Phật học cơ bản
Những Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo
Thích Tâm Quang dịch
03/04/2553 11:55 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Những Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo
Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch
Chùa Tam Bảo, California, Hoa Kỳ, 2000

11

SỰ THẬT CỦA CUỘC ÐỜI

Hòa Thượng Narada Mahathera

Chúng ta sống trong một thế giới chao đảo không quân bình. Nó không đầy hoa hồng mà cũng chẳng hoàn toàn gai góc. Hoa hồng mềm mại, đẹp đẽ và thơm ngát, nhưng trên cọng cây hoa mọc thì đầy gai. Vì hoa hồng, ta quảng đại với gai. Tuy nhiên, ta không coi rẻ hoa hồng về chuyện hoa hồng có gai.

Với người lạc quan, thế giới này tuyệt đối là tươi vui như hoa hồng; với người bi quan, thế giới này hoàn toàn gai góc. Nhưng với người thực tế, thế giới không hoàn toàn tươi vui như hoa hồng mà cũng chẳng hoàn toàn gai góc. Nó đầy dẫy hoa hồng đẹp và gai nhọn.

Một người hiểu biết không say đắm bởi cái đẹp của hoa hồng, nhưng nhìn nó như đúng nó là như vậy. Biết rõ bản chất của gai, người đó nhìn chúng đúng là như vậy, và cẩn thận để khỏi bị gai làm đau.

Giống như quả lắc nó luôn luôn chuyển động từ phải sang trái, bốn hoàn cảnh thuận tiện và bốn hoàn cảnh không thuận tiện lan tràn trong thế giới này. Bất kể ai, không chừa một người nào, đều phải trực diện vói các hoàn cảnh ấy trong dòng đời. Những hoàn cảnh ấy là:

* được (labha), và thua (alabha)
* danh dự (yasa) và mất danh dự (ayasa)
* thưởng (pasamsa) và phạt (ninda)
* hạnh phúc (sukha) và khổ cực (dukkha)

 

Ðược và Thua

Các doanh nghiệp, theo nguyên tắc, phải lệ thuộc vào cả hai lỗ và lãi. Ðương nhiên thấy thỏa mãn nếu được hay có lãi. Trong điều này tự nó không có gì sai cả. Lợi nhuận như vậy sinh một lô ý thích mà một người bình thường hay săn tìm. Không có những giây phút lạc thú, tuy chỉ là tạm thời, cuộc đời không đáng để sống. Trong thế giới tranh đua và chao đảo này, người ta phải được vui hưởng một loại hạnh phúc nào đó làm con tim sung sướng. Hạnh phúc như vậy, dù là vật chất, dẫn đến khỏe mạnh và sống lâu.

Vấn đề phát sanh trong trường hợp thua lỗ. Lời thì cười, nhưng thua lỗ thì không. Thua lỗ làm cho tinh thần thống khổ và đôi khi có khuynh hướng tự tử phát sanh khi thua lỗ không thể chịu đựng được. Trong trường hợp trái ngang như vậy, ta phải tỏ ra có tinh thần mạnh, can đảm, duy trì tinh thần quân bình thích hợp. Tất cả chúng ta đều lúc lên lúc xuống trong khi tranh đấu với đời. Ta phải sẵn sàng chấp nhận điều tốt cũng như điều xấu. Như vậy ta sẽ ít thất vọng.

Trong thời Ðức Phật, một mệnh phụ quý phái cúng dường đồ ăn cho Ngài Xá Lợi Phất và một số chư tăng. Trong khi đang dâng thực phẩm cúng dường, bà nhận được giấy báo tin bất hạnh đã xẩy ra cho gia đình bà. Không chút rối loạn, bà bình tĩnh bỏ lá thư vào túi rồi vẫn tiếp tục dâng thức ăn đến quý thầy như không có chuyện gì xẩy ra. Một nữ tỳ mang một bình quý sữa để dâng quý thầy, vô ý trượt té và làm vỡ bình sữa. Nghĩ rằng bà này sẽ không khỏi phiền não vì bình sữa quý bị vỡ, Ngài Xá Lợi Phất liền khuyên giải bà và nói rằng tất cả những gì có thể vỡ được thì một ngày nào đó cũng sẽ bị vỡ. Bà nói: "Thế nào là cái mất không đáng kể? Tôi vừa nhận được tin bất hạnh đã xẩy ra cho gia đình tôi. Tôi chấp nhận, tôi vẫn bình tĩnh. Tôi vẫn tiếp tục hầu hạ quý Ngài mặc dù nhận được tin buồn". Sự dũng cảm của người đàn bà can đảm này đáng được ca ngợi.

Một lần, Ðức Phật đi khất thực tại một làng. Do sự can thiệp của Mara, ma vương tội lỗi, Ðức Phật không nhận được chút đồ ăn nào cả. Khi Mara hỏi Ngài khá châm biếm, "Ngài có đói không?". Ðức Phật vui vẻ giải nghĩa thái độ tinh thần của những ai thoát khỏi mọi chướng ngại, Ngài đáp: "Sung sướng thay, chúng ta sống không bị điều gì chướng ngại. Ta thường sống an vui như các vị thần ở cõi trời Quang Âm".

Một dịp khác, Ðức Phật và các đệ tử của Ngài an cư vào mùa mưa tại một làng theo lời mời của một người Bà La Môn, người này quên hẳn bổn phận tiếp tế vật thực cho Ðức Phật và Tăng Già. Trong suốt ba tháng, Ngài Mục Kiền Liên đã phải xung phong dùng thần thông đi xin đồ ăn, thế mà Ðức Phật không hề có một lời phàn nàn và chịu dùng cỏ khô của ngựa do một ông lái ngựa cúng dường.

Thua lỗ ta phải vui vẻ cam chịu với cái hùng của đấng nam nhi. Bất hạnh ta phải đối đầu với chúng, và thường là cả nhóm chứ không một mình. Ta phải trực diện với chúng với bình thản và lấy nó làm một cơ hội để trau dồi đức hạnh cao siêu này.

 

Danh Dự và Mất Danh Dự

Danh dự và mất danh dự là một cặp hoàn cảnh trần thế không thể tránh được mà ta phải đương đầu trong đời sống hàng ngày.

Danh dự hay nổi tiếng, chúng ta thích thú, mất danh dự chúng ta ghét. Danh dự làm tim ta vui sướng; mất danh dự làm tim ta buồn đau. Chúng ta ham thích trở nên nổi tiếng. Nhiều người ao ước thấy hình ảnh của mình trên tạp chí bằng bất cứ giá nào. Chúng ta hết sức vui mừng, khi thấy những hoạt động của chúng ta tuy không nghĩa lý gì, lại được đem ra quảng bá. Ðôi khi chúng ta đã tìm sự quảng bá quá mức.

Nhiều người lại lo lắng khi thấy hình của mình trên các báo chí. Muốn có danh dự, nhiều người sẵn sàng lo lót hay cho các món tiền lớn lao cho những người có quyền hành để làm cho thiên hạ biết đến, một số người trưng bày lòng hảo tâm bằng cách cúng dường cả trăm thầy tu hay nhiều hơn nữa; nhưng họ lại hoàn toàn lạnh nhạt trước sự đau khổ của người nghèo, kẻ thiếu thốn nơi xóm giềng.

Ðó là những nhược điểm của con người. Ða số có những động cơ kín đáo. Những người vị tha hành động không vụ lợi rất hiếm trên thế giới này. Hầu hết người trần tục đều giữ bí mật để dùng khi cần đến. Vậy thì, ai là người hoàn toàn tốt? Có bao nhiêu người thật tâm trong sạch về những động cơ của họ? Có bao nhiêu người thật sự có lòng vị tha?

Chúng ta không cần đi săn tìm danh tiếng hay danh dự. Nếu chúng ta đáng được danh dự, danh dự sẽ đến chẳng cần phải tìm cầu. Con ong bị thu hút bởi hoa nặng trĩu mật. Hoa không mời ong.

Quả là đúng, chúng ta tự nhiên cảm thấy hạnh phúc, và còn hơn thế nữa, cực kỳ sung sướng khi danh của ta lan xa lan rộng khắp. Nhưng chúng ta phải nhận thức rằng sự nổi danh, danh dự và vinh quang ấy sẽ qua đi. Chúng tiêu tan và loãng trong không khí.

Về mất danh dự thì ra sao? Mất danh dự không khoan khoái gì cho tai nghe và tâm ý. Chắc chắn chúng ta xao xuyến khi những lời thô lỗ hay bất kính chọc vào tai ta. Cái đau của tâm ý còn to lớn hơn khi cái gọi là báo cáo bất công và sai hoàn toàn.

Thường phải mất nhiều năm mới xây được một tòa nhà lộng lẫy. Trong một hay hai phút, với vũ khí phá hoại hiện đại dễ dàng làm tòa nhà đó tiêu tan. Phải mất nhiều năm hay suốt cả đời mới xây dựng được sự trọng vọng. Trong nháy mắt tên tuổi khó khăn mới tạo nên có thể bị hư hoại. Không ai có được miễn trừ trước lời nhận xét tàn phá bắt đầu với cái "nhưng". Phải, ông ta rất tốt, ông ta làm cái này cái kia, nhưng toàn bộ hồ sơ tốt của ông ta bị nhuộm đen bởi cái gọi là "nhưng". Bạn có thể sống một đời như Ðức Phật nhưng không được miễn trừ những lời phê bình, tấn công và lăng mạ.

Ðức Phật là người nổi tiếng nhất, nhưng cũng là người bị nói xấu nhất thời bấy giờ. Một số người chống đối Ðức Phật phao tin một phụ nữ thường ngủ đêm trong tu viện. Thất bại trong vụ mưu toan hèn hạ này, chúng phao tin đồn trong dân chúng là Ðức Phật và các đệ tử của Ngài giết chết người đàn bà đó và chôn xác trong đống rác hoa tàn héo trong tu viện. Những kẻ âm mưu sau này xác nhận chính chúng là thủ phạm.

Khi sứ mạng lịch sử của Ngài thành công, và khi nhiều người đến xin thọ giáo với Ngài, những kẻ thù phỉ báng Ngài nói Ngài cướp mẹ của những đứa con, chia lìa vợ chồng, và cản trở sự tiến bộ của quốc gia.

Thất bại trong tất cả âm mưu làm tổn thương đặc tính cao thượng của Ngài, người anh em họ với Ngài, Ðề Bà Ðạt Ða, một đệ tử ganh ghét Ngài, âm mưu giết Ngài bằng cách lăn một tảng đá từ trên cao nhưng thất bại trong mưu toan này.

Nếu đó là số phận buồn phiền của Ðức Phật không tỳ vết, toàn bích, vậy số phận sẽ thế nào với một con người bình thường chưa hoàn hảo?

Bạn càng trèo cao bao nhiêu, bạn càng làm cho người khác để ý đến. Sau lưng bạn để lộ ra nhưng mặt bạn bị che lấp. Thế giới soi mói sẽ phô bày những nhược điểm và lo âu của bạn nhưng phớt lờ đức hạnh nổi bật của bạn. Gió thổi cái vỏ đi nhưng giữ lại hạt, cái lọc, trái lại giữ lại phần thô nhưng để thoát đi nước. Người văn hóa lấy cái tinh tế và bỏ đi cái thô, người không văn hóa lấy cái thô nhưng bỏ đi cái tinh tế.

Khi bạn bị xuyên tạc một cách cố ý hay không, hãy nhớ đến lời khuyên của Epictetus để nghi hay nói như sau "Ồ, bởi sự hiểu biết hời hợt của họ và cái kiến thức yếu ớt của tôi, tôi bị phê bình chút ít. Nếu tôi biết nhiều hơn nữa, ắt hẳn tôi sẽ bị buộc tội nghiêm trọng hơn và lớn hơn nhiều."

Không cần thiết phải phí phạm thì giờ để cải chính những báo cáo sai lầm trừ phi những hoàn cảnh bắt buộc bạn cần thiết sự sáng tỏ. Kẻ địch sẽ hài lòng khi nhìn thấy bạn bị đau. Ðó là điều kẻ địch mong muốn. Nếu bạn dửng dưng, những xuyên tạc như vậy sẽ rơi vào những lỗ tai điếc.

* Thấy lỗi người khác, ta nên cư xử như một người mù.

* Khi nghe thấy những lời bình phẩm bất công của người khác, chúng ta nên xử sự như một người điếc.

* Nói xấu về người khác, ta nên cư xử như người ngu.

* Không thể nào có thể ngăn chận những lời buộc tội, tin đồn và rỉ tai sai lầm.

Thế giới đầy rẫy chông gai và sỏi đá. Không thể nào chuyển chúng hết đi được. Nhưng nếu chúng ta phải bước vào những chướng ngại ấy, thay vì cố gắng loại bỏ chúng đi là không thể được, hãy theo lời khuyên nên mang một đôi giày để bước cho khỏi bị đau.

Giáo pháp dạy:

 

*Giống như sư tử không run sợ trước những tiếng động

*Giống như luồng gió không bám víu vào mắt mắt lưới.

*Giống như hoa sen không bị hôi tanh bởi bùn nơi nó mọc lên.

* Ði lang thang một mình như con tê giác.

* Như chúa sơn lâm, sư tử không hề biết sợ. Do bản chất chúng không sợ hãi trước những tiếng rống của các con vậy khác. Trong thế giới này, chúng ta có thể nghe những báo cáo trái ngược, lời kết tội sai lầm, lời nhận xét đê hèn của những giọng lưỡi buông lung. Giống như sư tử, ta không nên nghe. Giống như cái bu mơ rang (đòn bẩy) ném ra rồi sẽ quay về chỗ cũ, tin đồn sai lầm sẽ chấm dứt nơi chúng phát sanh.

* Chó sủa, nhưng khách lữ hành vẫn tiến bước.

Chúng ta đang sống trong một thế giới vẩn đục bùn nhơ. Nhiều đóa hoa sen mọc từ đó nhưng không nhiễm bùn nhơ, chúng tô điểm thế giới. Giống như hoa sen, ta cố gắng sống cuộc đời cao thượng không ai chê trách được, không quan tâm tới bùn nhơ có thể ném vào chúng ta.

* Chúng ta nghĩ sẽ bị ném bùn nhơ thay vì hoa hồng. Như vậy chúng ta không bị thất vọng.

* Dù khó khăn chúng ta nỗ lực trau dồi không luyến chấp. Một mình chúng ta đến, một mình chúng ta đi. Không luyến chấp là hạnh phúc trên thế giới này.

* Không quan tâm dến những mũi tên độc phóng ra bởi giọng lưỡi buông lung, một mình chúng ta lang thang phục vụ người khác với hết khả năng.

* Thật là lạ lùng những vĩ nhân bị phỉ báng, nói xấu, đầu độc, hành xác và bị bắn. Nhà hiền triết vĩ đại Socrates bị đầu độc. Jesus Christ cao thượng bị đóng đinh tàn nhẫn trên thập tự giá. Mahatma Gandhi không hại ai bị bắn.

Vậy thì, nguy hiểm là một người thiện? Ðúng! Trong khi còn sống họ bị công kích, tấn công và bị giết. Sau khi chết họ được tôn sùng như thần thánh và vinh danh.

Ðại trượng phu không màng tới danh dự hay mất danh dự. Họ không rối trí khi bị công kích hay phỉ báng vì họ làm không phải muốn có tên tuổi hay danh dự. Họ không màng tới người khác công nhận hay không công nhận sự phục vụ của họ. Làm việc, họ có toàn quyền nhưng không phải là để hưởng cái quả của việc làm ấy.

 

Khen và Chê

Khen và chê là hai hoàn cảnh trần thế có ảnh hưởng nhân loại. Ðiều tự nhiên là ta hãnh diện khi được khen và buồn phiền khi bị chê. Về khen và chê, Ðức Phật dạy, người trí thờ ơ trước khen và chê. Giống như tảng đá vững chắc, không bị lung lay bởi gió, người đó vẫn đứng vững không lay chuyển.

Khen, nếu đáng giá rất bùi tai. Nếu không đáng giá, như trường hợp nịnh bợ, tuy thích thú mà là lừa bịp. Nhưng có tất cả những vang vọng không tạo ảnh hưởng gì nếu chúng không đến tai chúng ta.

Từ quan điểm trần thế, lời khen bay xa. Bằng cách khen một chút, một đặc ân có thể dễ dàng đạt được. Một lời khen đạo đức đủ để lôi cuốn thính giả khi ta nói. Nếu, lúc bắt đầu, diễn giả ca ngợi thính giả, diễn giả sẽ được thính giả lắng tai nghe. Ngay lúc ban đầu nếu diễn giả phê bình thính giả, sự đáp ứng sẽ không được toại nguyện.

Người có văn hóa không cần đến nịnh bợ, và cũng không mong muốn được người khác nịnh bợ. Cái đáng khen, họ khen không đố kÿ. Cái đáng trách, họ trách không khinh thường mà vì muốn sửa đổi người.

Nhiều người biết Ðức Phật rất thân, tán dương đức hạnh của Ngài theo đường lối riêng của họ. Một U Ba Li, một nhà triệu phú, một tín đồ mới rất tường tận, tán dương Ðức Phật theo cách ứng khẩu kể ra hàng trăm đức hạnh tùy hứng. Chín đức hạnh về chân giá trị ở thời Ngài vẫn được tụng niệm bởi tín đồ nhìn vào hình ảnh của Ngài. Những đức hạnh ấy là đề tài thiền định cho người sùng đạo. Những đức hạnh đáng ca ngợi này vẫn là một cảm hứng vĩ đại cho tín đồ.

Về chê thì ra sao?

Ðức Phật nói: "Người nói nhiều bị chê. Người nói ít cũng bị chê. Người im lặng cũng bị chê. Trong thế giới này không ai là người không bị chê!"

Chê dường như là một di sản chung của nhân loại. Ða số người trên thế giới nhận xét Ðức Phật là vô kỷ luật. Giống như con voi lâm trận phải chịu tất cả những mũi tên bắn vào nó, cũng vậy, Ðức Phật chịu đau khổ với tất cả những lời chửi rủa.

Kẻ lừa dối và ác độc chỉ chực tìm kiếm cái xấu mà không bao giờ tìm cái tốt và cái đẹp của người khác.

Trừ Phật ra không có ai hoàn toàn tốt. Không một ai hoàn toàn xấu. Có cái xấu trong cái tốt nhất của chúng ta. Có cái tốt trong cái xấu nhất của chúng ta.

Người tự giữ được lặng thinh giống như một cái chuông nứt rạn khi bị tấn công, chửi bới, và lạm dụng, Ðức Phật tán thán: "Người đó đang ở ngay tại Niết Bàn dù rằng chưa đạt được Niết Bàn".

Ta có thể làm với những động cơ tốt đẹp nhất. Nhưng thế giới bên ngoài thường hiểu sai người đó và đổ cho người đó lý do mà người đó chưa từng bao giờ nghĩ tới.

Ta có thể phục vụ và tận tình giúp đỡ người khác với tất cả khả năng, đôi khi mang công lãnh nợ hay phải bán đồ vật hoặc tài sản để cứu một người bạn gặp khó khăn, nhưng sau này, cái thế giới lừa đảo được tạo thành với những người đã được giúp đỡ lại tìm lỗi người giúp, hăm dọa, làm nhơ nhuốc lòng tốt và vui mừng trước sự suy sụp của người ấy.

Trong những câu chuyện trong Jataka có nói đến Guttila, một nhạc sĩ đã hết lòng dạy bảo đệ tử không mảy may dấu giếm, nhưng người đệ tử trẻ tuổi vô ơn này đã thất bại không cố gắng thi đua với thầy mà làm hại thầy.

Có lần, Ðức Phật được một người Bà La Môn mời về nhà để cúng dường. Ðược mời nên Ðức Phật đến nhà ông ta. Thay vì làm cho Ngài vui, hắn dã thóa mạ Ðức Phật bằng những lời hết sức thô tục.

Ðức Phật từ tốn hỏi: "Này ông Bà Là Môn, có phải khách đến thăm nhà ông không?"

"Phải" hắn trả lời.

"Ông làm gì khi khách đến?"

"Ồ, tôi sửa soạn một bữa tiệc thịnh soạn."

 

"Nhưng nếu khách không tới được?"

"Chúng tôi phải vui vẻ chia nhau ăn ."

"Tốt, này ông bạn Bà la môn, ông mời ta đến đây để cúng dường mà ông lại đối xử với ta bằng những lời thóa mạ. Ta không nhận chút nào cả. Làm ơn nhận lại."

Ðức Phật không trả thù. "Không trả thù", Ðức Phật khuyến khích. "Hận thù không thể chấm dứt được hận thù mà chỉ có tình thương yêu mới chấm dứt được hận thù".

Không có một vị đạo sư nào được hết sức ngợi khen mà cũng bị kịch liệt công kích, chửi rủa và chê trách như Ðức Phật. Số phận của vĩ nhân là như vậy.

Ðức Phật bị buộc tội giết một phụ nữ với sự giúp đỡ của các đệ tử của Ngài. Những người không phải là Phật Tử phê bình Ngài và các đệ tử Ngài rất thậm tệ đến nỗi Ngài A Nan (thị giả của Ngài) thưa với Ngài nên di chuyển tới một làng khác.

"Này A Nan, nếu những người dân làng ấy cũng ngược đãi chúng ta thì sao?"

"Thưa Thế Tôn, chúng ta lại di chuyển tới một làng khác nữa".

"Này An Nan, tất cả xứ Ấn Ðộ này cũng không có chỗ cho chúng ta dung thân. Hãy kiên nhẫn. Những ngược đãi, chửi mắng đó sẽ tự động chấm dứt".

Magandinya, một cung nữ có sự bất bình với Ðức Phật vì nói xấu đến bộ mặt hấp dẫn của mình khi cha nàng, vì vô minh, mong muốn gả nàng cho Ðức Phật. Cung nữ này thuê những người say rượu đi thóa mạ Ðức Phật trước công chúng. Với một sự bình thản hoàn toàn, Ðức Phật chịu đựng những lời chửi bới.

Chửi bởi là một sự thường tình trong nhân loại. Bạn càng làm việc bao nhiêu, càng trở nên vĩ đại, bạn càng phải chịu đựng chửi bới và sỉ nhục.

Socrates bị chửi rủa rầy la bởi chính vợ của ông. Bất cứ lúc nào ông ra ngoài để giúp đỡ người khác thì người vợ hẹp hòi này trách mắng ông. Một hôm bà không được khỏe nên không làm được nhiệm v? ngỗ nghịch thường lệ này. Hôm ấy Socrates ra khỏi nhà với một bộ mặt buồn thảm. Bạn bè hỏi tại sao hôm nay ông buồn. Ông trả lời ngày hôm nay vợ ông không trách mắng ông vì không được khỏe.

"Ông phải vui sướng vì không bị rầy la ngày hôm nay chứ " Bạn ông nhận xét.

"Ồ, không phải thế. Khi vợ tôi rầy la tôi, tôi có dịp thực hành kiên nhẫn. Hôm nay tôi mất dịp tốt đó. Ðó là lý do tại sao tôi buồn". Nhà triết lý này trả lời như vậy.

Ðó là những bài học đáng nhớ cho tất cả mọi người.

Khi bị chửi bới, chúng ta nên nghĩ rằng đây là những dịp để chúng ta thực hành kiên nhẫn. Thay vì bực mình, chúng ta nên biết ơn kẻ thù.

 

Hạnh Phúc và Khổ Ðau

Hạnh phúc và khổ đau là cặp cuối cùng về sự đối nghịch. Chúng là những yếu tố mạnh mẽ nhất ảnh hưởng đến nhân loại.

Cái gì mang thoải mái là hạnh phúc (sukkha), cái gì mang khó khăn là khổ đau (dukkha).

Hạnh phúc bình thường là thỏa mãn sư khao khát. Ngay khi điều mong muốn đạt được, thì ta lại mong muốn một loại hạnh phúc khác. Cho nên lòng thèm muốn ích kỷ của chúng ta không bao giờ thỏa mãn.

Sự vui hưởng lạc thú nhục dục là thứ hạnh phúc cao nhất và duy nhất chỉ thấy nơi những người bình thường. Chắc chắn có những lúc hạnh phúc trong lúc mong đợi đạt được, thỏa mãn và những kỷ niệm về lạc thú. Loại hạnh phúc này ước vọng bởi người theo chủ nghĩa nhục dục, nhưng chỉ là ảo ảnh và phù du.

Có thể sở hữu vật chất đem hạnh phúc thực sự hay không? Nếu đúng như vậy, hẳn các nhà triệu phú không bao giờ cảm thấy chán nản trong đời. Trong một số quốc gia đã đạt được đến đỉnh cao trong tiến bộ vật chất, nhưng một số đông lại đau khổ vì bệnh tinh thần. Tại làm sao lại như thế nếu tích lũy vật chất có thể đem hạnh phúc?

Quyền lực thống trị thế giới có thể đem hạnh phúc thực sự không? Alexander tiến quân chiến thắng vào Ấn Ðộ, thôn tính đất đai trên đường tiến quân, đã thở dài vì không có nhiều đất đai hơn nữa để chinh phục.

Nhiều đời sống của các chính khách sử dụng quyền lực bị lâm nguy. Trường hợp bi thiết của (Thánh) Mahatma Gandhi và (Tổng Thống) John F. Kennedy là những thí dụ điển hình.

Hạnh phúc thực sự tìm thấy trong nội tâm chứ không phải tìm thấy nơi của cải, quyền thế, danh vọng, hay chiến thắng.

Nếu những của cải chiếm hữu bằng vũ lực hay sử dùng vào mục đích sai lầm, hay được nhìn bằng luyến chấp, chúng chỉ là nguyên nhân của đau đớn và phiền não cho sở hữu chủ.

Cái hạnh phúc với người này có thể không hạnh phúc với người khác. Thịt và rượu với người này có thể là thuốc độc với người kia.

Ðức Phật nêu lên bốn loại hạnh phúc cho người cư sĩ. Hạnh phúc có sức khỏe, của cải, sống lâu, đẹp đẽ, vui vẻ, sức mạnh, tài sản và con cái. vân vân...

Nguồn suối hạnh phúc thứ hai là tìm thấy sự vui mừng về những của cải đó.

Bình thường, nam nữ mong muốn hưởng thụ. Ðức Phật không khuyên tất cả phải từ bỏ trần tục và rút lui sống cô đơn.

Sự vui hưởng của cải không những nằm trong việc sử dụng cho riêng mình mà cũng đem phúc lợi cho người khác. Cái mà chúng ta ăn chỉ là tạm bợ. Cái mà chúng ta gìn giữ, chúng ta cũng bỏ lại rồi đi. Cái gì ta cho mới có thể mang theo được. Chúng ta được nhớ mãi vì những việc làm lương thiện mà chúng ta đã xử xự bằng của cải trần thế.

Không nợ nần là một nguồn hạnh phúc khác. Nếu chúng ta bằng lòng với cái chúng ta có, và nếu chúng ta tần tiện, chúng ta không mắc nợ ai. Người mắc nợ sống trong tình trạng lo âu và phải chịu ơn người cho vay. Tuy nghèo, nhưng không nợ nần, chúng ta cảm thấy an tâm và tinh thần sung sướng.

Sống một cuộc đời không bị chê trách là nguồn hạnh phúc tốt nhất cho người cư sĩ. Một người không bị chê trách là phúc lành cho chính mình và cho người khác. Người đó được mọi người ngưỡng mộ và cảm thấy sung sướng hơn, truyền cảm làn sóng hòa bình sang người khác. Tuy nhiên phải nói rằng rất khó khăn để được tiếng tốt từ mọi người. Người trí cao thượng chỉ quan tâm đến một đời sống không bị chê trách và dửng dưng với sự tán dương bên ngoài.

Phần đông trong thế giới này thích thú hưởng lạc thú trong khi những người khác tìm sự thích thú bằng cách từ bỏ chúng. Không-luyến-ái hay vượt qua lạc thú vật chất là hạnh phúc cho tinh thần. Hạnh phúc Niết Bàn là hạnh phúc giải thoát khổ đau, dạng thức hạnh phúc tối thượng.

Bình thường chúng ta đón chào hạnh phúc, nhưng không vui vẻ với sự đối nghịch của nó - phiền não, rất khó khăn để chịu đựng.

Phiền não hay khổ đau đến trong nhiều lốt vỏ khác nhau.

Chúng ta đau khổ khi chúng ta đến tuổi già, đó là điều tự nhiên. Bằng bình thản chúng ta chịu đựng cái đau khổ của tuổi già.

Ðau đớn nhiều hơn đau khổ do tuổi già gây ra là bệnh tật. Chỉ đau răng hay nhức đầu nhẹ đôi khi cũng không chịu đựng nổi.

Khi chúng ta bị bệnh tật, đừng lo lắng, chúng ta có thể chịu đựng được với bất cứ giá nào. Vậy thì chúng ta phải tự an ủi nghĩ rằng chúng ta đã thoát được một bệnh nặng hơn nhiều.

Rất thông thường chúng ta phải xa lìa những người thân. Sự xa lìa gây nên đau đớn nặng nề cho tâm. Chúng ta nên hiểu rằng tất cả có hợp thì phải có tan. Ðây là dịp tốt cho chúng ta thực hành bình thản.

Thông thường hơn nữa là chúng ta phải bắt buộc hợp nhất với điều mà chúng ta không thích, điều chúng ta ghét. Chúng ta nên gắng chịu đựng chúng. Có lẽ chúng ta đang gặt hái hậu quả của Nghiệp riêng của mình ở quá khứ hay hiện tại. Chúng ta nên cố gắng tự thích nghi với hoàn cảnh mới hoặc cố gắng vượt qua các trở ngại bằng một số phương tiện khác.

Thậm chí Ðức Phật, Người hoàn hảo đã loại bỏ được tất cả ô trược, vẫn phải chịu đựng đau khổ vật chất gây ra bởi bệnh tật và tai nạn.

Ðức Phật luôn luôn bị đau đầu. Bệnh cuối cùng làm cho Ngài đau đớn nhiều về thể xác. Do kết quả của việc lăn tảng đá từ trên cao xuống bởi Ðề Bà Ðạt Ða để giết Ngài, chân Ngài bị thương bởi một mảnh vụn cần phải được giải phẫu. Ðôi khi Ngài phải nhịn đói. Vì các đệâ tử không tuân lời Ngài, Ngài đã phải rút lui sống trong rừng ba tháng. Trong rừng lấy lá làm nệm trên nền đất cứng, đối đầu với gió rét lạnh buốt, Ngài vẫn bình thản. Giữa cái đau đớn và hạnh phúc, Ngài sống với một tâm tư quân bình.

Chết là cái phiền não lớn nhất mà ta phải đương đầu trên nẻo đường luân hồi. Thường thường chỉ có một người chết nhưng đôi khi có nhiều người chết làm cho ta rất khó khăn chịu đựng.

Khi một bà được hỏi tại sao bà không khóc trước cái chết bi thảm của người con, bà trả lời: "Chẳng mời nó đến. Chẳng báo trước nó đi. Vì nó đến như vậy thì nó cũng đi như vậy. Tai sao ta phải khóc chứ? Khóc có ích lợi gì chứ?"

Như trái rơi từ trên cây - có trái non, trái chín hay trái già- cũng vậy chúng ta chết non, lúc tuổi thanh xuân hay lúc già. Mặt trời mọc ở phía Ðông và chỉ lặn về phía Tây. Hoa nở buổi sáng để rồi tàn vào buổi chiều.

Cái chết không tránh được đến với tất mọi người, nó không chừa ai, chúng ta phải đương đầu bằng sự bình thản hoàn toàn.

"Giống như ném vào mặt đất
Dù cho thơm tho hay hôi thối
Ta vẫn dửng dưng trước tất cả
Chẳng hận thù, chẳng thân thiện
Cũng vậy người đó tốt hay xấu
Ta bao giờ cũng giữ vững thăng bằng"

Ðức Phật dạy: "Khi tiếp xúc với hoàn cảnh trần tục, tâm của một vị A La Hán không bao giờ nao núng". Giữa được và thua, danh dự và ô danh, khen và chê, hạnh phúc và phiền não, hãy cố gắng giữ tâm quân bình.


12

Ý NGHĨA CỦA CUỘC ÐỜI

Hòa Thượng Narada Mahathera

Con người là ai? Nguồn gốc con người? Con người đi về đâu? Mục đích của cuộc đời là gì? Ðó là những câu hỏi quan trọng, câu trả lời ảnh hưởng tất cả nhân loại.

Chúng ta hãy bắt đầu với những gì là hiển nhiên và có thể nhận thức được đối với tất cả. Con người là ai? Con người có một xác thân nhìn thấy bằng giác quan của chúng ta hay bằng phương tiện máy móc. Xác thân vật chất gồm có lực và đặc tính chất luôn luôn ở trong tình trạng thay đổi.

Khoa học gia thấy khó khăn đinh nghĩa vật chất là gì. Một số các triết gia định nghĩa "vật chất là cái tiến hành thay đổi gọi là sự chuyển động, và sự chuyển động tức những sự thay đổi tiến hành trong vật?

Tiếng Pali gọi vật là Rupa (Sắc) . Sắcù được giải thích là cái thay đổi hay tan rã. Cái mà chính nó biểu thị cũng là một cách giải thích khác.

Theo Phật Giáo có bốn thành phần vật chất căn bản. Chúng là Ðất (Pathavi), Nước (Apo), Gió (Vayo) và Lửa (Tejo).

Pathavi có nghĩa là thành phần vật chất mở rộng, thể nền của vật chất. Không có nó vật thể không thể choán khoảng không. Tính chất cứng và mềm thuần khiết liên hệ là hai điều kiện của thành phần này. Thành phần mở rộng hiện hữu trong đất, nước, gió và lửa. Chẳng hạn, nước ở trên được hỗ trợ bởi nước bên dưới. Thành phần mở rộng này hợp với thành phần chuyển động (gió) phát sanh áp suất hướng lên.

Apo là thành phần cố kết. Không giống như Pathavi, nó không thể nắm được. Thành phần này giúp cho các nguyên tử rải rác của vật chất kết hợp lại cho ta khái niệm về xác thân.

Tejo là thành phần của hơi nóng. Lạnh cũng là một hình thức của Tejo. Cả nóng lẫn lạnh đều nằm trong Tejo vì chúng có sức mạnh làm xác thân tăng trưởng, hay nói một cách khác, chúng là năng lượng có sinh khí. Sự bảo tồn và phân hủy là do thành phần này.

Vayo là thành phần chuyển động. Chuyển động sinh ra do thành phần này. Sự chuyển động được coi như lực hay máy phát ra hơi nóng. Cả hai chuyển động và hơi nóng trong cảnh giới vật chất tương úng với thức và nghiệp về phần tinh thần.

Bốn lực mạnh mẽ này không tách rời nhau và liên quan lẫn nhau, nhưng thành phần này có thể ưu thế hơn thành phần kia, chẳng hạn, thành phần mở rộng ưu thế đất, sự cố kết trong nước, hơi nóng trong lửa và sự chuyển động trong không khí.

Cho nên vật chất gồm lực và đặc tính luôn luôn thay đổi, không bao giờ đứng nguyên một chỗ trong hai khoảnh khắc liên tiếp. Theo Phật Giáo vật chỉ chịu đựng đươc 17 chập tư tưởng trong khi các khoa học gia cho rẳng vật chất chỉ chịu đựng 10 trên 27 phần một giây.

Vào lúc sanh, theo sinh vật học, con người thừa hưởng từ cha mẹ một tế bào li ti bằng một phần 30 triệu phần của một inch (1 inch = 2, 54 cm). " Trong thời gian chín tháng, cái hạt bụi này lớn lên gấp 15,000 triệu lần lúc ban đầu để thành bào thai"- Cái tế bào li ti lý-hóa là nền móng cơ thể con người.

Theo Phật giáo, sự giao cấu được xác định vào lúc thụ thai.

Phối hợp với vật chất có một yếu tố quan trọng khác trong bộ máy phức tạp con người. Ðó là tâm. Ðúng nghĩa là nó làm vừa lòng một số nhà văn trí giả nói là con người không phải là tâm cộng với thân, mà là thân-tâm. Khoa học gia tuyên bố là đời sống nổi lên từ vật và tâm từ đời sống. Nhưng họ không cho chúng ta lời giải thích thỏa đáng về sự phát triển của tâm.

Không giống như xác thân vật chất, cái tâm phi-vật-chất là vô hình, nhưng có thể cảm thấy trực tiếp. Một câu thơ cổ lưu truyền như sau:

"Cái gì là tâm? Không có vật chất"
"Cái gì là vật chất? Không bao giờ là tâm"

Chúng ta nhận thức được những tư tưởng và cảm nghĩ của chúng ta cùng nhiều điều khác nữa bằng trực giác, và chúng ta kết luận sự hiện hữu của chúng bằng phép loại suy.

Có một số từ ngữ bằng tiếng Pali chỉ tâm: Mana, Citta, Vinnana là những từ đáng ghi nhớ. Hãy so sánh từ người gốc Pali, để suy nghĩ, với từ người tiếng Anh và tiếng Pali - Manussa có nghĩa là "người đã phát triển thức".

Trong Phật Giáo không có sự phân biệt giữa tâm và thức. Cả hai được dùng như từ đồng nghĩa. Tâm có thể định nghĩa đơn giản là sự nhận thức về một đối tượng bởi chưng không có một tác nhân hay linh hồn chỉ huy mọi hoạt động. Tâm bao gồm trạng thái tính thoáng qua luôn luôn trỗi lên rồi mất đi nhanh như tia chớp. "Vì sinh ra để thành nguồn của nó và chết để trở thành lối vào của nóù, nó bền bỉ tràn trề như con sông nhận nước từ các suối nguồn bồi thêm vào dòng chảy của nó". Mỗi thức nhất thời của dòng đời không ngừng thay đổi, khi chết đi, truyền lại cho thức kế thừa toàn bộ năng lượng của nó, tất cả những cảm tưởng đã ghi không bao giờ phai nhạt. Cho nên mỗi thức mới gồm có tiềm lực của thức cũ và thêm điều mới. Vì tất cả những cảm nghĩ không phai nhạt được ghi vào cái tâm không ngừng thay đổi như ghi vào tấm da cừu nạo, và tất cả những tiềm lực được truyền thừa từ đời này tới đời kia, bất chấp sự phân hủy vật chất tạm thời thân, nhớ lại những lần sanh hay những biến cố trong quá khứ trở thành một khả năng có thể xẩy ra. Nếu trí nhớ không thể có khả năng xẩy ra chỉ tùy thuộc trên tế bào não thì không thể nào được.

Giống như điện, tâm là lực mạnh mẽ cả xây dựng lẫn phá hoại. Nó là con dao hai lưỡi có thể sử dụng cho cả điều thiện và điều ác. Một tư tưởng nổi lên từ một cái tâm vô hình có thể cứu hay phá hoại cả thế giới. Môt tư tưởng như vậy có thể làm tăng trưởng hay giảm đi dân cư của một quốc gia. Tâm tạo địa ngục cho chính mình.

Ouspenky viết:

"Về năng lực tiềm tàng trong hiện tượng về thức, tức tư tưởng, cảm nghĩ, ham muốn, chúng ta khám phá ra cái tiềm lực to lớn của nó không thể đo được và vô giới hạn nhiều hơn nữa. Từ kinh nghiệm cá nhân, quan sát, từ lịch sử chúng ta biết rằng những ý tưởng, cảm nghĩ, ham muốn, tự chúng phát sanh có thể giải phóng năng lượng hết sức l?n, và tạo ra hàng loạt vô tận các hiện tượng. Một ý tưởng có thể hoạt động hàng thế kỷ và hàng thiên niên kỷ, và càng ngày càng lớn mạnh và sâu thêm đem lại hàng loạt hiện tượng mới chưa từng có, giải phóng năng lượng luôn mới này. Chúng ta biết những tư tưởng tiếp tục sống và tác động dù tên tuổi những người sáng tạo ra đã trở thành huyền thoại, giống như tên các vị khai sáng những tác phẩm thi văn bất hủ cổ xưa - những anh hùng, các nhà lãnh đạo và tiên tri. Những lời của họ vẫn được nhắc nhở trên môi mọi người, những ý tưởng của họ vẫn được nghiên cứu và bình luận".

"Chắc chắn, mỗi tư tưởng của một thi hào chứa đựng một tiềm lực to lớn, giống như sức mạnh của một hòn than, hay một tế bào sống, nhưng còn vô cùng tinh tế hơn, hùng mạnh hơn, không thể lường được."

Chẳng hạn, hãy quan sát, tiềm lực nằm trong những lời dạy đầy ý nghĩa của Ðức Phật:

Tâm dẫn đầu các hành vi, tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả.

Tâm hay thức, theo Phật Giáo, trỗi lên ở mỗi lúc khái niệm cùng với vật. Vậy nên thức hiện diện trong bào thai. Thức sơ khởi, theo kỹ thuật được gọi là tái sanh thức hay thức tái liên kết, tùy thuộc vào nghiệp quá khứ của người liên quan. Cái dị biệt tinh tế về tinh thần, trí thức và luân lý hiện tồn giữa loài người là do Nghiệp mà thức tùy thuộc vào yếu tố thứ hai của con người.

Ðể hoàn tất ba yếu tố xây dựng thành con người có yếu tố thứ ba, hiện tượng của đời sống nó tiếp sinh khí cho cả tâm và vật. Vì sự hiện diện của đời sống, tái sanh trở thành hiện thực. Ðời sống tự nó biểu hiện cả hiện tượng tinh thần lẫn vật chất. Tiếng Pali hai dạng thức của đời sống được gọi là Nama jivitindriyaRupa jivitindriya (Danh và Sắc) - đời sống tâm linh và vật chất.

Vật, tâm và đời sống là ba yếu tố khác biệt làm thành con người. Với sự phối hợp của nó, một sức mạnh hùng mạnh được biết là con người với khả năng phi thường phát sanh. Con người trở thành vị sáng tạo và kẻ tiêu diệt của chính mình. Nơi con người tìm thấy một đống rác các tội lỗi và một kho đức hạnh. Ở nơi con người thấy có kẻ đáng khinh, kẻ vũ phu, con người, siêu nhân, trời và phạm thiên. Khuynh hướng tội lỗi và thánh tính ngủ ngầm nơi con người. Con người vừa là phước báu vừa là tai họa cho chính mình và cho người khác. Thực ra, con người là cả một thế giới của chính mình.

Nguồn gốc của con người ra sao? Ðó là câu hỏi thứ hai của chúng ta.

Hoặc phải có sự bắt đầu cho con người hoặc không có sự bắt đầu. Những người thuộc trường phái thứ nhất, mặc nhận nguyên nhân đầu tiên, có hay không một lực vũ trụ hay một Ðấng Toàn Năng. Những người thuộc trường phái thứ hai, bác bỏ nguyên nhân đầu tiên, theo kinh nghiệm thông thường, nguyên nhân có bao giờ trở thành hậu quả và hậu quả trở thành nguyên nhân. Trong chu trình nguyên nhân và hậu quả, nguyên nhân thứ nhất không thể nhận thức được.

Theo người ở trường phái thứ nhất, đời sống phải có sự bắt đầu, theo trường phái thừ hai, không có sự bắt đầu. Theo ý kiến của một số người, quan niệm của nguyên nhân thứ nhất thật nực cười như một tam giác vòng tròn.

Theo quan điểm khoa học, con người là sản phẩm trực tiếp của tinh dịch của tế bào trứng cung cấp bởi cha mẹ. Khoa học gia trong khi xác nhận "Omne vivum exviro" - tất cả đời sống từ đời sống, xác nhận tâm và đời sống tiến hóa từ cái không có đời sống.

Vậy thì, từ quan điểm khoa học, con người nhất định do cha mẹ sinh ra. Theo nghĩa hẹp, đời sống này đến trước đời sống kia. Về nguồn gốc của chất nguyên sinh của đời sống, hay 'chất keo', khoa học gia lấy cớ không biết.

Theo Phật Giáo, con người sinh ra từ cái dạ con hoạt động. Cha mẹ chỉ cung cấp cho con người lớp vật chất. Như vậy, chúng sinh đến trước chúng sinh. Vào lúc thụ thai, Nghiệp tạo thành thức sơ khởi tiếp sinh khí cho bào thai. Cái năng lượng Nghiệp vô hình phát sanh từ kiếp sống quá khứ, sản sanh các hiện tượng tinh thần và các hiện tượng đời sống trong một hiện tượng thực thể đã có, để hoàn thành ba yếu tố làm thành con người.

Nói về sự thụ thai của một chúng sinh, Ðức Phật dạy:

"Nơi có ba yếu tố phối hợp, cái mầm của đời sống được trồng. Nếu người mẹ và người cha cùng đến, nhưng không phải là thời gian người mẹ có thể thụ thai, đứa con 'sẽ được sanh' không hiện diện, không có mầm của đời sống được trồng. Nếu người mẹ và người cha cùng đến, người mẹ trong thời kỳ có thể thụ thai, nhưng 'đứa trẻ sẽ được sanh' không có mặt, không có mầm sống được trồng. Nếu cha và mẹ cùng đến, đúng là thời kỳ người mẹ có thể thụ thai, và đứa trẻ 'sẽ được sanh' cũng có mặt, rồi bởi sự phối hợp của ba yếu tố, cái mầm của đời sống được trồng".

Nơi đây Gandhabba (đứa trẻ sẽ được sanh) ngụ ý một chúng sanh phù hợp sẵn sàng để sinh ra từ một dạ con riêng biệt. Từ này chỉ dùng trong mối quan hệ đặc biệt này; không được hiều lầm là một linh hồn vĩnh viễn.

Vì một chúng sanh sẽ sanh nơi đây, thì một chúng sanh phải chết nơi nào đó. Cái sanh của một chúng sanh tương ứng với cái chết của một chúng sanh trong đời quá khứ y như theo lời lẽ thông thường, mặt trời mọc ở chỗ này có nghĩa là mặt trời lặn ở chỗ khác.

Ðức Phật dạy: - "Cái khởi thủy đầu tiên của chúng sanh bị che lấp bởi vô minh và gông cùm bởi tham ái, lạc đường chệch hướng, không thể nhận thức được."

Cái dòng đời trôi lăn vô tận với điều kiện nó được tiếp tế bởi nước bùn nhơ của vô minh và tham ái. Khi hai điều này bị cắt đứt hoàn toàn, thì lúc đó dòng đời mới ngưng, tái sanh mới chấm dứt như trường hợp của các Ðức Phật và A La Hán. Cái khởi thủy chủ yếu của dòng đời này không thể xác định được vì là một giai đoạn không thể nhận thức được khi cái lực đời sống không đầy với vô minh và tham ái.

Ðức Phật chỉ nhắc đến nơi đây cái bắt đầu của dòng đời của chúng sinh đang sống. Nó được để lại cho các khoa học gia ức đoán về nguồn gốc và sự tiến hóa của vũ trụ.

Ngay tại phần đầu có nói đến Ðức Phật không có hoài bão muốn giải quyết tất cả những vấn đề đạo đức và triết lý làm nhân loại lúng túng. Ngài cũng không đề cập đến ức thuyết và lý thuyết không có khuynh hướng về sự khai trí hay giác ngộ. Ngài cũng chẳng đòi hỏi niềm tin mù quáng của tín đồ về nguyên nhân đầu tiên. Ngài quan tâm nhất đến một vấn đề tu tập đặc biệt: đó là khổ đau và chấm dứt khổ đau, tất cả những vấn đề khác hoàn toàn không cần lưu ý tới.

Có lần, một thầy Tỳ Kheo tên là Malunkyaputta, không muốn sống một cuộc đời thánh thiện, không muốn hoàn tất sự giải thoát từng bậc một, tìm đến Ðức Phật và đòi Ngài trả lời về một số vấn đề có tính cách ức đoán và đe dọa sẽ cởi áo nếu không được Ðức Phật trả lời thỏa đáng.

"Bạch Ðức Thế Tôn, những lý thuyết này không được sáng tỏ bị bỏ qua môt bên và bị Ðấng Thế Tôn bác bỏ như thế giới này bất diệt hay không bất diệt, thế giới này tận cùng hay không tận cùng. Nếu Ðấng Thế Tôn soi sáng cho con những câu hỏi này, con sẽ tiếp tục sống đời thánh thiện, nếu không được soi sáng, con sẽ từ giã những giới cấm và trở về đời sống thường dân.

Nếu Ðấng Thế Tôn biết thế giới này trường cửu, Thế Tôn soi sáng cho con thế giới này trường cửu, nếu Ðấng Thế Tôn biết thế giới này không trường cửu, Ðấng Thế Tôn soi sáng cho con thế giới này không trường cửu. Trong trường hợp này, chắc chắn với người không biết và thiếu tuệ giác, điều phải nói ngay là: Tôi không biết, tôi không có tuệ giác"

Ðức Phật bình tĩnh hỏi vị tỳ kheo sai lầm này phải chăng sự chấp nhận đời sống thánh thiện có điều kiện gì liên quan đến những lời giải đáp của vấn đề.

Vị tỳ kheo trả lời: "Thưa không, Bạch Ðức Thế Tôn".

Ðức Phật liền khuyên nhủ không nên phí phạm thì giờ và năng lực vào những ức đoán có hại dến việc tiến bộ tinh thần, Ngài nói: "Này Malunkyaputta, ngươi phải nói như vầy: 'Tôi không sống đời Thánh Thiện theo Ðấng Thế Tôn cho đến khi nào Ðấng Thế Tôn soi sáng cho tôi những câu hỏi ấy, con người đó sẽ chết trước khi những câu hỏi này được sáng tỏ bởi Ðức Thế Tôn'."

Cũng như một người bị bắn trúng bằng mũi tên độc, bạn bè và người thân muốn tìm thầy giải phẫu, nhưng người bị bắn lại nói rằng: "Tôi không muốn mũi tên độc được lấy ra cho đến khi nào tôi chưa biết được chi tiết về người bắn, vì đâu tôi bị bắn, bản chất của mũi tên đã bắn tôi, vân vân...". Người đó sẽ bị chết trước khi biết những điều đó.

"Cũng đúng như vậy, kẻ nói: "Tôi không sống đời thánh thiện cho đến khi nào Ðấng Thế Tôn soi sáng cho tôi phải hay không thế giới này trường cửu hay không trường cửu, phải hay không phải thế giới này tận cùng hay vô cùng- Kẻ ấy sẽ chết trước khi những câu hỏi này được sáng tỏ bởi Ðức Thế Tôn.

"Nếu tin thế giới này trường cửu, thì việc tu tập đời sống Thánh Thiện sẽ ra sao? Trường hợp như vậy - Không! Không có ảnh hưởng cả! "Nếu tin thế giới này không trường cửu, việc tu tập đời sống Thánh Thiện sẽ ra sao? Trường hợp này cũng vậy - Không! Không có ảnh hưởng gì cả! Nhưng liệu có phải hay không phải tin thế giới trường cửu hay không trường cửu, thế giới tận cùng hay vô cùng, vẫn có sanh, già, chết, sự dập tắt đời sống này mà Như Lai biết.

Này Malunkyaputta, Như Lai không khám phá ra xem thế giới này trường cửu hay không trường cửu, thế giới này tận cùng hay vô cùng. Tại sao Như Lai không khám phá ra những điều này? Vì những điều ấy không mang lợi ích, không liên quan gì đến căn bản của đời sống thánh thiện, không dẫn đến nhàm chán, đến điềm tĩnh, đến chấm dứt, đến tĩnh lặng, đến trí tuệ trực giác, đến giác ngộ, đến Niết Bàn. Cho nên ta không khám phá những điều ấy.

Con người đi về đâu? Ðó là câu hỏi thứ ba của chúng ta.

Theo thuyết duy vật cổ, theo tiếng Pali và Sanscrit, được gọi là Lokayata, con người bị tiêu hủy sau khi chết, không để lại một lực nào để được sản sanh bởi người đó. "Con người gồm có bốn thành phần. Khi con người chết, thành phần tiên khởi (đất) trở về thành đất, thành phần nước trở về nước, thành phần hơi nóng trở về thành lửa, và thành phần gió trở về không khí; cảm giác qua không gian. Người khôn, người dại, khi xác thân phân hủy, đều không còn hoại diệt nữa, và không còn gì nữa. Không có thế giới khác và Chết là hết. Cái thế giới hiện tại là thực. Cái mà ta gọi thiên đường và địa ngục chỉ là phát minh của người lừa đảo."

Người theo duy vật chủ nghĩa chỉ tin cái mà có thể nhận biết bởi giác quan. Như vậy chỉ có vật chất mới là thực. Các yếu tố chủ yếu là bốn thành phần đất nước, gió, lửa. Ðời sống của cái thức bản thân, xuất hiện một cách huyền bí từ chúng, y như thần xuất hiện khi Aladin chà xát vào cây đèn. Não tiết ra tư tưởng giống như gan tiết ra mật.

Theo quan điểm của những người duy vật, niềm tin vào thế giới bên kia giống như Sri Radhakrishnan tuyên bố: "là dấu hiệu của sự nói láo, đàn bà, yếu đuối, hèn nhát và bất lương."

Có một tôn giáo cho rằng con người không có quá khứ. Cái hiện tại là cái chuẩn bị cho hai cái bất diệt thiên đường và địa ngục. Liệu những nơi chốn hay trạng thái đó có phải là nơi con người trong tương lai có thể phải chịu đau khổ triền miên trong địa ngục. Cho nên con người không bị phân hủy sau khi chết mà cái cốt lõi (linh hồn) đi vào bất diệt.

"Bất cứ ai", như Schopenhaeur nói, xem mình sanh ra từ cái không, phải nghĩ rằng mình cũng sẽ trở thành không; cho rằng thời gian bất diệt đã qua đi trước mình, thì một cái bất diệt thứ hai mới bắt đầu, do đó mình sẽ không bao giờ ngưng hiện hữu, là một tư tưởng quái dị.

Một trường phái tư tưởng tin vào quá khứ và hiện tại không nói là con người bị phân hủy sau khi chết. Họ cũng không nói rằng con người bất diệt sau khi chết. Họ tin vào chuỗi tử sinh vô tận. Theo quan niệm của họ, dòng đời con người trôi lăn vô cùng tận với điều kiện nó bị đẩy đi bởi Nghiệp lực, hành dộng của chính mình. Theo đúng tiến trình, cái thực thể của con người có thể tái nhập vào sự thật tối hậu từ đó linh hồn bắt nguồn.

Phật Giáo tin vào hiện tại. Với cái hiện tại làm căn bản để lý luận về quá khứ và tương lai. Giống như đèn điện là sự biểu lộ ra bên ngoài, năng lượng điện vô hình, tuy nhiên con người chỉ là sự biểu lộ ra ngoài năng lượng vô hình được biết là Nghiệp vô hình không biểu lộ ra bên ngoài. Bóng đèn có thể vỡ, điện tắt, nhưng dòng điện vẫn còn, ánh sáng lại tái sanh vào một bóng đèn khác. Cũng giống như vậy, nghiệp lực vẫn giữ nguyên không bị xáo trộn bởi cái xác thân tan rã, và cái thức hiện tại chết đi dẫn đến một thức mới phát sanh trong một sự ra đời khác. Nơi đây dòng điện giống như Nghiệp lực, và cái bóng đèn có thể so sánh với cái tế bào - trứng do cha mẹ cung cấp.

Nghiệp quá khứ là điều kiện cần thiết cho cái sanh hiện tại, và Nghiệp hiện tại phối hợp với Nghiệp quá khứ là điều kiện cần thiết cho tương lai. Hiện tại là con - kết quả của quá khứ, và trở thành cha mẹ - nguồn gốc của tương lai.

Tái sanh mà người Phật Tử không chỉ coi là lý thuyết mà là một sự thực có thể kiểm chứng, hình thành giáo lý căn bản Phật Giáo dù rằng mục tiêu Niết Bàn có thể đạt ngay trong đời sống này. Lý tưởng Bồ Tát và chủ nghĩa tương quan về tự do nhắm đạt sự toàn bích căn cứ vào học thuyết tái sanh.

Tài liệu ghi về niềm tin vào tái sanh, được coi như đầu thai hay luân hồi, được chấp nhận bởi các triết gia như Pythagoras và Plato, các thi sĩ như Shelley, Tennyson, và Woodsworth, và nhiều người bình thường ở phương Ðông cũng như phương Tây.

Học thuyết về tái sanh của Phật Giáo khác biệt về lý thuyết đầu thai và luân hồi của các hệ thống khác, vì Phật Giáo bác bỏ sự tồn tại của cái linh hồn bất diệt tạo ra bởi Thượng Ðế, hay bắt nguồn từ cái thực chất thần thánh (Paramatma).

Cái thực của hiện tại không cần chứng minh vì nó hiển nhiên. Cái thực của quá khứ căn cứ vào trí nhớ và báo cáo, và cái thực của tương lai căn cứ vào chủ tâm và suy luận.

Ta có thể lập luận đời sống có cái khởi thủy trong quá khứ vô tận và cái bắt đầu ấy hay Nguyên Nhân Ðầu Tiên là Ðấng Sáng Tạo.

Trong trường hợp này không có lý do gì tại sao cùng sự đòi hỏi lại không được chấp thuận cho Ðấng Sáng Tạo được chuẩn y này.

"Hơn thế nữa, nếu sanh là cái bắt đầu tuyệt đối, thì cái chết phải là cái tận cùng tuyệt đối, và giả định rằng con người từ cái không mà ra, cần dẫn đến giả định chết là cái tận cùng tuyệt đối."

Cho nên chết không phải là sự phân hủy hoàn toàn con người, dù quãng đời riêng chấm dứt, lực để phát động nó không bị phá hủy.

Sau cái chết dòng đời của con người tiếp tục vô tận chừng nào nó vẫn được cung cấp với nước vô minh và tham ái. Nói theo thói thường, con người không nhất thiết sinh làm con người vì con người không phải là chúng sinh sống duy nhất. Hơn thế nữa, đất, một hạt bụi hầu như vô nghĩa trong vũ trụ, không phải là nơi duy nhất mà con người tìm tái sanh. Con người có thể sanh vào các bình diện có thể ở được.

Nếu con người muốn chấm dứt hàng loạt sanh, con người có thể làm như Ðức Phật và các Ðức A La Hán đã làm bằng cách chứng Niết Bàn, ngưng hoàn toàn tất cả các dạng thức tham ái.

Con người đi về đâu? Con người có thể về nơi mong muốn hay ưa thích nếu thích hợp với nơi đó. Nếu, không có lời ước nguyện đặc biệt nào, con người có thể rời con đường đó và sẵn sàng theo các biến chuyển trong tiến trình, phải đi đến chỗ hay xứ xứng đáng tùy theo Nghiệp của mình.

Theo nguyên tắc thần học, Spencer Lewis lập luận con người được tự ý tạo ra và không có ham muốn, trong lúc sáng tạo chẳng có phước lành và cũng chẳng bất hạnh, cao quý hay sa đọa, từ bước đầu trong tiến trình sáng tạo hình hài cho đến hơi thở cuối cùng, không kể gì đến ham muốn cá nhân, hy vọng, tham vọng, tranh đấu hay chí thành cầu nguyện. Ðó là thuyết định mệnh thần học.

"Học thuyết cho rằng tất cả mọi người đều tội lỗi và có cái tội chủ yếu của Adam là một thách thức đối với công bằng, lòng nhân từ, tình thương, và lòng ngay thẳng tuyệt đối."

Huxley nói: "Nếu chúng ta cho rằng ai đó đã thiết lập vũ trụ tuyệt vời này tiến bước, với tôi thật rõ ràng người đó thực không nhân từ và công bằng chút nào, trong bất cứ ý nghĩa nào dễ hiểu của lời nói, người đó hiểm ác và bất công."

Theo Einstein: "Nếu Thượng Ðế có quyền vô hạn thì mỗi việc xảy ra kể cả mỗi hành động, tư tưởng, cảm nghĩ, và hoài vọng của con người thì phải là công việc nơi Ðấng đó; Làm sao có thể nghĩ rằng con người chịu trách nhiệm về hành vi và suy nghĩ của mình trước một Ðấng Toàn Năng như vậy?"

"Có quyền thưởng phạt, ở một mức nào đó, Ngài tự phải phán xét. Làm sao sự phán xét này có thể kết hợp lòng tốt và đạo đức quy cho Ngài?"

Theo Charles Bradlaught - "Sự hiện hữu của tội lỗi là một chướng ngại ghê gớm cho người hữu thần. Ðau đớn, lầm than, tội ác, nghèo khổ đối đầu với người ủng hộ cho lòng nhân từ bất diệt, và thách thức với quyền uy không bác được, tuyên ngôn Thần Thánh như toàn thiện, toàn trí, và toàn thế lực."

Bình luận về cái đau khổ của con người và Thượng Ðế, Giáo Sư J.B.S. Haldane viết:

"Hoặc đau khổ cần thiết để toàn thiện đặc tính con người, hay Thượng Ðế không toàn năng. Lý thuyết thứ nhất không được chấp nhận bởi thực ra một số người đau khổ chút ít nhưng lại may mắn nhờ tổ tiên và giáo dục có những đặc tính rất tốt. Phản đối lý thuyết thứ hai là chỉ có sự liên hệ với vũ trụ như một tổng thể có một khoảng trống trí thức phải được lấp đầy bởi sự mặc nhận về thánh thần. Và đấng sáng tạo có thể tạo ra bất cứ gì đấng đó muốn."

Trong thi phẩm "Thất Vọng" ở thời cổ, Lord Tennyson táo bạo đả kích Thượng Ðế, ghi trong Isaiah, nói:

"Ta tạo hòa bình và tạo tội lỗi
"Cái Gì! Ta phải gọi thế nào về tình thương vô cùng tận đã phục vụ chúng ta quá tốt như vậy?
"Ác độc vô cùng tận hơn là tạo một địa ngục vĩnh viễn."

Những nhà văn tín điều của chức quyền thời cổ hách dịch tuyên bố là Thượng Ðế tạo con người theo hình ảnh của chính Ngài. Một số nhà tư tưởng hiện đại, trái lại, nói con người tạo ra Thượng Ðế theo hình ảnh của chính con người. Với văn minh tiên bộ, quan niệm của con người về Thượng Ðế càng ngày càng tinh tế hơn. Hiện nay có khuynh hướng thay thế Thượng Ðế có cá tính con người bằng một Thượng Ðế khách quan.

Voltaire nói Thượng Ðế là sự sáng tạo cao quý của con người. Tuy nhiên không thể chấp nhận đấng toàn năng, có mặt tại khắp nơi là hình ảnh thu nhỏ của mọi thứ lương thiện - hoặc cả trong hoặc cả ngoài vũ trụ.

Mục đích của đời sống là gì? Ðó là câu hỏi cuối cùng của chúng ta. Câu này có thể gây ra tranh luận. Về quan điểm vật chất nó thế nào?

Khoa học gia trả lời:

"Ðời sống có mục đích không?
Thế nào, ở đâu và bao giờ?
Ngoài không gian có vũ trụ, có mặt trời
Có trái đất, có đời sống, có con người
và còn nhiều nữa đến sau
Nhưng về Mục Ðích: của ai hay nguồn gốc? Tại sao, Không ai.

Vì nhà duy vật học hạn chế mình trong các dữ kiện cảm giác và phúc lợi vật chất hiện tại, không màng tới giá trị tinh thần, họ nắm giữ quan niệm trái ngược hẳn với các nhà đạo đức. Theo quan điểm của họ, không có mục đích - vì những thứ đó không thể có mục đích.

"Ai là người tô mầu tuyệt vời cho các con công, hay ai làm cho con chim cu gáy cúc cu hay như thế? Ðó là lý luận chính mà người duy vật cho rằng mọi thứ đều do luật thiên nhiên của mọi sự vật."

"Ăn, uống, và hãy vui vẻ, vì chết đến với tất cả mọi người, kết thúc cuộc đời của chúng ta", có vẻ là lý tưởng đạo đức theo hệ thống của họ. Theo quan niệm của họ, Sri Radhakrishman viết: "Ðức hạnh là ảo tưởng, thích thú mới là thực tại. Chết là kết thúc cuộc đời. Tôn giáo là một sự lầm lạc khờ dại, một bệnh tâm thần. Có sự ngờ vực trong mọi việc thiện, cao quý, trong sạch và từ bi. Lý thuyết đó bênh vực chủ nghĩa nhục dục, ích kỷ, và xác nhận mạnh mẽ ý muốn mãnh liệt. Không cần phải kiểm soát đam mê và bản năng vì chúng là di sản tự nhiên cho con người".

Savadarsana Sangrala nói:

"Trong khi đời sống là của bạn, hãy sống vui vẻ
Không ai có thể thoát khỏi con mắt theo dõi của tử thần
Một khi tấm thân này của bạn bị cháy
Làm sao nó có thể trở lại được?"

"Trong khi cuộc sống vẫn còn để cho con người sống hạnh phúc, hãy để cho hắn được dùng bơ sữa dù rằng hắn sẽ phải mang nợ"

Vậy thì chúng ta hãy quay về với khoa học để có giải đáp cho câu hỏi. "Tại sao?"

Nên lưu ý rằng khoa học là sự nghiên cứu nhiều thứ, nghiên cứu xem nó ra sao và tôn giáo là sự nghiên cứu về tư tưởng, một sự nghiên cứu phải là như thế."

Sir J. Arthur Thompson cho rằng khoa học không đầy đủ vì khoa học không trả lời được câu hỏi "Tại sao".

Thảo luận về mục đích vũ trụ, Bertrand Russell tuyên bố ba quan điểm - hữu thần, phiếm thần, và hiện ra. Về cái đầu tiên, ông viết:

"Cho là Thượng Ðế sáng tạo ra thế giới và ban hành luật thiên nhiên vì đoán trước một số tốt sẽ tiến hóa. Trong quan điểm này, mục đích tồn tại một cách cố ý trong tâm đấng sáng tạo, đứng bên ngoài sự sáng tạo của vị này.

"Trong dạng thức phiếm thần, Thượng đế không ở ngoài vũ trụ, nhưng chỉ là vũ trụ được coi như tổng thể. Cho nên không thể có hành động sáng tạo, mà có một loại lực sáng tạo trong vũ trụ, lực là nguyên nhân phát triển theo một kế hoạch mà lực sáng tạo này có thể được truyền trao nói là đã có trong tâm trong suốt tiến trình.

"Trong dạng thức 'hiện lên', mục đích lại càng mù mờ. Tại giai đoạn trước đó, không có gì trong vũ trụ được nhìn thấy trước, tại giai đoạn sau đó nhưng một loại thúc đẩy khó thấy dẫn đến sự thay đổi mang lại nhiều dạng thức được phát triển hơn vào hiện hữu, cho nên, đúng hơn là tối nghĩa, cái tận cùng lại ẩn tàng vào lúc bắt đầu."

Chúng tôi không bình luận. Những câu trả lời trên dây chỉ là quan điểm của các nhà tôn giáo và tư tưởng gia lớn khác nhau.

Có mục đích vũ trụ hay không, câu hỏi nêu lên về sự vô ích của các con sán dây, con rắn, con muỗi vân vân.., và sự hiện hữu của bệnh chó dại. Sao người ta có thể tính nó là một vấn đề của tội lỗi? Có phải động đất, lụt lội, bệnh dịch hạch, và chiến tranh đã được trù tính?

Bầy tỏ quan điểm riêng về mục đích vũ trụ, Russell mạnh dạn tuyên bố:

"Tại sao, trong bất cứ trường hợp nào, có sự vinh danh cho con người? Còn về con sư tử hay con hùm thì sao? Chúng tiêu diệt ít thú vật và sinh mạng con người hơn chúng ta, và còn đẹp đẽ hơn chúng ta. Về các con kiến thì sao? Chúng điều hành tập đoàn của chúng giỏi hơn bất cứ tên Phát xít nào. Phải chăng thế giới của chim sơn ca, oanh yến, và nai không tốt đẹp hơn thế giới ác độc, bất công và chiến tranh của con người? Những người tin tưởng vào mục đích vũ trụ lạm dụng nhiều về cái coi là trí thông minh của chúng ta. Nhưng những bản văn của họ khiến ta nghi ngờ. Nếu tôi được trao quyền vô hạn, và hàng triệu năm để chứng nghiệm, tôi sẽ không nghĩ rằng con người có nhiều điều để kiêu hãnh về những thành quả cuối cùng trong tất cả nỗ lực của tôi".

Giờ đây, Phật Giáo trả lời ra sao câu hỏi "Tại Sao?"

Phật Giáo bác bỏ sự hiện hữu của một Ðấng Sáng Tạo. Theo quan điểm của Phật Giáo không thể có một mục đích định trước. Phật Giáo cũng không tán thành thuyếtù định mệnh, quyết định luận, hay tiền định kiểm soát tương lai con người không phụ thuộc vào hành động tự do của con người. Trong trường hợp như vậy, tự nguyện trở thành một lực tuyệt đối và đời sống trở thành thuần túy máy móc.

Ở một mức độ rộng lớn, hành động của con người ít nhiều máy móc, ảnh hưởng bởi việc làm của chính mình, sự nuôi dưỡng và môi trường chung quanh vân vân... Nhưng ở một mức độ nào đó, con người có thể sử dụng sự tự nguyện của mình. Chẳng hạn, một người từ một sườn núi rơi xuống đất thì cũng chẳng khác gì một hòn đá vô tri vô giác rơi. Trong trường hợp này người đó không thể sử dụng lòng tự nguyện của mình mặc dù người đó có tâm ý không giống như hòn đá. Nếu người đó trèo núi, ắt hẳn người đó đã sử dụng lòng tự nguyện và hành động theo ý thích. Trái lại, hòn đá không có tự do để làm như vậy. Con người có quyền lực để chọn giữa cái phải và cái trái, giữa cái tốt và cái xấu. Con người có thể hoặc thù địch hay thiện cảm với chính mình và người khác. Tất cả tùy thuộc tâm mình và sự phát triển của tâm.

Mặc dù không có mục đích đặc biệt trong cuộc sống, con người có tự do để có một mục đích rõ ràng trong đời.

Cho nên, thế nào là ý nghĩ của đời?

Ouspenky viết:

"Một số người nói ý nghĩa của cuộc đời là trong phục vụ, đầu hàng cái ta, quên mình, hy sinh mọi thứ kẻ cả đời mình. Một số khác nói ý nghĩa rõ ràng trong cuộc đời là điều thích thú, làm nhẹ bớt sự mong đợi hãi hùng cuối cùng về cái chết. Một số nói ý nghĩa của cuộc đời là toàn hảo, tạo môt tương lai tốt đẹp hơn ở bên kia thế giới, hay trong kiếp tương lai cho chính chúng ta. Một số khác nói ý nghĩa của cuộc đời là tiến tới cái không hiện hữu, vẫn có một số nói ý nghĩa của cuộc đời là trong sự kiện toàn nòi giống, trong việc tổ chức đời sống trên trái đất, trong khi cũng có những người bác bỏ ngay cả đến toan tính muốn biết ý nghĩa của cuộc đời."

Phê bình tất cả những quan điểm này, những nhà văn tri thức viết:

"Cái sai lầm của tất cả những lời giải thích ấy là chỗ thực ra tất cả đều cố gắng khám phá ý nghĩa cuộc đời ở bên ngoài, hoặc trong bản tính nhân loại hoặc trong cuộc sống khó thấy bên kia thế giới, hay một lần nữa trong sự chống lại sự tiến hóa của cái "Tôi" qua nhiều hiện thân liên tiếp - luôn luôn trong cái gì đó bên ngoài của đời sống hiện tại của con người. Nhưng thay vì ức đoán, đơn giản là con người hãy nhìn vào chính mình, rồi họ sẽ thấy sự thực ý nghĩa của cuộc đời xét cho cùng không phải quá tối nghĩa. Nó cốt ở kiến thức."

Theo quan điểm của người Phật Tử, ý nghĩa của cuộc đời là sự Giác Ngộ Tối Thượng, tức sự hiểu biết đúng về ta là gì. Ðiều này chỉ có thể đạt được nhờ hạnh kiểm cao cả, huấn luyện tinh thần, thâm nhập tuệ giác; hay nói một cách khác do phục vụ và kiện toàn.

Trong phục vụ, gồm có lòng từ-ái vô biên, từ bi, và tuyệt đối vị tha thúc đẩy ta phục vụ người khác. Kiện toàn bao gồm thanh tịnh và trí tuệ tuyệt đối.



13

MỤC ÐÍCH CỦA CUỘC ÐỜI

Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda

Mục đích của cuộc đời là gì? Ðó là một câu hỏi thông thường luôn luôn được người ta hỏi. Không dễ dàng gì có câu trả lời thỏa dáng cho câu hỏi có vẻ như tầm thường nhưng phức tạp này. Mặc dù một số người đã đưa ra một số trả lời theo cách nghĩ của họ, nhưng dường như câu trả lời không mấy thỏa mãn người trí thức. Lý do là họ không học hỏi để nhìn đời một cách khách quan và hiểu viễn ảnh thích đáng của cuộc đời. Họ đã tạo ra những tưởng tượng về cuộc đời theo sự hiểu biết hạn hẹp của họ. Ðồng thời chúng ta biết nhiều đạo sư, triết lý vĩ đại, thi sĩ nổi tiếng, và những nhà tư tưởng lớn, cũng không thỏa mãn về bản chất đời sống. Một số nói đời đầy khổ đau; bất trắc và bất toại nguyện. Một số nói: "Hay biết mấy nếu tôi không được sinh ra". Một số khác hỏi: "Tại sao chúng ta sinh ra cõi đời này để khổ đau mà không được gì?"

Theo như lời họ nói, chúng ta hiểu họ là những người biết cách nhìn đời một cách khách quan, đời thật đúng là thế. Nhưng người bình thường luôn luôn nhìn đời một cách hời hợt không phải đời đúng là vậy. "Ðời không phải là cái ta nghĩ về đời mà là cái chúng ta nghĩ trở thành đời" Ðó là lời của một nhà tư tưởng vĩ đại khác.

Một số người nói không có mục đích đặc biệt trong đời sống, nhưng đời có thể sử dụng vào bất cứ mục đích gì. Có một điều gì trong câu nói này cho chúng ta suy nghĩ khôn ngoan; muốn sử dụng đời cho mục đích đem lợi ích cho chúng ta và cho nhân loại thay vì làm phí phạm nó một cách khờ dại. Theo đường lối này, mục đích của cuộc đời có thể nói tùy thuộc vào đường lối ta điều khiển và sử dụng nó. Nếu ta sử dụng nó sai lầm vì vi phạm các đức tính thiện của con người, lạm dụng phẩm giá con người, và phạm phải các hành động sai trái chịu thua các nhược điểm cùa chúng ta, chúng ta không thể hoàn tất được điều đáng giá và cao quý về mục đích cuộc đời. Nhưng nếu chúng ta hành động khôn ngoan và chu đáo bằng cách gìn giữ những nguyên tắc luân lý và đạo đức phổ thông, thực hành kiên nhẫn, khoan dung, tình cảm, nhũn nhặn và tử tế, tạo hiểu biết và phục vụ không vị kỷ, rèn luyện tâm trí để đạt trí tuệ, chúng ta có thể đạt điều cao quý và lợi ích cho tất cả vì mục đích cuộc đời. Những ai trau dồi những đức hạnh như vậy sẽ chứng nghiệm hòa bình, hạnh phúc, an ổn, thỏa mãn và tĩnh lặng. Ðời sẽ thật đáng giá - Phải là một niềm vui được sống trên đời!

 

Bản Chất Của Ðời Sống

"Ðời tự nó phí phạm trong khi chúng ta sửa soạn vào đời" một nhà trí giả nói vậy. "Bệnh tật, già nua, và khổ sở là giá ta trả để giữ thân xác như một cái nhà", một nhà trí giả khác nói như vậy. "Chúng ta phải trả nợ cái sợ hãi và lo âu để sống như một con người." Ðó là một câu khác do một nhà tôn giáo nói. Khi ta xét tất cả những quan điểm này, chúng ta tìm thấy bản chất của cuộc đời và phán đoán liệu có một mục đích nào trong cuộc đời không.

Nếu chúng ta chỉ thỏa mãn giác quan là mục đích của cuộc đời, chúng ta phải chuẩn bị đối đầu với những khó khăn phát sanh từ cái mà không ai vui hưởng dục lạc mà không đương đầu với khó khăn.

Mặc dù các khoa học gia đã khám phá ra nhiều thứ tuyệt vời trong vũ trụ, nhưng chính họ cũng không biết mục đích của cuộc đời.

Về cách cư xử của con người, một học giả viết: "Con người không phải là cái nó là, là cái không phải nó". Theo ông, con người không xử thế đúng như một "con người" thực sự. Theo Phật Giáo, con người không phải là một thực thể làm sẵn mà là một biểu cảm tồn tại theo nghĩa đen từng khoảnh khắc một trên cơ sở năng lượng. Một nhà học giả khác nói: "Không thể chữa khỏi sanh và tử, hãy vui hưởng giữa khoảng cách sanh và chết"

Chúng ta không thể hiểu được bản chất thực sự của đời sống do vô minh và tham ái mạnh mẽ. Ðó là lý do tại sao chúng ta phải đau khổ nơi đây. Ðó là lý do tại sao khó khăn cho chúng ta xem có một mục đích rõ ràng trong đời sống hay không trên thế giới này và trong hình thái này.

Ðời sống được mô tả như một sự kết hợp của tâm và vật. Kết quả của sự kết hợp này, một chúng sanh hiện hữu và nó tiếp tục thay đổi cho đến khi tan rã. Tuy nhiên, khởi đi từ năng lượng tinh thần rồi lại kết hợp với các thành phần hay vật chất tái xuất hiện dưới nhiều hình thức và bầu trời khác nhau theo đời sống phù hợp với bản chất của tiền kiếp. Sự tiếp tục của dòng suối đời cứ thế tiếp tục mãi mãi bao lâu mà nghiệp lực và tham sống vẫn còn.

 

Năm Uẩn

Theo Pháp, đời sồng gồm năm uẩn. Chúng là Sắc, Thọ, Tưởng Hành, và Thức. Bốn thành phần là chất đặc (đất), chất lỏng (nước), hơi nóng (lửa), và chuyển động (gió) gồm trong sắc (vật chất). Sắc cùng bốn yếu tố tinh thần nói trên là thọ, tưởng hành, thức cùng nhau kết hợp thành đời sống. Bản chất thực sự của năm uẩn này được giải thích trong giáo lý của Ðức Phật như sau: Sắc tương đồng với một đống bọt biển, thọ như bọt nước, tưởng mô tả như ảo ảnh, hành như cây chuối và thức như một ảo tưởng. Với cách lý giải đời sống như thế, khó có thể xác quyết sự thực hay mục đích của đời sống như đã được tạo nên.

Sự phân tích đời sống là một thách thức to lớn đối với nhiều triết gia và niềm tin tôn giáo thời đại. Không có thứ gì là đời sống vĩnh viễn hiện hữu mà không có thay đổi và tan rã. Xác thân chẳng là gì cả, chỉ là một tổng hợp trừu tượng cho một hỗn hợp luôn luôn thay đổi của thành phần hóa chất cấu tạo. Con người bắt đầu nhìn thấy đời mình như một giọt nước trên một dòng sông đang chảy và vui mừng đóng góp phần mình vào dòng sông đời vĩ đại.

 

Một Thế Giới Của Sóng

Phân tách khoa học về vũ trụ cho thấy thế giới không là gì cả mà là một sự tiếp tục vận hành không ngưng nghỉ. Tiến Sĩ Einstein nói "Tất cả vật chất được tạo thành bởi sóng và chúng ta sống trong một thế giới sóng"

"Chúng ta là một phần của những sóng như thế
Nếu một người có thể nhận thức được:
Tình trạng xác thân của mình,
cảm nghĩ của mình,
tình trạng của tâm và
tình trạng của các đối tượng tinh thần,
sự nhận thức như trên sẽ dẫn người đó khám phá ra vấn đề liệu có hay không mục đích của cuộc đời".

 

Bạn Hãy Tự Thay Ðổi

Bạn có thể kiện toàn bằng cách thay đổi thế giới không? Không bao giờ. Bạn chỉ có thể cảm thấy cái cao ngạo của bạn và xoa dịu tính ích kỷ của bạn. Bạn sẽ bị ràng buộc bởi bánh xe luân hồi. Nhưng bằng cách bạn tự thay đổi, bằng cách nhận thức được bản chất của cái ta nhờ tự buông bỏ, tự kỷ, tự nỗ lực bạn có thể thành người hoàn toàn. Bằng việc thành công toàn hảo như vậy, bạn đền đáp nhân loại bằng sự phục vụ cao cả nhất. Tấm gương của bạn sẽ truyền cảm hứng cho người khác và họ cũng sẽ theo bạn và hoàn thành mục tiêu cuộc đời.

Con người ngày nay là kết quả của cả triệu tư tưởng và hành dộng trong quá khứ. Con người không phải được làm sẵn; họ bắt đầu và tiếp tục bắt đầu. Tính nết của con người được xác định bởi sự suy tư của chính mình. Con người không hoàn hảo do bản chất, con người phải tự rèn luyện để trở nên hoàn hảo.

Ðời sống không phải chỉ thuộc về loài người thôi. Nhiều dạng thức sống khác hiện hưũ trong vũ trụ. Tuy nhiên loài người biết suy nghĩ nhiều hơn và có khả năng lý luận. Trong phương diện ấy, con người cao hơn chúng sinh khác vì có trí thông minh để xây dựng cuộc đời, để thoát khỏi đau khổ trần thế. Cho nên nếu mục đích cuộc đời là chỉ để quét sạch đau khổ, con người có thể đạt cứu cánh ấy do nỗ lực của chính mình. Nhưng đời sẽ là sự thất bại nếu không được sử dụng thích đáng.

Ðức Phật nhấn mạnh đến phẩm giá con người và giảng dạy về giá trị con người. Ngài vẽ một bức tranh toàn hảo về con người, phấn đấu và tranh đấu hết đời này đến đời khác trong việc tìm cầu toàn hảo.

Ðời sống là một kinh nghiệm độc đáo. Không thể lấy gì để so sánh được, không thể đo lường giá trị của nó đối với những thứ khác, và tiền bạc không thể mua được nó. Nhiều người chưa biết phải làm gì với 'hạt ngọc vô giá này'. Nơi đây đời sống không có nghĩa chỉ là xác thân vật chất hay giác quan mà là trí thông minh con người.

 

Bốn Hạng Người

Ðức Phật phân chia tất cả nhân loại thành bốn nhóm:

* Những người làm việc vì lợi ích của chính mình, mà không vì lợi ích của người;
* Những người làm việc vì lợi ích của người mà không vì lợi ích của mình;
* Những người không làm việc vì lợi ích của mình và cũng chẳng làm việc vì lợi ích của người;
* Và những người làm việc vì lợi ích của mình và cũng làm việc vì lợi ích của người.

Ai là người chỉ làm việc vì lợi ích của mình mà không làm việc vì lợi ích của người? Ðó là người chỉ phấn đấu loại bỏ tham, sân si cho chính mình, mà không khuyến khích người khác loại bỏ tham sân si và cũng không làm gì phúc lợi cho người khác.

Ai là người chỉ làm việc vì lợi ích cho người mà không làm việc vì lợi ích của mình? Ðó là người khuyến khích người khác loại bỏ nhược điểm con người và phục vụ cho họ nhưng không tự tranh đấu để loại bỏ nhược điểm của chính mình.

Ai là người không làm việc vì lợi ích của chính mình và cũng chẳng làm việc vì lợi ích của người? Ðó là người không tranh đấu để loại bỏ nhược điểm của chính mình và cũng chẳng khuyến khích người khác bỏ các nhược điểm và cũng không phục vụ người .

Ai là người làm việc vì lợi ích của chính mình và làm việc vì lợi ích của người? Ðó là người tranh đấu để loại bỏ tư tưởng tội lỗi trong tâm của mình, đồng thời giúp người khác làm điều thiện.

 

Ðời Là Khổ Ðau

Nếu chúng ta suy ngẫm sâu xa, chúng ta phải đồng ý với khái niệm đời là khổ đau. Chúng ta đau khổ cả thể chất lẫn tinh thần ở bất cứ lúc nào. Ta có thể tìm được người nào trên thế giới này thoát khỏi được cái đau đớn thể chất và tinh thần không? Quả là khó khăn. Cả đến những người đạt tới bậc thánh cũng không thoát khỏi cái đau đớn thể xác chừng nào mà họ còn mang xác thân vật chất.

Nếu có ai hỏi: "Ðiều gì bất trắc nhất trên thế giới này?" - Câu trả lời đúng phải là: "Ðời là điều bất trắc nhất". Tất cả mọi thứ ta làm trên cõi đời này là để thoát khỏi khổ đau và cái chết. Nếu chúng ta buông lung chỉ một giây, cũng thừa đủ để chúng ta mất nó. Hầu hết tất cả những thói quen hàng ngày như làm việc, ăn, uống, dùng thuốc men, ngủ và đi lại là những phương cách và phương tiện áp dụng bởi chúng ta để tránh khổ đau và cái chết. Mặc dù thỉnh thoảng chúng ta kinh qua một vài lạc thú trần tục thỏa mãn ham thích của mình nhưng ngay sau đó chính lạc thú ấy có thể biến thành khổ đau. Cho nên kho tàng hòa bình và hạnh phúc cao quý không cần thiết phải ở trong tay người giàu có mà nơi con người từ bỏ trần tục.

Tất cả mọi thứ trong đời sống của chúng ta đều phải thay đổi và bất toại nguyện. Do đó Ðức Phật đã giải thích chừng nào mà ta còn tham dục lạc trần thế hay ham muốn sống thì chúng ta không thể tránh khỏi khổ đau thể chất và tinh thần. Ham muốn rất quan trọng cho cuộc sống. Khi cuộc sống hiện hữu, khổ đau không tránh được.

Nhiều người tìm kiếm một đời sống bất diệt, nhưng trớ trêu thay những người đi tìm cái bất tử này lại thấy rằng đời đáng chán đến nỗi họ không biết làm gì để qua ngày! Theo Ðức Phật, cái tham về bất tử này là một trong những nguyên nhân của tư tưởng ích kỷ và sợ chết.

"Thật dễ dàng ta vui vẻ
Khi đời trôi chảy như bài ca
Nhưng người thật xứng đáng
là người có thể mỉm cười
dù đời đi vào vô vọng".

Cái hạnh phúc bé nhỏ này được bảo đảm giữa nhiều bất mãn, không thành công và thất bại. Con người không tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời nếu không có xáo trộn, khó khăn, tai ương, thất vọng, sợ hãi, bất an, thua lỗ, bất hạnh, trách cứ, bệnh tật, già yếu, và cả ngàn tình trạng khác không thích thú. Ngày dêm, con người phấn đấu để thoát khỏi những tình thế bất hạnh này. Nhưng càng tranh đấu để thoát khỏi tình trạng bất hạnh này theo đường lối trần tục, thì con người lại tự mình càng vương mắc vào nhiều khó khăn khác. Khi tìm cách thoát ra khỏi một khó khăn dù hữu ý hay vô tình con người cũng tự mình tạo ra những khó khăn khác. Chấm dứt những khó khăn ấy ở đâu? Muốn tồn tại, chúng ta phải chấp nhận những khó khăn và khổ đau như vậy không phàn nàn vì không có sự lựa chọn nào khác. Khổ đau lúc nào cũng ở đấy! Không có cách nào có thể tránh được khổ đau và bất hạnh. Khổ đau theo Ðức Phật, là một căn bệnh chỉ có thể hoàn toàn khỏi được khi đạt được toàn hảo.

Lão Tử, một đạo sư nổi tiếng Trung Hoa nói: "Ta đau khổ vì ta có thân xác. Nếu ta không có thân thể chất này, làm sao ta có thể đau khổ được?"

Khi bạn nhìn con người đau khổ như thế nào trên thế giới này, bạn có thể nhìn thấy tình trạng thực sự của đời sống trần thế. Tại sao ta phải chịu đau kh? như vậy? Ai là người chịu trách nhiệm về những đau khổ ấy? Theo Ðức Phật, mỗi người chúng ta chịu trách nhiệm về khổ đau của chính mình. Con người đau khổ ngày nay vì quá tham sống. Ðó là nguyên nhân chính của khổ đau. Phải mất hơn 2500 năm, các triết gia và các nhà tâm lý học mới hiểu được điều mà Ðức Phật nói là đúng. Một thi nhân nói:

"Con thiêu thân bay vào lửa,
không biết mình sẽ chết.
Con cá nhỏ cắn lưỡi câu,
không biết mình bị nguy hiểm.
Nhưng dù biết rõ hiểm nguy
của những lạc thú tội lỗi trần tục,
ta vẫn bám chặt vào chúng,
Quả thật ta khờ dại đến chừng nào!"

 

Bản Chất Phù Du Của Cuộc Ðời

Phật Giáo nhấn mạnh đời người rất ngắn ngủi và ta nên lưu tâm, tích cực hoạt động và lưu ý để được giải thoát.

"Con người chẳng bao giờ có thể hiểu rằng chúng ta ở cõi đời này chỉ trong một thời gian ngắn. Nhưng dù có được chân lý ấy vẫn đau khổ với tất cả những xung đột và cãi cọ để rồi chấm dứt."

Thi sĩ Davis nhìn cuộc đời phù du ra sao như dưới đây:

"Ðời là gì, sao quá cẩn trọng,
Không có thì giờ để đứng và ngắm xem?
Không có thì giờ để dừng dưới cành cây
Ðể chỉ nhìn con cừu và con bò cái.
Không có thì giờ nhìn cánh rừng khi ta đi qua
Nơi những con sóc dấu những hạt trong cỏ.
Không có thì giờ, nhìn ánh sáng tỏ ban ngày
Dòng suối tinh tú tràn đầy bầu trời ban đêm.
Không có thì giờ để thoáng nhìn cái đẹp,
Ngằm đôi chân nàng, xem chúng nhảy múa
Không có thì giờ chờ đợi nụ cười nở trên môi, khóe mắt long lanh.
Cuộc đời khốn khổ như thế, nếu hết sức cẩn trọng,
Chúng ta không thi giờ để đứng và ngắm xem"

 

Chiến Trận

Toàn thể vũ trụ là một chiến trường rộng lớn. Cuộc sống chẳng là gì cả mà là một cuộc tranh đấu vô ích, nguyên tố chống nguyên tố, năng lượng chống năng lượng, nam giới chống nam giới, nữ giới chống nữ giới, người chống thú vật, thú vật chống người, người chống thiên nhiên, thiên nhiên chống người, và chính trong phạm vi của hệ thống vật chất là một chiến trường to lớn. Chính tâm con người là một chiến trường lớn nhất.

Con người không thanh thản với chính mình không thể hòa bình với thế giới, chiến tranh bên ngoài cứ tiếp diễn để che đậy sự thực chính từ nơi cá nhân, chiến tranh thực sự ở bên trong. Lời cầu nguyện quan trọng nhất của nhân loại ngày nay là hòa bình, nhưng không có hòa bình trên thế giới tan nát vì chiến tranh này cho đến khi nào những mâu thuẫn của con người với chính mình chấm dứt.

Dưới mắt Ðức Phật chúng sanh run rẩy như con cá trên giòng sông sắp cạn, bị kìm kẹp trong tham ái, vùng vẫy hết chỗ này chỗ kia để thoát, giống như con thỏ rừng bị mắc bẫy hay như mũi tên lạc bắn trong đêm tối. Ngài nhìn thấy sự tranh giành lẫn nhau, cái vô nghĩa của hàng loạt cướp bóc trong đó kẻ này ăn kẻ khác, chỉ để rồi bị ăn bởi người khác. Chiến tranh gây ra do tâm con người và cũng chính tâm con người này có thể tạo hòa bình và công lý nếu con người sử dụng tâm không thiên lệch.

Lịch sử thế giới cho chúng ta biết kỳ thị chủng tộc, màu da, tôn giáo cuồng tín, và tham quyền thế chính trị, và của cải đã tạo thêm nhiều thống khổ và tai hại lớn lao trong thế giới này và đã tiêu diệt một phần lớn nhân loại trong một đường lối độc ác. Những sự việc này không bao giờ đóng góp gì cho việc phát triển thế giới. Con người khát vọng quyền uy và của cải, bị đầu độc bởi ganh ghét bao giờ cũng tạo khó khăn, thường cố biện minh hành động độc ác của họ bằng cách nói một cách vô nghĩa dưới danh hiệu hoà bình và công lý. Chúng ta đang sống trong một thế giới đoàn kết về vật chất nhưng chia rẽ về tinh thần và đồng thời tinh thần đoàn kết nhưng vật chất chia rẽ.

"Chúng ta sống. làm việc và mơ mộng,
Mỗi người đều có một ý đồ nho nhỏ,
Ðôi khi chúng ta cười;
Ðôi khi chúng ta khóc.
Và cứ thế ngày tháng trôi qua"

 

Thái Quá

Chúng ta làm cực nhọc, đầu tắt mặt tối để duy trì thân xác. Chúng ta phạm tội không kể xiết để thỏa mãn nhu cầu và tham ái của xác thân. Chúng ta muốn nổi tiếng và danh vang để thỏa mãn lòng vị kỷ cố hữu trong chúng ta. Chúng ta làm một nghìn lẻ một những sự việc để nâng cao cái gọi là uy tín, và rồi khi chết đến, với cái mục rữa của thân xác trong mồ, hay xác thiêu chúng ta ra đi - xác thân không còn nữa.

Trong cuộc đời chúng ta tạo nhiều điều quan trọng quá mức trên xác thân. Cũng như chúng ta đã làm điều đó cho cái chết. Thi sĩ Khantipalo mô tả cái ồn ào thái quá tạo ra bởi chúng ta như sau:

"Quá nhiều ồn ào
Quá nhiều người
Quá nhiều thì giờ
Quá nhiều khó khăn
Quá nhiều nước mắt
Quá nhiều tiền bạc
Tất cả thứ đó để làm gì?
Cho xác thân bé nhỏ!
Một viên tròn chất đạm
Phân hủy nhanh chóng.
Cái thân nhỏ bé
Tan rã nhanh chóng.
Không còn gì nữa
Cha mẹ thân yêu
Hay bất cứ người thân nào khác.
Mặc dù như vậy
Chúng ta phải có
An ủi và quan tài
Ðám ma và mộ chí
Tụ tập và tang tóc
Nghi thức và nghi lễ
Chôn hay thiêu
Ướp xác để giữ hoài
Tất cả những thứ ấy cho
Xác thân bé nhỏ phồng lên.
Các con hãy nhớ,
Các cháu hãy nhớ
Và sau chúng
Người chết bị lãng quên,
Ðá và xương còn lại.
Vậy điều này không phải
Là một sốù nhiều vô nghĩa sao?

 

Giá Trị Tinh Thần

Julian Huxley nói: Ðời phải dẫn đến chỗ thực hiện những khả năng không kể siết về thể chất, tinh thần, tâm linh vân vân...mà con người có thể làm được. Nhân loại có khả năng làm nhiều việc vĩ đại hơn, và cao quí hơn.

Bạn sinh ra trong cõi đời này để làm việc thiện và không để thì giờ trôi qua vô ích. Nếu bạn biếng nhác, bạn là gánh nặng cho thế giới này. Bạn phải luôn luôn nghĩ đến việc nâng cao lòng tốt và trí huệ. Bạn sẽ lạm dụng cái đặc ân trở thành một con người nếu bạn không chứng tỏ bạn xứng đáng với nguyên nhân mà vì nó bạn được hưởng vị trí này. Phí phạm cuộc sống con người trong nuối tiếc dĩ vãng, trong biếng nhác và không lưu tâm chứng tỏ sự không phù hợp của bạn trên thế giới này. Cây văn minh mọc rễ từ những giá trị tinh thần mà đa số chúng ta không hiểu. Không có những rễ ấy, lá sẽ rụng và để lại một thân cây chết.

"Nếu tất cả núi là sách, và nếu tất cả hồ là mực, và nếu tất cả cây cối là bút viết, vẫn không đủ để miêu tả sự thống khổ trong đời này"(Jacob Boehme)

Cho nên tại sao những đạo sư giác ngộ như Ðúc Phật sau khi thấy đời đúng theo viễn cảnh của nó, không một động cơ vị kỷ hay ích kỷ nào, đã giải thích rằng không có mục đích thực sự của đời sống, nếu chúng ta cứ để đời sống chạy vòng vòng theo chu trình sinh tử trong khi đau khổ về thể chất và tinh thần. Nhưng chúng ta có thể sử dụng hữu hiệu đời sống này cho mục đích tốt đẹp hơn bằng cách phục vụ người khác, trau dồi luân lý, rèn luyện tâm trí,và sống như một người có văn hóa trong hòa bình, hòa hợp với phần còn lại của thế giới. Theo Ðức Phật, con người không phải là bù nhìn vô trách nhiệm. Con người là quả cao nhất của cây tiến hóa. Tuy nhiên triết lý cổ xưa trình bày mục đích của đời sống như sau: "Dẫn từ tăm tối đến ánh sáng, từ không chân lý đến chân lý, và từ tử đến bất tử". Những lời nói đơn giản nhưng có ý nghĩa này cho chúng ta vấn đề đáng suy nghĩ.

 

Tử và Bất Tử

Tất cả những câu con người hỏi về đời sống đều liên quan đến sự thực của cái chết; con người khác biệt tất những sinh vật khác, vì con người biết được cái chết của mình nhưng lại không bao giờ chịu hòa giải với sự chia sẻ với số phận tự nhiên của tất cả những sinh vật sống. Nếu chỉ con người mới có thể hiểu được đời sống ngắn ngủi và cái chết không tránh được, con người có thể giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến đời sống. Trong cuộc cầm cự chống lại cái chết, con người tuy đã thành công kéo dài đời sống nhưng cũng chỉ giống như đứa trẻ chơi trò xây cất lâu đài bằng cát trên bờ biển để rồi đợt sóng nối tiếp phá vỡ đi. Con người thường làm cho cái chết trở thành đối tượng trung tâm của tôn giáo, cầu khẩn phước báu thiên đường để đạt đời sống bất diệt.

Chết xẩy ra với tất cả chúng sinh, nhưng chỉ có con người trước sự đe dọa không ngưng của cái chết, tạo ra ý chí để chịu đựng. Ngoài việc ham thích được trường cửu và bất tử trong tất cả các dạng thức có thể tưởng tượng được, con người tạo ra tôn giáo, đến lượt nó, cố gắng đưa ra một sự kết thúc cuộc đời có ý nghĩa hơn.

Mặc dù có nhiều tín đồ của nhiều tín ngưỡng tin tưởng có sự hiện hữu của thiên dường trường cửu, nơi đây đời sống là một hạnh phúc bất diệt, chúng ta vẫn chưa nghe thấy những tín đồ thuần thành của một tôn giáo nào say mê từ bỏ cuộc sống trần thế và những thứ mà họ là sở hữu chủ để rồi được về thiên đàng ngày nay. Tương tự như vậy, ngay cả người Phật Tử cũng thích bám víu vào đời sống trần thế quí giá của họ chừng nào họ tồn tại, mặc dù họ biết rằng đời sống trên thế giới này chẳng là gì cả mà chỉ là khổ đau, và hạnh phúc tối thượng là Niết Bàn. Có bao nhiêu người đạt được Niết Bàn bằng bỏ tham ái?

Ngày nay cái khó khăn nhất mà các quốc gia phải đương đầu là vấn đề bùng nổ dân số. Ðường lối và biện pháp phải được tìm ra để kiềm chế vết sưng không ngưng này của dòng đời. Hàng triêu người cần thực phẩm, chỗ ở, tiện nghi và an ninh. Với những người ấy câu hỏi không phải là "Mục đích của cuộc đời là gì?" mà là "Phải làm gì với đời sống?". Câu trả lời đơn giản là ta nên sử dụng một cách hữu hiệu nhất đời sống và tìm ra cái gì là hạnh phúc mà ta có thể đạt được bằng phương thức thực tiễn và chính đáng hơn là lo lắng quá đáng về lý thuyết trừu tượng về mục đích bí ẩn của cuộc đời. Tuy nhiên, tôn giáo bước vào để an ủi con người hay thức tỉnh con người về sự thật đời sống không thê lương và vô vọng như nó được nhìn từ cơ sở xác thân vật chất không thôi. Có hy vọng cho một đời sống tốt đẹp hơn.

Tất cả những tiến bộ trên thế giới này được tạo ra bởi con người là do sự thật là con người nhận thức được con người phải chết và muốn để ảnh hưởng lại sau khi ra đi. Nếu con người đạt được bất tử và những ngày trên trái đất là vô tận thì con người sẽ có xu hướng thoải mái và mất tất cả sự khích lệ và sáng tạo để tiến bộ, con người sẽ không còn ham thích trong việc tạo thế giới này thành một nơi tốt đẹp hơn. Nếu không có chết, đời sống sẽ đình trệ, buồn tẻ, gánh nặng không tả xiết và chán nản. Nếu con người có tuệ giác biết được thời gian bao lâu nữa sẽ chết, con ngưới ấy sẽ hành động khác hẳn hành động mà người ấy đang làm hiện nay.

 

"Xác Thân Trở Thành Tro Bụi,
Nhưng Ảnh Hưởng Vẫn Còn" - (Ðức Phật)

Dù rằng cha ông chúng ta đã chết và ra đi, chúng ta vẫn cảm thấy họ vẫn hiện hữu với chúng ta không vật chất nhưng qua ảnh hưởng tạo ra từ thế hệ này đến thế hệ kia - ảnh hưởng của họ vẫn còn. Bằng từ õ "tổ tiên", chúng ta không chỉ liên tưởng đến tổ tiên mà đến tất cả những ai đã đóng góp vào phúc lợi và hạnh phúc của người khác. Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể nói những anh hùng, nhà hiền triết, và các thi nhân của ngày xưa đã không còn, nhưng vẫn hiện hữu giữa chúng ta qua ảnh hưởng của họ. Vì chúng ta tự liên hệ đến những liệt sĩ, và những nhà tư tưởng, chúng ta chia sẻ những tư tưởng khôn ngoan nhất, lý tưởng cao quý và cả đến âm nhạc tuyệt diệu của hàng thế kỷ qua.

Kêu gọi con tim của con người cho một mục đích là xác nhận không rõ ràng bản chất của đời sống. Khi con người cảm thấy bản chất cao quý hay tuyệt trần của mình, người đó không còn khóc than gì về mục đích cuộc đời vì đã nhận thức được chính mình là mục đích.

Người biết suy nghĩ nhận định rằng dòng lịch sử loài người được quyết định không phải gì xẩy ra trên trời mà là do cái diễn ra trong tâm con người.

Ðức Phật nói không có một siêu nhân nào có thể cao hơn con người toàn thiện.

Con người có thể và phải tự nâng chính mình lên trên giới hạn cá nhân của mình, theo bước chân của Ðức Phật.

 

Sử Dụng Hữu Hiệu Nhất Ðời Sống

Ðiểm quan trọng nhất về đời sống là chúng ta có nó cho nên ta phải sử dụng nó một cách hữu hiệu nhất. Ðó thật sự là giá trị lớn nhất của đời sống, cơ hội sử dụng hữu hiệu nhất nó. Nhiều người sống một cuộc đời hẹp hòi, giới hạn, buồn tẻ và thất vọng vì họ không cố gắng sử dụng hữu hiệu nhất đời sống. Nhưng điều này có thể làm được bằng cách có được lý tưởng và tuân theo nó. Lý tưởng của chúng ta phải thế nào? Chúng dùng để trau dồi đức tính con người dẫn đến sống một cuộc đời hạnh phúc và an lạc. Lối sống này được xem như một cuộc sống đạo hạnh, cao thượng, chính đáng học thức được kính trọng bởi mọi người. Không làm cho người khác hạnh phúc, một người không thể sống hạnh phúc. Con người phải cố gắng hết sức mình đồng thời khi gặp đối nghịch, hay được tưởng thưởng bởi phần nào thành công, phải tự hỏi "Tôi đã làm hết mình chưa", và cả đến khi thua, phải nhớ lại con đường giải thoát không chỉ nằm trong chiến thắng mà là trong việc chấp nhận cuộc chiến.

"Cái cây mang nhiều trái
Con sông làm đất phì nhiêu
Dòng sữa tốt của con bò
Công việc cực nhọc liên tục của người thiện;
Của cải này đáng giá, công việc này đã làm,
Cho lợi ích người khác, không phải cho riêng mình.

Học thuyết hiện đại về phục vụ xã hội cần thiết đến thế, có thể nói là nền móng đạo đức của tất cả những tôn giáo vĩ đại.

 

Niết Bàn

Nếu ai dạy: Niết Bàn là sẽ phải ngưng
Hãy nói với họ: nói dối
Nếu ai dạy: Niết Bàn là sẽ phải sống
Hãy nói với họ: sai lầm"
--(Sir Edwin Arnold trong Thi Phẩm Ánh Sáng Á Châu)

Ðịnh nghĩa đã nói ở trên đây về về đời sống thừa đủ cho người nào hiểu quan niệm đạt Niết Bàn, nơi đau đớn về thể chất và tinh thần không còn nữa, vì Niết Bàn nói lên sự chấm dứt khổ đau. Mục đích của toàn bộ cuộc đời là ngăn chặn, giảm bớt khổ đau và tìm hạnh phúc. Nếu thực sự chúng ta muốn có hạnh phúc trường cửu - hạnh phúc ta chứng nghiệm trong tâm hoàn toàn thoát khỏi những phiền toái, chúng ta phải học cách đạt được nó. Bằng cách kiếm nhiều của cải, quyền uy, và những điều kiện trần thế nhiều hơn, chúng ta không bao giờ có thể đạt thỏa mãn thực sự, mãn ý, tâm an lạc và hạnh phúc không thay đổi - được gọi là "làm dịu giác quan và làm nguội những ô trược đang cháy trong tâm."

Phải nhớ rằng không ai bắt chúng ta phải làm một hành động đặc biệt nào đó. Không ai phạt hay thưởng chúng ta. Chúng ta có hoàn toàn tự do ý chí và chọn lựa. Nếu bạn nghĩ rằng bạn có thể chịu được tất cả những đau đớn và khổ đau vật chất và tinh thần, bạn có thể vẫn còn ở trong vòng sanh tử và tiếp tục gào khóc, rên siết, đau khổ, bị nguyền rủa, càu nhàu, tranh đấu, lo âu, chiến đấu để tồn tại, làm việc như nô lệ đêm ngày, đương đầu với khó khăn và chướng ngại to lớn. Thực ra trong suốt cuộc đời, chúng ta đã bỏ thì giờ, năng lực và tâm trí vào chiến trường - tranh đấu để tồn tại, tranh đấu để có quyền thế, lợi lạc, tên tuổi, lạc thú và tranh đấu để thoát những sự việc nguy hiểm. Ðôi khi chúng ta đạt được một chút lạc thú xen vào giữa. Lạc thú nào thì cũng chấm dứt với khổ đau.

Hãy nhìn vào thế giới, chúng ta có thể thấy con người đánh nhau như thế nào, giết chóc, thiêu đốt, ném bom, bắt cóc, cướp máy bay, và đánh phá lẫn nhau. Tiêu diệt người đồng chủng trở nên một trò chơi giải trí hay để vui đùa. Toàn thế giới như một nhà điên. Con người đã quên đi tính nết tốt con người và để tư tưởng, lời nói, và hành vi tội lỗi ngự trị con người. Rõ ràng không có chỗ trong tâm con người để trau dồi tư tưởng và hành vi thiện. Làm sao ta có thể tìm được hòa bình và hạnh phúc trên chiến trường mà người ta chiến đấu không ngừng để thắng hay để thoát hiểm?" Thái độ vô nhân đạo của con người đã gây nên hàng ngàn tang tóc không kể xiết.

Nếu bạn có thể hiểu được cái mong manh của đời sống và cái nguy hiểm của thế giới, thì bạn có thể hiểu được ý nghĩa của việc đạt Niết Bàn. Bạn sẽ không còn chậm trễ trong cố gắng tìm cầu trạng thái hạnh phúc này. Ngày nay bạn chiến đấu để thoát khỏi khổ đau bằng phương cách trần thế. Nhưng đó là trận thua. Sẽ chỉ có thất bại. Tuy nhiên nếu bạn cố gắng quét sạch khổ đau bằng cách phát triển khía cạnh tinh thần trong đời bạn, bạn có thể tìm thấy an lạc thực sự. Ðó là Niết Bàn.

 

Lạc Thú Trần Tục

Chúng ta biết có nhiều người trong thế giới này, cả đến người Phật Tử, không chuẩn bị tu tập để đạt Niết Bàn. Vì lý do đó, một số đã mô tả Niết Bàn như thiên đàng, nơi con người có thể vui hưởng lạc thú vô tận. Sự mô tả này lôi cuốn những người kém hiểu biết về đời sống và sự việc trần thế và những ai đắm mình vào tham ái, luyến chấp trong đời sống và lạc thú trần tục. Họ không hiểu rằng quan niệm về Niết Bàn như vậy chỉ là mộng. Tuy nhiên người trần tục luôn nghĩ và cầu nguyện loại Niết Bàn ấy. Mặt khác có những người nghĩ rằng tốt hơn là cứ ở trên thế giới này mặc dù đủ loại khổ đau để vui hưởng đời sống. Họ không hiểu rằng do tham dục và luyến chấp phát triển nơi họ, họ không thể cảm thấy hạnh phúc tối thượng của Niết Bàn. Những điều trần tục khác mà họ coi là hạnh phúc không thể giải thoát họ khỏi cái đau khổ vật chất và tinh thần.

Theo Ðức Phật, vì vô minh mà con người tham cuộc sống trong vòng luân hồi sinh tử - trong khi đau khổ và mải mê chạy theo ảo tưởng trong sự tìm cầu điều nhằm thỏa mãn giác quan. Họ phải nên học cách làm dịu giác quan thay vì xoa dịu chúng bằng nuông chiều phù du.

 

Hệ Thống Thế Giới Vô Tận

Một số người nghĩ rằng nếu tất cả chúng ta đều đạt Niết Bàn thì thế giới này sẽ là môt nơi trống rỗng và sẽ không có ai làm việc cho sự tiến bộ của thế giới. Ðó là ý kiến nông cạn xuất hiện trong tâm của những người thiếú hiểu biết kiến thức thực sự về cuộc sống.

Họ phải hiểu rằng thế giới này không bao giờ trống rỗng vì chỉ có một số ít người trí có thể đạt được Niết Bàn. Trong chừng mực mà hệ thống thế giới còn liên quan đến thì không có giới hạn nào đối với chúng cả. Không có sự việc như bắt đầu hay chấm dứt hệ thống thế giới hay vũ trụ. Các hệ thống trần thế bao giờ cũng hiện ra và mất đi. Khi một hệ thống thế giới này mất đi, nhiều hệ thống khác vẫn còn lại. Trong khi đó những hệ thống thế giới rải rác tái xuất hiện do sự phối hợp của các phân tử và năng lượng. Chúng sanh xuất phát từ những hệ thống thế giới khác xuất hiện do sự phối hợp của các thành phần này, vật chất, năng lượng và khuynh hướng tinh thần. Ta không nên nghĩ rằng chỉ có một số chúng sinh giới hạn đi loanh quanh trong vũ trụ này. Chúng sanh là vô giới hạn và vô cùng tận.

 

Tiến Bộ và Ô Nhiễm

Thực ra chúng ta có làm việc cho sự tiến bộ của thế giới này không? Chúng ta nghĩ rằng chúng ta làm việc cho sự tiến bộ của thế giới này, nhưng thực ra chúng ta hiện nay làm tổn thương thế giới này. Chúng ta khám phá ra nhiều máy móc cải tiến để phá hoại thế giới. Thiên nhiên đã sản xuất quá nhiều thứ. Ðể đạt mục đích, chúng ta đã làm hại thế giới bằng đào bới, chặt phá, san lấp và phá hoại cái đẹp tự nhiên của trái đất. Chúng ta đã ô nhiễm bầu không khí, sông ngòi và biển cả. Chúng ta đã phá hoại đời sống cây cối và đời sống những con vật đáng thương. Chúng ta không bao giờ nghĩ rằng ở nơi đời sống của mỗi cây có giá trị thực phẩm hay giá trị dược tính. Mỗi chúng sanh phải đóng góp phần của mình trong việc bảo trì môi sinh. Chúng ta không nên cho rằng chỉ có con người mới có đặc quyền đặc lợi của các cư dân có quyền sống trên trái đất này. Mỗi và bất cứ chúng sanh nào đều có quyền bình đẳng sống nơi đây. Nhưng chúng ta đã tước đi quyền lợi của các chúng sanh khác. Không những thế, ngay trong cộng đồng nhân loại, chủng tộc này cố gắng phá hoại chủng tộc khác, cản trở sự tiến bộ và không để cho chủng tộc khác được sống trong hòa bình. Họ tuyên bố chiến tranh và chém giết lẫn nhau dưới danh nghĩa ái quốc.

Chừng nào mà con người còn có tâm ô nhiễm thì không thể có hòa bình trên thế giới này. Do sự tồn tại của những chúng sanh như vậy nên trên trái đất này trở thành một nơi rối loạn. Ngày nay chúng ta thấy sự chém giết khắp nơi trên thế giới. Người này mưu toan lừa đảo người kia. Tư tưởng ích kỷ chiếm ưu th? trong tâm họ. Người này không thể tin nổi người kia. Họ nhìn người khác với nghi kÿ trong tim họ. Người này không thể hiểu được tính chất thực sự hay động cơ của người khác. Mặc dù con người có thể tránh thoát con vật, nhưng rất khó khăn tránh thoát nổi chính con người.

 

Con Người Chịu Trách Nhiệm

Con người luôn luôn nói về sự bất ổn của tình hình thế giới. Ai là người chịu trách nhiệm về tình trạng bất hạnh này? Có ai khác hơn là con người được gọi là người tài trí? Làm sao ta có thể mong mỏi một thế giới tốt đẹp hơn và hòa bình nếu con người cư xử xấu xa hơn con vật? Sao ta có thể vui hưởng cuộc đời trong cái thế giới không thể tin tưởng được này? Các nhà khoa học theo đuổi cuộc chinh phục thiên nhiên vì mục đích vật chất. Triết học Ðông phương mong muốn sống hòa hợp với thiên nhiên vì tâm an lạc và thành tựu tinh thần. Bạn không thể thay đổi điều kiện trần thế theo lời mong ước của bạn nhưng bạn có thể thay đổi tâm bạn để phát triển sự mãn nguyện nhằm tìm thấy hạnh phúc. Một người chỉ chú trọng tìm cầu thỏa mãn trần tục, sẽ không bao giờ đạt được kiến thức cao hơn, vì kiến thức này không thể tìm thấy mà không có việc tìm kiếm tích cực. Chủ nghĩa duy vật hạ con người xuống hàng súc vật trong khi tôn giáo nâng con người lên hàng thần thánh hay cao quý. Trong chế độ nặng về vật chất, con người trở thành nô lệ cho giác quan. Tự nhiên đa số người không thích nhìn thấy sự thực của đời sống. Họ muốn ru ngủ chính họ vào sự yên ổn của giấc mộng huyền ảo, vào tưởng tượng và lấy bóng làm thật. Thái độ của Ðức Phật về quyền uy trần thế và lạc thú tình dục như sau: "Tốt hơn cả quyền tối cao tuyệt đối trên trái đất này, tốt hơn về thiên đàng, tốt hơn cả đến quyền lực trên tất cả những thế giới, đó là thành quả của người đạt thắng lợi: giai đoạn đầu của sự toàn hảo". Bằng cách bỏ cả cuộc đời vào tiến bộ vật chất trần thế hầu thỏa mãn tham dục không thể cho con người nhìn thấy cứu cánh của cái bất toại nguyện trong đời sống. Theo Ðức Phật, thế giới này đặt nền tảng trên mâu thuẫn, bất đồng hay bất toại nguyện. Bằng cách nhận thức được bản chất thực sự của hoàn cảnh trần thế, Ðức Phật cũng nói Ngài không tán dương thế giới vì nó bất toại nguyện và vô thường. Ngài nói phương cách đi tới lợi lạc trên trần thế là một việc và phương cách đi tới mục tiêu cuối cùng - Niết Bàn- là một việc khác.

 

Con Người và Mật Ngọt

Dưới đây là một câu chuyện ngụ ngôn để chúng ta suy ngẫm về bản chất của đời sống và lạc thú trần tục. Một người đi lạc vào rừng dậm toàn là gai góc và đá lởm chởm. Người ấy chạm trán một con voi to lớn bắt đầu đuổi hắn. Hắn bắt đầu chạy để thoát mạng. Khi đang chạy hắn nhìn thấy một cái giếng, hắn nghĩ đây là nơi tốt để hắn có thể tránh thoát con voi. Nhưng bất hạnh thay, dưới đáy giếng lại có một con rắn độc.

Tuy nhiên trong lúc vô kế khả thi hắn liều mình bám vào một cây leo thòng lòng xuống giếng. Trong khi hắn bám vào cây leo này, hắn nhìn thấy một con chuột trắng và một con chuột đen đang cắn cây leo mà hắn đang níu vào. Hắn cũng thấy một tổ ong bên cạnh lâu lâu lại rỏ một giọt mật.

Trong khi đương đầu với cái chết trong ba đường nguy hiểm, hắn vẫn còn tham nếm giọt mật rớt xuống từ tổ ong. Nhìn thấy tình cảnh lâm ly của của con người khốn khổ này, một người hào hiệp đi qua, tình nguyện dang tay cứu vớt đời hắn. Nhưng con người tham lam và khờ dại này từ chối vì vị ngọt của mật ong mà hắn đang vui hưởng. Vị ngọt của mật ong đã đầu độc hắn khiến hắn quên đi cái nguy hiểm mà hắn đang phải đương đầu.

Nơi đây trong câu truyện ngụ ngôn này, con đường gai góc trong rừng tương ứng với luân hồi - bánh xe sinh tử luân hồi. Con đường gai góc luân hồi là một con đường bất ổn và khó khăn. Không dễ dàng gì cho một người tiếp tục đời mình qua cái rừng gai góc khó khăn của luân hồi. Con voi tượng trưng cho cái chết. Cái chết luôn luôn theo ta, làm cho chúng ta bất hạnh phúc, tuổi già của chúng ta cũng tạo bất hạnh phúc và bất an trong tâm ta. Cây leo tượng trưng cho sanh. Giống như cây leo, cây leo càng lớn càng quấn vào cây khác, cũng như vậy do sanh, dòng đời chảy trôi tích lũy, nắm giữ, bám víu vào nhiều thứ trên thế giới. Hai con chuột tượng trưng cho ngày và đêm. Ngay từ ngày sanh ra trong thế giới này, ngày đêm trôi qua cắt bớt và thâu ngắn dòng đời. Những giọt mật là những lạc thú phù du trần thế quyến rũ con người ở lại trong thế giới vô thường và bất trắc này. Người thiện đến dang tay ra giúp đỡ chỉ cho hắn con đường chính đáng để thoát khỏi tình trạng nguy hiểm là Ðức Phật.

Một người nghĩ rằng sẽ là tốt hơn để sống trên cõi đời nhằm hưởng thụ không cần cố gắng đạt Niết Bàn, giống như người từ chối thoát ra khỏi tình trạng nguy khốn trong đời sống chỉ để nếm một chút mật ngọt. Mục đích của cuộc đời là để đạt giải thoát khỏi gánh nặng vật chất và tinh thần.


14

ÐỜI SỐNG MONG MANH, CHẾT LÀ ÐIỀU CHẮC CHẮN

Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda

"Ðời sống mong manh, chết là điều chắc chắn" Ðó là câu châm ngôn nổi tiếng trong Phật Giáo. Biết rõ Chết mong manh và là một hiện tượng tự nhiên mà mọi người phải đương đầu, chúng ta không nên sợ cái chết. Nhưng tất cả chúng ta đều sợ chết vì không nghĩ về điều không tránh được. Chúng ta thích bám víu vào đời sống, vào xác thân và phát triển quá nhiều tham dục và luyến ái.

Một đứa trẻ ra đời đem niềm vui và hạnh phúc cho những người gần gũi và thân thiết. Dù người mẹ đau đớn cùng cực lúc sanh nhưng vẫn vui mừng và thích thú. Người mẹ cảm thấy được đền bù xứng đáng sau nhiều khó khăn và đau đớn. Tuy nhiên, đứa trẻ lọt lòng ra đã khóc hình như nó muốn nói ra nó cũng phải chịu đau khổ của kiếp làm người. Ðứa trẻ lớn lên thành một thanh niên rồi trưởng thành, tạo hàng loạt hành vi thiện và bất thiện. Rồi nó trở nên già nua và cuối cùng từ giã cõi đời này bỏ lại bạn bè và thân quyến buồn đau: cuộc sống của một con người là thế đấy. Con người cố gắng tránh thoát nanh vuốt của tử thần nhưng không một ai có thể thoát khỏi. Ðến lúc chết gần kề, đầu óc liên tưởng đến của cải tích lũy, và lo sợ quá đáng về những đứa con thân yêu thân cận, và cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, con người lo lắng quá sức về xác thân của chính mình mặc dù chăm sóc chu đáo và cẩn trọng nhưng nay đã suy nhược, kiệt quệ và tan rã. Thật đau đớn khi phải xa lìa xác thân. Không thể chịu đựng được nhưng không thể tránh nổi. Ðó là tâm trạng của mọi người khi từ giã cõi đời này với than van và rên rỉ. Sự đau đớn về cái chết thật khủng khiếp, đó là một thái độ phát xuất bởi vô minh.

 

Sợ Chết

Con người bị lo âu không phải vì ngoại cảnh mà vì niềm tin và tưởng tượng về đời sống và mọi thứ của mình. Cái chết, chẳng hạn, tự nó không khủng khiếp: Khiếp sợ và kinh hãi chỉ do tâm trí chúng ta tưởng tượng mà ra. Với những kẻ không dám đối đầu với thực tại, khổ đau thật sự khủng khiếp và không thể chấp nhận được. Nhưng nếu chúng ta biết đương đầu với sự thật, nó sẽ làm dịu bớt hay loại trừ cái khủng khiếp của sự sợ hãi. Ðời sống ví như viên đạn lao thẳng tới mục tiêu tức cái chết. Nhận thức được như vậy, chúng ta phải can đảm trực diện với hiện tượng tự nhiên này. Muốn được tự do trong đời sống, chúng ta phải không sợ chết. Hãy nhớ lại khoa học dạy ta thế nào về tiến trình của cái chết? Nó chỉ là sự xói mòn sinh lý của cơ thể con người. Chúng ta đừng sợ hãi và tưởng tượng hay tiên đoán về những sự khủng khiếp không bao giờ đến cả. Một thầy thuốc nổi tiếng Sir William Oslet nói như sau: "Trong kinh nghiệm hành nghề lâu năm của tôi, tôi thấy hầu hết những người chết thực sự không đau đớn và sợ hãi"

Một trợ y lão thành cho biết: "Hình như thảm kịch lớn nhất đối với tôi là mọi người suốt đời bị nỗi sợ chết ám ảnh. Khi chết đến, ta thấy nó cũng tự nhiên như bản chất cuộc sống. Chỉ có rất ít người sợ chết khi đã sống trọn cuộc đời. Trong tất cả kinh nghiệm tôi đã trải qua, tôi chỉ thấy có một người có vẻ sợ hãi - một phụ nữ đã làm điều dữ cho người chị nay đã quá trễ để hối cải".

"Một điều lạ lùng và đẹp đẽ sẽ đến dù là nam hay nữ khi họ đã sống trọn đời. Tất cả mọi sợ hãi, hãi hùng đều biến mất. Tôi thường ngắm tia sáng bình minh hạnh phúc trong ánh mắt họ khi họ nhận thức điều đó là sự thật. Ðó là tất cả ân huệ của Tạo Hóa."

Vì tham sống nên sự sợ chết được hình thành một cách thiếu tự nhiên. Nó tạo lo âu mạnh mẽ trong đời sống đến nỗi làm con người không bao giờ dám mạo hiểm làm điều gì dù đó là lẽ phải. Người đó sống trong sợ hãi lo lắng về bệnh tật và các tai nạn có thể xẩy ra cướp mất mạng sống quý giá của mình. Nhận thức được cái chết là điều không tránh nổi, kẻ yêu đời trần thế sẽ đắm trong nhiệt thành cầu nguyện với niềm hy vọng linh hồn sẽ được lên thiên đàng. Không một ai có thể hạnh phúc giữa cơn lốc của sợ hãi thấp hèn lo lắng như vậy. Nhưng thật khó có thể coi thường hay không lưu ý đến những bộc phát tự nhiên của bản năng để tự bảo vệ. Tuy nhiên có một phương pháp để vượt qua sự sợ hãi này. Hãy quên đi quan niệm về cái 'tôi'; hãy đem tình thương phục vụ nhân loại và tỏ tình thương với người khác. Say mê phục vụ tha nhân, chẳng bao lâu bạn sẽ tự mình thoát khỏi cái tự kỷ luyến ái nặng nề, mơ ước, kiêu căng, và tự tôn.

 

Bệnh và Chết

Bệnh và chết cả hai đều là việc xẩy ra tự nhiên trong đời sống của chúng ta, và chúng ta phải chấp nhận điều đó với sự hiểu biết. Theo thuyết tâm lý hiện đại, nguyên nhân tinh thần căng thẳng quá mức là do không dám đương đầu và chấp nhận thực tại cuộc đời. Nếu không vượt qua hay khuất phục được sự căng thẳng đó sẽ gây nên bệnh trầm trọng. Trong khi bênh hoạn mà quá lo lắng hay thất vọng chỉ làm cho bệnh tăng lên. Về cái chết, đối với những người có tâm hồn và hành động trong sạch, chết chẳng có gì đáng sợ cả. Chúng ta chẳng là gì cả mà chỉ là sự kết hợp của tâm trí và thể xác, do vậy tâm trí và thể xác không chết riêng. Nghiệp báo do những hành động xấu của chúng ta đã gây nên trong đời trước theo chúng ta vào lúc tái sanh khiến chúng ta phải chịu những khổ đau trong đời này. Sự kiện như vậy có thể tránh được nếu chúng ta hết sức nỗ lực tạo công đức bằng cách sống một cuộc đời đạo hạnh và làm những hành vi đạo đức bất kỳ ở đâu và vào bất cứ lúc nào. Làm như thế chúng ta có thể đương đầu với cái chết một cách can đảm và thực tế phù hợp với Phật pháp. Không có vị 'cứu tinh' nào có thể lãnh gánh nặng và cứu vớt chúng ta khỏi hậu quả các hành vi sai trái của chúng ta. Chúng ta luôn luôn tự mình nhớ tới lời Ðức Phật khuyên: "Hãy tin và nương tựa vào chính mình, hãy gắng sức và chuyên cần". Người Phật Tử không sầu thảm bi thương trước cái chết của một người thân hay bạn hữu. Không có gì có thể ngăn cản được bánh xe nhân quả. Khi một người chết, nghiệp do họ tạo nên sẽ theo họ đến cuộc đời mới. Người còn lại phải chịu đựng sự mất mát với bình tĩnh và hiểu biết. Chết là một tiến trình không tránh được trên thế gian này. Ðó là một điều chắc chắn trong vũ trụ này. Khu rừng có thể trở thành đô thị và đô thị có thể tr? thành bãi cát. Núi có thể biến thành hồ. Ðiều không chắc chắn có thể xẩy ra ở khắp mọi nơi nhưng cái chết là điều không thay đổi. Tất cả mọi thứ chỉ là tạm bợ. Chúng ta có cha ông, cha ông của chúng ta cũng có cha ông nhưng bây giờ họ ở đâu! Họ đều đã qua đời.

Ðừng nghe kẻ ngụy biện cho rằng chúng tôi đang trình bày một quan niệm yếm thế bi quan. Ðó là quan điểm thực tế nhất trong tất cả chủ nghĩa. Tại sao chúng ta lại không thực tế mà mù quáng trước sư kiện thực tế đó? Có phải cái chết không thiêu đốt m?i thức? Nó thiêu mọi thứ. Nhưng đừng quên điều này: Vai trò của cái chết là làm cho mọi người ý thức được số phận của mình; dù cho cao sang đến đâu, dù cho kỹ thuật và y khoa tiến bộ đến mức nào đi nữa, cái chết vẫn như nhau: hoặc ở trong quan tài hay trở thành một nắm tro tàn. Vậy ta có nên mặc áo tang để than khóc đời sống trở thành tro tàn không? Không, đó không phải là mục đích cuộc đời mà cũng chẳng phải là mục đích cái chết. Tiến trình của sinh là một tiến trình liên tục cho đến khi chúng ta trở nên toàn hảo.

 

Ảnh Hưởng Vẫn Còn

Ðức Phật nói: "Thân xác con người tuy thành tro bụi, nhưng tên tuổi và ảnh hưởng vẫn còn". Ảnh hưởng của tiền kiếp đôi khi sâu rộng, mạnh hơn ảnh hưởng của xác thân đang sống với một số khả năng hạn hẹp. Ðôi khi chúng ta hành động theo tư tưởng của những nhân vật mà xác thân đã thành tro bụi. Những tư tưởng như vậy đóng một vai trò quan trọng trong những hành động của chúng ta. Mỗi người sống được cho là hỗn hợp của một phần thân xác tổ tiên đã khuất. Trong ý nghĩa ấy, chúng ta có thể nói rằng những anh hùng trong qúa khứ, những đại triết gia, những hiền nhân, thi nhân và nhạc sĩ của mỗi dân tộc vẫn đang sống với chúng ta. Vì chúng ta kết nốiä với những liệt sĩ và những nhà tư tưởng trong quá khứ, chúng ta có thể chia sẻ những tư tưởng khôn ngoan, những lý tưởng cao thượng và cả đến âm nhạc bất hủ của nhiều thời đại. Dù rằng thân xác của họ đã chết, nhưng ảnh hưởng của họ vẫn còn. Xác thân chẳng là gì cả mà chỉ là sự tổng hợp trừu tượng sản sinh ra một hỗn hợp thay đổi không ngừng các thành phần hóa chất. Con người hiểu rằng đời sống của mình chỉ là một giọt nước trên con sông đang chảy và nên vui vẻ đóng góp một phần của mình cho dòng sông cuộc sống.

Người không biết bản chất của đời sống, sẽ bị chìm đắm trong bùn lầy của thế gian này. Người đó khóc than, rên rỉ, và đôi khi cũng mỉm cười để rồi lại khóc than. Nhưng khi biết được thực chất của mình, người đó sẽ từ bỏ tất cả những cái tạm bợ và tìm cầu Vĩnh Cửu. Trước khi đạt được Vĩnh Cửu, người đó phải đương đầu với hết cái chết này đến cái chết khác. Vì cái chết không thể chịu đựng nổi, con người có nên cố gắng khắc phục sự tiếp diễn không ngừng cái vòng sanh tử hay không?

Theo Phật Giáo, đây không phải là kiếp sống đầu và kiếp sống cuối cùng của chúng ta trên thế gian này. Nếu bạn làm điều thiện với lòng tin tưởng, bạn sẽ có đời sống tốt đẹp hơn ở kiếp sau. Mặt khác nếu bạn cảm thấy bạn không muốn tái sanh mãi mãi, bạn phải cố gắng phát triển tâm trí và loại bỏ tất cả tinh thần ô trược.

 

Triết Lý Phật Giáo

Các bậc thánh cao thượng đã đạt được bậc cao nhất của toàn thiện không khóc than trước sự ra đi của những người thân gần gũi vì các ngài đã loại bỏ hoàn toàn được cảm xúc thường tình. Ðức Anurudha, đạt quả vị A La Hán, không khóc khi Ðức Phật nhập diệt. Tuy nhiên Ðức A Nan lúc đó chỉ là Tu Ðà Hoàn mới đạt quả vị thứ nhất trong các bậc thánh, đã không kìm giữ được khóc than. Các tỳ kheo khóc than phải nhớ tới quan niệm của Ðức Phật về những hoàn cảnh có bản chất như vầy:

"Ông A Nan, có phải Ðức Phật đã từng dạy chúng ta rằng những gì sanh ra, những gì hiện hữu, và những gì duyên hợp đều đi đến tan rã? Ðó là tính chất của duyên hợp. Khi duyên hợp xuất hiện chúng phải mất đi - Và khi những duyên hợp đó hết, Tịch Tịnh hiện tiền". Những lời dạy trên đây mô tả nền móng mà dựa vào đó cấu trúc của Triết Lý Phật Giáo được xây dựng.

 

Nguyên Nhân Của Khổ Ðau

Nguyên nhân của các buồn phiền và khổ đau là do Luyến Ái (Tanha) dưới mọi dạng thức. Nếu chúng ta muốn vượt khổ đau, chúng ta phải bỏ luyến ái - không phải chỉ luyến ái người mà luyến ái của cải nữa. Ðó là sự thật - chân lý là bài học mà cái Chết cho biết. Luyến ái cung cấp cho chúng ta nhiều thứ để thỏa mãn cảm xúc, và dẫn ta vào con đường trần tục. Nhưng cuối cùng luyến ái ấy trở thành nguyên nhân tất cả đau khổ của chúng ta. Nếu không học bài học này, cái chết có thể tấn công và khủng bố chúng ta. Sự việc này đã được Ðức Phật soi sáng rõ ràng. Ngài dạy: "Cái chết sẽ mang con người đi khỏi dù người đó cố bám lấy con cái và của cải, giống như một trận lụt lớn cuốn sạch cả ngôi làng đang ngủ".

Lời dạy này ngụ ý là nếu ngôi làng đó tỉnh thức và cảnh giác thì có thể tránh khỏi sự tàn phá của lũ lụt.

 

Ai Cũng Phải Chết

Chúng ta hãy nghiên cứu việc Ðức Phật giải quyết vấn đề cho hai người vì luyến ái mà cái chết làm cho đau khổ. Một người là Bà Kisagatomi. Ðứa con duy nhất của bà ta bị rắn cắn chết. Bà ta bồng đứa con trai chết đến cầu cứu Ðức Phật. Ðức Phật bảo bà hãy đem đến cho Ðức Phật một vài hạt giống cải của một gia đình không có ai chết, Ðức Phật sẽ chữa cho. Nhưng Bà ta không thể tìm thấy một gia đình nào như thế . Tất cả các gia đình mà Bà đã đến thì không nhà nào là không khóc than hay đã khóc than về cái chết của một người thân vào lúc nào đó. Bà đã hiểu sự thực đắng cay: ai cũng phải chết. Cái chết giáng xuống tất cả mọi người và không chừa ai cả. Buồn đau là di sản đối với mọi người.

Một người khác được Ðức Phật dạy là Patacara. Trường hợp của Bà này bi thảm hơn. Chỉ trong một thời gian ngắn, Bà mất hai đứa con, chồng, anh em, cha mẹ và tất cả của cải. Buồn đau đến mất trí, Bà đã lõa lồ chạy như điên như dại trên đường phố cho đến khi gặp Ðức Phật. Ðức Phật đã giúp Bà trở lại bình thường bằng cách giảng giải cho Bà nghe cái chết là một hiện tượng tự nhiên của tất cả mọi người.

"Con đã đau khổ nhiều lần như thế này, chứ không phải lần này thôi, Patacara; con đã đau khổ nhiều lần trong những tiền kiếp của con. Ðã lâu, con đau khổ vì cái chết của cha, mẹ, con cái và những người thân của con. Trong khi đau khổ như vậy, nước mắt của con thật nhiều hơn nước ở biển cả".

Cuối cùng, Patacara nhận thức được cái bất trắc của đời sống. Patacara và Kisagotami cả hai hiểu rõ cái khổ và đều cảm nhận được sự đau khổ về cái chết do kinh nghiệm bi thảm. Bằng cách hiểu sâu sắc Chân Lý Cao Quý Thứ Nhất của Tứ Diệu Ðế về khổ thì ba Chân Lý Cao Quý còn lại cũng hiểu được. Ngài nói: "Này các Tỳ Kheo, hiểu được khổ, đây là khổ, cũng hiểu được nguyên nhân của khổ, đây là diệt khổ, và con đường dẫn đến chấm dứt khổ".

 

Năm Uẩn

Trong Kinh Phật, chết được định nghìa là sự tan rã của Uẩn. Những uẩn này là năm uẩn: thọ, tưởng hành, thức, và sắc hay vật chất. Bốn uẩn đầu thuộc về tinh thần hay nama, họp thành đơn vị của thức. Uẩn thứ năm, rupa là vật chất hay vật lý uẩn. Sự phối hợp của tâm vật lý đó theo quy ước được gọi là cá nhân, con người hay cái Tôi. Cho nên những cá thể hiện hữu như thế không phải là cá nhân nào mà là hai thành phần cấu tạo cơ bản của tinh thần và vật chất, thành phần này là những hiện tượng hiếm. Chúng ta không coi năm uẩn này là những hiện tượng mà là một thực thể vì lẽ do cái tâm tự lừa dối chúng ta, do ham muốn bẩm sinh của chúng ta cho những thứ nói trên là của ta để thỏa mãn cái Ngã quan trọng của chúng ta.

Chúng ta sẽ thấy được bộ mặt thật của sự vật nếu chúng ta chịu nhẫn nại và có ý chí. Nếu chúng ta quay vào nội tâm và quán chiếu bề sâu của tâm khảm, chú tâm và nhận xét một cách khách quan, không hề liên tưởng đến bản ngã và rồi thì trau dồi việc thực hành này trong một thời gian như Ðức Phật dạy trong Kinh Sati Patthana, chúng ta sẽ thấy năm uẩn không phải là một thực thể mà là một loạt các tiến trình vật chất và tinh thần. Rồi chúng ta sẽ không nhầm cái bề ngoài với cái thực. Chúng ta sẽ nhìn thấy năm uẩn này phát sinh và biến đi liên tục nhanh chóng. Chúng luôn luôn biến đổi từng phút từng giây, không bao giờ tĩnh mà động, không bao giờ là thực thể mà luôn luôn Biến Hiện.

 

Tái Sanh

Bốn uẩn tinh thần, hay thức và ba nhóm của yếu tố tinh thần khác tạo thành Nama hay đơn vị của thức, biến chuyển không ngừng, nổi lên rồi lại biến đi nhưng không cùng một khung cảnh vì khung cảnh đó cũng biến hóa luôn. Chúng phải lập lại ngay một nền tảng tự nhiên mới (Sắc), một lớp vật chất tươi mới như trước để hoạt động điều hòa. Nghiệp luật về mối quan hệ làm công việc này và ngay lập tức sự tái sắp xếp các uẩn xẩy ra và chúng ta gọi đó là tái sanh.

Nhưng phải hiểu rằng, theo niềm tin Phật Giáo, không có sự đầu thai của một linh hồn hay một chất nào từ một thân xác này đến một xác thân kia. Theo triết lý Phật Giáo cái thực sự xẩy ra là Javana hay tiến trình tư tưởng chủ động của người sắp chết phóng ra một số lực thay đổi tùy theo sự thanh tịnh của năm chập tư tưởng trong loạt này (Năm thay vì bảy chập tư tưởng như thường lệ).

Những lực này được gọi là Karma Vega hay năng lượng nghiệp tự nó lôi cuốn vào lớp vật chất tạo ra bởi cha mẹ trong dạ con người mẹ. Uẩn vật chất trong hợp chất phôi thai phải có những đặc tính khả dĩ có thể tiếp nhận loại năng lượng nghiệp đặc biệt này. Sự lôi cuốn theo cách thức này của những loại uẩn vật chất khác nhau tạo ra bởi cha mẹ xuất hiện do hoạt động của cái chết và đem lại sự tái sinh thuận lợi cho người sắp chết . Một tư tưởng bất thiện sẽ đưa đến một tái sanh không thuận lợi.

 

Một Cụm Yếu Tố và Năng Lượng

Tóm lại, sự phối hợp của năm uẩn gọi là sanh. Sự hiện hữu của những uẩn đó thành một cụm được gọi là đời sống. Sự tan rã cũa chúng gọi là chết (tử), và sự tái phối hợp của những uẩn ấy gọi là tái sanh. Tuy nhiên, một người bình thường không dễ dàng gì hiểu được tại sao những cái gọi là uẩn đó lại có thể tái phối hợp. Hiểu rõ bản chất của các yếu tố, nặng lượng tinh thần và nghiệp cùng với sự song hành của năng lượng vũ trụ rất quan trọng trên phương diện này. Một số người cho rằng biến cố đơn giản và tự nhiên - cái chết là sự tan rã của năm uẩn, và sau đó chẳng còn gì tồn tại nữa. Có người lại cho rằng chết có nghĩa là sự chuyển tiếp linh hồn từ một thân xác này đến một thân xác khác; và với một số khác nữa, chết là sự kìm giữ vĩnh viễn một linh hồn chờ đợi ngày xét xử. Với người Phật Tử, chết chẳng là gì cả mà chỉ là tạm chấm dứt một hiện tượng tạm thời. Chết chưa phải là một sự hủy diệt hoàn toàn của cái được gọi là chúng sanh.

 

Nguyên Nhân Cái Chết

Theo Phật Giáo, chết xẩy ra trong bốn nguyên nhân sau đây:

1. Mạng căn (hay thọ mạng) ấn định của chúng sanh mỗi loài đã hết. Cái chết này gọi là mạng triệt (Ayukkhaya)

2. Năng lượng Nghiệp gây nên sự sanh của người chết đã kiệt. Cái chết này gọi là Kamma-kkhya (Nghiệp dĩ)

3. Sự chấm dứt cùng một lúc của hai nguyên nhân trên. (Ubbayakkhaya)

4. Cuối cùng có thể do những hoàn cảnh bên ngoài như tai nạn, biến cố bất ngờ, hiện tượng thiên nhiên hay Nghiệp quả từ kiếp trước không đề cập tại điều 2. Cái chết này gọi là Upachedake.

Có một sự tương đồng rất đúng để giải nghĩa bốn trường hợp chết trên đây . Nó tương tự chiếc đèn dầu. Ánh sáng đèn dầu có thể tắt vì một trong những nguyên nhân:

1. Bấc trong ngọn đèn đã cháy hết. Ðiều này giống như cái chết vì thời gian cho một kiếp đã hết.

2. Dầu đã cạn giống như nghiệp lực đã hết

3. Dầu và bấc đã cháy hết cùng một lúc giống như cái chết do cả hai nguyên nhân phối hợp đề cập tại 1 và 2.

4. Hậu quả của những yếu tố bên ngoài như gió thổi làm đèn tắt - giống như chết do nguyên nhân ngoại cảnh.

Cho nên, Nghiệp không phải là nguyên nhân duy nhất của cái chết. Cũng có những nguyên nhân bên ngoài gây ra cái chết. Giáo lý của Ðức Phật minh định rõ ràng Nghiệp không thể giải thích tất cả những việc xẩy ra.

 

Ðương Ðầu Với Thực Tế

Làm sao ta có thể đương đầu với các sự việc không thể tránh được này một cách tốt nhất? Nên tiên liệu và suy nghĩ là cái chết trước sau cũng phải đến. Ðiều này không có nghĩa là người Phật Tử quan niệm cuộc đời là ảm đạm. Chết là một sự thực và ta phải đương đầu - và Phật Giáo là một tôn giáo của lý trí huấn luyện các tín đồ trực diện với các sự kiện, dù các sự kiện này làm ta không hài lòng. Trưởng Giáo Nanak (vị khai sáng ra Ðạo Sikh) nói: "Thế gian sợ chết, với tôi, chết đem niềm vui". Thật rõ ràng những vĩ nhân và những người cao thượng không sợ chết và sẵn sàng chấp nhận nó. Nhiều vĩ nhân đã hy sinh mạng sống của mình cho phúc lợi và hạnh phúc của nhân loại. Tên tuổi của các vị này đã được lưu truyền trên bảng vàng lịch sử cho hậu thế.

Saul Alynksy, một người Mỹ đã quá vãng nói: "Ðiều đơn giản quan trọng nhất mà tôi đã học được là tôi sắp được chết. Vì một khi chấp nhận cái chết, đột nhiên bạn sẽ thấy tự do trong cuộc sống. Bạn không còn phải lo lắng ngoại trừ cuộc sống của bạn có thể sử dụng một cách khôn khéo - để thúc đẩy một sự nghiệp mà bạn tin vào". Ðó là đường lối ra sao mà các nhà tư tưởng lớn nghĩ như thế nào về quan niệm chết.

 

Cái Chết Không Tránh Ðược

Thật là một nghịch lý khi chúng ta thấy cái chết đã cướp đi biết bao sinh mạng của nhân loại nhưng chúng ta ít khi nghĩ đến cái ý tưởng đó là chúng ta cũng thế, trước sau cũng trở thành nạn nhân của tử thần. Vì quá luyến ái cuộc đời, chúng ta không muốn mang trong lòng tư tưởng yếu đuối, nhưng thực tế cái chết là một sự thực hiển nhiên. Chúng ta muốn đặt ý nghĩ khiếp sợ đó càng xa càng tốt và tự lừa dối mình rằng chết là một điều xa vời, một điều không cần phải lo lắng. Chúng ta phải có đủ can đảm để đương đầu với sự thật ấy. Chúng ta phải sẵn sàng trực diện với sự thực này. Chết là điều có thật. Chết là một sự thực. Nếu chúng ta nhận thức được như vậy, và biết rằng cái chết không tránh khỏi, chúng ta hãy coi nó như một sự bình thường chứ không phải là một biến cố khiếp đảm, để khi nó đến, chúng ta sẽ có thể đương đấu với nó một cách bình tĩnh, can đảm và tự tin.

 

Bổn Phận và Trách Nhiệm

Biết rằng một ngày nào đó, cái chết sẽ cướp mạng sống của chúng ta, chúng ta phải bình tĩnh, can đảm và tự tin để làm tròn nhiệm vụ và trách nhiệm với gia đình. Chúng ta không nên chần chừ. Những việc gì có thể làm được hôm nay, đừng để đến ngày mai. Chúng ta không nên phí phạm thì giờ và nên sống một cách hữu ích. Những bổn phận đối với vợ, chồng, và con cái phải được thi hành đúng lúc. Ðể tránh gây khó khăn và phức tạp cho gia đình do sự cẩu thả, chúng ta đừng chờ đợi đến lúc cuối cùng mới viết di chúc. Cái chết có thể đến với chúng ta bất cứ lúc nào - nó không chờ đợi ai cả. Chúng ta nên trực diện với cái cùng tột này với can đảm và trầm tĩnh.

 

Ái Dục và Vô Minh

Có thể chế ngự được cái chết không? Câu trả lời là: Có cái chết tồn tại vì có cái sanh. Có hai khâu liên hệ trong chu trình cuộc sống, được gọi là - Paticca Samuppada (Lý Nhân Duyên). Tổng cộng có tất cả là mười hai khâu trong chu trình này, một số trong đó là Klesas hay bất tịnh.

Một số nghiệp (kammas) hay hành động đưa đến vipakas hay kết quả (trong chu trình tái sanh), và cứ tiếp diễn. Sự tiếp diễn không kể siết của sanh tử được gọi là luân hồi. Nếu chu trình cuộc sống có thể bị ngưng lại được, nó chỉ có thể kết liễu ở giai đoạn bất tịnh tức Avijja (Vô Minh) và Tanha (Ái) - Chúng là gốc rễ của vòng sanh cần phải được tiêu diệt. Cho nên nếu chúng ta cắt Tham ái và Vô minh - sẽ chế ngự được sanh, vượt qua được luân hồi, và sẽ đạt Niết Bàn.

Chúng ta phải cố gắng hiểu rằng mọi việc trong vũ trụ này đều mong manh. Cuộc sống chỉ là ảo giác hay ảo tưởng. Khi ta phân tách mọi thứ bằng khoa học hay triết lý, không ham muốn vị kỷ, cuối cùng chúng ta không thấy gì cả mà chỉ là hư không.