vĩ đại của những người ấy và hồi tưởng với niềm kiêu hãnh về
những sự hy sinh, phục vụ bởi những người ấy khi còn sống.
Người ta cũng xây các
tượng đài để
kỷ niệm một số các nhà lãnh đạo chính trị đã giết hàng triệu người
vô tội. Do sự độc ác và tham dục để đạt uy quyền họ xâm chiếm
những
quốc gia nghèo khổ và tạo đau khổ, tàn bạo và lầm than không kể
siết
bằng lũ quân cướp bóc của họ. Thế mà họ được coi như những anh
hùng
vĩ đại; và những lễ kỷ niệm được tổ chức để vinh danh họ, những
vòng hoa đuợc dâng hiến trên những huyệt mộ hay nấm mồ của họ. Nếu
những việc làm như vậy được chứng minh là đúng, tại sao một số
người
lại nhạo báng những tín đồ của Phật là sùng bái Ðức Phật như thần
tượng khi những người này bày tỏ lòng tôn kính với vị đại đạo sư
đã phục vụ nhân loại, không hại ai, đã chinh phục toàn thể thế
giới
bằng tình thương, từ bi và trí tuệ.
Có thể nào một người
nào đó, theo
đúng ý của họ nói là hành động bày tỏ lòng tôn kính với hình ảnh
Ðức Phật là không văn hóa, vô luân hay một hành động tác hại phá
rối
hòa bình và hạnh phúc của người dân không?
Nếu hình ảnh không
quan trọng gì cho
một người tu tập tôn giáo thì một số biểu tượng tôn giáo và những
nơi thờ cúng cũng không cần thiết. Người Phật Tử bị nhạo báng bởi
một số người là thờ cúng cục đá. Nhưng cho dù lời tuyên bố mù
quáng đó là đúng, thờ cúng cục đá vô hại và còn được kính trọng
hơn
là ném đá vào những tín đồ của tôn giáo khác.
Tầm Quan
Trọng Của Việc Tu Tập
Thực hành giáo lý của
Ðức Phật
không phải là ép buộc đối với người bày tỏ lòng tôn kính hình ảnh
Ðức Phật. Người Phật Tử có thể tu tập tôn giáo của họ không cần
đến hình ảnh của Ðức Phật, họ có thể làm được điều đó vì Ðức
Phật không khuyến khích người ta tùy thuộc vào bất cứ một cá nhân
nào. Theo như lời Phật dạy, người Phật Tử không nên tùy thuộc vào
người
khác, cả đến chính Ðức Phật nữa - để được giải thoát.
Trong thời kỳ Ðức
Phật tại thế,
có một thầy tu tên Wakkali. Thầy tu này thường ngồi ngay trước mặt
Ðức
Phật để ngắm nghĩa vẻ đẹp hình hài của Ðức Phật. Thầy tu này nói
rằng ông ta tìm thấy niềm vui và nhiều cảm hứng khi ngắm vẻ đẹp
của
Ðức Phật. Ðức Phật đáp lại bằng câu: "Ông không thể nhìn thấy
Ðức Phật thật sự bằng cách ngắm nghía xác thân vật chất. Ai nhìn
thấy
giáo lý của ta mới thật nhìn thấy ta".
Khía cạnh quan trọng
nhất trong Phật
Giáo là đem thực hành lời khuyên dạy của Ðức Phật. Trong phương
diện
này, không có gì khác biệt người Phật Tử bày tỏ lòng tôn kính hay
không bày tỏ lòng tôn kính với Ðức Phật. Nhưng đối với những người
mộ đạo, đó là một hành động quan trọng. Tuy nhiên, Ðức Phật không
nói là Ngài đang chờ đợi để được kính chào .
Nguồn Gốc
Của Hình Ảnh Ðức Phật
Hình ảnh của Ðức Phật
bắt nguồn
như thế nào? Rất khó khăn để tìm ra ý tưởng này phải hay không
phải
của Ðức Phật. Không có chỗ nào trong kinh điển Phật Giáo nói hình
ảnh
của Ngài phải được làm. Tuy nhiên, Ðức Phật có cho phép gìn giữ xá
lợi
của Ngài.
Ðức A Nan có lần muốn
biết có được
phép xây dựng một ngôi chùa để kỷ niệm Ðức Phật như một cách để
bày tỏ lòng tôn kính với Ngài. Ðức A Nan hỏi Ngài: "Bạch Ðức Thế
Tôn, xây dựng một ngôi chùa trong khi Ngài còn tại thế có đúng
không?
Ðức Phật trả lời:
"Không,
không đúng khi ta còn sống. Ông có thể xây dựng ngôi chùa để thờ
phượng
chỉ sau khi ta nhập diệt ".
Trong bài thuyết
giảng cuối cùng
trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật khuyên các đệ tử nếu họ mong
muốn bày tỏ lòng tôn kính với Ngài, sau khi Ngài nhập diệt, họ có
thể
xây dựng Chùa để thờ xá lợi của Ngài. Lời khuyên này phù hợp với
tập
tục thời bấy giờ tại Ấn Ðộ: tập tục xây dựng Chùa để lưu giữ
xá lợi của các bậc thánh thiện. Xá lợi được lưu giữ để tưởng nhớ
đến bậc thánh thiện. Ðồng thời Ðức Phật cũng không khuyến khích
hay
khuyến khích tạo một hình ảnh cho chính Ngài sau khi Ngài nhập
diệt. Ý tưởng
tạo một hình ảnh Ðức Phật là do nơi các tín đồ muốn tôn thờ vị
lãnh đạo kính yêu của họ và đạt được cảm hứng đạo lý từ một
tính cách thanh thản. Họ cũng thường trân trọng cất giữ một số xá
lợi
của Ðức Phật khi những hình ảnh đang được xây dựng.
Ngài Phổ Hiền (Trung
Hoa), thăm viếng
Ấn Ðộ vào cuối thế kỷ thứ tư có ghi trong hồ sơ của Ngài hình ảnh
đầu tiên của Ðức Phật được tạo dựng như thế nào. Tuy nhiên, kinh
điển Phật Giáo không nói gì đến thông tin thu thập được của Ðức
Phổ
Hiền. Tuy thế, huyền thoại được ghi nhận như sau:
Một lần Ðức Phật ở ba
tháng trên
thiên cảnh thuyết Vi Diệu Pháp, học thuyết cao hơn. Trong lúc vắng
Ngài,
những người đến Chùa không vui vì không nhìn thấy Phật. Họ bắt đầu
phàn nàn. Ngài Xá Lợi Phất, Ðệ Tử số đứng đầu của Ngài đi gặp
Phật và trình bày tình hình với Ðức Phật. Ðức Phật khuyên Ngài Xá
Lợi
Phất tìm một người nào có thể tạo nên một bức ảnh giống như Ngài
thì dân chúng sẽ sung sướng khi nhìn bức hình này. Ngài Xá Lợi
Phất
quay trở về và đến gặp nhà Vua xin nhà Vua ân huệ tìm một người
nào
có thể tạo hình của Ðức Phật. Ít lâu sau người đó dã được tìm
thấy.
Ông này khắc hình Phật trên gỗ đàn hương. Sau đó bức hình này đã
được đem đặt tại chùa, dân chúng hết sức vui mừng. Từ đó trở đi,
theo Ngài Phổ Hiền, người dân bắt đầu phỏng theo hình Ðức Phật.
Nhưng rất khó khăn
tìm ra chứng tích
trong tài liệu và lịch sử Phật Giáo để chứng minh sự tồn tại các
hình ảnh của Ðức Phật tại Ấn Ðộ cho đến gần 500 năm sau Ngài nhập
diệt. Vào thời đó, người mộ đạo thường chỉ bày tỏ lòng tôn kính
Ðức Phật bằng cách giữ một đóa hoa sen hay bức hình chân của Ðức
Phật.
Có thể là lúc đầu một số Phật Tử không đồng ý xây dựng hình ảnh
Ðức Phật, và rất có thể nét đặc biệt nổi bật của Ðức Phật
không chính xác.
Nhiều sử gia cho rằng
hình ảnh của
Ðức Phật lần đầu tiên được tạo dựng tại Ấn Ðộ trong khoảng thời
gian Hy Lạp xâm chiếm. Người Hy Lạp giúp đỡ và khuyến khích người
Ấn
trong nghệ thuật tạo hình ảnh của Ðức Phật. Từ đó, dân chúng tại
nhiều quốc gia bắt đầu tạo dựng hình ảnh Ðức Phật. Hình ảnh tại
các nước được điêu khắc theo kiểu cách và ấn tượng nghệ thuật hiện
thân những nét đặc biệt theo con người của xứ ấy. Trong phạm vi
của
mỗi xứ Phật Giáo, kiểu hình ảnh của Ðức Phật tiến triển thành
nhiều
hình thức khác nhau và kiểu cách thích hợp trong từng giai đoạn
khác nhau
của lịch sử.
Các Nhà Trí
Thức Nói Gì Về Hình Ảnh
Ðức Phật.
Pandit Nehru, cựu thủ
tướng Ấn Ðộ,
nhận xét như sau về hình ảnh Ðức Phật:
"Mắt Ngài nhắm, nhưng
sức mạnh
tinh thần toát ra và năng lực sống động tràn ngập chung quanh.
Thời đại
của Ngài đã trôi qua, nhưng dường như Ðức Phật không cách xa chúng
ta lắm;
giọng nói của Ngài vẫn thì thầm bên tai và nói với chúng ta hãy
đừng
chạy khỏi cuộc tranh đấu, mà hãy đương đầu với nó bằng con mắt
bình tĩnh, và thấy trong cuộc sống cơ hội lớn để phát triển và
tiến
bộ. Ông cũng nói: "Khi tôi ở trong tù, tôi thường nghĩ đến bức
tượng
của Ngài, bức tượng này là một nguồn suối cảm hứng to lớn với
tôi".
Trong Thế Chiến Thứ
Hai, Tướng Ian
Hamilton tìm thấy hình Phật trong một ngôi chùa đổ nát tại Miến
Ðiện.
Tướng này gửi bức hình Ðức Phật cho Winston Churchill lúc đó là
Thủ Tướng
Anh Quốc với bức thư:
"Khi ông lo lắng ông
chỉ cần
nhìn vào thái độ thanh thản này và cười nỗi lo lắng của ông".
Bá Tước Keyserling,
một triết gia Ðức,
nói:
"Tôi không thấy gì vĩ
đại hơn
hình ảnh của Ðức Phật; Ðó là một sự biểu hiện tuyệt vời của
tinh thần trong địa hạt có thể trông thấy được.
Một học giả khác nói:
"Hình ảnh Ðức Phật mà
ta nhìn
thấy là những biểu tượng tượng trưng những đức tính. Tôn vinh và
kính trọng Ðức Phật chỉ là biểu tượng tôn thờ cái vĩ đại và hạnh
phúc tìm thấy trong giáo lý của Ngài."
Hình ảnh trầm lặng và
thanh thản của
Ðức Phật đã là quan niệm chung về vẻ đẹp lý tưởng. Hình ảnh Ðức
Phật là tài sản quý báu nhất của văn hóa Á Châu. Không có hình ảnh
của
Ðức Phật, Á châu không có gì hơn chỉ là sự diễn đạt địa dư dù
cho thịnh vượng ra sao.
Phật Tử tôn kính
tượng Phật như một
lâu đài kỷ niệm sự vĩ đại, khôn ngoan nhất, toàn hảo nhất và vị
đạo
sư từ bi nhất đã từng sống trên thế giới này. Hình ảnh rất cần
thiết
để tưởng nhớ đến Ðức Phật cũng những đức tính vĩ đại của Ngài
đã gây cảm hứng cho hàng triệu triệu người hết thế hệ này đến thế
hệ khác khắp tất cả thế giới văn minh. Hình ảnh giúp cho họ tập
trung vào Ðức Phật. Họ cảm thấy trong tâm sự hiện diện thực sự của
vị giáo chủ khiến hành động thờ cúng của họ sống động và có ý
nghĩa.
Là một Phật Tử, rất
thích đáng bạn
nên có hoặc một hình ảnh của Ðức Phật hay bức tranh của Ðức Phật
tại nhà. Giữ hình ảnh hay bức tranh không phải là một thứ trang
hoàng
nhà cửa mà là một đối tượng để chiêm ngưỡng, gây cảm hứng và
tôn thờ. Bộ mặt thanh thản của Ngài, một biểu tượng tỏa chiếu lòng
từ ái, thanh tịnh và toàn bích, cung cấp một nguồn an ủi và cảm
hứng
giúp đở bạn khắc phục khó khăn, lo âu mà bạn phải đối đầu trong
hoạt
động hàng ngày trên thế giới hỗn loạn này. Khi bạn tôn thờ Ðức
Phật,
bạn sẽ được tưởng thưởng nhiều nếu bạn tham thiền một lúc bằng
cách tập trung tâm bạn vào những đức tính vĩ đại và cao thượng của
Ðức Phật; Nếu bạn nghĩ đến Ðức Ðại Ðạo Sư bạn sẽ toàn thiện
chính bạn qua sự hướng dẫn của Ngài. Vậy cho nên, không có gì là
siêu
nhiên lòng tôn kính này được bày tỏ trong một số tác phẩm và điêu
khắc
đẹp và thẩm mỹ nhất mà thế giới từng biết đến.
Một nhà văn nổi tiếng
khác trong
ngôn ngữ triết lý của ông về ý nghĩa thực sự của việc bày tỏ lòng
tôn kính với Ðức Phật như sau:
"Chúng ta cũng cần
hành động tôn
vinh thông qua sự tôn kính nhằm vào không phải về một người - vì
đúng
là tất cả nhân cách là một giấc mơ - mà vào lý tưởng của tâm can
chúng ta. Như vậy chúng ta từng tìm thấy sức mạnh tươi mới và xây
dựng
một nơi thờ cúng cho cuộc sống của chúng ta, tẩy sạch tâm ta cho
đến
khi tâm ta xứng đáng mang hình ảnh này trong nơi thiêng liêng sâu
thẳm của
tình thương. Trên cái bàn thờ đó tất cả chúng ta đều cần dâng lễ
vật
không phải bằng ngọn đèn tàn, hoa héo và phù du, mà là hành vi của
tình
thương, hy sinh, và vị tha tới tất cả những ai xung quanh chúng
ta".
Anatole France, trong
bài tự thuật của
ông, viết: "Vào ngày đầu tháng Năm 1890. một cơ duyên dẫn tôi đến
thăm viện Bảo Tàng tại Ba Lê. Nơi đây, các tượng thần thánh Á Châu
ngồi
trong giản dị và thầm lặng, mắt tôi hướng về bức tượng của Ðức
Phật vẫy tay ra hiệu cái đau khổ của nhân loại như nhủ thầm cần
phải
phát triển sự hiểu biết và từ bi. Nếu có một thượng đế nào bước
đi trên trái đất này, tôi cảm thấy phải là Ngài. Tôi cảm thấy như
quỳ
xuống chân Ngài và cầu nguyện với Ngài như một Thượng Ðế".
Ông Ouspensky, một
triết gia tây phương
bày tỏ cảm nghĩ của ông về hình ảnh Ðức Phật mà ông thấy tại Sri
Lanka. Ông nói: "Bức tượng Phật này là một công trình nghệ thuật
hiếm có. Tôi không thấy một công trình nghệ thuật nào có thể có
giá
trị ngang hàng với bức tượng này với mắt bằng ngọc xanh saphia,
phải
nói tôi không biết có một tác phẩm nào có thể tự nó diễn đạt được
hoàn toàn tư tưởng tôn giáo như vẻ mặt của Ðức Phật diễn tả tư
tưởng của Phật Giáo. Hiểu được vẻ mặt này thì hiểu được Ðạo
Phật". Ông còn nói: "Không cần phải đọc nhiều tác phẩm Phật
Giáo, hay cùng đi với giáo sư nghiên cứu tôn giáo Á Châu hay với
các thầy
Tỳ Kheo có học. Ta phải lại đây, đứng trước Bức Tượng Phật này rồi
hãy để cho những ánh mắt xanh thâm nhập vào đời ta, ta sẽ hiểu
được
Phật Giáo là gì".
Công trình mỹ thuật
tạo dựng hình
ảnh và tạo các bức tranh sơn trên tường về nhiều chuyện Phật Giáo
do
sự cảm hứng tuyệt vời đã làm phong phú nghệ thuật và văn hóa của
hầu
hết các quốc gia Á Châu từ trên 2000 năm qua.
Cái gì đã làm cho bức
thông điệp của
Ðức Phật hết sức lôi cuốn những người trau dồi trí tuệ? Có lẽ
câu trả lời có thể thấy được ở vẻ thanh thoát trên bức hình của
Ðức Phật. Không phải là màu sắc hay nét vẽ mà người ta bày tỏ niềm
tin nơi Ðức Phật, mà là cái vẻ thanh lịch nơi giáo lý của Ngài.
Những
bàn tay con người rèn đục từ sắt đá tạo nên tượng Phật là một
trong những sáng tạo vĩ đại do thiên tài con người.
Nếu người Phật Tử
thực tình mong
muốn gìn giữ Ðức Phật trong tất cả huy hoàng đẹp đẽ và lộng lẫy
sự có mặt lý tưởng của Ngài, họ phải chuyển lời dạy của Ngài vào
tình trạng thực tiễn và hành động trong đời sống hàng ngày. Thực
hành lời Phật dạy họ có thể tiến tới gần Phật và cảm thấy ánh
hào quang rực rỡ của trí tuệ và lòng từ bi bất tử của Ngài. Chỉ
tôn kính hình ảnh mà không tu tập lời dạy tối thượng của Ngài
không
phải là con đường tìm cầu giải thoát.
Cuộc đời đẹp đẽ, một
trái tim
trong sáng và tử tế, tâm trí sâu xa và giác ngộ, một nhân cách gây
cảm
hứng và vị tha - cuộc đời toàn bích như vậy, một trái tim từ bi
như vậy,
một tâm trí trầm tĩnh như vậy, một nhân cách thanh thản như vậy
quả
thật đáng được kính trọng, đáng được vinh danh, và đáng được cúng
dường. Ðức Phật là bậc toàn thiện cao nhất của nhân loại, và là
đóa
hoa của loài người.
Sir Edwin Arnold giải
thích bản chất
Phật tính trong thi phẩm "Ánh Sáng Á Châu" như sau:
"Ðây hoa nở trên
cây nhân loại
Ðã bùng nở qua nhiều vạn kỷ
Làm thế giới chan hòa hương thơm trí tuệ
Và mật ngọt tình thương".
21
TẠI
SAO HÀNH THIỀN?
Bhikkhu
Piyananda
Con người không ngưng tìm phương cách
gia tăng hạnh phúc, an lạc nội tâm và hòa hợp. Theo công luận,
hạnh
phúc đạt được do của cải, uy quyền, địa vị xã hội, hay do dùng kem
đánh răng, kem thoa mặt, hay lái một loại xe nào đó - ít nhất như
cái
mà quảng cáo nói. Họ tìm giải pháp cho vấn đề qua gia đình, công
việc,
bạn hàng, bạn bè vân vân... Họ cố gắng thay đổi những điều kiện
bên
ngoài về vật chất, xã hội, môi trường chính trị theo cách này hay
cách
khác, vì họ tin rằng khi thế giới cuối cùng trở nên toàn hảo, họ
sẽ
hạnh phúc và an lạc. Nhưng họ quên rằng những hoàn cảnh ấy luôn
luôn
thay đổi, không bao giờ ngưng. Vừa mới hoàn thành được điều mơ
ước,
thì sự vật lại thay đổi và lời hứa hạnh phúc lại mờ đi như trong
suơng mù buổi sáng lúc rạng đông. Ta càng cố gắng bao nhiêu để
tiến tới
hạnh phúc, thì hạnh phúc lại càng xa lánh như như con bướm đang vỗ
cánh
bay rất gần mà không sao bắt được.
Ðuổi bắt
mà đa số áp dụng là phương pháp sai lầm để tìm hòa bình và hòa
hợp.
Họ tìm cầu bên ngoài, ở thế giới bên ngoài thay vì tìm cầu nơi
chính
mình. Nhiều người khám phá ra suối nguồn thực sự hạnh phúc và
những
trở ngại: tâm. Và quay sự chú ý về con người vào bên trong, tâm,
hành
thiền là con đường đó.
Ngày nay,
thiền lôi cuốn nhiều người thuộc đủ các tầng lớp xã hội và trong
các chủng tộc tôn giáo khác nhau. Tại sao? Vì tâm hành hoạt bất kể
người
đó thuộc nòi giống hay tôn giáo nào. Nhiệm vụ của thiền là hiểu
bản
chất của tâm và sử dụng nó hữu hiệu hàng ngày. Tâm là chìa khóa
của
hạnh phúc, và cũng là chìa khóa của nghèo đói. Ðể hiểu tâm và sử
dụng
nó hữu hiệu là nhiệm vụ vượt qua chướng ngại về nòi giống, văn hóa
và tôn giáo. Ðương nhiên thiền có thể tu tập bởi bất cứ ai bất kể
đến nhãn hiệu tôn giáo của người ấy.
Lợi Ích
Của Thiền
Con người
quá bận trong việc tìm kiếm những phương thức để đạt dục lạc trong
cuộc tranh đua quyết liệt ngày nay. Thiền có lợi gì? Lợi ích của
thiền
như sau:
* Nếu bạn
là người bận bịu, thiền giúp bạn quét sạch căng thẳng và tìm thấy
thư giãn.
* Nếu bạn
là người lo lắng, thiền giúp bạn bình tĩnh và giúp bạn tìm thấy
thanh
bình lâu dài hay tạm thời.
*Nếu bạn
là người có quá nhiều vấn đề, thiền giúp bạn có can đảm và sức
mạnh
để đương đầu và khắc phục các vấn đề ấy.
* Nếu bạn
thiếu tự tin, thiền sẽ giúp bạn lấy lại tự tin mà bạn cần. Lòng tự
tin là bí quyết của thành công.
* Nếu bạn
sợ hãi trong tim, thiền có thể giúp bạn hiểu rõ bản chất thực sự
của
đối tượng làm bạn sợ hãi - rồi bạn có thể khắc phục được sợ hãi
trong tâm bạn.
* Nếu bạn
lúc nào cũng bất mãn với mọi thứ - không có thứ gì trên đời này
được
vừa ý - thiền sẽ cho bạn cơ hội để phát triển và duy trì thỏa mãn
nội
tâm.
* Nếu bạn
hoài nghi và không lưu tâm đến tôn giáo, thiền sẽ giúp bạn vượt
qua tính
hoài nghi của bạn và nhìn thấy giá trị thực tiễn trong sự hướng
dẫn
đạo lý.
*Nếu bạn
thất vọng và thất tình do sự thiếu hiểu biết bản chất về đời sống
và thế giới, thiền thực sự hướng dẫn bạn và giúp bạn hiểu điều
đã làm xáo trộn bạn bởi những thứ không cần thiết.
* Nếu bạn
là một người giàu có, thiền sẽ giúp bạn nhận thức được bản chất
của của cải của bạn và cách sử dụng của cải của bạn cho hạnh
phúc của bạn cùng những người khác.
* Nếu bạn
là người nghèo, thiền sẽ giúp bạn đạt sự mãn ý không nuôi dưỡng
ganh tị với những người có nhiều hơn bạn.
* Nếu bạn
là người trẻ đứng trước ngã tư của cuộc đời, bạn không biết phải
đi ngả nào, thiền sẽ giúp bạn hiểu biết con đường nào phải đi để
tiến tới mục tiêu đúng của bạn.
* Nếu bạn
là người già yếu đã chán chường cuộc sống, thiền sẽ mang lại cho
bạn
sự hiểu biết sâu xa hơn về cuộc đời; sự hiểu biết này sẽ giảm
thiểu nỗi đau đớn của cuộc sống và làm tăng sự vui sống.
* Nếu bạn
là người nóng nảy, bạn có thể phát triển sức mạnh để khắc phục
nhược điểm nóng giận, hận thù và bất mãn.
* Nếu bạn
ghen ghét, bạn có thể hiểu được cái nguy hiểm của sự ganh ghét của
bạn.
* Nếu bạn
là người nô lệ cho năm giác quan, bạn có thể học hỏi cách trở nên
chủ
tể của những giác quan-tham dục của bạn.
* Nếu bạn
ghiền rượu hay ma túy, bạn có thể nhận thức được cách vượt qua
được
thói quen nguy hiểm đã làm bạn thành nô lệ.
* Nếu bạn
là người ngu muội, thiền này sẽ cho bạn cơ hội trau dồi kiến thức
hữu
dụng và lợi ích cho cả bạn lẫn bạn bè và gia đình.
* Nếu bạn
thực sự muốn tu tập thiền định này, cảm xúc của bạn sẽ không bao
giờ có cơ hội biến bạn thành người ngốc nghếch nữa.
* Nếu bạn
là người trí, thiền này sẽ mang bạn tới giác ngộ tối thượng. Rồi
bạn
sẽ nhìn thấy sự vật chúng đúng như thế nào và không phải chúng có
vẻ
là như thế.
* Nếu bạn
là người tâm tư suy nhược, thiền này sẽ làm tăng sức mạnh cho tâm
bạn
để phát triển sức mạnh ý chí hầu khắc phục được những nhược điểm
của bạn.
Trên đây
là một số các lợi ích thực tiễn khi tu tập thiền định. Những lợi
ích này không có bán tại bất cứ một tiệm nào hay một siêu thị nào.
Tiền bạc không thể mua chúng được. Chúng là của bạn khi bạn tu tập
thiền định. Ở lúc ban đầu, loại chú tâm này thực sự là một tâm
"lo lắng" đang canh phòng "các tâm vọng tưởng" khác (tất
cả trong pham vi tinh thần của mình luôn thay đổi). Bằng cách đó,
ta có
thể phát triển khả năng nhìn vào tâm và xem nó đi đâu.
Chuẩn Bị Thiền Tập
Chọn
Ðịa Ðiểm
Khi bạn mới
bắt đầu tập thiền, điều khuyên bạn là nên có một nơi yên tịnh để
bạn có thể tu tập. Cố gắng tìm nơi xa chỗ ồn ào náo nhiệt của một
cuộc sống bận rộn. Ðịa điểm có thể là một căn phòng, một mảnh
vườn,
phòng ngủ - bất cứ chỗ nào bạn có thể tìm thấy. Khi đã tìm được
chỗ, gắn bó với nó. Không nên di chuyển chỗ tập thiền.
Khi bạn đã
có tiến bộ, bạn có thể tu tập ngay chỗ bạn làm việc hàng ngày.
Không
cần thiết phải vào nơi ẩn dật. Nhớ rằng khi bạn đã phát triển tu
tập
thiền định, chỗ nào cũng là chỗ bạn có thể thiền được.
Chọn
Giờ Giấc
Giờ hành
thiền là do bạn quyết định. Bất cứ thì giờ nào bạn đã chọn thì
thì giờ ấy phải để dành cho thiền. Trong thời gian này bạn phải
nhất
quyết quên mọi thứ, mọi hoạt động hàng ngày, lo âu và những thứ
đại
loại như vậy. Nhất quyết không để một việc gì trần tục xen vào
việc
tu tập của bạn. Cũng nhất định dành thì giờ thường lệ vào việc
thực
tập hàng ngày. Nhớ rằng khi bạn đã phát triển được hành thiền thì
bất
cứ lúc nào cũng là lúc bạn hành thiền. Nếu bạn tiến tới giai đoạn
ấy, thiền là một phần của cuộc sống hàng ngày.
Thầy Dạy
Thiền
Có lẽ bạn
cảm thấy cần một người nào đó giúp đỡ, hướng dẫn và chỉ dạy bạn.
Không mấy dễ dàng tìm được một thiền sư thích hợp và đủ khả
năng. Nếu bạn có người bạn nào hành thiền, hãy nói chuyện với họ;
họ
có thể là thầy dạy của bạn. Nếu bạn gặp cuốn sách nào hay bài báo
nào nói về thiền, hãy đọc chúng; chúng có thể là thầy dạy bạn. Nếu
bạn có thể tìm đuợc một thiền sư, nhớ rằng vị thiền sư cũng chỉ
là người bạn và người hướng dẫn. Thiền sư này không hành thiền cho
bạn được. Ông không thể thực hành cho bạn. Nếu bạn biết cách phát
triển sự tập trung và chú tâm để được sung mãn, trong sáng và kiên
trì, sự tỉnh thức tập trung là vị thầy, vị thầy ở ngay trong phạm
vi
của bạn.
Cách Ngồi
Về cách ngồi
thiền, bạn có thể ngồi theo lối bán già hay kiết già. Nếu cách
ngồi
đó khó khăn, bạn có thể ngồi ngay trên một cái ghế. Ðể chân thõng
xuống
đất, chân không căng thẳng. Ngồi ngay ngắn lưng thẳng đứng, thân
không
ngả về phía trước hay ngả về phía sau, bạn có thể bị buồn ngủ. Giữ
thân cho cân đối trong vị thế thẳng cho nên bạn có thể ngồi vững
vàng không căng hay cứng nhắc. Nếu cổ và xương sống không giữ được
thẳng, bản sẽ cảm thấy đau sau một vài phút.
Thiền
Là Gì?
Thiền đơn
giản là tập trung tỉnh thức. Nếu bạn quan tâm đến hành thiền, bạn
phải
học làm sao phát triển tập trung qua thiền Samatha (trạng thái tâm
vắng lặng,
an định) và Vipassana (tuệ minh sát ) thiền. Mặt khác sau khi học
làm sao
phát triển sự tỉnh thức, hay sự chú tâm, bạn có thể thực hành tuệ
minh sát thiền hay tuệ giác thiền. Nếu bạn thích sử dụng tâm vắng
lặng
(samatha) thiền trong cuộc sống hàng ngày, bạn học hỏi cách áp
dụng sự
tập trung trong cuộc sống hàng ngày. Nếu bạn muốn sử dụng tuệ minh
sát thiền, bạn học cách áp dụng tỉnh thức trong cuộc sống hàng
ngày.
Sống-thiền đơn giản là phát triển và sử dụng tỉnh thức tập trung
trong những kinh nghiệm thông thường và biến cố của cuộc sống hàng
ngày.
Samatha:
An Chỉ Thiền
Samatha (Trạng
thái tâm vắng lặng) là một phương pháp huấn luyện tâm cho những ai
muốn
phát triển sự tập trung. Thiền Samatha liên quan với việc gom tâm
vào một
điểm.
Nhất điểm
trụ là trạng thái tập trung mà tất cả những khả năng và sức mạnh
tinh thần đều nhắm vào và điều khiển bởi sức mạnh ý chí hướng về
một điểm hay một đối tượng. Nhất điểm tâm là một tâm được tập
trung và hợp nhất. Nhất điểm tâm là sự đối nghịch của tâm buông
lung hay tán loạn. Bình thường trạng thái tinh thần của chúng ta
chạy đi
mọi hướng nhưng nếu sự tập trung được dồn vào một đối tượng, bạn
bắt đầu biết bản chất thực sự của đối tượng ấy. Tiến trình của
tập trung lần lần thay đổi trạng thái tinh thần cho đến khi toàn
bộ năng
lượng tinh thần đồng quy vào một điểm.
Mục đích
phát triển nhất của nhất điểm tâm là gì? Nếu bạn huấn luyện tâm
theo đường lối ấy, bạn sẽ mang lại bình tĩnh và sự tĩnh lặng cho
tâm
và bạn sẽ có thể gom sự chú ý vào một điểm cũng như có thể ngưng
những vọng tưởng của tâm và những phí phạm năng lượng hữu dụng.
Tâm
bình tĩnh không phải là mục đích. Sự bình tĩnh của tâm chỉ là cần
thiết để phát triển tuệ giác. Nói một cách khác, một tâm bình tĩnh
cần
thiết nếu bạn muốn có một cái nhìn sâu vào chính bạn và có được sự
hiểu biết sâu xa về chính mình và thế giới.
Thiền
Samatha huấn luyện tâm với nhiều giai đoạn khác nhau của sự tập
trung
tinh thần. Ở giai đoạn cao của sự tập trung tinh thần (được biết
là
jhana - đắc thiền-na), sức mạnh tâm linh được phát triển. Tuy
nhiên giai
đoạn cao về tập trung không cần thiết hay thực tiễn cho hầu hết
mọi
người sống trong nhịp độ cuồng nhiệt của đời sống hiện đại.
Với hầu hết
mọi người, tâm nhẩy từ quá khứ tới hiện tại, tới vị lai và từ chỗ
này đến chỗ khác. Những người như vậy phí phạm một khối lượng
năng lực tinh thần to lớn. Nếu bạn có thể huấn luyện tâm bạn duy
trì
đủ sự tập trung chú ý đến mỗi nhiệm vụ từng chập một thì quá thừa
đủ! Khi bạn đọc, tản bộ, nghỉ ngơi, trò chuyện - bất cứ gì bạn
làm trong cuộc sống hàng ngày, hãy hoạt động với một tâm bình
tĩnh, đó
là chú tâm đến mỗi và mọi hành động. Hãy học cách nhắm tâm vào mỗi
nhiệm vụ.
Sống
Ngay Bây Giờ!
Nếu bạn
muốn phát triển sự tập trung, nhiệm vụ trước nhất là bạn phải tìm
một đối tượng thích hợp mà bạn có thể phát triển tập trung được
tâm. Trong thiền Phật Giáo, có 40 đối tượng (không phải là phương
cách
hay phương pháp) bạn có thể sử dụng để phát triển tập trung. Bạn
không cần thiết phải sử dụng cả 40 đối tượng mà chỉ chọn một
trong số đó thích hợp với tính khí và tâm tính của bạn. Nếu bạn
không có thầy chọn cho bạn đối tượng thích hợp, bạn phải thử
nghiệm
và tự lựa chọn. Dưới đây là một vài hướng dẫn để tự tìm ra đối
tượng thích hợp cho việc tập trung:
* Ðối tượng
phải trung tính; nếu nó gợi lên bất cứ cảm nghĩ mạnh mẽ về tham,
sân
vân vân.. bạn không thể làm tâm bình tĩnh mà còn bị bồn chồn và
khích
động.
*Ðối tượng
có thể ở trong hay ở ngoài. Ðối tượng ở trong là bên trong bạn.
Thí dụ
đối tượng ở trong như hơi thở, lòng từ ái, từ bi vân vân.. Ðối
tượng
bên ngoài có nghĩa đối tượng ở bên ngoài bạn. Thí dụ đối tượng bên
ngoài như: hình Ðức Phật, một đóa hoa, ngọn núi, vòng ánh sáng,
một ngọn
lửa nến vân vân..
* Ðối tượng
phải vừa ý, tâm có thể chấp nhận được; nếu tâm luôn luôn bác bỏ
đối tượng, sự tập trung sẽ bị yếu đi.
* Nhớ rằng
đối tượng có lúc thích hợp với bạn nhưng rất có thể không được tâm
chấp nhận vào lúc khác. Thí dụ, sau một cơn thịnh nộ, rất khó khăn
cho bạn sử dụng lòng từ ái như một đối tượng để tập trung. Vào
những
lúc như thế, cảm xúc nóng giận tự nó có thể dùng là một đối tượng
tốt để tập trung.
Một khi đã
chọn lựa đối tượng, nhiệm vụ của bạn chỉ đơn giản là giữ tâm bạn
cột vào đối tượng như bạn cột một con vật vào cọc. Chìa khóa để
thực hiện tập trung là giữ tâm vào một đối tượng, không vào đối
tượng nào khác. Bằng cách tụ tâm vào đối tượng, tâm dần dần trở
nên bình tĩnh và thư dãn.
Ðây một số
bài tạo rèn luyện sự tập trung mà bạn có thể phát triển như một
loại
thiền chính thức hay một phần trong hoạt động hàng ngày của bạn.
- Tập về
sức khỏe: trong khi đi đi lại lại, hãy giữ ba ý tưởng này trong
tâm:
"sung sướng, mạnh và khỏe". Hãy nhắc đi nhắc lại những lời
ấy, tập trung tâm vào những lời ấy cho đến khi cảm thấy những lời
ấy thâm nhập vào thân theo qui luật tự nhiên.
- Tập về
suy nghĩ: Trong khi nghĩ về một đề tài, chú tâm vào đề tài ấy. Tụ
tâm vào đề tài ấy mà suy xét. Không nuôi dưỡng tư tưởng xa lạ hay
không
thích hợp nào.
- Thực tập
thông lệ hàng ngày: khi đọc sách, giữ mắt và tâm vào cuốn sách.
- Khi quét
nhà, chú tâm vào việc quét nhà.
- Khi đọc
cho người khác viết một lá thư, chú tâm vào việc đọc chứ không
phải
người thư ký.
- Học cách
tập trung vào việc bạn làm từng lúc một. Ðó là sống trong hiện
tại.
Sống ngay bây giờ!
Vipassana:
Minh Sát Thiền
Tuệ minh
sát thiền là sự hiểu thấu bản chất bên trong sự vật; Vipassana là
nhìn sự vật chúng đúng la vậy. Con đường dẫn đến hiểu thấu bên
trong hay nhận thức là tỉnh thức hay chú tâm. Phương pháp phát
triển sự
chú tâm căn cứ vào bài giảng nổi tiếng của Ðức Phật. Trong bài
thuyết
giảng này, Ðức Phật giải thích cách phát triển và trau dồi tâm.
Tên của
bài thuyết pháp này là Kinh Satipatthana (Niệm Xứ). Trong kinh
này, Ðức Phật
đưa ra bốn đối tượng thiền để cân nhắc: thân, cảm nghĩ, tư tưởng
và trạng thái tâm. Nền tảng của việc tập Minh Sát Thiền là sử dụng
bốn đối tượng đó cho việc phát triển sự tập trung, chú tâm, và tuệ
giác hay hiểu thấu chính mình và thế giới chung quanh mình.
Satipatthana
trình bày phương pháp đơn giản, trực tiếp và hữu hiệu cho việc
huấn
luyện tâm để đáp ứng nhiệm vụ và những vấn đề hàng ngày hầu đạt
được mục tiêu tối thượng: giải thoát. Satipatthana an toàn cho tất
cả
loại tính nết, và là phuơng cách vô hại để huấn luyện tâm. Bạn có
thể dùng được phương pháp này bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu,
trong phòng sở bận bịu hay trong bầu không khí yên tĩnh của một
đêm
thanh bình.
Nhiệm vụ
phát triển sự tỉnh thức là chú tâm (sati). Tỉnh thức rất
đơn giản,
rất thông thường, và rất quen thuộc với trạng thái của tâm. Trong
giai
đoạn sơ khởi, tỉnh thức tức hết sức chú tâm vào một đối tượng.
Có nghĩa là bạn chỉ quan sát đối tượng mà không có suy xét hay suy
nghĩ
về nó. Tỉnh thức đơn giản là quan sát hay đem chú tâm mà không có
một
phán xét hay suy nghĩ nào.
Thân Là
Một Ðối Tượng Của Thiền
Mục đích
của những bài thiền tập này là để nhận thức bản chất của thân và
không luyến chấp vào thân, không bị lôi cuốn hay cự tuyệt bởi tâm.
Thường
đa số người tự nhận dạng mình bằng thân. Tuy nhiên, ở một giai
đoạn
thanh tịnh tâm thần và tuệ giác, bạn sẽ không còn chú ý nghĩ mình
là một
thân, bạn không còn đồng nhất hóa với thân. Bạn sẽ bắt đầu nhìn
thân đúng như nó là thế .
Bài Tập
1: Chú Tâm về Hơi Thở (anapanasati)
Ðã chọn
xong thì giờ và địa điểm, và đã áp dụng tư thế thích hợp nhất, bạn
sẵn sàng bắt đầu. Thở lặng lẽ và tự nhiên, trong khi thở hoàn toàn
nhận thức hơi thở của bạn. Nhận thức hành động thở không đồng nhất
hóa bạn với hơi thở ấy. Thừa nhận tiến trình ấy như sau: "Hít
vào" "Thở ra". Nếu nhiều ý tưởng hay vọng tưởng phát sinh
và quấy rầy sự tập trung của bạn, bạn có thể đếm hơi thở: Hít
vào 1, 2, 3 - "Thở ra 1, 2, 3.." Khi tập trung tăng trưởng, không
cần
đếm nữa và nhận thức mình đang thở. Cố gắng chú ý đến điểm trên
lỗ mũi, chỗ hơi thở chạm với thân.
Hơi thở có
thể trở nên sâu hay nông, chậm hay nhanh, theo khuynh hướng tự
nhiên. Giữ
thân thẳng thắn và bất động trong khi tinh thần tỉnh táo, hãy theo
dõi
sát và càng giữ bất động càng tốt. Khi bạn thành thạo với bài tập
này, thân trở nên thoải mái va hơi thở điều hòa. Bạn sẽ thấy rất
an
lạc và không bị phiền nhiễu bởi những biến cố trong tâm hay bên
ngoài.
Trong khi thực
hành bài tập này, bạn nên quên đi công việc đủ loại hàng ngày, và
không nên ý thức cả về chính bạn nữa. Chỉ cần nhận biết tiến
trình hơi thở, hít vào biết hít vào, thở ra biết thở ra. Sáng sớm
là
lúc rất tốt cho bài thực tập này.
Bài Tập
2: Chú Tâm Lúc Kinh Hành
Thực tập
đi kinh hành băt đầu bằng đứng tại chỗ. Tư thế đứng với thân
thẳng,
gót chân chạm vào nhau. Mắt nhìn thằng phía trước, không nhìn lên
và cũng
không nhìn xuống.
Giữ tư thế
như vậy suốt lúc tập đi kinh hành. Ðừng theo những chuyển động
bằng
mắt mà bằng sự chú tâm. Trong khi đứng, nhận thức mình đứng, nhận
biết
bạn đang đứng bằng cách nói trong tâm "Ðang đứng, đang đứng, đang
đứng" Bây giờ bắt đầu đi, trước hết chú ý đến gót chân bên
chân phải. Nhận biết nhấc chân phải bằng cách nói trong tâm,
"nhấc".
Bước tới và nhận thức,"bước" . Hạ thấp chân xuống và để
trên mặt đất, nhận thức bằng tinh thần. "Ði".
Tập kinh
hành gồm có ba giai đoạn: "nhấc", "bước", và "đi".
Nhận biết mỗi giai đoạn khi bạn đi chú tâm tập trung vào những
động
tác của phương pháp đi cho đến khi bạn tiến tới cuối đường.
Bạn ngùng
lại, hai châm chụm nhau trong tư thế đứng thẳng, nói trong tâm::
"Ðang đứng, đang đứng, đang đứng". Khi bạn quay lại bằng gót
chân, nhận biết mỗi giai đoạn của sự chuyển động quay lại: quay
gót
của một chân và nhấc chân lên rồi đặt chân xuống đất của chân kia.
Nhận biết bằng cách nói "quay". Khi quay xong, nhận biết tư thế
đứng:Ðang đứng, đang đứng, đang đứng". Rồi bắt đầu bước tới:
"Nhấc, bước, đi". Việc thực tập này phải được làm chậm
rãi càng chú tâm càng tốt.
Nếu bất cứ
cảm nghĩ, tư tưởng, tiếng động, xáo trộn vân vân phát xuất, bạn
phải
nhận biết khi chúng đến. Nếu bạn nghe thấy một tiếng động, bạn tự
nhủ "Nghe, nghe, nghe" Nếu một vài tư tưởng xâm nhập tâm, nhận
biết và nói "suy nghĩ, suy nghĩ, suy nghĩ" Sau khi nhận biết, quay
sự
chú ý về thực tập kinh hành.
Bài Tập
3: Chú Tâm Về Thân Trong Ðời Sống Hàng Ngày
Một khi bạn
đã phát triển sự tập trung tỉnh thức với thân như môt đối tượng
của
thiền, bạn phải cố gắng hiểu rõ ràng bạn đang làm gì với thân mọi
lúc trong ngày làm việc. Trong khi đi bộ, chú ý đến động tác đi
bộ, với
nhiều chi tiết mà bạn có thể quan sát được. Tự bạn cũng nhận thức
khi thân ngồi, đứng, tựa. Quan sát cử động của thân dù trong hành
động
nhìn vào, hay nhìn chung quanh, dù cúi xuống hay duỗi ra, dù mặc
quần áo, rửa,
ăn, nhai kẹo cao xu, hay đáp ứng việc đại, tiểu tiện. Mục đích là
giữ
vững vàng sự chú ý vào mỗi biến chuyển trong khi nó hiện hữu mà
không
theo những biến chuyển ấy với tưởng tượng là chúng không hiện hữu.
Mục đích bị mất nếu thân làm một đàng mà tâm nghĩ một nẻo.
Bất cứ lúc
nào bạn có thì giờ rảnh trong ngày, hãy sử dụng thân như một đối
tượng
của sự tập trung tỉnh thức.
Cảm
Nghĩ Như Những Ðối Tượng Của Thiền
Nhiệm vụ
ở đây là tinh thần phải nhận thức mỗi cảm nhận lúc cảm nhận ấy
phát sinh. Bạn có rất nhiều việc phải làm nếu bạn muốn giải quyết
với
những cảm nghĩ. Bạn phải hiểu thấu những loại cảm nghĩ phải hay
không
phải chúng đem thích thú, không thích thú hay trung tính. Bạn phải
hiểu
làm sao chúng trở thành, làm sao chúng phát triển sau khi phát
sinh, và làm
sao chúng biến đi. Cảm nhận nảy sanh bất cứ lúc nào có sự tiếp xúc
giữa những giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân) và những đối
tượng
bên ngoài. Cảm nhận phải được nhận thức và hiểu rõ đúng chúng như
thế nào.
Bài Tập
1: Chú tâm vào những giác quan căn bản
Bạn phải
tỉnh thức về những cơ quan của giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi và
thân)
và sự tiếp xúc của chúng với thế giới bên ngoài. Bạn phải tỉnh
thức
về những cảm nghĩ phát sinh do kết quả của những sự tiếp xúc ấy.
Thí dụ: tai tiếp xúc với tiếng động (Như trẻ em la lối và cười)
bên
ngoài chỗ bạn thiền. Cảm nghĩ không thích thú nảy sanh hay thân
tiếp
xúc với bề mặt cứng (cái ghế mà bạn ngồi lên). Không thích; không
không thích thú. Cảm nhận như ngứa trong mũi; cảm nhận không thích
thú;
muốn gãi. Nhận biết cảm nhận và bạn giống như người gác cửa luôn
luôn phải canh chừng người vào ra. Sử dụng cảm nghĩ như đối tượng
để tập trung tỉnh thức. Rồi bạn sẽ hiểu bản chất của cảm nghĩ và
bạn có thể thực tập kiểm soát chúng tốt hơn.
Bài Tập
2: Chú tâm về những cảm nghĩ trong đời sống hàng ngày
Cố gắng từ
từ thiết lập sự kiểm soát về những cảm nghĩ bằng cách điều độ
trong ăn uống, bằng cách tránh ngủ nhiều. Cố gắng nhìn thấy những
cảm
nghĩ khi chúng phát sinh trong tiến trình đời sống hàng ngày. Ðây
một
vài thí dụ như khi chờ đợi tại trạm xe buýt, quan sát," "sự bất
mãn nảy sanh trong tâm". Trong khi vui hưởng thức ăn trong nhà
hàng ăn,
quan sát "Lưỡi tiếp xúc với những vật ngon. Tham ăn nảy sanh.
"Khi bạn gặp người bạn tốt mà đã từ lâu không được gặp, quan
sát, " tâm tiếp xúc với đối tượng về tình bạn. cảm nghĩ tốt,
sung sướng nảy sanh".
Các Trạng
Thái Tinh Thần Như Những Ðối Tượng Của Thiền
Bạn không
thể chạy trốn khỏi tâm. Với thiền bạn có thể huấn luyện cho tâm
bình tĩnh và thoát khỏi những xáo trộn bên trong hay bên ngoài. Áp
dụng tập
trung tỉnh thức với những hỗn loạn bên trong và mâu thuẫn tinh
thần,
quan sát, hay chú tâm đến tất cả những trạng thái thay đổi của
tâm.
Khi tâm được phát triển đúng cách, nó mang niềm vui và hạnh phúc
nhất.
Nếu tâm bị sao lãng nó mang lại cho bạn trở ngại và khó khăn không
kể
siết. Tâm kỷ luật rất mạnh mẽ và hữu hiệu, trong khi tâm do dự thì
yếu
và không hữu hiệu. Người trí huấn luyện tâm họ như người luyện
ngựa
huấn luyện ngựa.
Bài Tập
1: Quan Sát Tâm
Ngồi một
mình và quan sát những trạng thái thay đổi của tâm. Nhiệm vụ chỉ
là vấn
đề quan sát sự thay đổi các trạng thái. Không tranh đấu với tâm,
hay lẩn
tránh tâm, hoặc cố gắng kiểm soát nó. Ðơn giản nhìn vào tâm và cố
gắng
thấy nó như thế nào. Khi tâm ở trong trạng thái tham dục, phải
tỉnh thức
biết nó tham dục. Quan sát khi tâm ở trong trạng thái sân hận hay
khi nó
thoát khỏi sân hận. Quan sát tâm tập trung hay tâm mung lung. Quan
sát những
hoàn cảnh thay đổi này mà không đồng nhất hóa với chúng. Nhiệm vụ
là không chú tâm đến thế giới mà nhắm vào chính tâm bạn: Tâm quan
sát
tâm để khám phá ra bản chất của chính nó. Quả là một nhiệm vụ hoàn
toàn không dễ, nhưng có thể làm được.
Bài Tập
2: Quan Sát Tâm trong đời sống hàng ngày
Trong tất cả
mọi tình trạng, bạn phải quan sát sự hành hoạt của tâm mà không
đồng
nhất với hay bào chữa cho tư tưởng của bạn, không xây bức màn của
thành kiến, không mong chờ tưởng thưởng hay thỏa mãn. Khi bạn đang
quan
sát, cảm giác ham muốn, sân hận, ganh ghét, và nhiều trạng thái
bất thiện
khác chắc chắn phát sanh và làm đảo lộn quân bình của tâm. Ðó là
lúc
bạn phải thiền để kiểm soát những yếu tố có hại ấy. Những thí dụ
như: nhận biết, " tâm lo lắng vì tôi lỡ chuyến xe buýt. Sự lo lắng
không phải là xe buýt, sự lo lắng là tâm". Nhận biết " Sân hận
trong tâm vì tôi không thích đồ ăn này. Sự sân hận không phải
trong đồ
ăn, đó là trong tâm. Tôi phải cẩn thận quan sát sân hận này trong
tâm".
Tư Tưởng
Như Những Ðối Tượng Của Thiền
Trong Kinh
Satipatthana nói đến sự tỉnh thức về con đường giác ngộ do Ðức
Phật
trình bày. Nơi đây nhiều khía cạnh của Pháp hay Giáo Lý của Ðức
Phật
- đối tượng tinh thần- được chú tâm thẩm tra và quan sát khi chúng
phát sinh trong tâm. Với những người mới bắt đầu hành thiền và
không
ý thức đến những khía cạnh này của Giáo Lý của Ðức Phật, những đối
tượng này có thể là những tư tưởng và quan niệm phát sinh trong
tâm.
Nhiệm vụ
nơi đây là tỉnh thức về những tư tưởng sinh rồi diệt trong tâm.
Bạn
sẽ từ từ hiểu bản chất của những tư tưởng . Bạn phải hiểu cách
làm sao sử dụng những tư tưởng thiện và tránh cái nguy hiểm của
những
tư tưởng có hại. Tư tưởng của bạn lúc nào cũng cần được quan sát
nên tâm phải được thanh tịnh hóa.
Bài Tập
1: Chú tâm về những tư tưởng
Ngồi một
mình rồi tập trung tâm vào những tư tưởng. Quan sát những tư tưởng
thiện
và thấy chúng ảnh hưởng tinh thần bạn ra sao. Quan sát những tư
tưởng
có hại và thấy chúng xáo trộn tinh thần bạn ra sao. Ðơn giản là
quan
sát tư tưởng một cách vô tư và tạo cơ hội để vượt qua chúng. Sự
chuyển động vượt qua tư tưởng và kiến thức mang an lạc, hòa hợp,
và
hạnh phúc. Giống như bạn quan sát người ra vào phòng bạn. Bằng
cách tỉnh
thức về những tư tưởng, bạn từ từ có thể giảm thiểu những tư
tưởng:
mỗi tư tưởng được giảm thiểu mang thêm an lạc và sức mạnh cho tâm.
Nếu bạn chiến đấu với tư tưởng bạn sẽ có một nhiệm vụ rất
không thích thú. Ðơn giản hãy quan sát chúng. Từ từ bạn sẽ hiểu
được
cách kiểm soát những tư tưởng tội lỗi và khuyến khích các tư tưởng
thiện.
Bài Tập
2: Chú tâm về đối tượng tinh thần
Thường nhật
trong ngày làm việc, cố gắng quan sát tiến trình suy nghĩ của bạn.
Không
đồng nhất hóa với tiến trình ấy, đơn giản quan sát nó. Nhận biết,
" Bây giờ sự suy nghĩ của tôi sai, tôi đang toan đánh lừa người
này".
Nhận biết, tâm suy nghĩ rất tiêu cực bây giờ. Bất cứ gì tôi suy
nghĩ,
tôi đều suy nghĩ tiêu cực. Tại sao lại như vậy? Nhận biết "Ðó
là môt ý tưởng tốt vừa mới xuất hiện trong tâm. Tôi phải đưa ý
kiến
này cho Ông X. để sử dụng".
Tiến Triển
Trong Thiền
Xin nhớ hành
thiền đòi hỏi nhẫn nại, bền bỉ, và cố gắng và một thời gian dài
để hoàn thành. Không có con đường tắt. Không có công thức thần
diệu.
Tiến trình
thiền đòi hỏi làm việc tích cực: như lội ngược dòng.
Bạn sẽ bị
thất vọng nếu bạn mong muốn có kết quả tức khắc hay nhanh chóng từ
việc hành thiền của bạn. Nếu bạn là người bận rộn với những tham
vọng trần tục, bạn không thể tức khắc và tình nguyện an tâm bạn
đến
mức dẹp hết được tất cả tư tưởng; bạn không thể tức khắc kinh
qua được sự tập trung tỉnh thức mạnh mẽ và liên tục.
Nếu bạn
hy vọng tiến bộ về thiền, bạn phải đặt mình vào một số luật lệ
rèn luyện. Luật lệ rèn luyện rất quan trọng đối với thể lực của
một
lực sĩ muốn chiếm giải vô địch. Cũng thế luật lệ rèn luyện rất
quan trọng cho việc sung sức của một thiền giả muốn đạt được tiến
bộ lâu dài. Thiết lập kỷ luật tự giác, phải giống như dây của cây
đàn lục huyền cầm không căng quá mà cũng không trùng quá: đừng để
mất
sự hòa hợp.
Sức khỏe
về tinh thần và thể lực tốt rất cần thiết cho sư tiến bộ của bạn.
Bạn phải duy trì và tạo ra năng lượng tinh thần và thể xác đầy đủ.
Một thân xác hay một tâm yếu đuối và suy nhược là một trở ngại lớn
cho việc hành thiền. Bạn phải để cho thân và tâm nghỉ ngơi, thực
tập
và có chế độ ăn uống đúng cách.
Làm sao bạn
có thể phán xét tiến bộ thực sự của bạn về hành thiền? Không mấy
dễ dàng cho một người ước lượng sự tiến bộ tinh thần của mình.
Không nên xét đoán sự tiến bộ qua trạng thái phớn phở chốc lát,
nhận
thức biến đổi, tình trạng bất thường của thức, thần thông huyền
bí. Sau đây là một luật lệ khắt khe để bạn đo lường sự tiến bộ
thực sự của bạn: nếu bạn đạt sự gia tăng về trạng thái hạnh
phúc, an lạc và tịch tịnh, và bạn thấy giảm thiểu tình trạng buồn
bã, thất vọng, lo lắng, băn khoan, bạn có sự tiến bộ thực sự.
Hành Thiền
Trong Ðời Sống Hàng Ngày
Trạng thái
tập trung tỉnh thức có thể được phát triển như một loại thiền
chính
thức. Tuy nhiên trạng thái này phải được dần dần chuyển vào đời
sống
hàng ngày. Việc này cần phải có thời gian, cố gắng và nhẫn nại
nhưng
bạn có thể áp dụng thiền trong suốt cuộc đời.
Nếu bạn
muốn như vậy, bạn có thể luôn luôn tạo những cơ hội phát triển một
số dạng thức tập trung tỉnh thức trong đời sống hàng ngày. Trong
đời
sống hiện đại, có quá nhiều bổn phận phải thi hành, quá nhiều
những
hành động vội vàng, những lúc căng thẳng, và những tình trạng lo
lắng
tạo thành sự lãng phí lớn năng lượng tinh thần. Giũa cái náo động
của
cuộc đời, hãy bỏ ra ít phút trong một ngày để thiền dịnh lặng lẽ
hầu
làm sung mãn tâm bạn. Ðó là tài sản cho công việc hàng ngày của
bạn
và cho sự tiến bộ. Bằng cách quan sát tư tưởng và cảm nghĩ của
những
người khác khi chúng phát sinh trong lề thói hàng ngày, bạn cũng
có thể từ
từ thăm dò vào ý nghĩa bên trong của sự vật. Bạn có thể tìm thấy
sức
mạnh và an lạc bên trong.
Nếu bạn
có thể tu tập thiền trong đời sống hàng ngày, bạn hoàn toàn sống
và
đang sống trong hiện tại. Bạn hoàn toàn tỉnh thức về điều xẩy ra
bên
trong và chung quanh bạn. Trong cái thế giới chao đảo này, bạn
sống với
nội tâm an lạc và bình thản.
22
GIỚI
HẠNH (SILA)
Hòa
Thượng Phra Sasana
Sobbana - Thái Lan
Giới hay hạnh kiểm đạo đức à
nguyên tắc cư xử của con người tạo cuộc sống có trật tự và hòa
bình trong cộng đồng. Luật lệ của hạnh kiểm luân lý tìm thấy ở mọi
tôn giáo. Những luât lệ này có thể giống nhau về tiêu chuẩn hạnh
kiểm
ở mức độ nhiều hoặc ít tùy theo chúng bắt nguồn từ vị thầy hay hệ
thống tôn giáo nào. Thường thường những luật lệ này bao gồm những
bản
liệt kê những hành động phải tiết chế, ngụ ý những hành động nào
không nằm trong sự cấm đoán là được phép. Một thí dụ là năm giới
của
người Phật Tử, đó là không giết chúng sinh, không được lấy bất cứ
thứ gì nếu thứ ấy không được cho bởi chủ nhân, không tà dâm, không
nói dối hay nói lời tội lỗi, không dùng những chất say, nguyên
nhân đầu
tiên gây ra sơ xuất . Năm giới này là nguyên tắc căn bản của Phật
Giáo
hầu hết mọi người đều biết đến. Theo thông lệ những giới này được
giảng cho họ trong hầu hết các cuộc lễ để họ tự tuyên bố chính
thức
ý định giữ các giới này. Người dân trong các quốc gia Phật Giáo
nhìn
thấy hay nghe các thầy tu nói ra những giới này từ khi họ còn nhỏ
và chưa
hiểu những giới này. Bởi vậy cho nên, đó là điều lợi ích khi xét
qui
mô mà đa số nhận thức được sự quan trọng của giới và điều mà họ
nghĩ về giới, nhất là hầu hết các giới ấn định tiêu chuẩn đạo đức
khác biệt lớn với cái lề thói thường ngày của con người. Một số
người ủng hộ giới trong khi một số người khác không ủng hộ, một số
người tu tập giữ những giới như sau:
Giới Thứ
Nhất: Sự cấm lấy đi mạng sống không những chỉ cho loài người
mà
cho tất cả các sinh vật thuộc mọi loại, cả lớn lẫn bé, từ con sâu
con kiến. Mỗi ngày, một số lớn súc vật bị giết để làm thực phẩm,
người ăn thịt nhiều, trong khi những người ăn chay lại ít. Trong
lãnh vực
khoa học, nhiều con vật được dùng trong nhiều công cuộc khảo cứu
và
thử nghiệm. Trong lãnh vực hành pháp, vũ khí được sử dụng để diệt
tội phạm. Những cơ quan bảo vệ luật pháp trừng phạt kẻ phạm pháp.
Những kẻ hiếu chiến sử dụng vũ khí để giết hại lẫn nhau. Những
hành
động kể ra trên đây là những thí dụ không bị coi là bất hợp pháp
hay đi ngược lại lề lối hàng ngày trên thế giới. Thực ra, người ta
còn
có thể cho là sai khi cấm làm những hành động đó, như trường hợp
cảnh
sát hay quân nhân không làm tròn nhiệm vụ cảnh sát hay quân sự.
Ngày nay,
nhiều động vật bị cấy những vi trùng, và nhờ những vi trùng, những
mầm
bệnh, và nhiều loại vi trùng đã được khám phá. Hầu hết mọi thứ đều
chứa vi trùng - ngay cả đến nước uống. Tuy có một phần lớn những
bất
tịnh được ngăn lại bởi máy lọc, vi trùng vẫn qua được. Cho nên vô
số
vi trùng vào trong cuống họng ta với mỗi ngụm nước. Cũng giống như
vậy
với thuốc men, bất cứ lúc nào thuốc men được dùng đến, vô số vi
trùng bị giết. Những vi trùng có được coi như chúng sinh (trong ý
nghĩa của
giới thứ nhất ) hay không phải là chúng sinh? Nếu như vậy, không
ai có
thể hoàn toàn tuân theo giới này được. Ngoài ra một số người có
quan
niệm là người không giết mạng sống con vật cũng nên không ăn thịt,
vì
nó khuyến khích người giết và người ăn, tội cũng không kém gì
người
giết.
Giới Thứ
Hai: Lấy bất cứ thứ gì mà không được cho bởi chủ nhân hay trộm
cắp
cũng sai ngay cả về mặt pháp lý. Tuy nhiên, chẳng hạn có ngoại lệ
về
tài sản của kẻ địch trong trường hợp chiến tranh.
Giới Thứ
Ba: Gian dâm là sai. Người phạm tội gian dâm không còn được
kính nể
và không được ai tin cậy. Tà dâm dính líu tới những người mà mối
liên hệ vợ chồng phải tránh theo tập tục, hay với những người cấm
bởi
pháp luật, hay bởi Pháp, là sai. Cho nên ép buộc bằng phương tiện
vũ lực
hay tài chánh một người đã có gia đình hay người chưa có gia đình
ưng
thuận là tà dâm. Mục đích của giới thứ ba là gìn giữ sự kính trọng
gia đình và mỗi người liên hệ để bảo vệ tính cách thiêng liêng bất
khả xâm phạm. Ngoài ra, kính trọng người, nơi ăn chốn ở, và tài
sản
phải là một tập quán hành xử, như đã ghi trong sách: "Ðạo Ðức của
người lương thiện", chẳng hạn như sau: "Không được vào nhà
khi không được mời. Không được nhìn trộm vào phòng người ta từ bên
ngoài". Rất thích đáng cho chúng ta áp dụng cung cách lấy từ những
giới hay luật lệ luân lý, tất cả những luật lệ ấy nhằm vào khuyến
khích hành xử lương thiện và ngăn chặn tính cách lỏng lẻo vô kỷ
luật.
Giới Thứ
Tư: Nói dối thường được coi là sai. Tuy nhiên, người ta rất ít
khi
nói thực với nhau và lời nói của họ khó mà có thể tin được. Ðôi
khi họ không thể nói được sự thật, chẳng hạn, họ phải nói dối để
thoát khỏi bị hại, và bác sĩ nói dối để giúp đỡ tinh thần bệnh
nhân.
Nói dối vào những trường hợp như vậy có thể là trái ngược với
Giới,
nhưng không hẳn là trái ngược về mục đích. Giới này mục đích là
đem lợi ích hỗ tương bằng cách gắn vào sự thật và tránh sự xúc
phạm
bằng lời nói. Giống như vậy, lời phát biểu làm hại hạnh phúc người
khác, chẳng hạn lời nói hiểm độc, sỉ nhục, hay phỉ báng nhằm nhạo
báng người khác và khoe khoang mình là người đáng tin, có thể là
sự thực
nhưng những lời như vậy bị coi là sai vì chúng trái với Giới. Ðược
biết chính Ðức Phật nói điều tin cậy là điều hữu ích và đem lợi
lạc.
Ngài đặt ra Giới chống lại nói dối, làm nản lời nói hiểm độc,
không
đứng đắn và vô ích.
Giới Thứ
Năm: Mặc dầu luật cấm dùng các chất say, sự tiêu thụ chất say
không giảm và những nhà máy cất rượu vẫn hoạt động mạnh mẽ. Những
tiệm rượu vẫn được mở cả đêm ngày. Tại các cuộc tiếp tân, hội
chợ vân vân.. người ta vẫn uống rượu để kích thích cuộc vui nếu
không họ sẽ chán nản và ít người đến. Rượu trở thành lợi nhuận tức
mang lại một số doanh thu to lớn mỗi năm.
Thực hành
được coi như đúng với người này lại sai với người khác; có thể cả
hai ngược lại với giới, như trình bày ở cái ví dụ trước đây. Tất
cả những điều này cho thấy ta càng ngày càng không hiểu giới,
không
công nhận sự quan trọng của giới và không cảm nhận ý nghĩa của
giới
cho một cuộc sống trên thế gian này. Cho nên đó là lý do tại sao
quan điểm
sai và đúng sau đây đều có những người biện hộ:
1. Những
nguyên tắc của giới nên được sửa đổi cho phù hợp với những người
có nghề nghiệp trong cuộc sống bình thường. Chẳng hạn, một số
người
cảm thấy Giới Thứ Nhất phải thay đổi cho phép giết theo luật định,
nghĩa là chỉ khi giết mà không được luật cho phép thì mới bị cấm
mà
thôi. Hơn nữa, Giới Thứ Tư, theo họ nghĩ, nên được linh động và
nói
dối được cho phép khi nói dối để bảo vệ mình và người khác. Cũng
vậy
với Giới Thứ Năm uống chất say được cho phép vào những dịp nào đó
và không được thái quá.
2. Nguyên tắc
của Giới phải để nguyên vẹn nhưng không ai cần thiết phải để ý đến
giới. Nếu những ai hành động tôn trọng luật pháp họ được coi như
những
người vừa ý. Xét cho cùng luật là một loại giới. Luật được đặt
ra để bảo đảm hòa bình và hạnh phúc cộng đồng, tuy rằng nó không
hoàn toàn căn cứ trên nguyên tắc tâm lý và luân lý hữu lý những
điều
là nền móng của Giới, một điểm mà ta bàn đến sau này.
3. Nguyên tắc
của giới phải nên để nguyên bất khả xâm phạm, nhưng được lưu ý
và giữ từng lúc một tùy theo hoàn cảnh cụ thể. Ða số người Phật Tử
thuộc loại người hành động theo đuờng lối này. Họ không thay đổi
nguyên tắc của giới luật vì họ tin tưởng hoàn toàn vào giới và giữ
giới tùy từng dịp. Chẳng hạn, một số Phật Tử không uống rượu
trong một thời gian nào đó, nhưng rồi họ lại bắt đầu uống trở lại.
Nếu họ là dân chài lưới, buôn cá, họ không giữ Giới Thứ Nhất, vì
nếu
giữ giới này, họ không thể đánh cá hay bán cá, nhưng họ có thể
không
giết hại con vật khác. Nếu họ là những sinh viên y khoa, họ không
thể
giữ hoàn toàn Giới Thứ Nhất, nếu họ giữ giới này, họ không thể sử
dụng động vật trong công cuộc khảo cứu và thử nghiệm, nhưng họ vẫn
giữ giới này bất cứ lúc nào có thể thi hành được, có nghĩa là khi
giữ
giới không trở ngại đến nghề nghiệp và việc thi hành bổn phận của
họ.
4. Nguyên tắc
của Giới nên được giữ không thay đổi và phải triệt để thi hành.
Rất
ít người giữ quan điểm này. Nguyên tắc này có một số hoài nghi về
vi
trùng, và những ai không triệt để tuân theo Giới có thể có sự nghi
ngờ
hoặc do tò mò hoặc cho rằng Giới không thể thi hành được. Ðể quyết
đ?nh vi trùng phải hay không phải là một chúng sinh (trong ý nghĩa
của Giới
), ta nên xét đến cuộc đời Ðức Phật. Bất cứ lúc nào Ðức Phật
lâm bệnh, Ngài cho phép Bác Sĩ Jivaka Komarabhacca áp dụng chữa
trị bên
ngoài hay cho Ngài uống thuốc. Những thầy tu cũng được phép dùng
hay áp
dụng cách chữa trị để chữa bệnh. Cho nên, chúng ta có thể kết luận
Giới Thứ Nhất không áp dụng về vi trùng. Nếu áp dụng, chúng ta
không
thể ăn hay uống gì được, ngay cả thở nữa. Giới phải là những luật
lệ về hạnh kiểm mà bất cứ ai cũng có thể theo được trong một cách
thức bình thuờng thực tiễn và không cần đến dụng cụ như kính hiển
vi. Việc sử dụng những dụng cụ này dành riêng cho những người làm
nghề
y khoa hay khoa học.
Về việc
tiêu thụ thịt như thực phẩm, chính các Phật Tử cũng chia thành hai
phái. Một phái cho rằng ăn thịt thì cũng không kém tội lỗi như
hành động
của người giết. Họ cho rằng nếu thịt không được dùng làm thực
phẩm,
thì không có nguyên nhân phải giết chóc súc vật, cho nên tiêu thụ
thịt
chịu trách nhiệm trực tiếp về việc giết, vì vậy ăn thịt là sai.
Giới
Luật hay kỷ luật cho phép các thầy tu ăn thịt trong ba trường hợp,
đó
là: nếu họ không thấy và không nghe thấy tiếng kêu của con vật bị
giết,
và không có lý do nào để nghi ngờ là giết để cho họ ăn cũng như
chống
lại sự giết hại để đem bán. (Cũng có luật lệ cấm thầy tu ăn thịt
sống hay mười loại thịt bị cấm trong do có thịt hổ và thịt voi).
Theo
phái này, nhà sư thuộc trường phái Phật Giáo Nguyên Thủy, không
được
lựa chọn và tự do ăn thịt. Họ có thể dùng rau và thịt cung cấp
không
phạm vào ba trường hợp ghi trên được tuân hành và thịt không phải
là
một loại bị cấm. Các thầy nhận bất cứ thứ gì dâng cho quý thầy,
dù là rau hay thịt đúng loại. Ðiều này không trái với Giới, vì lẽ
tấm
lòng nhân hậu của những người Phật Tử như vậy, nhất là các thầy tu
tràn ngập với lòng lương hảo và từ bi vô bờ bến đối với loài vật.
Không bao giờ họ là nguyên nhân để súc vật bị giết. Hơn thế nữa,
để
đối lập với quan điểm rằng ăn thịt là sai, họ đưa ra lập luận như
sau: Nếu tiêu thụ thịt sai về mặt đạo đức thì việc dùng da, xương,
sừng cũng phải cấm. Việc sử dụng này phải coi như sai. Cả hai phái
vẫn
còn mâu thuẫn về vấn đề này, và một số thành viên của họ vẫn còn
có các lập luận. Nhưng có một số người không lý luận, để toàn bộ
vấn đề tùy thuộc lương tâm của cá nhân. Ta không nên bắt người
khác
phải chấp nhận quan niệm riêng của mình. Làm như vậy gây ô nhiểm
tinh
thần, cho nên phải tránh.
Câu hỏi
được nêu lên là vì mục đích mà Ðức Phật hy vọng phục vụ nhân loại
bằng cách đặt ra Giới ấn định sự tiết chế không thỏa hiệp mà chỉ
có một số ít người có thể tuân hành, phải chấp nhận là không ai
cho
là có thể biết được thâm ý của Ngài. Ý định đúng của Ngài là làm
như vậy; tuy nhiên ta có thể thu thập lý do từ nhiều nguyên tắc
nêu
trong Pháp. Ðức Phật dạy chúng ta so sánh ta và người khác bằng
cách
nói: "Tất cả chúng sinh đều sợ hãi trừng phạt và cái chết. Mạng
sống quý giá với tất cả chúng sanh (cũng như với chúng ta). Hãy
đặt chúng
ta vào chỗ của chúng, chúng ta hiểu rằng chúng ta, cá nhân, không
nên giết
mà cũng không nên khiến người khác giết". Trên nguyên tắc của
Pháp, Ðức Phật muốn chúng ta hiểu, thâm nhập cảm nghĩ của người
khác
là tất cả chúng sinh quý đời sống cũng như chúng ta quý và đều sợ
hãi
cũng không kém gì nhau về cái chết. Ðó là lý do tại sao, như một
vấn
đề công lý đơn giản, Ðức Phật đã đặt ra Giới Thứ Nhất. Giới Thứ
Hai được hình thành là để khuyến åkhích tôn trọng lẫn nhau về
quyền
sở hữu của mỗi người. Giới Thứ Ba khuyến khích sự tương kính gia
đình
của nhau. Giới Thứ Tư bảo vệ quyền lợi hỗ tương bằng sự thật. Giới
Thứ Năm giúp chúng ta tránh bất cẩn và sao lãng. Nếu chúng ta muốn
giữ
gìn cẩn thận của cải, gia đình, tín ngưỡng, chúng ta không nên xâm
phạm
quyền của người khác.
Tất cả những
Giới và luật lệ hạnh kiểm đều căn cứ duy nhất vào nguyên tắc của
một nền công lý toàn hảo. Chúng cho thấy sự kính trọng đời sống,
nhân
quyền, tài sản, vân vân... của Phật Giáo với mọi người. Ðó là sự
thật thế gian hay quy ước. Nếu Ðức Phật thiết lập Giới linh động
và
có thể áp dụng theo lời mong ước của đ?i chúng, thì giới ấy không
phù hợp với bản chất của một nền công lý toàn hảo. Chính Ðức cũng
cho thấy chính Ngài thiếu từ bi với những con vật mà việc giết
chúng
được cho phép. Ðiều này không phù hợp với đặc tính của Ðức Phật
tràn đầy từ tâm với tất cả chúng sinh. Một lý do khác đã nói ở
phần
đầu là Giới khuyến khích "một lợi ích đặc biệt". Ðó có nghĩa
là hậu quả tối thượng của sự tôn trọng giới là giải thoát khỏi tất
các ô trược. Giới là bước đầu tiến tới mục đích ấy. Giữ được
tất cả giới, dù rằng chỉ có năm giới, có thể tiến tới một mức độ
cao hơn mà ở đó lợi ích "rất đặc biệt" đạt được. Ðiều
có lẽ quan trọng đặc biệt về giới là khám phá ra tại sao người ta
chú
ý hay không chú ý đến việc giữ giới. Một số lý do ấy như sau:
1. Do sự
khắt khe của Giới:
Thí dụ cấm
lấy đi mạng sống của một chúng sinh. Giả sử những luật lệ hạnh
kiểm
đặt ra trong đường lối thích nghi hơn, khoan dung một số vi phạm
chúng
ta đã bàn, thì như vậy giới được nhiều người hay ít người tuân
theo? Rõ ràng, không ai dám bảo đảm sẽ xẩy ra ra sao vì lẽ ta có
cảm tưởng
chung là luật lệ tinh thần, đặc biệt những luật liên quan đến
những
điều theo ý nghĩa thế gian hoặc ý nghĩa pháp lý bị coi là sai, lại
luôn
luôn bị vi phạm dù là giới thứ nhất hay bất cứ giới nào khác. Ðiều
này chứng tỏ sự giữ giới không phải là do sự khắt khe. Thông
thường,
khuynh hướng tự nhiên của ta là theo tất cả những hành động đem
tiện
nghi và thuận lợi cho chính mình. Mọi quốc gia đều có luật lệ của
quốc
gia ấy và mọi tôn giáo đều có giới luật của tôn giáo ấy. Cả đến
một số luật rất linh động và dễ thích nghi, vẫn có thể chỉ có một
số ít dân chúng vi phạm luật lệ ấy. Cho nên lý do vi phạm nằm
trong
chính cá nhân ấy; Ða số có khuynh hướng tự nhiên không lưu ý hay
thay đổi
luật cho phù hợp để thuận lợi cho họ và có đủ khả năng để làm như
vậy.
2. Do chính
những cá nhân.
Rồi tại
sao cá nhân vi phạm luật, dù việc này thường được coi là sai theo
luật
pháp? Nguyên nhân của sự cư xử như vậy bao gồm chính trong cá nhân
con
người và chắc chắn là do tham, sân và si, sinh ra từ trong tâm như
những
ô trược và đến lượt lại vắng bóng sự xấu hổ và kinh sợ tội lỗi.
Cho nên khi thay đổi cần thiết, thay đổi không phải là ở nơi
nguyên tắc
của giới mà là sự thay đổi của tâm có nghĩa là giảm thiểu ô trược
hơn là làm tăng chúng lên trong đường lối biết xấu hổ và sợ tội
lỗi
- biết xấu hổ và kinh sợ gây tội lỗi phát hiện trong tâm. Bằng
cách
hành xử như vậy, khả năng giữ giới của chúng ta sẽ trở nên to lớn
hơn.
Giữ giới tốt hơn không có nghĩa là tiết chế mọi thứ bắt phải làm
theo. Tiết chế từ điều đuợc coi như sai theo quan niệm trần tục
hay
theo pháp lý chính nó là hạnh kiểm có thể chấp nhận được.
3. Do Sự
Cần Thiết:
Như những
trường hợp sau đây:
Vi phạm Giới
Thứ Nhất để bảo vệ tài sản của mình, đời sống, quốc gia, tôn
giáo, vua chúa, như xẩy ra tại chiến địa hay khi ta phải giải
quyết với
tội phạm hay kẻ địch. Vi phạm Giới Thứ Hai để giữ mạng sống của
mình vì đói hay thực sự nghèo khổ. Dường như không có lý do nào để
vi phạm Giới Thứ ba vì giữ giới này chắc chắn không giết ai cả. Vi
phạm
Giới Thứ Tư vì hạnh phúc của chính mình. Nhiều trường hợp nói ở
trên có thể kể là trường hợp cần thiết, thí dụ, nếu một người làm
nghề đánh cá hay một sinh viên y khoa.
Khi ta tự hỏi,
chẳng hạn, liệu có cần thực sự để giết hay trộm cướp, ta hiểu rằng
trường hợp này rất hiếm. Kết quả là cả đến ý định không vi phạm
giới, đến chừng mực ngoại trừ khi không thể làm gì khác được, và
phải tôn trọng sự cần thiết cho phép khiến chúng ta hiểu năm giới
có
thể giữ được, đến một mức độ rộng lớn không khó khăn và mất
mát mối lợi trần thế nào cả.
4. Do Sự
Thiếu Hỗ Trợ Và Bổ Sung Pháp.
Thiếu sự
bổ sung Pháp vào mỗi giới cũng có thể là nguyên nhân của sự vi
phạm.
Tâm từ hay lòng từ ái phải được trau dồi như một khía cạnh bổ sung
của Pháp cho Giới Thứ Nhất. Samma-avija hay Chánh Mạng phải
được
thực hành như khía cạnh bổ sung của Pháp cho Giới Thứ Hai. Santutthita
hay
sự mãn nguyện với một người hôn phối là một khía cạnh của Pháp
phải
được phát triển để bổ sung cho Giới Thứ Ba. Tính tin cậy là một
khía cạnh của Pháp phải được tuân hành để bổ sung cho Giới Thứ Tư.
Lưu ý và Thận trọng phải được gắn bó như một khía cạnh để bổ
sung Giới Thứ Năm. Giải thích một số bổ sung của Pháp như sau:
Chẳng hạn,
tâm từ bổ sung Giới Thứ Nhất, tâm từ hiện hữu nơi mọi chúng sinh,
xua đuổi tất cả ý muốn làm hại. Không nói gì đến tâm từ hay lòng
từ
ái bộc lộ bởi cha mẹ cho con cái, tâm từ đối với gia súc như chó
và
mèo cũng đủ mang đến sự chăm sóc to lớn cho chúng. Không có tâm từ
nhưng
thay vào bằng sân hận và ganh ghét, những gia súc này dễ dàng bị
tiêu diệt.
Chánh Mạng bổ sung Giới Thứ Hai có thể giải thích như sau . Nếu
một
người lười biếng trong việc làm hay áp dụng một cách sống sai lầm
cho
cuộc sống của mình, người đó khó có thể giữ được Giới thứ hai. Vì
chúng ta hàng ngày phải ăn, mỗi người chúng ta phải có thực phẩm
cho
mình, cho nên phải có một phương tiện để sống, một phương tiện
chính
đáng cho việc này.
5. Do Sự
Vắng Mặt Của Người Lãnh Ðạo giữ Giới.
Ðây là một
câu chuyện minh họa, có một phương ngôn trong Kinh Jataka có thể
tóm tắt
lại như sau: "Khi một đoàn trâu bò di chuyển, nếu con đầu đàn đi
lạc,
cả đoàn trâu bò bị lạc. Cũng như vậy với con người. Nếu người lãnh
đạo được chỉ định thực hành không đúng Pháp hay không chính đáng,
quần chúng cũng thực hành như vậy. Cả quốc gia đau khổ nếu người
lãnh
đạo không tôn trọng Pháp. Khi cả đoàn trâu bò di chuyển, nếu con
đầu
đàn đi đúng đường, cả đoàn trâu bò cũng đi đúng đường. Nếu người
lãnh đạo được chỉ định tôn trọng Pháp, quần chúng cũng làm như
vậy.
Cả quốc gia sẽ vừa lòng nếu người lãnh đạo giữ Pháp. Câu nói của
Phật Giáo rất rõ ràng. Cách hành xử của người lãnh đạo là một hậu
quả to lớn cho quần chúng vì họ không tránh khỏi theo gương của
người
ấy.
Những lý
do trên về việc liệu có muốn hay không muốn giữ giới, mỗi lý do có
thể
có ý nghĩa với giới. Tóm lại, dù Giới được giữ hay không được giữ
bởi những cá nhân trong xã hội, tùy thuộc vào việc giữ giới có
mang lại
sự thỏa mãn phù hợp với tầng bậc xã hội của họ hay không.
Trong phương
diện ấy, một số nói lên ý kiến rằng Giới có thể coi như nguyên tắc
căn bản áp dụng trong một đường lối thích hợp sẽ phù hợp với tình
trạng của riêng mỗi người. Ðiều được coi như thích hợp tức phù hợp
đúng với mục đích của giới chỉ khi nó được áp dụng không có thành
kiến của người khác và không phải ưu tiên cho mình, vì mục đích
của
giới là để tránh làm hại người khác. Ngoài ra, chúng là những bước
đầu tiến đến tập trung (định) và tuệ giác. Vì giữ giới không phải
là cứ giữ giới đơn thuần mà phải phù hợp với mục đích, nó sẽ
khác biệt theo một cách nào đó tùy theo tình trạng hay nghề nghiệp
của
mỗi cá nhân. Chẳng hạn, người bình thường giữ giới mong ước hòa
bình và đem mãn ý cho tất cả gia đình và quốc gia, có hình thức
này, với
các nhà sư mong ước đạt bình diện cao của Pháp lại là một dạng
thức
khác. Tuy nhiên cả hai dạng thức dẫn đến mục tiêu mà vì nó việc
giữ
giới được thiết lập. Hơn nữa, Giới hay luật lệ hạnh kiểm luân lý
cũng là yếu tố chính của sự phát triển quốc gia, sức mạnh mang nền
phồn thịnh kinh tế và sự mãn ý thông thường. Không có giới, năng
suất
của cá nhân sẽ có khuynh hướng bị loại bỏ và tự tiêu diệt. Nơi mà
năng suất của một cá nhân cao nhưng có hại cho người khác, không
giúp
gì thêm cho cộng đồng. Ðúng hơn là hiệu suất của cộng đồng giảm
thiểu và quả là rất khó khăn trong việc phát triển tiến bộ và
thịnh
vượng chung. Cả đến từ quan niệm này, có thể nhìn thấy nhiều người
giữ giới theo đường lối thích hợp với tình trạng riêng của họ, với
hiểu rằng Giới có thể mang phồn thịnh cho cộng đồng.
Thông thường,
người dân trong các xứ Phật Giáo biết làm sao giữ giới hay luật lệ
tinh thần. Họ cũng biết năm giới không phải là cản trở thịnh vượng
của một cá nhân hay xứ sở. Nguyên nhân lo lắng không nằm trong
thực tế
là nhiều người triệt để giữ giới, mà là trong thực tế quá nhiều
người
vi phạm giới. Việc này đi xa đến nỗi những hành động ấy phải nên
tránh vì chúng thường bị coi như có hại theo pháp luật lại vẫn rất
phổ
thông. Ðiều quan trọng cần phải làm lại cho đúng là ở nơi cá nhân
hay
hoàn cảnh như đã được đề cập tới. Nếu mỗi người hành xử trong
đường lối giảm thiểu những ô trược và sản sinh đủ "biết xấu
hổ - kinh sợ tội lỗi" trong tâm, và nếu đồng thời có những hoàn
cảnh tạo mãn ý và thoải mái, như tự do thực thi chánh mạng của một
người trong bầu không khí hòa bình và an ninh, và khả năng nuôi
sống đầy
đủ cho mình và gia đình, thì không có nguyên nhân vi phạm giới và
người
ta sẽ chú ý giữ giới và Pháp bổ sung, như trau dồi tâm từ (lòng từ
ái) đối với người khác và chuyên cần theo đuổi chánh mạng (lối
sống
chánh đáng). Nếu những nhà lãnh đạo và giới chức hành chánh ở mọi
cấp
bực đều cũng chú ý đến giới, nếu họ chuẩn bị để tôn trọng giới
và không thi hành nhiệm vụ của họ trong một đường lối có hại, mà
trong đường lối mang lợi ích cho hạnh phúc người dân, nếu mọi khu
vực
của cộng đồng đều cùng duy trì hành xử tốt như vậy, tiêu chuẩn của
luân lý chắc chắn sẽ cải thiện, vì căn bản tâm của mỗi cá nhân đều
mong ước được tốt đẹp, cho nên người dân thực sự nhìn thấy lợi
ích của Giới. Nếu sinh nhai của một người trở nên khó khăn hay
nguy hiểm,
những giải pháp trong những trường hợp bất ngờ này phải là ưu tiên
số
một. Trong Phật Giáo, Ðức Phật dạy lợi ích hiện tại cần phải được
lưu ý đầu tiên, chẳng hạn bằng cách chuyên cần và làm việc để kiếm
sống. Rồi sau đó, Ngài khuyên dồng thời nghĩ đến lợi ích tương
lai,
chẳng hạn, bằng cách có niềm tin và tôn trọng Giới.
Khi có một
sự phản đối kịch liệt về tình trạng suy đồi bắt nguồn từ sự không
tôn kính giá trị tinh thần, thanh niên cũng như người lớn tuổi kêu
gào
phải gìn giữ các giá trị ấy như đang xẩy ra trong hiện tại. Nhưng
lý
do trình bày trong những chương này phải được ghi nhớ bởi tất cả
chúng
ta, nắm tay nhau để cùng cải thiện tình hình bằng cách giải quyết
nguyên nhân thực sự. Những đạo sư tôn giáo chỉ có thể chỉ đường.
Nhiêm vụ này không thể làm bởi một nhóm người. Tất cả mọi khu vực
của cộng đồng phải cùng nhau hợp tác phù hợp với nhiệm vụ của
mình. Tất cả mọi người trong chúng ta phải thi hành nhiệm vụ của
chúng ta với lòng thành thật. Mỗi người phải xét cách hành xử của
mình và cố gắng loại bỏ hạnh kiểm bất thiện bằng cách giữ Giới.
Lúc ấy tôn trong luật lệ hạnh kiểm luân lý không khó, việc này có
thể
làm được nhờ một thầy tu truyền Giới hay tự mình giữ Giới không
cần
phải qua các nhà sư. Ðiều quan trọng là sự quyết tâm tôn trọng
Giới,
đó là tiết chế một số hành động. Tuy sự tiết chế này có thể
không đầy đủ trong ý nghĩa giữ giới toàn vẹn, và có thể áp dụng
đối
với những hành động coi là sai và bất thiện trong ý nghĩa trần thế
và
pháp luật, tuy nhiên còn tốt hơn là không tiết chế gì cả.
Giới luật
hoàn hảo được truyền thụ đầy đủ trong mọi phương diện là sự thọ
trì không có nghĩa phải hoàn toàn đúng ngay từ lúc bắt đầu. Không
ai
có thể thực hiện được như thế. Sự thực hành giữ giới phải từ từ,
từng bước một, từ giai đoạn thấp nhất đến giai đoạn cao. Cho nên
tại
sao những lời sau đây được sử dụng: "Tôi cam kết thi hành luật
lệ rèn luyện để giữ mình khỏi phạm vào hạnh kiểm thế này thế nọ".
Thực chất là đồng ý rèn luyện về Giới hay luật lệ luân lý. Nó cũng
có nghĩa là sự giữ Giới vẫn chưa được toàn hảo. Nó cũng giống như
sự nghiên cứu bất cứ một ngành học nào. Nếu ta còn học một đề tài,
có nghĩa là ta chưa biết đề tài đó tới chỗ toàn bích. Bất cứ ai
biết
được trọn vẹn thì không cần phải huấn luyện nữa. Một người đang
học không phải chịu trách nhiệm về cái ngu muội của điều mà người
ấy chưa học.