B. Tiểu thuyết tôn giáo
KIẾP ĐOẠN TRƯỜNG
Sương sa mù mịt, gió thổi hắt hiu, vùng trời phẳng lặng. Ngồi trông
ra, thấy cảnh êm đềm, khó giải lấp cơn buồn. Tôi bèn mặc áo, trùm đầu,
mang hia, xách gậy, bước ra ngoài đi dạo cho qua cái thì giờ lạnh lẽo
lúc tàn canh. Cảnh lặng như tờ. Trông lên những cụm sương đang bao phủ
mấy đỉnh núi, dường như một bức tranh vẽ mà họa sĩ đã bôi xóa bằng cọ.
Trong khi một mình thơ thẩn, tôi bỗng nghe tiếng gì nho nhỏ gần đó. Lắng
rõ ra là tiếng đàn bà. Thật vậy, nếu như nhằm lúc cảnh trong trời sáng,
tôi nào có để tâm đến. Nhưng đang cơn gió lạnh cảnh buồn, giọt sương
trắng xóa mênh mông, tiếng ấy lọt vào tai tựa hồ như tiếng rền rĩ khóc
than của một bầu trời đau khổ. Tôi lần đến, thấy dạng một cô gái đang
ngồi trên một hòn đá bên đường. Tóc dã dượi phất phơ trên gương mặt rầu
rầu vì bị nắng táp mưa sa cho nên ra màu sạm nắng. Và cái tiếng từ từ
trong tâm trí điên khổ của cô mà lộ ra ngoài đầu môi thê thảm, làm cho
hiểu rằng cô đã quá để lòng mong mỏi, và nay đã thất vọng rồi. Nên cô
muốn thở than trong lúc thanh tĩnh êm đềm, trước cảnh thiên nhiên, hầu
cho nguôi được tấc dạ não nề của kẻ khổ tâm.
Tôi bèn hỏi thăm rằng: “Cô là ai? Vì sao lại tủi phận một mình trên
khoảng đường vắng tanh, trong lúc mọi người hãy còn an giấc nơi nệm ấm
chăn êm?...”
Cô ngước cặp mắt dã dượi lên nhìn tôi rồi ngó xuống, không trả lời. Tôi
thấy vậy, lại hỏi luôn rằng: “Chẳng hay cô thấy tôi đến thình lình mà
nghi ngờ, sợ sệt chăng?”
Cô nghe tôi nói, thốt rằng: “Thưa ông! Đã lâu lắm rồi, tôi không còn
biết sợ là gì. Tôi cũng không còn biết nghi ngờ, e lệ chi nữa. Thưa ông!
Tôi nhắc đến thì tôi lại chạnh nhớ cái tiểu sử lúc xuân xanh của tôi nó
đau đớn vô cùng. Cái khổ là cái chi chi mà mọi người đều mang lấy? Đã
sanh ra làm phận đào thơ liễu yếu. Sao lại còn gặp những bước đường trắc
trở, những buổi phải lăn lóc trong cuộc đoạn trường? Ôi! Nào xưa kia
đầm ấm, vui vầy nơi chốn tường cao cổng kín, mà ngày nay lại một mình
thui thủi, chẳng khác hoa trôi bèo dạt?...”
Tôi bèn hỏi rằng:
“Cô có cần dùng điều chi mà tôi giúp được, tôi sẵn lòng ngay, xin cô đừng ngại.”
Cô nghe nói, chăm chăm nhìn tôi, lộ ra cái sắc đẹp, cái cảm tình đằm thắm vô cùng. Cô ra vẻ niềm nở đáp rằng:
“Thưa không! Tôi cám ơn ông, tôi chỉ than phiền mà thôi. Vì tôi đây là
công chúa con ông hoàng Sô-lam ở xứ Ba-tra-ông thuộc cõi Ấn Độ...”
Trời ơi! Cô ấy là con của một ông hoàng. Thế mà thân cô phải lưu lạc như
kẻ khốn cùng, lang thang lướt thướt, nay đầu đường, mai góc chợ như vậy
sao?
Tôi bèn vòng tay xá, mà rằng: “Tôi cam lỗi muôn phần, xin nhờ lượng trên tha thứ!”
Công Chúa lấy làm đẹp dạ, đưa tay ra ngoắt bảo tôi ngồi trên tảng đá một
bên cô: “Thưa ông! Xin ông nghỉ chân nơi đây mà đàm đạo với tôi. Ông đã
đoái đến tôi thì tôi lấy làm hân hạnh mà tỏ bày tâm sự cùng ông...”
Tôi trông cô có vẻ trang nghiêm, tưởng mình không xứng ngồi một bên,
trên cái tảng đá ướt át rong rêu kia, khi nãy thật tôi không muốn để ý,
bây giờ coi nó quí hóa như ngai vàng của một vị thiên tử. Tôi hãy còn do
dự mà chưa dám ngồi. Tôi chậm rãi hỏi rằng:
“Dám thưa công nương! Ai làm cho công nương lại nên nông nỗi này! Tôi
thật buồn vì thấy công nương chẳng được an nghỉ nơi màn loan trướng
phụng, lại phải chịu đói rét giữa màn trời chiếu đất như thế này.”
Hoa Lang – tên Công chúa – để tay lên trán, ra tuồng suy nghĩ. Đoạn cô nhỏ nhẹ đáp rằng:
“Ông ơi! Ai làm cho thân tôi phải ra nông nỗi này, tôi khó mà đáp cho
xuôi câu ấy. Ông hỏi thế tuồng như ông muốn bảo tôi chỉ rằng ai làm cho
sa mù bao khuất cái núi trước ta đây vậy! Những điều tai họa của tôi,
tôi xin thú rằng tôi không hiểu nguyên nhân tại đâu mà ra!”
Tôi vừa nghe qua, muốn phân giải một đôi câu, nhưng nghĩ chẳng nhằm lúc
lấy triết lý ra mà luận biện, nên đành nói xuôi cho hợp ý cô.
“Công nương phân như thế là phải lắm. Việc họa phước thật quá mênh mông.
Ta là người đời thấp thỏi, yếu hèn, trông gì dò cho cùng cho tận những
lối cao xa, bí thiết.”
Hoa Lang mỉm cười mà rằng:
“Quyển tiểu thuyết về cái kiếp đoạn trường của tôi ngày nay nó vừa mới
dứt. Như ông muốn nghe, tôi sẵn lòng lược thuật, may ra cũng giải bớt
nỗi sầu.”
Tôi vội vã thưa rằng:
“Tôi được nghe lời công nương, tưởng không có chi hữu hạnh bằng. Xin công nương thuật đi, tôi xin ngồi mà hầu...”
Hoa Lang suy nghĩ giây lát, đoạn cô thuật cái lịch sử của cô, giọng
thanh như ngọn gió êm lơ thơ lẩn thẩn trên một cánh đồng lúc lúa chín
phất phơ những lượn sóng vàng.
“Tôi là dòng nhà vua ở thành Đề-ly, đã đúng tuần cập kê mà chưa người
đem dâng lễ sính. Muốn có một ông chồng danh cao giá trọng như mình,
chẳng phải là một chuyện dễ dàng. Có ông hoàng xứ Lữ-nu muốn xin ra
mắt, và ngấm nghé vào. Phụ vương tôi hãy còn dụ dự thì gặp lúc giặc loạn
nổi lung tung, làm cho dân Ấn Độ thảy đều lầm than...”.
Tôi vừa nghe, vừa ngó cô Hoa Lang. Tiếng cô thật êm ái, làm cho tôi
trông cô mà tâm trí dường như phảng phất ra xa, nào là nhớ đến nỗi nọ
niềm kia, nào là tưởng tượng những đền đài bên Mông Cổ cao mấy mươi
từng, những ngựa giỏi đang nhảy nhót giữa chiến trường một cách oai
nghiêm lẫm liệt, những viên quan văn võ đang tung hô dưới bệ vàng, những
áo bằng gấm nhiễu phất phơ lòe loẹt nơi đô hội thị thành, tuồng như
tranh nhau mà phơi những màu đẹp, trắng, hướng dưới gương trong mắt sáng
của muôn người.
Hoa Lang tiếp chuyện rằng:
“Thành của chúng tôi ở gần mé sông Châu-mục-nã giao cho một tướng
Bà-la-môn tên Kiều-hoa-liên canh giữ đặng ngăn ngừa những cơn bối rối
lúc ban đêm...”.
Cô Hoa Lang nhắc đến tên Kiều-hoa-liên thì gương mặt lộ vẻ ưu sầu. Cô
phải ngưng giây phút đặng gượng làm tỉnh táo. Tôi chăm chỉ ngó cô, sút
tay làm cho cây gậy rớt nằm trên đất.
“Chàng Kiều-hoa-liên ơi! Chàng Kiều-hoa-liên ơi! Người bên phái
Bà-la-môn! Chàng giữ đạo một cách sốt sắng, hẳn hòi. Trời vừa rạng đông,
tôi ra trông nơi cửa sổ đã thấy chàng dưới bãi sông Châu-mục-nã mà tư
tưởng, mình cởi trần dưới trời lạnh lẽo, còn mắt thì ngó sững vầng thái
dương sắp từ từ lộ ra, đặng tỏa thêm cái sáng cho những người có tín
ngưỡng cao xa, thành thật. Chàng thường hay ngồi trên một tảng đá dưới
mé sông. Quần áo thấm ướt đẫm mà nào chàng có nghĩ đến, cứ lầm thầm khấn
vái và niệm kinh cho đến khi trở gót quay về. Bấy giờ chàng lại ngâm
một vài bài kệ ca tụng đạo chàng.
“Còn tôi là người theo đạo Hồi, nhưng tôi chưa có dịp nghiên cứu, tôi
cũng không biết niệm kinh và cầu khẩn chi cả. Hồi ấy, người có tín
ngưỡng đạo Hồi phần đông toàn là những kẻ lêu lỏng chơi bời, nay trà
đình, mai tửu điếm. Đền thờ lập ra cho lấy có. Họ mải miết vui say với
hầu non gái đẹp, không còn biết tôn giáo là chi nữa. Nhưng dù vậy, tôi
hằng vọng tưởng đến những sự hiển hiện linh thiêng. Nhất là khi tôi
trông thấy chàng Kiều-hoa-liên chào mặt trời sắp mọc, và bắt từ trên mà
lần xuống đến dòng sông Châu-mục-nã, thì dường như cả lòng dạ tôi đều
thơ thái, nở nang mà ôm ấp sự tín ngưỡng vào.
“Tôi có một con hầu. Mỗi khi gà gáy tàn canh, nó đi ra mé sông
Châu-mục-nã, theo chàng Kiều-hoa-liên mà hứng lấy bụi cát dấy lên trong
khi chàng dời gót. Tôi trông ra thấy cảnh tượng ấy thì lấy làm vui vẻ.
Nhưng vừa vui lại vừa thấy một cái buồn nó nảy ra, buồn vì chẳng được
như con hầu ấy mà gần chàng một vài chút thì giờ, dẫu cho ngắn ngủi đi
nữa, tôi cũng đẹp lòng.
“Mỗi khi đến ngày lễ, con hầu cúng dường cho mấy thầy Bà-la-môn một cách
trọng hậu. Tôi thường cho nó tiền đặng cung cấp mấy sư Bà-la-môn. Và
một hôm, tôi bảo nó đi thỉnh Kiều-hoa-liên mà dự yến tiệc của nó bày. Nó
nhìn tôi ra vẻ không bằng lòng và đáp rằng: “Thưa công nương, chàng
Kiều-hoa-liên chẳng hề thọ lãnh vật gì của ai hết”.
“Tôi thấy không thể tỏ lòng mộ đạo của tôi cùng chàng, tôi đã không phép
giáp mặt với chàng, mà cũng không phép nhắn nhủ với con hầu, cho nên
buộc phải lặng thinh mà chịu. Tôi nhớ lại ông tôi có kết duyên với một
người đàn bà bên phái Bà-la-môn. Nên tôi lấy làm hân hạnh mà nghĩ rằng
tôi cũng chung máu mủ với dòng Bà-la-môn. Tôi thường cho rằng
Kiều-hoa-liên và tôi không xa lạ chi mấy. Từ đây tôi ham mộ nghe con đòi
thuật lại những chuyện cổ tích và truyền kỳ về thánh thần một cách rõ
rệt, êm đềm của phái Bà-la-môn. Tôi càng nghe thì càng thích, càng thích
lại càng ham mến cái nền văn minh của người Bà-la-môn. Nào là tượng
thần tiên, nào là tiếng chuông mõ trong chùa, nào là nhang đèn nghi
ngút, nào là mùi hoa pha với mùi trầm bay lên ngào ngạt, nào là cách
nhân từ trong sạch của những thầy tu, nào là những bức ảnh vẽ hình những
vị thần tiên giáng thế, cả thảy đều chất chứa trong trí tưởng của tôi,
làm cho tôi nghĩ ra một cái thế giới viễn vọng, mênh mông, đầy tinh thần
văn minh của Ấn Độ tức là của đạo Bà-la-môn.
“Tâm trí tôi nghĩ ra như thế, tựa hồ như tôi là một con chim đương bay
vẩn vơ phòng này qua phòng kia, trong một cái đền cổ to tát, tối tăm.
“Lúc bấy giờ, giặc loạn dấy lên dữ dội. Tôi và con hầu ở trong thành
Ba-tra-ông, thật ưu sầu. Phái Bà-la-môn đối nghịch với đạo Hồi. Hai bên
quyết tranh nhau đặng làm chúa cả nước Ấn Độ. Phụ vương tôi tức là ông
hoàng Sô-lam, là một người khôn ngoan bặt thiệp, đã từng xung đột chống
quân Anh. Ông lại tự nghĩ rằng: ‘Giống da trắng này, họ làm được nhiều
việc lạ thường. Có lẽ ở Ấn Độ, không một dân tộc nào đối địch lại họ.
Vậy thì ta không nên làm liều mà mất thành Ba-tra-ông. Ta quyết không
giao chiến với quân Anh đâu.’ Cha tôi tính như thế, chúng tôi đều không
vui. Vì trong thành, từ những bậc trai tráng, cho chí những kẻ da mồi
tóc bạc đều xao động không một ai muốn dàn hòa với quân Anh.
“Kiều-hoa-liên vẫn là người theo đạo Bà-la-môn, thế là người nghịch với
cha tôi, mà giữ cả binh quyền trong thành. Một hôm chàng đến trước cha
tôi, khẳng khái nói rằng: ‘Ông Sô-lam! Nếu ông không quy hàng theo chúng
tôi, tôi định sẽ chiếm thành này mà ngăn chống với quân nghịch và không
dung ông đâu.’
“Cha tôi nghe vậy không để lòng lo, vì ông sắp giao hòa và tác hợp với
quân Anh, đặng đánh bọn Bà-la-môn. Nên khi Kiều-hoa-liên xin phát lương
tiền cho quân lính thì cha tôi cũng chuẩn cho, nhưng trao ra một số nhỏ
nhặt lắm. Tôi thấy tình trạng của quân lính thì động lòng. Tôi bèn cởi
đồ nữ trang của tôi từ chân chí cổ mà giao cho con hầu, bảo nó đưa qua
cho chàng Kiều-hoa-liên. Khi hay rằng chàng đã lãnh lấy thì chân tay đầu
cổ tôi không còn một hột ngọc, một chút vàng, nhưng mà nhẹ nhàng khoan
khoái hơn xưa nhiều. Chàng Kiều-hoa-liên cũng sắp ra tay, bèn chùi súng
cũ, tuốt gươm xưa đặng có xông vào trường huyết chiến.
“Một buổi chiều, thình lình có một viên Thống chế vào thành Ba-tra-ông
với một đội binh Châu Âu sắc phục đỏ hồng chói rỡ. Mới hay rằng cha tôi
mật thơ cho quan Thống chế bảo trừ Kiều-hoa-liên, vì chàng muốn dấy lên
mà hạ thủ mình. Tựa hồ như tim phổi tôi đã rã ra từ miếng, tôi đã mang
nhục lắm rồi, tôi đã khổ lắm rồi, cho đến đỗi tôi không có một giọt lụy
lưng tròng.
“Tôi liền lấy y phục của anh tôi, mặc vào mà giả trai, đoạn lén bước ra
khỏi thành. Khi nãy đây quân reo inh ỏi, trống đánh tưng bừng, khói bay
mịt trời, súng vang dậy đất. Bây giờ vùng trời trở nên phẳng lặng, tựa
hồ như cái chết bay phớt trên vũ trụ, trông ra ghê gơm bắt rùng mình.
Bóng tà dương chói đỏ trên sông Châu-mục-nã tuồng như kẻ lâm chung nằm
trên vũng máu. Bên trời, vừng trăng bạc lộ ra, tỏa cái sáng trong của nó
trên khoảng đồng rộng mà mới rồi đây trận chiến kịch liệt đã xảy ra.
Bây giờ đây, những kẻ nằm chồng chất với kẻ hấp hối đang mơ màng về nỗi
vợ tình con, chạnh bấy cho những kẻ dựa cột bên màn! Tôi trải qua những
khúc đường thảm thiết đau thương như vậy là can đảm lắm rồi. Nghĩ cho
thân gái một mình trong đêm vắng, thấy muôn vạn kẻ tử trận bên mình,
thấy cái chết bay bên tai trước mắt, mà chẳng chút rụt rè, e sợ, thì lạ
lắm nào! Tôi thật không còn biết sợ là gì, như đã thành ra một kẻ mất
hồn. Ngoài ra cái hy vọng tìm cho được chàng Kiều-hoa-liên, tôi chẳng
biết ước ao điều chi khác nữa. Mãi đến gần nửa đêm, tôi mới được gặp
Kiều-hoa-liên. Mà gặp chàng nơi đâu?
“Chính tôi gặp chàng nằm mê man bất tỉnh dưới cội một cây xoài, gần sông
Châu-mục-nã. Ôi! Cái tình thương tưởng của tôi đã lâu rồi, nảy ra bao
nhiêu thì lại dằn giấu bấy nhiêu mà để qua một bên lòng, nay nó bùng vỡ
cả ra. Tôi không thể chứa chất nó hoài trong lòng. Tôi không thể làm chủ
nó nữa. Cho nên nó bắt tôi phải nhào lăn trên chân Kiều-hoa-liên, giũ
cả tóc tôi ra mà chùi bụi trên chân chàng, và ôm lấy chân chàng mà hôn.
Lúc bấy giờ, giọt lụy tôi cố không cho tràn mà cũng tràn ra và nhỏ xuống
chân chàng. Kiều-hoa-liên bèn cựa mình. Một tiếng than nho nhỏ thoảng
qua đôi môi tái ngắt của chàng. Cặp mắt còn nhắm khít, chàng mở miệng
muốn xin một hớp nước mà uống. Tôi liền đứng dậy, lần xuống sông
Châu-mục-nã, lấy một vạt áo nhúng dưới nước và trở lên để trên môi
chàng. Kế tôi xé một chéo áo mà đắp lên mắt bên tả của chàng, vì nơi ấy
bị một lưỡi gươm đâm. Đoạn thấy nơi đầu chàng bị một vết sâu, tôi bèn
đắp lại kỹ và rưới nước trên mặt chàng. Lần lần, chàng tỉnh lại. Tôi hỏi
chàng có muốn điều chi nữa chăng, chàng nhìn tôi và hỏi tôi là ai.
Không dè dặt, tôi đáp rằng: “Thưa chàng! Em là con của ông hoàng
Sô-lam!”
Tôi trả lời như thế là mong rằng chàng đoái đến chút tình, chớ có dè đâu
vừa nghe qua thì chàng vùng la lên rằng: ‘Trời ơi! Mi tệ lắm nào, mi ác
lắm nào! Ta đã đến giờ lâm chung mà mi lại đành làm cho ô uế, nhơ nhớp
cả một đời của ta nữa.’ Chàng nói thế rồi đánh vào gò má bên tả của tôi
một cái rất mạnh làm cho tôi tối tăm mặt mày.
“Ông ơi! Lúc ấy tuổi tôi vừa mới hai tám, và là lần thứ nhất mà tôi ra
khỏi hoàng thành. Chân chưa hề dời xa một khoảng đường không xe, không
kiệu. Mắt chưa hề trông thấy những thảm trạng trên đường trường. Tôi lại
đành bỏ cha xa mẹ, dứt đi một mình một bóng, chẳng quản muôn dặm nhọc
nhằn; mà chừng gặp rồi lại được tiếp rước như vậy. Thế thì Trời xét
thương cái lòng từ thiện, khoan hồng của tôi như vậy đó!”
Tôi mải nghe cô Hoa Lang thuật cái tiểu sử của cô, tuồng như tôi đương
mơ màng trong giấc mộng. Cho đến đỗi điếu thuốc trên tay tôi cháy tàn mà
tôi hãy còn chưa hay. Vì sao tôi lại mộ nghe đến thế? Hoặc là giọng nói
thanh như tiếng đàn? Hoặc vì cái tiểu sử khổ não kia nó làm cho tâm trí
tôi lấy làm thích thú? Thật khó mà đoán cho ra vậy. Lúc ấy, tôi chỉ
ngồi lặng thinh mà nghe. Khi cô thuật đến đây, tôi ngất cả người và thốt
lên lời trách chàng Kiều-hoa-liên rằng: “Khốn nạn lắm thay! Lòng người
đâu mà bạc tình đến thế?”
Cô Hoa Lang bèn chậm rãi trách tôi một cách nhỏ nhẹ rằng: “Ông quá lời đó.”
Tôi vội trở lời mà rằng: “Ấy cũng là cao thượng lắm vậy”. Nhưng cô liền
bỏ đi mà rằng: “Ông cho thế là cao thượng sao? Nếu quả là cao thượng,
thì đâu có từ những điều trân trọng mà lòng nhân này xin hiến cho
chàng?”
Nghe vậy rồi, không thể chê mà cũng khó nỗi khen, tôi đành làm thinh để nghe cô tiếp chuyện.
“Ông ơi! Ban đầu tôi thất vọng lắm, tâm trí tôi rối loạn, khổ nhục lắm.
Tôi thầm trách rằng: ‘Chàng ơi! Bạc tình chi lắm vậy! Người có của muốn
trao ra mà chàng điềm nhiên chẳng tưởng. Một cô gái có tánh đức, cốt
cách đoan trang để lòng mong mỏi mà chàng chẳng chút đoái hoài! Chàng tự
cao chăng? Chàng coi người đời như tro bụi chăng, nên mới đành không
nghĩ chút thân này?’
“Khi Kiều-hoa-liên ngó qua thấy ai là người cửa các phòng khuê mà nay
một mình lúc canh khuya đêm vắng lại quì lạy bên chàng, có lẽ chàng cảm
xúc chăng? Nhưng nét mặt chàng vẫn tự nhiên, không lộ vẻ cảm động cùng
ngạc nhiên chi cả. Chàng nhìn tôi giây lát, kế nhẹ lần ngồi dậy. Tôi đưa
tay ra hầu nâng đỡ chàng. Nhưng chàng vẹt ra và rán lần xuống mé sông
một cách thiết tha, đau đớn. Nơi ấy có một con thuyền trống, không bạn
bè. Chàng bước qua thuyền, ngồi vào trong mà cho trôi theo dòng nước!
Ôi! Lúc ấy tôi thẹn biết dường nào! Nghĩ mình như một đóa hoa đương xuân
lại lìa cành, đem giao cả cái khối tình, cả cái tuổi thanh xuân, cả
những điều ao ước vào Kiều-hoa-liên. Chàng lại đành bước xuống thuyền mà
tách theo dòng nước biếc. Năm ba phen, tôi định nhảy xuống sông trầm
mình cho rồi. Nhưng có một cái mãnh lực khác thường nó ngăn không cho
tôi trầm châu đắm ngọc. Vầng trăng lộ trước chân trời, lằn đen sậm của
những cây bên sông Châu-mục-nã, những dinh trại thăm thẳm ở xa, gần một
đôi cụm xoài, tất cả tưởng như hiệp nhau mà lộ vẻ ưu sầu, làm cho cái
bãi chiến trường trông ra càng thêm ghê gớm. Tôi mải ngó theo con thuyền
đương rong ruổi theo những bờ bến lờ mờ, thì có một mối hy vọng mơ hồ
nó từ từ nảy ra, khiến cho tôi không nỡ lìa đời, không đành dứt đi trong
cảnh tịch mịch dưới bóng trăng thanh.
“Tôi bèn chậm bước lần theo mé sông, trải qua những cỏ lau rậm rạp,
những lối bùn lầy, khi lội ngang ao vũng, lúc lại trèo trên những bờ gay
go, trắc trở.”
Hoa Lang thốt đến đây lại ngừng. Tôi cũng lặng thinh, không muốn làm rộn
trí cô. Cô nín một chút, rồi tiếp rằng: “Những bước đường, những việc
xảy ra từ trước tới sau, tôi khó thuật lại cho rõ rệt, gọn gàng, vì là
những lối não nề cho tôi lắm vậy.
“Ông ơi! Khi cặp mắt tôi trông hết thấy con thuyền của Kiều-hoa-liên,
tôi bước chân ra đi, nhưng tựa hồ đi trên một cái đồng vắng mênh mông,
không biết đâu là đâu cả. Những khúc đoạn trường của tôi nay chất chứa
dẫy đầy trong trí tôi, nên tôi không biết nói đến đâu là cùng và chưa rõ
phải thuật sao cho ông nhận là thật.
“Trong mấy năm nay, đã từng lăn lóc nơi biển khổ, tôi biết rằng trên
đời, không có cái gì là khó và không có cái gì là không làm được. Họ
tưởng rằng một nàng công chúa ra khỏi hoàng thành thì không khi nào chịu
lận đận lao đao được lâu dài... Ấy họ lầm. Sở dĩ ta xen vào một đám
đông rồi ta muốn ra, tức nhiên ta ra được; dầu khó dầu dễ, không mau thì
lâu, ta cũng tìm được đường ra. Đường đời có khác nào đường ở đám đông.
Tuy nó không phải đường của một vị công nương, một cô kín cổng cao
tường, nhưng dầu thế nào nó cũng là một con đường dắt người đến nhiều
nẻo khác nhau, hoặc cao hơn hoặc thấp, đường quanh co thăm thẳm, có lắm
điều vui mà cũng có lắm điều buồn, có lắm bước dễ dàng mà cũng có lắm
bước gian truân. Dầu thế nào, nó cũng là một con đường.
“Cái lịch sử lưu lạc của tôi trên con đường mà mọi người đều để bước,
cái bộ phiêu lưu tiểu thuyết của tôi thật là không vui. Và có lẽ nếu
thuật với ông thì tôi thuật hết không được. Nói tóm một lời, tôi trải
qua biết bao cơn khổ lúc nguy, nhưng Hóa công hãy còn vùi dập mãi chưa
thôi. Thân tôi tuồng như ngọn lửa, càng cháy thì càng cao, tôi gặp càng
nhiều cảnh ngộ gian nan, tôi lại càng vượt lên khỏi đám người trên đường
đời vậy. Hễ tôi biết được thanh cao, thì dầu có cái khổ sâu xa bao
nhiêu, tôi cũng không để ý. Nhưng vừa khi tôi được hiểu rằng ngọn lửa
khốn cùng nó đưa lên ngọn lửa hân hạnh nhất, cả hai đều nguội lạnh hết,
tôi đã kiệt sức rồi. Ngày nay, tôi không còn tự vùi dập, không còn bay
nhảy trong chốn bụi trần. Và cái lịch sử tôi cũng dứt đi nhằm lúc
này...”
Hoa Lang thuật đến đây rồi nín lặng.
Nhưng tôi lắc đầu mà cho rằng chưa thật dứt, tôi nhỏ nhẹ rằng:
“Thưa công nương! Tôi cam lỗi xin công nương thuật thêm cho rõ đoạn cuối
cùng, ấy là công nương trao gởi cho tôi một cái ách nặng, ấy là cô muốn
cho tôi chia sầu sớt thảm với cô vậy.”
“Từ khi Kiều-hoa-liên đi rồi, tôi cứ lần theo tìm chàng mãi. Một đôi khi
dọ được tin chàng, nhưng chưa hề giáp mặt. Chàng rày đây mai đó, thoáng
qua như ngọn gió vầng mây, khi đến Đông, lúc qua Tây, rồi lại ra đi chớ
không nhất định ở nơi nào. Tôi mặc đồ ni cô Bà-la-môn, và qua thành
Bình-an-kinh, vào một cảnh chùa kia mong được tin chàng. Vì tin tức
trong cõi Ấn Độ đều dồn về nơi đó cả. Tôi lấy làm lo lắng, buồn rầu mà
nghe thuật những chiến trận xảy ra. Ban đầu còn được một đôi khi thấu
tin, lần lần không còn nghe biết chi nữa. Những vị anh hùng kia với
Kiều-hoa-liên mà tên tuổi lừng lẫy khắp nơi, bây giờ đều lu mờ tiêu tán
trong đám lửa khói một cách tối tăm, mờ mịt. Đoạn tôi từ giã ông sư
trong chùa mà đi tìm chàng. Tôi sang nhà này rồi đến nhà kia, hết xứ này
rồi qua xứ khác, nhưng chưa gặp chàng. Một vài người biết chàng, số ấy
ít lắm, đều nhận rằng chàng đã bỏ mạng nơi chiến trường, hoặc là bị quân
nghịch xử tử lúc tàn binh. Nhưng, bên lòng tôi lại có một tiếng nhỏ nó
từ từ phía trong mà lên, bảo tôi rằng Kiều-hoa-liên hãy còn sống. Chàng
Bà-la-môn ấy, cái lòng trong sạch ấy, cây hương thơm tho ấy nó chưa thật
dứt đâu, nó còn chờ người trinh bạch đến dâng cả tâm hồn đặng khêu cho
nó thêm sáng ra!
“Ngẫm ra, có lắm kẻ cơ hàn nhờ gia công cầu nguyện nên theo được đạo
Bà-la-môn, chớ chưa từng thấy người theo Hồi giáo mà muốn qua đạo
Bà-la-môn. Tôi tưởng còn chờ lâu mới mong hiệp mặt với chàng; và trước
tôi phải theo đạo Bà-la-môn. Ôi thôi! Tính ra đã trên ba mươi năm rồi.
Ngày nay, về tinh thần, về tánh nết, tôi đã hóa hẳn ra là một cô sư
Bà-la-môn rồi. Cái giọt máu Bà-la-môn kia, khi xưa bà tôi truyền lại,
bây giờ nó chảy khắp trong thân tôi và làm cho thư thái cả chân tay tôi.
Tôi thường cho rằng nếu gặp được Kiều-hoa-liên thì tôi không chút ngại
ngùng, vội lăn bên chân của người yêu nhất trong buổi xuân xanh mà trao
vừa tâm hồn vừa hình vóc. Tôi tưởng đến thế nên hăng hái lắm! Tôi thích
nghe thuật những công lao của Kiều-hoa-liên chốn sa trường, nhưng tôi
không cảm xúc, không động tình nhiều. Tôi chỉ nhớ trong trí rất rõ ràng,
chàng Kiều-hoa-liên trong chiếc thuyền con, dưới bóng trăng trong, nhè
nhẹ theo dòng nước êm trên sông Châu-mục-nã. Ngày và đêm, tôi hằng vọng
tưởng, thấy chàng một mình một bóng rong ruổi theo con đường bí thiết
của hóa công.
“Một hôm, tôi hay được tin chàng, vì muốn lánh nạn nên qua xứ
Nê-bạc-nhĩ. Tôi ở đó cũng lâu mới được biết rằng chàng ra đi đã được
nhiều năm rồi, bây giờ không rõ ngụ nơi nào. Từ đó, tôi không ngã lòng,
cứ đi tìm chàng mãi. Có khi gần nhiều dân tộc tôn giáo khác, cách sinh
hoạt khác, nhưng tôi giữ không cho phai lợt cái tín ngưỡng đạo
Bà-la-môn, đặng không hổ mặt với chàng, vì biết rằng con thuyền nay gần
đỗ bến rồi.
“Thế thì làm sao mà đỗ, làm sao mà gần? Khi nãy, khi nãy đây, chính là
sau ba mươi tám năm xa cách, ba mươi tám năm lưu lạc, tôi mới thấy được
Kiều-hoa-liên...”
“Sao? Công nương lại gặp được chàng?” Tôi hỏi như vậy vì tôi nóng nghe.
Hoa Lang liền nhỏ nhẹ đáp rằng: “Ông biết tôi gặp thế nào chăng? Tôi gặp
chàng da mồi tóc bạc, hình vóc ốm gầy, ngồi trong sân làng mà lảy bắp
với một cô vợ, chẳng phải đạo Bà-la-môn. Chung quanh là một bầy trẻ đang
chơi đùa”.
Cái lịch sử thuật đến đây là cùng. Tôi muốn thốt vài lời hầu giải cho cô được ít phần sầu. Tôi khuyên rằng:
“Công nương ơi! Một chàng Bà-la-môn bềnh bồng, lưu lạc trong ba mươi tám
năm trời, dễ gì mà giữ đạo cho vẹn toàn. Phần thì chung chạ với những
dân tộc khác tôn giáo, khác tín ngưỡng, phần thì phải lo mà trốn tránh
đặng bảo tồn tánh mạng, ắt phải đổi hẳn tôn giáo đi mới tiện.”
Cô đáp:
“Tôi cũng chán biết lắm. Nhưng tôi không hiểu vì sao tôi cứ tưởng chàng
là sốt sắng về đạo Bà-la-môn hoài. Tôi cũng không hiểu vì sao lúc tôi
còn thơ, tôi lại đem hết lòng dạ mà hiến cho chàng. Té ra nay tôi mới rõ
được rằng cái sốt sắng của chàng khi xưa chẳng phải do bởi lòng thành,
bởi trí tưởng, mà lại là bởi thói quen đó thôi! Tôi ngỡ chàng đắc chân
lý, được tín ngưỡng thanh cao. Chớ không thì đâu đến đêm khuya thân gái
dặm trường, tìm được chàng rồi lại bị ố nhục vào mặt. Ấy là cách chàng
tiếp đãi một cô gái tuổi vừa hai tám, mới lần đầu bỏ lầu đài, dinh thự,
bỏ mẹ cha, anh chị mà tách dặm tìm chàng, chẳng nệ khó khăn chi cả. Ôi!
Kiều-hoa-liên, té ra nay chàng cũng đổi hẳn tôn giáo đi rồi. Thế thì
tiện cho chàng. Chớ như tôi, vì ai mà bỏ trọn một đời, bỏ trọn cả tuổi
thanh xuân, rồi biết lấy đâu mà thế, mà bù vào?”
Cô đứng dậy, chào tôi bằng tiếng Bà-la-môn. Nhưng cô lại đổi đi mà dùng
tiếng đạo Hồi. Cô chào bằng tiếng Hồi giáo. Cô chào bằng tiếng Hồi giáo
là cố ý từ giã những tín ngưỡng Bà la môn giáo ngày nay đã rã rời như
tro bụi... Tôi chưa kịp trả lời thì cô đã ngã ra trên lộ, gần núi
Hy-mã-lạp.
Tôi nhắm mắt giây lát mà ôn lại cái kiếp đoạn trường ấy. Cô gái ngồi
trong dinh, trên tấm khảm nhung, tay chống cằm, dựa cửa sổ mà trông ra,
thấy chàng Bà-la-môn chào vầng thái dương dưới mé sông Châu-mục-nã. Kế
thấy cô một mình một bóng trải qua muôn dặm đường xa. Đoạn thấy cô nhìn
vào cái gia đình ấm áp, yên vui của chàng kia, hai hàng lệ bắt từ trong
mà lăn ra đầm đìa. Sau rốt, tôi thấy cô vì thất vọng, không nhà, không
bạn, ngồi dưới trời.
Tôi bèn mở mắt ra. Sương đã tan dần trên hòn núi chói ra trắng xóa dưới
ánh mặt trời. Cô Hoa Lang đi đã lâu rồi. Trên đường, thương khách lại
qua. Ai nấy đều lấy làm lạ mà thấy tôi ngồi một mình trên tảng đá dựa lề
đường.
(Dịch thuật từ nguyên tác của thi hào
Rabindranath Tagore)
C. LỜI PHỤ CỦA NGƯỜI DỊCH
Ái tình về đạo đức, cao thượng thay! Nhưng bao người lầm về ái tình!
Anh chàng đạo đức vì cảnh ngộ mà thay đổi lòng tín ngưỡng. Nhưng ai kia
vì tình nên phải khổ tâm. Mới biết đạo đức cũng là một trò chơi, một hồi
quen tánh của một ít hạng người. Tội nghiệp! Cái khối tình kia nào thấu
nỗi lối giả dối trong tâm con người.
Ái tình thành thật cũng cao thượng như đạo đức thâm trầm. Ái tình tự
trong tâm cũng đáng kính như lòng đạo tốt lành. Nhưng ái tình về tâm chí
mà đạo đức về tánh nết thời hai bên nghịch hẳn nhau. Bên kia cao thượng
bao nhiêu, bên này lại thấp thỏi bấy nhiêu! Lấy đạo đức mà làm quen
tánh, thì con người ấy ai cầu làm chi? Đạo đức không phải là sự thật
trong tâm làm cho ta được thêm chân chính, an hòa, lại chỉ là những cảnh
ngộ, lễ giáo, tập tục ở ngoài, thì còn nói làm chi?
Chàng kia lúc trước chưa phải là hành đạo chân thành, lại về sau lạc
đạo, bấy giờ cô công chúa mới nhận biết thì muộn rồi. Cao thượng thay và
khổ hạnh thay cho ái tình với đạo đức chân thật.
Đ. T. C.
D. TƯ TƯỞNG GIÚP ĐỜI
Ta giữ công lý mà tìm của cải. Khi đã tìm được của cải theo công lý,
ta bèn đem ra mà thí theo công lý cho một người, hai người, ba người,
trăm người.
Magha-sutta
Phật dạy: “Như ngươi muốn săn sóc ta, hãy săn sóc những người bịnh hoạn đi.”
Mahvagga –Kinh Phạm Võng
Muốn thờ Phật, hãy theo gương kiên tâm bền chí và nhẫn nhục của Phật.
Fo-sho-hing-tsan-king
Giả như có ai noi theo lối hiền đức nhân từ mà đi, vậy người ấy có khi nào cố ý làm ác chăng?
Sha-mi-lu-i-yao-lio
Những kẻ trong lòng chứa sự ác mà ngoài môi nói ngọt ngào thật giống như
cái bình trét nhụy ở ngoài mà bên trong đựng đầy thuốc độc
Lalita Vistara
Điều vui khoái lớn hơn hết là khắc phục được tư tưởng duy kỷ về bản ngã.
Udanavarga
Kẻ bạc ác làm hại tôi thì tôi trả cái hại lại cho họ, vừa lấy lòng từ bi
của tôi chở che đùm bọc cho họ. Họ càng làm ác cho tôi, tôi càng làm
điều tốt cho họ.
Tứ thập nhị chương kinh
Như ngươi có ghê sợ sự khổ, không vui gì với nó, thì đừng có làm quấy, dù trong lúc chán chường hay khi chẳng có ai nhìn thấy.
Udnavarga
Có người bố thí đặng mua tiếng có nhân, có người bố thí đặng nhờ sự lợi,
cũng có người bố thí đặng mong phần phước trên trời. Ngươi hãy bố thí
mà không có những ý tưởng ấy, vui mà bố thí, như vậy mới thật là cao
thượng.
Fo-sho-hing-tsan-king
Ngươi nói: người ta còn trẻ thì phải chơi cho sướng thân, đến chừng già
mới lo tu hành. Nhưng mà cái chết có khác nào kẻ cướp nó cầm gươm lén
theo rình rập bên ta, một miếng mồi mong mỏi của nó. Như vậy, làm sao
ngươi chắc mà chờ đến già đặng đưa tâm trí qua đường đạo đức?
Fo-sho-hing-tsan-king
Không có ai làm cho người khác trong sạch được, tự mình làm trong sạch lấy mình mà thôi.
Dhammapada – Kinh Pháp cú
Lòng tín nhiệm là dây liên lạc tốt hơn hết trong sự thân thích.
Dhammapada – Kinh Pháp cú
Loài thú kia còn biết lấy sự cung kính, tín nhiệm, lịch sự mà đối đãi
nhau. Vậy các anh em hãy phát hiện cái ánh sáng bên trong của các anh em
và cư xử với nhau như cách đó vậy.
Cullavagga
Tham dục là nguồn gốc sự buồn thảm, khổ sở. Nó đến với ta tuồng như một người bạn, mà thật nó là kẻ đại nghịch của ta đó.
Fo-sho-hing-tsan-king
Được sang chớ quên lúc hèn.
Jitsu-go-kiyo
Cái tâm tự túc, có chừng mực lúc nào cũng vui vẻ luôn luôn.
Fo-sho-hing-tsan-king
Lỗi kẻ khác mình dễ thấy, lỗi mình mình khó thấy.
Udanavarga
Người ta hài tội kẻ khác gần như là sàng trấu, mà chính tội của họ thì lại giấu nhẹm cũng như tay cờ bạc lận ém bài.
Dhammapada – Kinh Pháp cú
Thà chết trong sự công bằng, chớ chẳng sống trong sự bất công.
Loweda-Sangtahaya
Nếu đem cái ý định của cái trí ra khỏi cách cư xử của mình thì những sự
hành động chẳng qua là cây mục mà thôi. Phải để cho cái trí quản trị tất
cả, nhờ đó mà cái thân sẽ theo đường chánh.
Fo-sho-hing-tsan-king
Chớ làm điều phải mà rồi lại chẳng vui.
Mahammangala-sutta
Ai làm việc công chánh không sợ gì hết.
Udanavarga
Kẻ nào bây giờ bố thí cho người, về sau sẽ hưởng cái mình đã gieo; kẻ
nào thí một chút nước cho người, về sau sẽ hưởng như biển cả.
Sermon 20
Tật xấu lan ra rất dễ.
Bia đá vua A-dục
Ai đến xin lỗi mình, không nên xua đuổi.
Mahvagga – Kinh Phạm Võng
Không nên làm buồn kẻ đến xin lỗi mình.
Lalita-Vistara
Ta hãy vui sướng, không ghét những kẻ ghét ta. Ở chung với những người oán ta, ta đừng oán họ.
Dhammapada – Kinh Pháp cú
Không thể lấy oán mà diệt oán, phải lấy lòng thương mà diệt oán thù, ấy là định luật từ ngàn xưa.
Dhammapada – Kinh Pháp cú
Kẻ nào có thể tin chắc lấy mình thì được khỏe mạnh và vui.
Fo-sho-hing-tsan-king
Không phải khóc lóc than tiếc mà được an lạc trong tâm.
Salla-sutta
Ai có xin mình thì hãy cho, dầu cho ít mấy cũng nên cho.
Udanavarga
Hãy giữ mình cho tinh khiết và ăn ở với người tinh khiết.
Dhammacariya-sutta
Không có người bạn nào hiền lành cho bằng lòng bố thí trong sạch.
Fo-sho-hing-tsan-king
Nhà sư khất thực đang thấm nhuần những tư tưởng hiền đức, có thể nhận
chịu các sự nóng lạnh, đói khát, nhọc xác, khổ hạnh, dẫu cho khó nhọc
đến đâu người chịu cũng nổi hết.
Sabbava-sutta
Dù thắng được hàng ngàn giặc nghịch, nhưng không bằng kẻ thắng được chính mình. Đó thật là đại thắng.
Dhammapada – Kinh Pháp cú
Chẳng nên nói với ai bằng lời cộc cằn.
Dhammapada – Kinh Pháp cú
Dẫu đương cơn giận, chớ nói tiếng cộc cằn.
Sariputta-sutta
Một lời mắng nhiếc cũng làm cho súc sanh đau đớn nữa.
Suttavandonaaniti
Cũng như kẻ ham sống tránh thuốc độc, hiền nhân thánh triết tránh điều ác.
Udnavarga
Vạn vật đều mong sự vui sướng, vậy ngươi hãy trải lòng từ bi ra khắp nơi cho chúng sanh.
Mahavanisa
Việc gì làm cho mình đau khổ thì mình chớ làm cho người khác.
Metta-sutta
Tôi dùng tư tưởng trong sạch và lòng bác ái mà gieo ra cho người, cũng như tôi giúp vào cho tôi.
Lalita-vistara
Hãy dùng cái thiện mà thắng cái ác.
Udanavarga
Kẻ đệ tử của Phật không hề cố ý giết một mạng sanh linh, cả đến loài côn trùng.
Mahvagga
Tự tay mình giết, sai người giết, hay là vui mà thấy người giết, đều là phạm vào tội sát sanh.
Sha-mi-lu-i-yao-lio
Ăn ở hiền đức là sung sướng, khoái lạc.
Dhammapada – Kinh Pháp cú
Diệt lòng ích kỷ, tức là an nhàn.
Udanavarga
Cái mà ta gọi là tên tuổi và gia đình chỉ là tên gọi mà thôi.
Vasettha-sutta
Việc gì đáng trọng thì ngươi nên trọng, chớ không phân biệt là của ai.
Ta-chuang-yan-king-lun
Phán đoán một người theo hiện tượng bề ngoài của họ e không được đúng.
Sermon 3
Người sanh ra trong nhà kẻ hèn hạ mà có trí huệ, cũng như hoa sen mọc dưới bùn.
Jitsu-go-Kiyo
Lời của Phật dạy dầu cho có nghiêm khắc cũng chứa đầy sự từ bi, như lời cha dạy con.
Kinh Na-tiên Tỳ-kheo
Phật không có ban phước cho những kẻ dâng cúng cho ngài, mà cho kẻ xứng đáng kia.
Kinh Na-tiên Tỳ-kheo
Muốn dứt tuyệt cái khổ, hãy năng nổ mà làm việc từ thiện.
Buddagosha
Tôi muốn rằng sự bất công phải bị khinh bỉ.
Mahvagga
Ăn ở hiền lành theo phong hóa đạo nghĩa thì sung sướng lắm, được ngủ giấc ngủ yên và khi thức giấc lại vui vẻ.
Udanavarga
Ta không mong sự ban thưởng gì, ta không mong được sanh lên cõi trời,
nhưng ta quyết làm lợi cho người đời là dắt kẻ lạc đường, soi sáng kẻ
lầm trong chỗ tối... tránh cho nhân loại các nguồn gốc sự buồn rầu đau
đớn.
Fo-pen-hing-tsih-king
Thấy người than khóc, hãy chia buồn với người; thấy người sung sướng, hãy chia vui với người.
Jitsu-go-kiyo
Em ơi! Hãy thuật chuyện buồn của em với ta, vì san sớt thì sẽ bớt buồn và dễ chịu.
Nagananda
Tôi nguyện không bao giờ phạm tội sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối và
ăn thịt uống rượu, cho đến trong giấc mộng của tôi cũng vậy.
Attanagalu-vansa
Chẳng nên kết bạn với những kẻ làm bậy; hãy chọn bạn những người lành.
Dhammapada – Kinh Pháp cú
Ta có thể nhận làm bạn với người như thế này: thấy ta làm quấy, người
bảo trước cho ta tránh; thấy ta làm phải; người giúp sức ta; thấy ta bối
rối hoạn nạn, người khuyên ta và giải cứu ta, như vậy mới thật là bạn
quí.
Fo-pen-hing-tsih-king
Ta tự xét những tội lỗi của ta, thấy có điều gì xấu, ta phải bỏ ra, ta phải làm điều lành không mà thôi.
Jataka – Kinh Bổn hạnh
Kẻ nào làm hại người vô hại thì sự hại quay lại với kẻ ấy cũng như bụi nhỏ bị gió tống đi.
Kokaliya-sutta
Ngu mà biết mình ngu thì còn khôn chút ít; ngu mà ngỡ mình khôn mới thật là quá ngu.
Dhammapada – Kinh Pháp cú
Ôi! Sự giận nó đổi gương mặt thùy mỵ một cách lạ kỳ, nó làm mất vẻ thanh lịch của con người quá nhiều.
Fo-sho-hing-tsan-king
Kẻ quấy mà giận lại dùng lắm lời để lấn lướt người ta, bao giờ cũng thua người nhẫn nhục.
Udanavarga
Đạo là gì? Là làm quấy càng ít, làm phải càng nhiều, làm điều lành, thương người và ăn ở cho trong sạch.
Bia đá vua A-dục
Không nên hành lễ theo mê tín, nhưng tử tế với tôi tớ và kẻ dưới, lịch
sự với kẻ đáng kính, vừa tự trọng vừa trọng mạng sống của chúng sanh,
những đức tánh ấy và mấy cái đức tánh tương tợ như vậy mới thật là cuộc
lễ nên thi hành cho trọn vẹn.
Bia đá vua A-dục
Phải nhìn tội lỗi của mình một cách thẹn thuồng.
Sian-chi-kwan
Đừng hỏi gốc gác cha mẹ của một người, mà hãy hỏi tánh tình của họ đã.
Sundarikabhradvja-sutta
Ta mong được hoàn toàn để tế độ người.
Fo-pen-hing-tsih-king
Kẻ tín đồ nhà Phật không nên sợ quở trách, cũng không nên tự cao vì được khen.
Tuvataka-sutta
Có bốn cách nhận rằng kẻ nịnh hót là một người bạn giả dối: nó hoan
nghênh mình khi mình làm quấy, nó hoan nghênh mình khi mình làm phải, nó
nói tốt mình trước mặt, nó nói xấu mình sau lưng.
Sigalavada-sutta – Kinh Thi-ca-la-việt
Tự mình không có lỗi mới có thể chỉ trích người. Tự mình có lỗi mà trách người thì chỉ làm cho người khác chê cười.
Phật ngôn