IV. SÁU BA-LA-MẬT
Trong mấy năm thuyết pháp đầu, đức Phật còn phân biệt ba
thừa, nên ngài để riêng sáu Ba-la-mật hay Lục độ mà chỉ dạy cho các vị
Bồ-tát. Ngài khuyên chư Bồ-tát thi hành sáu đại hạnh ấy để mau lên bậc
Chánh giác, Phật Thế Tôn. Về sau, ngài mở rộng giáo lý ra, không còn
phân biệt Ba thừa, bấy giờ ngài mới khuyên Đại chúng vừa xuất gia và tại
gia đều nên hành trì sáu môn Ba-la-mật. Vì ngài muốn cho ai nấy đều
vững vàng mà bước tới cõi huệ, có hy vọng mà trông lên quả vị Phật. Vậy
thì ai nấy cũng khá chuyên cần các hạnh lớn ấy, nhất là những người có ý
chí, chư vị Bồ-tát, thường hành để mau thành Phật đạo. Sáu môn
ba-la-mật ấy là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và
trí huệ.
1. Bố thí
Thực hành một cái trong sáu đại hạnh cho thật hoàn toàn, cũng đủ được
phước đức rất nhiều, phước ấy đưa nhà đạo lên quả vị Đại Bồ-tát. Huống
chi thực hành luôn sáu đại hạnh ấy, có thể thẳng đến quả vị Phật Như
Lai. Trong sáu cái đức lớn vô cùng này, đức bố thí là đứng đầu. Những
ai xả thân mà lo đời, không kể mạng mình để giúp ích cho chúng sanh,
những kẻ ấy đều hưởng được công đức cao siêu, đều chứng lên bậc Đại
Bồ-tát và sắp tới bậc Phật Như Lai. Kìa đức Quán Thế Âm Bồ-tát từ bi
thay! Bao lần ngài vì chúng sanh mà cứu độ chẳng thôi!
Biết bao chúng sanh nhờ ngài bố thí mà thoát khỏi nạn nguy: trong những
cơn hỏa tai, thủy ách, trong những lúc ngục tù, trăn trối, trong những
khi thuyền đắm, tàu chìm, trong những cảnh cướp giât, chiến tranh, người
ta đều nhờ ngài mà được yên ổn! Cho đến có kẻ dữ muốn hại, ác thú đón
đường, bùa chú ếm thư, người ta cũng nhờ ngài mà dứt sự lo sợ. Bởi vậy
cho nên trong cõi Ta-bà này, ai nấy đều xưng ngài Quán Thế Âm là Thí Vô
úy giả.
Lại như đức Thích-ca Mâu-ni, nhờ bố thí cho đời mà mau lên bậc Thế Tôn.
Xem lại những đời trước của ngài, đều là những sự từ bi bố thí. Hóa sanh
trong hạng nào, ngài cũng nêu gương đại từ trong hạng đó. Từng làm các
loại cầm thú, ngài đem thân mình ra mà trang trải, để cứu cho đồng loại
trong mấy lúc nguy. Và trong những đời làm người của ngài, ngài cũng
không hề quên xả thân vì chúng.
Hủy mạng mình đặng cứu lấy bầy cọp đói; đem thân mình ra nạp để thế mạng
cho chim câu đang lâm nạn; từ trên đền cao xả thân nhảy xuống để hóa
làm cá linh cứu bệnh cho nhân dân... Biết bao tích lành của ngài! Sự bố
thí của ngài lên đến cực điểm. Ở đời, có ai đem vợ, đem con mà cho người
ta không? Chỉ có ngài mà thôi. Tiền của bố thí hết, có con ngựa kéo xe
đi cũng bố thí, rồi ngài ra mà kéo lấy xe. Kế xe cũng cho người ta nữa.
Rồi có kẻ lại hỏi xin hai đứa con đặng đem về làm nô lệ, ngài cũng cho
luôn. Đến khi có kẻ lại hỏi xin vợ, ngài cũng chẳng từ. Nhờ tấm lòng bố
thí vô cùng vô tận, ngài mới mau lên quả Phật. Sự từ bi bố thí của ngài
thật quá sức tin của nhiều người. Mà ngài có làm chuyện quá sức tin như
vậy, ngài mới lên được cái địa vị chẳng ai mong mỏi được: Phật Như Lai,
Thầy chung của chúng sanh, cao hơn các bậc trong trời đất.
Chúng ta đây, bởi chúng ta còn giữ lấy cái ta mãi, bởi chúng ta còn
trọng cái thân mạng mãi, nên chúng ta còn làm chúng sanh mãi, còn luân
chuyển trong các đường hèn mãi. Lắm người, dẫu gặp chuyện đại sự đáng ra
ơn, mà một mảy lông cũng chẳng để mất! Như vậy mà mong vinh vang, phúc
hậu sao cho được? Bao người vì sự bủn xỉn, nhỏ nhen, mà bị hành hạ trong
các chốn nguy. Thế mà họ chưa tỉnh hồn. Ở đời, trong khi ta sống vì ta,
ta phải cần tưởng tới thiên hạ nữa. Nên xét lại cảnh ngộ của những kẻ
khác, đặng tìm dịp mà giúp họ luôn. Ta nên mau mau mà thi hành sự bố thí
vì chúng sanh vậy.
Nhưng muốn thành tựu đức bố thí, chúng ta phải bố thí với tấm lòng từ bi, thành thật, trong sạch, quảng đại.
Như đợi đến có người nài nỉ, khẩn cầu, mới chịu cho ra một cách miễn
cưỡng, đó chẳng qua là sự bố thí tìm thường mà thôi. Chớ như nhận biết ý
của kẻ đang cần dùng, biết trước cảnh người thiếu hụt, cùng là luôn tìm
dịp mà trợ giúp cho mọi người, tự mình khai tâm mà cho một cách vui vẻ,
đó mới thật là đức bố thí.
Lại như cho rồi mà nghĩ lại tiếc, giận, đó chỉ là sự bố thí tìm thường
mà thôi. Còn như cho rồi mà chẳng tiếc, đó mới thật là đức bố thí.
Như những kẻ giàu có mà thấy xa hiểu rộng, thấu đạt cái tánh vô thường
của sự vật, thường nghĩ rằng: “Của cải này nếu chất chứa thêm mãi, rồi
có ngày nào đó cũng phải hết, gặp khi trộm cướp vơ vét cũng sạch, hỏa
hoạn đốt cháy cũng rụi, bão lụt lôi cuốn cũng tiêu”. Nghĩ vậy, hằng vui
lòng bố thí một cách rộng lượng. Đó mới là đức bố thí của Bồ-tát vậy.
Như bố thí, cúng dường mà mong quả báo phước lạc ở đời này và ở đời sau,
mong cho được thêm giàu có sang trọng, mong được hưởng cảnh tiên, đó
chẳng qua là sự bố thí tìm thường mà thôi. Còn bố thí mà chẳng cầu sự
báo ứng, đó mới thật là bố thí vậy.
Chí như vì sợ sệt mà cho, vì danh tiếng mà cho, vì việc giao thiệp mà
cho, vì lòng tự cao mà cho, vì muốn hơn người mà cho, vì cầu thân thế mà
cho, những việc ấy chẳng qua là sự bố thí tìm thường mà thôi. Chẳng
khác chi sự đổi chác ở chợ búa! Cũng chẳng khác chi trồng cây mà mong
được hoa thơm, quả ngọt, cùng mong cho có bóng mát hoặc có cây để cất
nhà!
Bực Bồ-tát thành tựu đức bố thí, chẳng có những tâm tưởng ấy. Trong khi
bố thí hoặc cúng dường, người chẳng nhìn thấy người cho, kẻ nhận; chẳng
thấy món mình cho, dầu tiền, dầu vật; chẳng kể là có phước hoặc chẳng có
phước; chẳng thấy nhân hoặc quả; chẳng thấy nhiều hoặc ít; chẳng hề
khinh rẻ người xin. Vì làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, vì cầu cho
chúng sanh hết phiền não, đau khổ, cho nên lúc nào người cũng vui lòng
bố thí: bố thí bằng vật chất, từ manh quần tấm áo, bát cơm tô canh, mền
chiếu ván giường, thuốc thang trị bệnh, cho đến vàng bạc châu báu, vợ
con tôi tớ, thành quách đền đài! Lại bố thí bằng tinh thần, dạy cho các
pháp lý, tỉnh ngộ cho chúng sanh bằng các lẽ thế gian và xuất thế gian,
dìu dắt họ bằng sự hiểu biết vô biên của mình!
2. Trì giới
Tiếp theo đức bố thí là đức trì giới, cũng có thể làm cho người tu
đắc đạo, chứng quả, thành Bồ-tát và vào Phật quốc. Giới hạnh, tức là
phần lớn trong phong hóa nhà Phật, là một nền tảng đã từng độ cho con
người thoát khỏi bến mê, bước lên bờ giác.
Phật từng cho rằng giới hạnh tức là chân cẳng của nhà tu hành. Tỷ như
người thiếu chân thì chẳng đi đến đâu được. Người chẳng trì giới cũng
như thế, không làm sao lên cõi trời, về cảnh Phật được.
Giới hạnh cũng tỷ như chiếc xe. Giả như một kẻ ngồi trên cỗ xe xấu tệ,
khi đi tới chỗ đường gập ghềnh, nguy hiểm, thì chiếc xe bể bánh hoặc gãy
chốt! Người thiếu giới hạnh cũng như thế, tự mình phải sa lạc trong
rừng ma quỷ, nguy khốn tại đèo phiền não, mà chẳng tới cảnh thành thị an
ổn là Niết-bàn.
Giới hạnh lại tỷ như chiếc phao nổi. Người đương bị nạn giữa biển, nhờ
ôm phao mà lội, nương theo đó mà vào tới bờ. Trong khi còn chơi vơi giữa
biển, nếu để cho phao ấy tổn hại đi một chút, dầu nhỏ như mũi kim, thì
dần dần phao xẹp hết hơi, mạng mình phải mất! Giới hạnh cũng như chiếc
phao ấy vậy. Nếu người tu hành hủy phạm giới, dù chỉ là phần nhỏ, thì
chìm nơi biển luân hồi, chẳng mong tới bờ Niết-bàn.
Về giới hạnh, hạng tại gia trì Tam qui Ngũ giới, trì danh hiệu Phật
A-di-đà nếu mình là người tu tịnh độ, trì Tám giới, Mười giới, hoặc làm
Mười điều lành. Cũng có người trì giới Đại thừa là Bồ-tát giới, giới
chung cho cả hạng xuất gia và hạng tại gia. Giới này tất cả là 10 điều
nặng và 48 điều nhẹ. Hạng xuất gia có người thọ trì Bồ-tát giới. Nhưng
phần nhiều thì giữ giới tỳ-kheo là 250 giới, giới tỳ-kheo ni là 348
giới.
Trong giới tỳ-kheo và tỳ-kheo ni hay là cụ túc giới có bốn giới quan
trọng là: Không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói láo.
Người tu nếu để phạm vào bốn giới ấy, tức làm mất tịnh hạnh, bỏ rơi địa
vị của mình. Nhưng dầu là bốn giới hay bao nhiêu giới cũng vậy, đều dồn
lại còn cái giới thanh tịnh, trong sạch không mà thôi. Vậy thì giữ giới
đặng cho thanh tịnh, thanh tịnh nơi thân thể, thanh tịnh nơi lời nói và
nhất là thanh tịnh nơi tâm ý. Người trầm tỉnh mà sống theo giới hạnh sẽ
thấy mình trong sạch, thơm lành. Các thể hiệp lại nơi mình, mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ý đều tĩnh mịch, an nhiên, không còn nhiễm các sự dơ
bẩn, cấu trược ở cõi trần. Con mắt nhờ thanh tịnh bèn mở thông, trông ra
thấy các cõi trong trời đất, thấy khắp nơi khắp chốn và từ vật nhỏ nhặt
đến vật to tát, thấy qua các lớp, không còn cái chi án khuất hết. Lỗ
tai nhờ thanh tịnh, bèn mở thông, nghe ra các thứ tiếng trong hoàn cầu.
Nghe qua hiểu biết; và dù xa, gần hay đâu đâu, người thanh tịnh cũng
nghe rõ hết. Lỗ mũi nhờ thanh tịnh mà mở thông, nhận ra các thứ mùi
trong vũ trụ, nhận biết các bậc chúng sanh ở đâu hoặc làm gì. Người biết
tới con trai hay con gái ở trong thai và ngày sau trẻ ấy sẽ làm những
gì. Cái lưỡi nhờ thanh tịnh mà mở thông, các món ăn vật uống để lên
miệng đều hóa ra thơm, lành, ngon ngọt. Người thanh tịnh ăn các vật,
chẳng biết cái chi là dở, là hôi, cho đến các món độc để lên lưỡi người
cũng thấy là ngọt ngào, tươi dịu. Thân thể, tay chân, nhờ thanh tịnh bèn
trở nên sáng suốt như mảnh gương. Trông vào thân, thấy ra các nơi trong
vũ trụ và các hạng chúng sanh. Vì tất cả các nhân vật đều rọi vào cái
thân trong trẻo của nhà tu hành. Còn đến cái ý của người trì giới hoàn
toàn thì càng quí hóa hơn nữa. Người thanh tịnh nghe thấy sự gì tuy ít
mà biết ra nhiều, chữ nghe một mà nghĩa biết ra trăm ngàn vạn ức. Các
tục lệ của đời, những câu ca dao, những lời nói quen miệng, người xem
thấy có ăn nhập với đạo lý hết. Người trì giới nhờ cái ý mở thông mà
sáng suốt, tấn hóa vô cùng.
Kẻ tu hành cần phải trì giới, giữ mình cho thanh tịnh. Có thanh tịnh mới
đắc đạo được. Trong người nhờ thanh tịnh, tâm ý lành của mình mới từ từ
vươn lên, trải qua các nơi trong châu thân mà làm cho sáng suốt, tinh
anh.
Những người tu hành, dẫu là bậc sư trưởng mà chưa được thanh tịnh, hãy
còn tham lam, sân hận, thì không thế nào đắc đạo, chứng quả. Kìa như
Đề-bà-đạt-đa vì một lúc giận Phật mà mất các phép linh. Lại như một vị
tiên nhân vì mê nghe tiếng ca, nhạc của một cô thần nữ mà lạc mất phép
hay.
3. Nhẫn nhục
Đức nhẫn nhục, cũng như đức bố thí và đức trì giới, rất cần cho nhà
đạo. Lắm người cũng nhờ nhẫn nhục mà mau thành Phật. Trong khi người tu
thực hành bố thí đặng trừ tánh tham lam bỏn sẻn, thực hành trì giới đặng
trừ tánh tà ác, thì người thực hành nhẫn nhục trừ được tánh nóng nảy,
sân hận. Sự nhẫn nhục cũng tiếp tay mà giúp cho người được thanh tịnh,
yên ổn, khoái lạc, giúp cho người mau thành tựu trên đường huệ. Sự nóng
nảy bất cập làm cho con người xa nẻo phải; sự giận hờn làm cho con người
phải thô lỗ; sự xao xuyến, oán thù làm cho con người bối rối, chẳng yên
và tâm trí bấn loạn, ngu mê. Ấy là một thứ lửa độc đốt cháy mất các
tánh tốt của ta. Sự nhẫn nhục làm cho con người an hòa, tỉnh táo, giữ
được mức vừa phải, trung bình. Sự nhẫn nhục làm cho con người nhã nhặn,
trầm tỉnh mà đối phó với hoàn cảnh. Sự nhẫn nhục làm cho con người hòa
hoãn, mực thước, tự nhiên, minh mẫn mà nhìn rõ sự vật. Ấy là một thứ
nước lành, tưới tắt ngọn lửa độc. Biết bao sự việc bởi nóng nảy, gấp rút
mà chẳng thành; bởi sự giận hờn ganh ghét mà ngưng dứt; bởi sự bối rối
phiền não mà hư hại!
Biết bao việc nhờ nhẫn nại mà hoàn thành, nhờ nhịn nhục mà sống còn, và
nhờ trầmtỉnh, nhu hòa mà kết quả tốt đẹp! Những nhà tu hành mà có nhẫn
thì bao nhiêu việc khó đều hóa ra dễ, bao nhiêu việc nghịch đều hóa ra
thuận, bao nhiêu việc nguy đều hóa ra an.
Từ xưa đến nay, các nhà đạo đều để gương nhẫn nhục thành tựu lại cho
đời. Cái gương cao viễn hơn hết là đức Thích-ca Mâu-ni. Chư độc giả hãy
tưởng tượng một người ngồi giữa trời trong cơn lạnh lẽo, mưa gió, nhằm
tiết đông giá buốt. Ngồi ngày này đến ngày kia, tháng kia qua tháng nọ.
Trong khi ngồi yên chẳng động, thì chim câu bay xuống mổ hết cơm để
trong bình bát, bầy trẻ lấy đá, lấy đất mà ném vào mình, và muỗi mòng
chích cắn tứ tung. Ở đời có ai chịu nỗi cảnh ngộ như vậy không? Đức
Thích Tôn vì quá sức lướt các nỗi khổ, cái thân của ngài sắp chịu không
nổi, thì sức thần của ngài phải xông ra mà phụ trợ, bấy giờ thần rắn mới
hiện ra mà bao phủ, chở che cho ngài. Nhờ sự nhẫn nhục quá thể đó, ngài
thành Phật Như Lai, Thầy chung của thánh, tiên, thần, người.
Chẳng những ở một một đời thành Phật, ngài nêu gương nhẫn nhục, mà trong
bao đời đã qua, ngài đã từng tu hạnh nhẫn nhục và đắc nhẫn nhục
Ba-la-mật. Trong những khi ấy, chẳng những ngài không oán hờn kẻ ác tâm
cố ý hại mình, ngài lại còn đem lòng từ bi mà độ họ nữa! Như thuở xưa,
trước khi thành Phật đến năm trăm đời, ngài làm một vị tu sĩ trên núi
cao, nhân thành tựu đức nhẫn nhục, mà người đời gọi là nhẫn nhục tiên.
Thuở ấy, ngài ngồi thiền nơi một cội cây trong rừng. Vua Ca-lỵ, một vị
vua hung bạo và say mê ngũ dục, dắt đoàn cung phi ra khỏi hoàng thành mà
du ngoạn. Trong khi vua đương hưởng sự vui thích, nhiều cô thể nữ tách
vua mà đi dạo, đến cội cây và gặp vị tiên nhân. Các cô làm lễ ngài, ngài
bèn thuyết pháp cho các cô nghe. Chợt vua hiện lại, sanh lòng sân hận,
vấn nạn vị tiên nhân, rồi dùng dao bén mà cắt tai ngài, cắt mũi ngài,
chặt tay chân ngài. Lúc ấy, Bồ-tát vẫn thản nhiên, chẳng hề biến sắc,
không một mảy may sợ sệt, oán hờn. Bấy giờ, quần thần chứng kiến sự tàn
bạo của vua, họ ngăn cản chẳng được, thảy đều rơi nước mắt. Các cô thể
nữ cũng ôm mặt mà khóc, chẳng dám nhìn! Từ trên không trung, chư thiên
ném xuống những cát, gạch, đá như mưa trút, để tỏ lòng phẫn uất của các
ngài.
Ca-lỵ vương lấy làm sợ sệt và hối ngộ, bèn đến trước đức Bồ-tát, làm lễ
cầu sám hối. Vị tiên nói rằng: “Đại vương! Ta chẳng có lòng giận, cũng
chẳng có lòng tham.”
“Bạch Đại đức! làm sao tôi biết chắc rằng ngài chẳng có lòng giận hờn?”
Đại tiên liền phát nguyện rằng: “Nếu thật ta chẳng có lòng giận hờn,
nguyện cho thân thể ta bình phục như cũ, đặng làm chứng cho lời của ta!”
Liền đó, thân của vị tiên bình phục và ngài thuyết pháp độ vua.
Lại còn gương nhẫn của đức Quán Thế Âm Bồ-tát. Vì muốn tiện độ đời, ngài
thường giáng trần, nêu gương từ bi nhẫn nhục đặng cho chúng sanh hồi
tâm hướng thiện. Hóa sanh làm bà công chúa Diệu Thiện, con vua Trang
Vương, công chúa vì mộ đạo, chẳng thuận ý cha mà bị đày ải, hành hạ khổ
sở. Thân ngọc ngà của công chúa phải đi tưới vườn, gánh nước, lang thang
lướt thướt ngoài đồng, mà tâm của bà chẳng hề xa Phật. Từ bi, nhẫn
nhục, bà đành cam các nỗi khổ để cầu cho cha bỏ tà theo chánh và đặng độ
cho bá tánh nhân dân!
Hóa sanh làm Thị Kính, cam chịu hàm oan, ngài tách xa chồng mà nương
mình nơi cửa Phật. Bấy giờ giả trai, tưởng đâu yên nơi mà tu niệm! Nào
ngờ bị gái trắc nết phao vu rằng ngài tư tình với nó mà sanh con. Ngậm
sầu nuốt thảm, ngài nhận lãnh đứa con của nó. Ngài phải bị làng xã chê
bai, đánh đập, bị dân chúng ngạo báng, chửi bới, bị chư tăng ruồng rẫy,
khinh khi. Đến chừng ngài tịch, chúng mới nhận ra ngài là phận đào thơ
liễu yếu, đã chịu oan nỗi chồng khờ, lại thọ uổng nỗi gái dâm, mà không
hề biện bạch! Cao thượng thay gương kiên nhẫn của đức Bồ-tát! Vậy có câu
rằng:
“Chữ rằng nhẫn nhục nhiệm hòa,
Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu!”
Và đức Nhật Liên Bồ-tát, giáo tổ Pháp Hoa tông cũng là một gương nhẫn
nhục vẹn toàn. Vì yêu đạo lý và muốn truyền pháp giúp đời, giáo tổ bị
ngược đãi, bị phá khuấy, bị đánh chửi, nhục mạ. Ngài lại bị đày đến nơi
hoang đảo, nơi chốn ma thiêng nước độc, bị tù tội mấy phen. Cho đến ngài
bị đem ra pháp trường mà xử trảm. Song lòng nhẫn của ngài chẳng lung
lay. Rốt cuộc ngươi ta phải phục tùng ngài và nhìn nhận giáo lý của
ngài. Cho đến nay, ghi nhớ công đức ngài, mỗi năm dân tộc Nhât Bản đều
có làm lễ kỷ niệm ngài.
Trong các Kinh Phật, đều có dạy người ta tu đức nhẫn nhục để độ mình và
độ người. Đối với mọi sự khổ nơi thân và tâm, mà tự mình chẳng nhẫn
chịu, còn sanh lòng buồn giận oán ghét, thì làm sao mà độ chúng sanh ra
khỏi dòng sông phiền não?
Ở đời, hằng có ba cơ hội để rèn luyện, để chứng minh đức nhẫn nhục của mình. Ấy là: 1. Thân nhẫn, 2. Khẩu nhẫn, 3. Ý nhẫn.
1. Về thân nhẫn, như có ai đánh đập mình, phá hại mình thì mình
an nhiên mà chịu đựng. Như những nhà thế lực dùng oai quyền mà thi thố
với mình, mình chẳng một mảy giận hờn! Kìa, vua A-xà-thế nghe lời xúi
giục của Đề-bà-đạt-đa, thả voi dữ ra để chà đạp Phật, thế mà Phật thuyết
pháp độ vua phát tâm Bồ-đề! Lại chính Đề-bà-đạt-đa lăn đá hại Phật, làm
cho Phật đổ máu nơi chân, thế mà Phật vẫn tha thứ cho!
2. Về khẩu nhẫn, như có kẻ đến chửi mắng mình, mình lặng thinh mà
chẳng chửi mắng lại. Như có kẻ dùng lời phi lý mà chê trách mình, mình
sẽ dùng lời nhu hòa mà giải lẽ phải cho họ nghe. Như có kẻ ngang ngược
vu cáo mình, mình sẽ mặc nhiên. Kìa đức Phật khi xưa đang giảng kinh, có
một cô gái vào pháp hội mà vu oan rằng ngài ăn ở với nó đến có thai.
Ngài vẫn cười. Có nhiều người nơi ấy đòi đánh cô, nhưng Phật cản lại!
3. Về ý nhẫn, như có ai giận mình, ghét mình, oán mình, mình vẫn
một lòng an lạc, ôn hòa. Như có ai cố ý khuấy rối mình, tâm mình chẳng
hề tán loạn. Kìa đức Thích Tôn khi đi truyền đạo, sáu phái ngoại đạo bên
Thiên Trúc hằng oán hận ngài, khuấy rối ngài, xúi giục dân chúng bỏ
ngài. Thế mà ngài vẫn tha thứ cho họ, thường hay thuyết pháp độ họ nữa.
Vả lại, do đức nhẫn nhục, người ta mới biết phân biệt nhà tu hành sáng
suốt với kẻ phàm tục mê muội. Kẻ ngu muội phàm tục, đối với sự đánh
chửi, dầu đúng dầu sai, họ vẫn đem lòng hờn oán. Hạng tu hành, người
nhân đức chẳng như vậy. Thoảng như mình có cớ để cho người ta đánh đập,
chửi mắng, thì mình nên nhẫn chịu, dường như uống thuốc cam lộ! Đó là
dịp để cho mình tu chỉnh lấy mình hầu có lìa khỏi sự lầm lỗi. Ví như
mình vô can mà bị người ta đánh chửi một cách ngang trái, bị người ta
phá hại một cách tàn bạo, thì mình nhẫn nại mà xét rằng: “Hiện nay mình
vô tội. Nhưng có lẽ là nghiệp đời trước còn rơi lại, nên mới ra nông
nỗi!” Hoặc là mình trầm ngâm nghĩ ngợi rằng: “Người ta vốn là tứ đại
giả hiệp, vốn là ngũ uẩn vô thường. Thật chẳng có người. Như vậy, ai là
kẻ đánh chửi? Ai là kẻ bị đánh, bị chửi?” Hay là mình hỷ xả mà xét
rằng: “Kẻ ấy là người ngu dại, điên cuồng; và còn ở trong vòng tham lam,
sân hận, si mê. Mình nên thương xót hạng người như vậy”.
Đức Phật có dạy rằng có ba phép nhẫn. Ấy là: 1. Sanh nhẫn, 2. Pháp nhẫn, 3. Vô sanh pháp nhẫn.
1. Về sanh nhẫn, đối với tất cả chúng sanh, dầu nhỏ như con muỗi,
con kiến, con rệp mà chích, cắn mình, mình cũng không đem lòng giận mà
hại mạng chúng nó; dầu lớn như loài người mà đánh đập mình, mắng chửi
mình, phá hại mình, mình cũng không oán ghét mà báo thù. Đó gọi là sanh
nhẫn, hữu tình nhẫn, cũng gọi là nại oán hại nhẫn.
2. Về pháp nhẫn, đối với cảnh vô tình làm trở ngại, nghịch hại
mình, như nắng, mưa, gió, lạnh, bão lụt, hỏa hoạn, v.v... mình đều chịu
được mà không giận trách, không than phiền.
Đó kêu là pháp nhẫn, phi tình nhẫn, cũng gọi là an thọ khổ nhẫn.
3. Về vô sanh pháp nhẫn, đối với chúng sanh phá hại mình, đối với các pháp làm khổ mình, mình coi là chẳng có.
Ấy nhờ mình xét thấy cái thật tướng của chúng sanh và của các pháp, vốn
không sanh, không diệt, khi có, khi không, chẳng có cái thể tánh bền
vững. Như chúng sanh chỉ là tứ đại, ngũ uẩn giả hiệp mà thôi. Còn các
pháp chỉ là những nhân duyên kết cấu mà thôi. Xét như vậy, nhà đạo không
còn chấp mình, chấp người, chấp chúng sanh, chấp các pháp. Đạt đến mức
nhẫn ấy là đạt địa vị bất thối Bồ-tát, trong lòng hết mọi mối buồn,
giận, lo, sợ. Nhân đó, đắc các phép thần thông độ thế của Bồ-tát. Như
vậy là nhẫn nhục Ba-la-mật. Đó gọi là vô sanh pháp nhẫn, cũng gọi là Đế
sát pháp nhẫn.
4. Tinh tấn
Với cái đức tinh tấn, này, người tu diệt sự giải đãi, biếng nhác
trong tâm. Nhờ tinh tấn, sốt sắng, dũng mãnh, chuyên cần, người tu chẳng
biết mỏi mệt chút nào hoặc về thân, hoặc về tâm. Những kẻ lười biếng
tìm đủ dịp, lấy đủ cớ mà trốn tránh, chối từ phận sự. Hoặc họ bảo rằng
sớm lắm, chưa phải lúc; hoặc họ bảo rằng muộn lắm, không thể làm. Hoặc
họ nói nắng, nói nực, nói lạnh, nói mưa, nói đau, nói yếu, chê trách
người vật, than phiền hoàn cảnh. Còn người tinh tấn thì bao giờ cũng
nhặm lẹ, sẵn sàng, không bỏ qua dịp phải, chú ý đến cơ hội, rất tiết
kiệm thì giờ, lại còn tự tạo nên những cảnh thuận tiện nữa. Không làm
bằng tay thì làm bằng trí, không làm cho mình thì làm cho người, chẳng
hề biết nghỉ ngơi như thường tình.
Người tinh tấn tỷ như dòng nước, dẫu cho nhỏ yếu, nhưng chảy mãi thì
cũng xoi thủng được, làm mòn được hòn đá to. Kẻ giải đãi tỷ như người
đào giếng, dầu có sức mạnh, nhưng đào được nửa chừng rồi ngán mà bỏ, thì
làm sao có nước mà uống?
Người tinh tấn về đạo bao giờ cũng sốt sắng mà bố thí cho đời, lo cho
chúng sanh về tài vật và về pháp lý. Người tinh tấn bao giờ cũng sốt
sắng mà trì giới, lo cho thân tâm trong sạch, chẳng chút bợn nhơ vì sở
dục. Người tinh tấn bao giờ cũng sốt sắng mà nhẫn nhục, cam chịu các sự
đắng cay, khổ não, hoạn nạn, lãnh lấy các điều oan uổng vì chúng sanh.
Người tinh tấn bao giờ cũng sốt sắng mà tham thiền, lắm người trọn đời
chẳng ngủ, ngồi yên một chỗ mà định thần tu niệm. Cho nên tinh tấn cũng
là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định và trí huệ. Thực hành tinh
tấn tức là thực hành các hạnh nguyện kia; và thực hành tinh tấn cho hoàn
toàn thì hành mấy nền đức kia cũng được hoàn toàn nữa.
Người tinh tấn có bốn đại nguyện mà trải qua nhiều đời đều tận tâm gìn giữ, thực hiện.
a) Bao giờ cũng quyết diệt các mối phiền não trong người, diệt các sự tham ác, sân hận, si mê. Tức là diệt thất tình: mừng, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, tham; và lục dục.
Phiền não khi chưa phát khởi nơi ta, thì ta phải phòng bị xa lánh chúng
nó trước. Đến chừng có cơ hội, chúng nó phát động nơi ta, xúi giục ta,
thì ta phải diệt trừ chúng nó, vượt khỏi sức quyến rũ, sức chế ngự của
chúng nó vậy.
Một đàng khác, chúng ta phải tu tập pháp lành. Khi trong tâm ta thiếu
những đức lành, ta phải phát khởi những đức lành ấy. Và mỗi khi ta có
được những đức lành nào, ta cố sức mà duy trì và bồi dưỡng chúng nó.
Xa lánh phiền não, vượt khỏi phiền não, phát khởi những đức lành, duy
trì đức lành, đó là bốn phận sự hằng ngày của người tinh tấn chân chánh.
Vậy tinh tấn tức là:
Điều ác chớ làm,
Điều lành giữ lấy.
b) Bao giờ cũng quyết học hết các pháp môn. Pháp Phật đã là vô
tận, mênh mông, giải không cùng, nói không xiết, bao la, rộng lớn như
cát sông Hằng. Song người tinh tấn quyết định phải cho thông hết mới
nghe, dầu là pháp môn Hiển giáo hay là pháp môn Mật giáo, dầu là pháp
môn thế gian hay là pháp môn xuất thế gian. Ngoài ra, người tinh tấn
cũng học hỏi và nghiên cứu các pháp môn của ngoại đạo, các pháp thiện
xảo về văn chương, khoa học kỹ nghệ, toán số, y học, âm nhạc, thiên văn
v.v... Vì bậc đại Bồ-tát cần phải biết tất cả đặng tùy duyên mà độ đời.
Chính Phật là bậc hiểu biết tất cả, vì ngài đã tinh tấn học hết các pháp
môn vậy.
c) Bao giờ cũng quyết độ tất cả chúng sanh. Người tinh tấn sẵn
lòng mà giúp người, cứu đời, không trừ bỏ một chúng sanh nào. Bao giờ
người cũng hết sức lo cho chúng sanh. Trong khi tu học lục độ, người đã
dũng mãnh đem lục độ ra mà độ chúng sanh rồi: Những lúc cần phải bố thí,
thì người bố thí cho chúng sanh, đem thân thể mà cung phụng, đem tiền
của mà chu cấp. Người cũng độ đời bằng sự trì giới, tự mình hộ trì giới
luật dường như bảo châu, đem gương trì giới mà soi cho đời, dạy dỗ cho
đời biết giới hạnh, phong hóa, đạo nghĩa. Người lại khuyên đời bằng sự
nhẫn nhục, đem những lẽ nhu hòa thiện thuận mà giáo hóa những kẻ nóng
nảy, tham mê. Người cũng dùng đức tinh tấn mà thực hiện trong đời, khiến
người diệt trừ phiền não và tăng tấn đức lành. Người cũng tự mình thiền
định, đắc pháp thiền định và nung chí cho những người tu học về pháp
ấy. Người được trí huệ sáng suốt, đem sự sáng suốt của mình mà soi tỏ
cho người khác, đem sự hiểu biết của mình mà khai hóa cho đời. Đó là
tinh tấn mà làm hạnh tự độ độ tha, tự giác giác tha; tinh tấn mà độ cho
vô lượng chúng sanh thành Phật trước mình. Bậc tinh tấn dùng các phương
tiện trong lục độ mà độ cho chúng sanh trong khi mình còn tu học chớ
chẳng chờ đến lúc mình thành Phật rồi mới độ sau. Vì thời kỳ đó còn xa,
mà hiện thời chúng sanh vẫn đau khổ, mê lầm, mình há làm ngơ sao?
d) Bao giờ cũng quyết thành Phật. Người tinh tấn Đại thừa để cái
mục đích mình vào sự thành Phật. Dõng mãnh mà thi hành giới luật, cố
công mà học các pháp môn, gắng sức mà thẩm xét, tham thiền. Người tinh
tấn hành tất cả lục độ một cách triệt để. Người bình tĩnh và sáng suốt
mà thấy rằng mình có Phật tánh, Như Lai tánh. Người tự nhận rằng hiện
thời mình là một đức Phật lý, một đức Như Lai lý, và trong một đời sau,
về thuở tương lai thế nào mình cũng đạt cả lý và sự, chừng ấy mình sẽ
lên ngôi Chánh giác, Phật, Như Lai, Thế Tôn.
Đó là bốn điều nguyện lớn, mà lúc nào người trì tinh tấn Ba-la-mật cũng dõng mãnh mà thi hành.
Trong kinh Pháp Hoa, đức Thích Tôn phán rằng ngài nhờ thọ trì tinh tấn
mà chóng thành Phật. Có một đời kia, ngài với A-nan đều phát tâm Bồ-đề
cùng một lúc, tức là hai người trong một lúc quyết ý tu cho thành Phật.
Ngài bèn trì tinh tấn, A-nan lo hộ trợ pháp Phật. Từ buổi phát tâm tới
sau, ngài quả quyết, phấn chấn trong sự tinh tấn, nên ngài đã thành
Phật. Còn A-nan hiện làm Bồ-tát, cũng còn hộ trợ Pháp tạng, chứ chưa lên
ngôi Phật.
5. Thiền định
Cái đức thiền định, này cũng là vô tận, không thể lượng xét, nghị
luận bằng lời nói, bằng câu văn. Nó cũng quan hệ chặt chẽ với mấy cái
đức kia, và lại còn trọng hệ hơn nữa. Chính nó dẹp cái mê, diệt cái dốt,
làm cho người ta minh mẫn, sáng láng, đắc đạo.
Thiền định là suy nghĩ, thẩm xét, phân biệt, tìm hỏi cho thấu đáo. Thiền
định thuộc về cõi tưởng, cõi trí, cõi siêu hình. Thiệt là một cõi mênh
mông như hư không, bao quát như vũ trụ, khó mà giải cho tường tận. Và
như có ai thông hết các phép thiền mà toan giải ra, cũng không bao giờ
giải cho hết.
Biết bao từng, bậc trong chốn Thiền-na! Từ người mới tập tành, đến người
khá trổi, rồi đến người vào vòng, cho đến chư Tiên, chư Thánh, chư
Bồ-tát, chư Phật, các hạng người đều thiền định khác nhau, tùy theo sở
học, sức lực và duyên nghiệp của mình. Bậc thì tham thiền, thẩm xét đặng
diệt những điều tệ, thói hư của mình. Bậc thì định trí, định tâm đặng
tỉnh dưỡng tánh tình, đức hạnh của mình. Bậc thì lo trau dồi lòng dạ, lo
nung đúc những đức từ, bi, hỷ, xả để hộ niệm các chúng sanh. Có bậc
ngồi thiền đặng thấu những cái chưa hiểu, rõ những chỗ còn nghi. Cũng có
bậc mạnh dạn mà tham thiền đặng vừa diệt các sở trược, vừa đắc những
phép thần. Những vị này tu tập trong bốn bậc thiền, chứng lên từng bậc
thiền, đắc nhập từng quả đức, cho đến chứng bậc thiền thứ tư. Cao hơn
nữa, thiền định của chư Bồ-tát còn chia ra nhiều bậc nữa. Những vị này
mỗi khi ngồi thiền thì thân, tâm chẳng động, theo tiếng Phạn là nhập
phép Tam-muội, các ngài mặc sức mà tưởng đến một vấn đề hết ngày đến
tháng, qua năm, có khi suốt đời! Dưới đây là mấy phép thiền trong những
phép thiền của đức Diệu Âm Bồ-tát:
1. Diệu tràng tướng Tam-muội
2. Pháp Hoa Tam-muội
3. Tịnh đức Tam-muội
4. Túc vương hý Tam-muội
5. Vô duyên Tam-muội
6. Tri ấn Tam-muội
7. Giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn Tam-muội
8. Tập nhất thiết công đức Tam-muội
9. Thanh tịnh Tam-muội
10. Thần thông du hý Tam-muội
11. Huệ cự Tam-muội
12. Trang nghiêm vương Tam-muội
13. Tịnh quang minh Tam-muội
14. Tịnh tạng Tam-muội
15. Bất cọng Tam-muội
16. Nhật triền Tam-muội ...
Chư Bồ-tát đã từng sống đời trong sạch vì chúng sanh, đã từng từ bi bố
thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn vì chúng sanh. Cho nên các ngài thiền
định mau đạt kết quả. Lại nữa, bao đời qua các ngài đã từng tham thiền
nhập định, cho nên các ngài thấu hiểu rất nhiều phép thiền. Chư Đại
Bồ-tát là những đấng thành tựu, chỉ còn chờ thời gian là lên ngôi Phật
Như Lai, nên các ngài có biết bao phép Thiền thanh tịnh.
Thường thường, ta thấy chư Đại Bồ-tát đắc hai phép thiền này mà các ngài
hay dùng: Hiện nhất thiết sắc thân Tam-muội và Hiện nhất thiết ngữ ngôn
Tam-muội. Với phép thiền trước, các ngài biết rõ các hình sắc trong vũ
trụ, các ngài hiện ra hình nào, thân nào, hóa ra nhân vật nào cũng được.
Cho nên các ngài khi thì hóa ra Phật, khi thì hóa ra Phạm Thiên và các
vua cõi trời, lắm khi hóa ra Tiên, Thần, người, thú, quỷ, ma, đặng cứu
vớt, độ chúng sanh. Với phép thiền thứ hai, các ngài nói ra các thứ
tiếng, và nghe được các thứ tiếng trong vũ trụ, tuy rằng mình ngồi một
chỗ. Các ngài nghe tiếng các hạng chúng sanh. Các ngài nghe tiếng chư
Phật, chư thánh, chư thần. Các ngài nghe tiếng người ta trong các dân
tộc, đàn ông, đàn bà, già, trẻ, bé, lớn. Các ngài nghe tiếng các thứ
chim chóc, thú vật, các loài ngạ quỷ. Các ngài nghe tiếng các thứ trống,
chuông, kèn, sáo, tiếng cầu khẩn, tụng niệm. Các ngài nghe các thứ
tiếng vui, buồn, khổ lụy, kêu rên, sầu não. Nghe như vậy để hiện đến các
cảnh giới mà cứu độ chúng sanh đúng lúc.
Cao hơn những phép thiền Tam-muội của Bồ-tát, phép thiền Tam-muội của
Phật Như Lai thì cao siêu vô cùng, bao quát vô tận. Giả như hồi đức Phật
Dược Sư Lưu Ly đắc đạo rồi, ngài nhập định phép Tam-muội gọi là “Trừ
diệt nhất thiết chúng sanh sanh khổ não”. Trong khi ngài nhập đại định,
từ nơi đỉnh đầu, hào quang chiếu ra. Trong hào quang ấy, thuyết ra câu
chú này:
Nam-mô Bạc-già-phạt-đế, bệ-sái-xã lũ-rô. Bệ Lưu-ly, bát-lạt-bà,
hát-ra-xà-giã. Đát-đà-yết-đa-da. A ra-hát-đế. Tam-miệu, tam-bột-đà-da,
đát-điệt-tha. Án, bệ-sái-thệ, bệ-sái-thệ, bệ-sái-xã. Tam-một-yết-đế,
Tá-ha.
Câu chú ấy từ trong hào quang của Phật thuyết ra rồi thì cõi đại địa
chấn động, các chúng sanh đều được tiêu trừ bệnh khổ. Cho đến nay những
ai đọc ra những câu chú ấy một cách thành tâm thì cũng được giải thoát
khỏi cơn bệnh hoạn khổ não.
Lại như đức Phật Thích-ca, hồi thuyết xong kinh Vô lượng nghĩa, ngài bèn
nhập định, ngài nhập phép định gọi là “Vô lượng nghĩa xứ Tam-muội”. Sau
khi ra khỏi cơn đại định này, ngài sẽ thuyết diễn kinh Diệu Pháp Liên
Hoa.
Trong khi ngài ngồi đại định, từ khoảng giữa hai bên lông mày của ngài có phóng ra một luồng hào quang.
Luồng hào quang này chiếu ra cả muôn thế giới, làm cho hết thảy chúng
sanh đều hiện ra rõ ràng. Lúc ấy, trước luồng hào quang của Phật, chư
đại chúng thấy ra các chúng sanh thọ quả báo và hưởng phước do nơi sự
hành động của mình từ trước: kẻ thì bị đọa khổ não ở các cảnh địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh; kẻ thì làm người có vinh, có nhục; kẻ thì làm thần,
làm quỷ; có kẻ làm chư thiên; và cao hơn nữa, những vị tu hành đắc đạo
thì thành A-la-hán, Bồ-tát và có vị thành đến Phật Như Lai.
Sức thiền định của Phật là oai diệu vô ngần.
Đắc những phép thiền linh, mấy phép Tam-muội, tưởng cũng là công phu
lắm. Nhiều vị trì chí cả năm, cả đời, chẳng biết việc chi khác, cứ chú
tâm tham thiền. Lắm vị thắng phục sự ngủ, sự nằm, bao giờ cũng ngồi mà
tư tưởng. Lắm vị quên ăn, mải mê trong cuộc tham thiền; mà mấy vị ấy
cũng chẳng muốn đi ăn uống, chỉ chú tâm trong định. Lắm vị nhập định
quên cả thời gian, quên cả sự sống chết. Các ngài lấy sức lành mà hộ trợ
thân thể, rồi ngồi trầm tư mặc tưởng nơi chốn rừng cao cả trăm, cả ngàn
năm. Trong khi thân thể các ngài vẫn ngồi tự nhiên, không rã rục, thì
dây leo bò quanh mình các ngài, cỏ hoa mọc lên trên mình các ngài, cho
đến chim chóc làm tổ trên đầu các ngài! Trong quyển “Trí độ luận” có ghi
lại một tích về hạnh tu thiền của đức Thích-ca, tưởng cũng nên thuật ra
đây.
Có một thuở nọ, hồi còn làm Bồ-tát, đức Phật của chúng ta tên là
Thượng-xà-lê. Ngài lên non tu thiền định và lấy hiệu là Lõa Kế. Trong
khi ngài lặng lẽ ngồi thiền, ngưng thở hết tháng thâu năm dưới một cội
cây, thì chim ngỡ chính ngài là một cái cây, bèn tựu lại làm tổ nơi đầu
của ngài và chun vào tóc ngài mà đẻ trứng.
Chừng tỉnh giấc thiền, ngài biết rằng có chim làm tổ và đẻ trứng trên
đầu ngài. Đức Bồ-tát bèn nghĩ rằng: “Nếu ta ra khỏi cơn thiền và lay
động thì chim chẳng dám đến nữa, mà những cái trứng trên này sẽ rớt bể
hết”. Vì lòng từ bi, trọng sanh mạng, ngài nhập thiền trở lại. Mãi cho
đến khi chim đẻ và ấp xong và chim con bay được, chừng ấy ngài mới ra
khỏi cơn thiền và bước chân ra đi.
Công phu tham thiền vô lượng, vô biên mà còn chưa đắc đạo thay, huống
chi những kẻ ngạo mạn ỷ mình cao học trong đời, muốn tu một ít năm cho
nhập Niết-bàn?
Muốn thiền định cho tiện hơn hết, hãy tìm đến những non cao, rừng vắng. Ở
đó thanh tịnh, cao ráo, mùi trần bay lên chẳng tới, nhà đạo dễ mà thẩm
xét. Cho nên ta thường thấy nhiều nhà vua chúa bỏ ngôi, lắm vị công hầu
bỏ chức, bao nhà đại phú xuất trần, nhiều vị tăng đồ ưa tịnh, hay tìm
đến nơi nhàn u, tĩnh mịch, vừa hưởng cái thú vị thanh cao nơi sơn lâm,
động cốc, vừa trầm tĩnh mà tham thiền, nhập định.
Không được như vậy, thì đến mấy cảnh chùa xưa, những nơi tổ đình, mấy
chỗ đã từng có cao tăng đắc đạo, cũng là chốn dễ tham thiền có công
hiệu. Người tu vừa trầm tư mặc tưởng vừa niệm nhớ công đức của thầy xưa,
cũng dễ mà lướt lên cõi tấn hóa về trí đức.
Tuy vậy, nói cho cùng thì chẳng luận nơi nào, miễn có kiên chí thì chỗ
nào thiền định cũng được. Những vị xuất gia thong thả và những người tại
gia có tịnh thất, đã đành là dễ tham thiền. Song những người nghèo
cùng, bận rộn, cũng có thể chọn một chỗ trong nhà, và một giờ trong ngày
mà giữ cho tâm trí dung hòa, an tịnh. Cho đến những kẻ vì sự sống mà
phải rày đây mai đó, bôn ba đến các chợ búa, tỉnh thành, mấy kẻ ấy cũng
có thể tham thiền được nữa. Trong khi bốn bánh xe hơi chạy vù vù trên
đường nhựa, trong khi toa xe lửa trải qua các cảnh vật tươi xinh, hoặc
thuyền tàu lướt sóng ngoài khơi, thì ta cũng có thể định tâm mà tập
thiền. Hoặc khi nằm nghỉ lưng trong chốn lữ quán bên đường, ta cũng nên
niệm nhớ chư Phật được.
Vậy thì ai nấy đều tham thiền được hết. Và đối với người thế thường, bận
việc thì có cách thiền định này dễ thực hiện hơn hết: niệm Phật.
Niệm Phật tức là nhớ tên một đức Phật, một đức Bồ-tát trong trí mình.
Hoặc là niệm đức Thích-ca Như Lai, đức Di Lặc, đức A-di-đà, hoặc là niệm
đức Quán Thế Âm, đức Đại Thế Chí, đức Văn Thù, đức Phổ Hiền v.v... Lắm
người tùy dịp mà niệm tên của từng vị ấy. Và phần đông đều nguyện thọ
trì một vị trong mấy vị ấy, nhất là đức Phật A-di-đà và đức Bồ-tát Quán
Thế Âm. Có kẻ ngồi trầm tĩnh mà niệm thầm trong bụng, có người vừa niệm
vừa lần chuỗi, hoặc một xâu chuỗi lớn 108 hột, hoặc một xâu chuỗi nhỏ 18
hột vừa cầm trong tay. Niệm Phật có lần chuỗi thì dễ nhớ, ngón tay hiệp
với câu niệm trong trí mà ghi khắc vào tâm. Và lần xâu chuỗi nhỏ thì
tiện hơn, bỏ túi gọn, cầm nơi tay những kẻ bất tín chẳng để ý, và có đi
đâu xa đem theo cũng dễ dàng.
Có người tùy giờ, tùy ngày mà niệm tưởng thiền định. Lắm kẻ tùy khi hữu
sự thì niệm. Mà nhiều vị rất chú tâm, bất kỳ ngày nào, giờ nào và ở chốn
nào cũng niệm tưởng được hết. Như vậy cái tâm không rời Phật, không rời
sự lành. Tức là lúc nào cũng tham thiền nhập định, dầu đứng, đi, ngồi,
nằm, cười, nói, uống, ăn.
Niệm Phật tức là thiền định. Niệm Phật và tin Phật thì lần lần trừ các
tánh tham, ác, độc hiểm nơi mình. Niệm Phật thì ngày một thêm lành, thêm
tốt, được từ, bi, hỷ, xả, được bồi dưỡng vào tâm trí những căn lành cội
phúc. Niệm Phật thì trầm tĩnh, thanh nhàn, an nhiên mà trông ra hoàn
cảnh, trừ lần nghiệp xưa, chẳng tạo ra nghiệp mới. Niệm Phật thì chẳng
xao xuyến, bồn chồn, chẳng uất ức vì cảnh thế, chẳng tất bật vì sự đời,
lại còn biết truy tìm, phán đoán, biết xét người, hiểu vật, biết so độ
từ quá khứ, hiện tại cho đến vị lai. Niệm Phật cũng là bố thí, trì giới,
nhẫn nhục, tinh tấn. Chí tâm mà niệm Phật cũng đắc đạo ngay ở cõi này.
Và niệm Phật cũng minh tâm kiến tánh và phát sanh trí huệ.
6. Trí huệ
Cái đức cuối cùng và cao viễn này, vừa là một đức hạnh, vừa là kết
quả của thiền định và của bốn đức trước hiệp lại. Thật vậy, người tu
thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn để diệt cái tâm bủn xỉn,
tà ác, nóng nảy, lười biếng, nên dễ mà tham thiền. Rồi người tu mới
tham thiền, nhập định cho hết tán loạn, đắc Tam-muội, đặng mở thông trí
huệ. Trí huệ tức là sáng suốt, thông minh, bác lãm, thấy xa, hiểu rộng,
biết nhiều. Trí huệ tức là hết lầm, hết mê, hết vọng, hết bị lôi cuốn
vào chốn thế cuộc, luân hồi, mà được tự do, tự tại, giải thoát ra ngoài
Tam giới.
Ban sơ, muốn tạm giải thoát, người tu phải hành trì Giới, Định, Huệ.
Nghĩa là giữ Giới cho dễ nhập Định; rồi có nhờ nhập Định mới phát Huệ;
phát Huệ rồi thì thông minh, đắc đạo.
Kế đó, người tu cũng còn hành trì Giới, Định, Huệ nữa. Giới đây là giới
hạnh để thành Bồ-tát. Người ta trì một giới hay nhiều giới trong mấy
giới: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn. Nhờ trì giới hạnh đó, người
ta nhập thiền định, Tam-muội và đắc trí huệ cao hơn.
Sau khi ấy, từ đời này tới đời kia, hết kiếp kia qua kiếp nọ, trải qua
bao thế cuộc thay đổi, bại thành, người tu một lòng thọ trì không hủy
phạm các giới hạnh Bồ-tát: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, với
thiền định và trí huệ. Trì giới hạnh Bồ-tát để cứu độ chúng sanh; trải
qua trăm ngàn vạn ức, vô lượng, vô biên kiếp, Bồ-tát xả thân vì đạo. Sau
rốt thì đắc trí huệ của Phật, sự sáng suốt hoàn toàn, sự hiểu thông tất
cả.
Chẳng những đức trí huệ là cái kết quả của đức thứ năm, Thiền-na
Ba-la-mật, mà trí huệ cũng là bố thí, cũng là trì giới, cũng là nhẫn
nhục, cũng là tinh tấn và cũng là thiền định. Nó quan hệ với năm đức
trên một cách chặt chẽ vậy.
Là vì, muốn thành tựu đức bố thí, mà chẳng bố thí pháp thì làm sao đắc
hạnh Đàn Ba-la-mật? Muốn bố thí pháp, ắt phải có trí huệ. Vậy Bát-nhã
Ba-la-mật cũng là Đàn Ba-la-mật, đức bố thí.
Muốn thành tựu đức trì giới, mà chẳng có tâm rộng lượng, sáng suốt; khư
khư giữ việc nhỏ mà bỏ việc lớn; chẳng biết phương tiện độ sanh, thì làm
sao đắc hạnh Thi-la Ba-la-mật? Đó chẳng qua là giới hạnh tiểu thừa mà
thôi, chớ chẳng phải là Bát-nhã Ba-la-mật, trí huệ Đại thừa. Vậy Bát-nhã
Ba-la-mật cũng là Thi-la Ba-la-mật.
Muốn thành tựu đức nhẫn nhục, mà lúc nào cũng chịu ép bức nhịn nhường,
thì làm sao mà xiển dương nền Phật Pháp? Làm sao đắc hạnh Đại thừa
Sằn-đề Ba-la-mật? Hồi đức Phật còn trụ thế, một hôm đến ngồi ở một cội
cây trong rừng vắng. Ở đó, có một con quỷ tên là Khoáng dã, kéo binh
tướng đến bắt Phật đặng ăn thịt, Phật liền hóa ra hình vị đại lực quỷ là
vua trong loại quỷ thần. Khoáng dã quỷ lấy làm sợ sệt, té quỵ và bất
tỉnh. Phật bèn hiện ra hình thật, thuyết pháp độ quỷ Khoáng dã qui y
Phật, bỏ sự giết mạng người, lại theo hộ trợ chúng tăng và các nhà tu
Phật. Lại có một lúc, vua A-xà- thế nghe lời xúi giục của Đề-bà-đạt-đa,
phục rượu cho con voi Hộ tài say và thả ra đặng chà đạp Phật. Voi xông
lại định hại Phật. Bỗng Phật đưa thẳng hai cánh tay ra; từ nơi mỗi đầu
ngón tay, hiện ra một con sư tử oai mãnh. Con voi thấy vậy sợ quá, hết
say, hết hăng máu, sụp nằm sát trước chân Phật. Đức Thích Tôn liền vỗ về
nó và thuyết pháp cho nó nghe. Vậy thì phương tiện, thần thông của
Bát-nhã Ba-la-mật hằng phổ cập vào hạnh nhẫn nhục, cho nên Bát-nhã
Ba-la-mật cũng là Sằn-đề Ba-la-mật.
Muốn thành tựu đức tinh tấn, Phật tử phải có sẵn đức trí huệ của Như Lai
ở nơi mình để soi sáng mình, để dắt dẫn mình. Nhờ có cái chánh trí, cái
đại trí để phổ cập vào, mình mới dễ tu hành và chứng đắc cái chánh tinh
tấn, đại tinh tấn. Đó tỷ như người có sức mạnh, có can đảm và có nghị
lực, trong khi đi đêm trên đường xa, có đèn đuốc khai thông cho mình.
Như vậy, Bát-nhã Ba-la-mật cũng là Tỳ-lê-da Ba-la-mật.
Sau rốt, muốn thành tựu đức thiền định, mà chẳng có trí huệ chiếu soi,
thì làm sao đắc Thiền Ba-la-mật? Nhân đó, nhà tu hành có thể mắc vào
cảnh thiền hữu lậu, chớ chẳng vượt lên cảnh thiền vô lậu; có thể lầm
theo tà định mà ngỡ là chánh định; rồi thì chấp trước, ngạo mạn, quay
lộn trong chốn phiền não, luân hồi. Vả lại, nhờ có trí huệ, nhờ sự
nghiên cứu huệ điển, nhờ ưa gần gũi bậc thiện tri thức cao kiến, người
tu thiền mới biết chỗ chứng đắc của mình, mới có thể sửa sang và bổ
khuyết sở tu sở chứng của mình. Vậy trí huệ Ba-la-mật cũng là Thiền
Ba-la-mật.
Đối với người tu cầu trí huệ, có ba phương cách, ba duyên cớ do đó mà
trí huệ phát sanh. Đó gọi là Tam Huệ: 1. Văn huệ, 2. Tư huệ, 3. Tu huệ.
1. Văn huệ là cái trí huệ phát sanh do sự nghe giảng kinh thuyết pháp.
Như ông Xá-lỵ-phất, bậc trí huệ đệ nhất trong các đệ tử xuất gia của
Phật, khi còn tu theo ngoại đạo, một hôm nhân thỉnh pháp với một vị
tỳ-kheo là Át-bệ, nghe Át-bệ truyền cho một bài kệ bốn câu, liền tỉnh
ngộ chỗ yếu lý và bỏ ngoại đạo. Bài tứ cú kệ ấy như sau:
Các pháp do nhân duyên mà sinh.
Các pháp do nhân duyên mà diệt.
Bậc thầy vĩ đại của tôi đây,
Thường giảng dạy các pháp như vậy.
Lại như đức Thích Tôn, sau khi lần lượt mở ra ba phương tiện, ba pháp
môn để độ cho các nhà tu hành thành A-la-hán, thành Duyên giác, thành
Bồ-tát, ngài bèn mở ra pháp môn thứ tư là pháp môn rốt ráo: với sự
thuyết giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ngài truyền bá cái thừa duy nhất,
pháp môn tổng hợp, ngài ban bố cái Phật huệ cho đại chúng. Nghe được trí
huệ của Phật, thấy được trí huệ của Phật, ai nấy đều quyết tinh tấn để
đắc nhập trí huệ của Phật.
2. Tư huệ là trí huệ phát sanh do sự suy xét. Biết bao nhà tu học thâu
hoạch trí huệ nhờ phương thức này. Dầu đi, dầu đứng, dầu nằm, dầu ngồi,
cho đến lúc ăn uống, ngủ nghỉ, người ta vẫn một lòng suy nghĩ. Nhờ vậy
mà mau đắc lý, dứt nghi, giải quyết những vấn đề thắc mắc.
Ví như những người tu trì pháp môn niệm Phật. Bất kỳ giờ phút nào cũng
niệm nơi tâm, cho nên mau đắc niệm Phật Tam-muội. Và một khi được niệm
Phật Tam-muội thì được phước đức và trí huệ vô biên, đắc cái trí huệ
Ba-la-mật.
Lại như các bậc thánh hiền xưa nay, từ đức Phật ta cho đến các vị hiền
triết Đông Tây, thảy đều nhờ ở môn Tư huệ. Lắm khi các ngài đứng xem hoa
nở, ngồi nghe suối reo, đón luồng gió mát, nhìn trăng sáng, mà tâm trí
vẫn để trọn vào vấn đề đang tham cứu. Rồi thình lình sự phát minh, sự
giác ngộ đến với các ngài!
3. Tu huệ là cái trí huệ phát sanh do sự tham thiền nhập định. Đó là
cảnh người ngồi yên lặng mà tham cứu. Như đức Thích Tôn từng tu khổ hạnh
sáu năm trời trên non Tuyết Lãnh. Ngài ngồi trầm tư mặc tưởng ngày này
qua ngày kia, quên ăn uống và chẳng nghe biết mọi sự bên ngoài. Cho đến
khi biết rằng mình sắp được cái trí huệ hoàn toàn, ngài còn phải ngồi
thêm bảy tuần nữa nơi cội Bồ-đề, giữa cơn gió tuyết mùa đông. Mãi đến
sáng ngày mồng tám tháng chạp, sự “Khoát nhiên Đại ngộ” mới đến với
ngài, nhân đó ngài thành Phật, có cái trí huệ hoàn toàn.
Cái trí, cái huệ của Phật, của Bồ-tát và của các nhà thành đạo là món
quý báu vô giá mà các ngài dùng để giúp mình và giúp đời. Có nó, người
ta biết phân biệt việc tà, việc chánh, kẻ ác, người thiện; tà, ác thì
người ta bỏ đi, chánh, thiện thì người ta thâu nhận. Và người ta khai
thị sự phân biệt ấy cho những kẻ khác, tránh sự lầm lạc cho họ.
Có trí huệ, người ta biết từ ngọn cho tới gốc mỗi sự mỗi vật; biết từ
sự, là chỗ phát hiện, cho tới lý, là chỗ tiềm tàng; nhân đó, tự mình dứt
mê, lại còn dứt mê cho đời.
Có trí huệ, người ta hiểu rõ ràng những nguồn gốc, những nhân duyên gây
ra phiền não, đau khổ, trụy lạc: những nguồn gốc ấy, những nhân duyên ấy
nhiều khi dường như mơn trớn mình, dịu ngọt với mình; nhưng cái trí huệ
xét ra chúng nó là bọn nghịch tặc giả làm thân thiện đó thôi. Nhờ vậy,
tự mình hết tối, lại còn chiếu sáng cho đời.
Có trí huệ, người ta thông hiểu tất cả mọi sự mọi vật trong hoàn vũ vô
cùng vô tận, từ quá khứ đến hiện tại và vị lai; người ta biết rõ các môn
học về đời và về đạo. Tức là khi thành Phật, được cái trí huệ hoàn
toàn, người ta liền hiểu biết tất cả. Cho nên đối với bất kỳ một chúng
sanh nào, Phật cũng làm Thầy được cả!
Vì vậy cho nên người ta dùng rất nhiều danh từ để tôn xưng Phật, để tỷ
dụ với cái trí huệ của Phật, hay để xiển dương cái công dụng của trí
huệ. Chẳng hạn như là:
Trí cự hay Huệ cự, tức là ngọn đuốc soi sáng cho chúng sanh đương ở trong nhà tối Tam giới, đương ở trong đêm dài vô minh.
Trí diệu, tức là môn phương tiện mầu nhiệm của Phật, mà người ta nghĩ
không xiết, luận không cùng. Chỉ có Phật mới biết lựa dùng để độ từng
loại chúng sanh mà thôi.
Trí hỏa hay Huệ hỏa tức là cái trí huệ như ngọn lửa, nó đốt rụi tất cả cỏ rác gai gốc là phiền não vô ích và chướng ngại.
Trí huệ đăng hay Huệ đăng, tức là ngọn đèn sáng, các pháp mà Phật
thuyết để khai sáng tâm trí cho các hạng chúng sanh, các bậc tu hành.
Ngọn đèn ấy, cũng tức là pháp giáo chứa trong các kinh điển đạo Phật.
Trí hải, Trí huệ hải hay Huệ hải, tức là cái trí huệ của Như lai sâu
và rộng như biển cả, không một chúng sanh nào có sức đo lường, thấu hiểu
nổi!
Trí huệ kiếm hay Huệ kiếm, tức là cây gươm bén cắt đứt các dây phiền
não trói buộc mình trong chốn luân hồi, lại dùng để cắt đứt các mối
phiền não của chúng sanh.
Trí kính hay Huệ kính, tức là cái kiếng, tấm gương. Khi người ta nhìn
vào gương trí huệ thì thấy rõ pháp tà hoặc pháp chánh, người thiện hoặc
kẻ ác, thấy từ nhân cho tới quả; tỷ như người đứng trước tấm gương thì
thấy mình sạch hoặc dơ và thấy từ sau lưng cho tới trước mặt.
Trí nguyệt, mặt trăng trí huệ, Huệ nhật, mặt trời trí huệ là tiếng
xưng Phật, đức trí huệ của Phật tỷ như ánh sáng của mặt trời và mặt
trăng, chiếu sáng cho tất cả chúng sanh, không phân biệt, không tư vị.
Lúc nào ánh sáng của Như Lai cũng tỏa khắp vũ trụ, soi tỏ, dắt dẫn các
chúng sanh, chẳng đợi tới lúc Phật ra đời!
Trí huệ thủy, Huệ thủy hay Trí thủy tức là cái trí huệ của Phật và
Bồ-tát dùng để rửa sạch phiền não, tẩy hết trần cấu cho chúng sanh; tỷ
như người ta lấy nước mà giặt rửa những đồ vật dơ bẩn vậy.
Trí huệ và Phật, hai danh từ ấy là đồng nghĩa. Cho nên khi đức Thích Tôn
đắc cái trí huệ hoàn toàn, biết hết tất cả, thành Phật, thì người ta
tôn xưng ngài là bậc: Vô thượng huệ, Nhất thiết chủng trí, Đại trí,
Lợi trí, Thâm trí, Giải thoát trí, Bất cọng trí, Quảng phổ trí, Tất
cánh trí, Trí Bảo thành tựu.
Tức là khi thành tựu cái Bát-nhã Ba-la-mật, người tu có được trí huệ gồm
đủ những đức: cao thượng chẳng ai bằng, hiểu biết tất cả, lẹ làng, to
lớn, bén nhọn, sâu thẳm, giải thoát tự tại, chẳng đồng với trí thức của
các hạng tu học trong ba thừa, cái trí thức bao quát và phổ cập tất cả,
đến mức rốt ráo, hoàn toàn như hạt Bảo châu Như ý.
Mà muốn thành tựu cái trí huệ toàn vẹn như vậy, chẳng phải là công tu
học trong một vài đời. Phải trải qua vô số đời làm thực hành hạnh
Bồ-tát, tu trì sáu Ba-la-mật.
Kìa gương đức Thích ca Như Lai. Đã biết bao đời, ngài bố thí thân mạng
và pháp lý, đã biết bao đời, ngài trì tịnh giới mà nêu gương lành nơi
chốn tu hành! Đã biết bao đời, ngài nhẫn nhục, chịu các sự thóa mạ, kiêu
căng, đánh đập, hành hạ! Đã biết bao đời, ngài tinh tấn vì chúng sanh,
chẳng hề biết mệt mỏi, chán nản! Đã biết bao đời, ngài thiền định nơi
chốn rừng sâu! Và đã biết bao đời, ngài tu tập, học hỏi trí huệ; chẳng
quản thân mạng, tự mình hy sinh để đạt được trí huệ! Sau rốt ngài mới
thâu được cái trí huệ hoàn toàn, trí huệ của Phật Như Lai.
Còn như đức Quán Thế Âm, ngài đang ở vào địa vị đại Bồ-tát. Ngài đang từ
bi, đem sáu đức Ba-la-mật mà độ chúng sanh. Khi thì ngài giáng trần mà
bố thí, cứu dân. Khi thì ngài hóa ra nhà tu hành trì giới. Khi thì ngài
nêu gương nhẫn nhục giữa chúng sanh. Khi thì ngài tinh tấn mà bước lên
nẻo tịnh. Khi thì ngài vào nhập định chốn sơn lâm. Lắm khi, ngài dùng
phương tiện, trí huệ mà độ đời. Ngài có đủ phước đức và trí huệ của Phật
Như Lai, nhưng ngài vẫn ở địa vị Bồ-tát. Điều nổi bật của ngài là nương
theo lòng đại bi, thị hiện ra mọi cách cứu nạn cứu khổ cho chúng sanh.
Lại có một đức Bồ-tát có trí huệ bậc nhất, mà các nhà tu học Đại thừa
đều biết tên. Ấy là ngài Văn-thù-sư-lỵ mà Phật từng khen là đại trí Văn-
thù. Ngài đắc cái trí huệ của Phật Như Lai đã vô lượng, vô số kiếp rồi,
ngài từng giáo hóa cho rất nhiều vị Bồ-tát thành Phật rồi. Ngài từng
làm thầy của nhiều đức Phật quá khứ, hiện tại và vị lai. Như đức Nhiên
Đăng, một đức Phật quá khứ đã thọ ký quả Phật cho đức Thích Tôn, đức
Nhiên Đăng thuở xưa là đệ tử của ngài Văn-thù. Và đức Di Lặc, Phật Đương
Lai, trước kia là một vị đệ tử trong số tám trăm đệ tử theo học ở ngài
Diệu Quang, tiền thân của Văn-thù Bồ-tát. Và hiện trong thời Phật, ngài
Văn-thù có độ cho vô số chúng sanh đắc quả vị Bồ-tát. Trong số Bồ-tát đệ
tử của ngài, có một cô gái tám tuổi, con của Long Vương Ta-kiệt-la, căn
lành đầy đủ, trí huệ hoàn toàn. Long nữ dùng sức thần thông mà bỏ thân
gái của mình, hóa hiện thân trai, kế thành Phật, đi làm giáo chủ ở cõi
Vô cấu thế giới. Từ xưa đến nay, trải qua vô lượng kiếp, ngài Văn-thù
Bồ-tát đã dùng trí huệ Ba-la-mật mà độ cho vô số người thành Bồ-tát và
thành Phật rồi. Thế mà vì nguyện lực, ngài vẫn còn ở địa vị Bồ-tát, Pháp
vương tử.
Chúng ta đây, tuy chúng ta chưa được cái trí huệ của bậc Phật và bậc
Bồ-tát, chớ chúng ta cũng có trí huệ rồi, trí huệ theo từng bậc của
chúng ta. Vậy thì ta khá trì sáu cái đức hạnh Ba-la-mật-đa, để có thêm
công đức và trí huệ. Như vậy, đời này hoặc các đời sau, ta sẽ được phúc
hậu, an nhàn, ta sẽ đạt những điều sở nguyện, ý định của ta sẽ thành tựu
rỡ ràng, và ta khỏi bị các điều chướng ngại phiền não cản ngăn. Lại
nữa, tâm ý của ta sẽ sáng suốt thêm lần lần, ta sẽ tránh khỏi những điều
lầm lạc đáng tiếc, khỏi sa mê vào những chỗ lụy trược, đớn đau. Nhờ
vậy, ta dễ mà học hỏi cao xa thêm, hiểu biết nhiều thêm, cái trí hóa ta
ngày một phát triển hơn. Cho đến khi nó sáng suốt hoàn toàn, bấy giờ mới
có đủ đầy trí huệ của bậc thông suốt tất cả.