Trước khi trả lời câu hỏi nầy,
chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của chữ Pháp: Dhamma. Sau đó, mới bàn đến các lý
do tại sao chúng ta cần phải học tập về Pháp và thực hành theo Pháp.
Pháp và các bí ẩn của đời sống.
Lối giải thích dễ hiểu về Pháp
(Dhamma) là: "Bí ẩn của thiên nhiên cần được hiểu rõ để có thể phát triển
đời sống đến mức lợi lạc cao nhứt."
"Để phát triển đời sống đến mức
cao nhứt" có nghĩa là đạt tới một giai đoạn của đời sống được giải thoát
khỏi mọi vấn đề (khó khăn) và mọi khổ sở (dukkha). Đời sống như thế đó đã vượt
thoát khỏi những gì được xem như là "vấn đề (khó khăn)" và "khổ
sở" (dukkha).
Một sự giải thích rõ ràng thêm về
danh từ "bí ẩn" rất quan trọng cho việc thông hiểu đề tài của chúng
ta. Nếu chúng ta còn chưa biết bí ẩn của một sự vật gì, thì chúng ta chẳng thể
nào hành động cho thành công để đạt được các kết quả cao nhứt và thâu được lợi
lạc tối đa về sự vật đó. Thí dụ như các tiến bộ về việc thám hiểm ngoại tầng
không gian và các phát triển về năng lực hạch tâm, cũng như ở các điạ hạt khác,
sở dĩ thực hiện được là nhờ sự thông hiểu về các bí ẩn của các sự vật đó. Với
đời sống, thì cũng như vậy. Để có thể đạt được sự phát triển cao nhứt về đời
sống, chúng ta cần phải biết rõ các bí ẩn của đời sống.
Đời sống, đặc biệt là trong khung
cảnh của Pháp (Dhamma), là một đầu đề về thiên nhiên (Dhamma jàti). Chữ Pali
dhamma jàti được dịch ra là thiên nhiên (hay bản thể) (nature )có thể còn chưa
đúng hẳn, nhưng nghĩa cũng đã khá gần. Xin hãy xem đó như có nghĩa là cái gì tự
nó hiện hữu ở bên trong nó, tự nó sanh ra nó, và có những qui luật của riêng
nó. Cái nghĩa thiên nhiên đó chẳng hề chống đối với con người, khác với sự suy
tư của người Tây phương thường nghĩ, mà trái lại nó bao gồm con người, và tất
cả những kinh nghiệm của con người, vào bên trong nó. Vậy, chúng ta cần phải
hiểu bí ẩn của đời sống, thì mới có thể hiểu được Pháp.
Pháp: Bốn phương diện.
Pháp của đời sống có bốn nghĩa:
1.- thiên nhiên,
2.- qui luật của thiên nhiên,
3.- bổn phận cần phải làm, chiếu
theo qui luật đó của thiên nhiên,
4.- các thành quả hoặc lợi lạc do
sự thi hành bổn phận đó mang lại.
Xin hãy luôn luôn ghi nhớ bốn nghĩa
có liên hệ hỗ tương với nhau đó.
Các bạn hãy cứu xét đến Sư Thật ở
bên trong bạn, nơi thân tâm nầy mà bạn thường tưởng như là chính bạn. Bên trong
mỗi chúng ta có nhiều thiên nhiên kết hợp nhau thành ra tấm thân, trở nên một
chúng sanh. Kế đó, có những qui luật thiên nhiên đang kiểm soắt các thiên nhiên
đó. Rồi lại có bổn phận liên quan đến các qui luật thiên nhiên cần phải được
các thiên nhiên đó thi hành đứng đắn cho chính các thiên nhiên ấy. Và sau cùng
là các kết quả của việc thi hành bổn phận đó. Nếu bổn phận được thi hành đúng
đắn, thì kết quả sẽ là an lạc, tĩnh lặng và thoải mái. Tuy nhiên, nếu bổn phận
được thi hành chẳng đúng đắn, thì kết quả sẽ là khổ sở (dukkha), bất toại
nguyện, thống khổ, đau đớn, bất mãn. Ngay cả ở giai đoạn sơ khởi, xin các bạn
hãy quán sát thật kỹ lưỡng và thấy thật rõ ràng nơi mỗi chúng ta đều có đủ bốn
phương diện của Pháp (Dhamma) hay thiên nhiên.
Khi chúng ta đã cứu xét kỹ bốn
nghĩa đó của thiên nhiên, chúng ta sẽ thấy ra đời sống chỉ được tạo thành bởi
bốn phương diện đó của thiên nhiên. Tuy vậy, giờ đây chúng ta còn phải hiểu rõ
bốn phương diện ấy cho thật đúng đắn và đầy đủ. Chúng ta còn chưa đi sâu vào bí
ẩn của cái mà ta gọi là đời sống. Chúng ta còn chưa nắm vững được bí ẩn của
Pháp (Dhamma), do vậy mà chúng ta chưa đủ khả năng để thực tập theo một đường
lối mà ta có thể thâu hoạch được lợi lạc trọn vẹn từ nơi đời sống. Chúng ta hãy
dùng nhiều thời giờ hơn nữa để nghiên cứu thêm về các danh từ "Pháp"
(Dhamma) và "Bí ẩn của đời sống" hầu có thể rút tiả được lợi lạc nơi
chúng.
Phát triển đời sống vượt khỏi sự
khổ (Dukkha).
Chúng ta cũng cần xét kỹ đến từ ngữ
"phát triển đời sống". Chúng ta vẫn chưa biết được bí ẩn của sự việc
nầy. Khi nói phát triển đời sống, chúng ta chưa có một sự hiểu biết rõ ràng về
cái điều chúng ta đang muốn nói đến và còn mờ mịt về tầm mức mà đời sống có thể
phát triển được. Chúng ta chưa nhận thức được các lợi lạc tối cao mà nhơn loại
có thể vươn lên tới, và vì thế mà chúng ta còn chưa có đủ sự quan tâm cần thiết
đến các bí ẩn của đời sống khả dĩ giúp ta đạt đến các mức cao nhứt. Bạn cần nên
hiểu rõ đời sống có thể phát triển xa đến tận đâu, tới các cao độ nào, và phải
quan tâm đặc biệt về sự phát triển đó.
Ngay tại giai đoạn sơ khởi, chúng
ta chỉ cần nắm vững nguyên tắc căn bản nầy: "phát triển đời sống" có
nghĩa là "khiến cho đời sống tiến triển đến một giai tầng cao nhứt",
tức là, vượt qua khỏi tất cả mọi vấn đề (khó khăn) và sự khổ sở (dukkha), vượt
khỏi các ý nghĩa chính yếu và tế nhị mà hai chữ ‘vấn đề" và ‘khổ sở"
có thể có được. Với những ai, từ trước đến giờ, còn chưa được nghe đến chữ
dukkha, khổ sở, chúng tôi xin cố dịch gượng là "đau khổ, bất toại nguyện,
tranh chấp, xao động -- tất cả những gì làm xáo trộn đời sống". Khổ sở
(dukkha) là những gì mà chúng ta luôn luôn chạy trốn để khỏi gặp. Nó là điều gì
đang khuấy động sự tĩnh lặng và thoải mái của đời sống. Nó cũng là bất cứ điều
gì cản trở sự toàn thiện của tâm linh. Khi được phát triển vượt khỏi mọi khổ sở
(dukkha), đời sống sẽ đạt đến giai tầng cao nhứt có thể có được.
Vài người còn chưa hiểu biết về các
vấn đề (khó khăn) của chính họ. Họ chẳng hiểu được thế nào là khổ sở (dukkha),
theo nghĩa tổng quát, hoặc chỉ liên quan đến đời sống riêng của họ. Họ nhìn vào
chính họ và thốt lên: "Ồ! Tôi chẳng có vấn đề (khó khăn) nào cả, mọi việc
đều yên ổn cả." Họ chịu coi mọi nổi khó khăn và lo lắng của họ như thông
thường cả. Chúng ta có giống như vậy không? Ta cần phải có một cái nhìn đứng
đắn, nhìn thật kỹ càng trong chi tiết vào đời sống của ta để xem thật ra chúng
có điều gì đáng để gọi là một "vấn đề (khó khăn)" chăng. Có khổ sở
(dukkha) chăng? Có điều gì chẳng được như ý chăng, hoặc đang làm cho đời ta bị
xáo trộn? Những câu hỏi như thế rất cần thiết khi các bạn đến viếng Suan Mokkh
nầy. Nếu bạn còn chưa nhìn thẳng vào bên trong bạn, nếu bạn còn chưa lưu ý đến vấn
đề (khó khăn) nào, nếu bạn cảm thấy chẳng có khổ sở (dukkha) nào cả, thì bạn
còn chưa biết đúng bạn đang làm gì ở đây hoặc bạn chưa rõ được lý do tại sao
phải học tập về Pháp (Dhamma). Xin tha thiết mời bạn hãy nhìn cho rõ, cho kỹ về
các sự vật đó được gọi là ‘khổ sở" (dukkha), là "vấn đề (khó
khăn)", trước khi bạn tiếp tục tiến xa hơn nữa.
Khi nói phát triển đời sống, ta có
thể phân biệt bốn phương diện. Phương diện thứ nhứt là ngăn chặn chẳng cho các
sự vật gây nguy hiểm đến đời sống, được khởi sanh. Thứ hai là gạt bỏ và phá hủy
các sự vật nguy hại đã sanh ra. Thứ ba là tạo dựng các sự vật hữu dụng và có
ích lợi cho đời sống. Thứ tư là duy trì và tăng trưởng các sự vật ích lợi đó.
Tính chung lại, ta có bốn phương diện phát triển đời sống: ngăn chặn các nguy
cơ mới, diệt trừ các nguy cơ cũ, tạo thêm các sự vật đáng mong muốn, giữ gìn và
gia tăng các sự vật hữu ích. Bốn điểm đó lập thành điều mà chúng ta gọi là
"phát triển đời sống". Phát triển đời sống là bổn phận của chúng ta,
chúng ta phải nên nhận định rõ đó là bổn phận của chúng ta, nếu muốn cho sự
phát triển được thực hiện.
Để làm tròn bổn phận nói trên,
chúng ta cần phải có sẵn trong tay bốn dụng cụ quan trọng, gọi là bốn Pháp khí.
Bốn khí cụ về Pháp (Dhamma) đó là: (1) Sati, Giác niệm, tức là sự tỉnh thức,
chánh niệm; (2) Sampajanna, Trí phân biện, quán thông, tức là sự thông hiểu
thấu suốt; (3) Panna, Bát nhã, tức là trí huệ; (4) Samàdhi, Định lực, tức là
tâm ý tập trung lại. Có sẵn đủ bốn Pháp khí đó sẽ giúp ta phát triển được đời
sống.
Sự thực tập Vipassanà, Quán chiếu
Minh sát, tức là sự phát triển tâm linh, nhắm vào việc vun bồi và huấn luyện
tâm thức, khiến cho bốn Pháp khí đó được sung mãn hầu giúp ta phát triển đời
sống. Ta nên quan tâm nhiều đến việc tu tập phát triển tâm linh về bốn Pháp khí
ấy.
Thứ giác niệm về hơi thở (Ànàpànasati) mà ta cần đến.
Có rất nhiều đường lối, hệ thống,
để đào luyện tâm linh, thường cùng được gọi là Vipassanà, Quán chiếu Minh sát.
Có rất nhiều hệ thống và kỹ thuật khác nhau được dùng để phát triển tâm linh.
Nhưng trong số tất cả các kỹ thuật mà chúng được biết đến, kỹ thuật tốt nhứt
được gọi là Ànàpànasati bhàvanà, Quán tưởng Giác niệm về Hơi thở, sự tập luyên
chánh niệm về hơi thở ra, hơi thở vào. Đấy là sự thực tập mà chúng ta sẽ bàn
luận thật chi tiết trong các bài thuyết giảng nầy.
Ý nghĩa đứng đắn và đầy đủ của phép
Quán tưởng Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati bhàvanà) là nắm lấy một sự thật,
hay là thực tế về bản thể thiên nhiên, để quán sát, suy tầm và soi chiếu nó
trong nội tâm cùng với mỗi hơi thở vào và mỗi hơi thở ra. Như thế, giác niệm về
hơi thở giúp ta suy nghiệm về bất cứ sự thật thiên nhiên quan trọng nào trong
lúc ta đang thở vào và thở ra.
Việc nghiên cứu như thế rất là quan
trọng và có một giá trị thật to tát. Nếu ta mong muốn biết rõ một sự thật về
điều gì, ta phải nắm lấy sự thật của điều đó để suy nghiệm, quán sát, phân tách
và nghiên cứu với nhiệt tâm mỗi khi ta đang thở vào và thở ra. Xin cho phép tôi
nhắc lại, đối tượng (của việc quán sát) phải được tác động đến một cách thật
liên tục, bền bỉ trong nội tâm. Ngay đây, "liên tục" có nghĩa là
"với mọi hơi thở vào và mọi hơi thở ra". Khi thở vào, biết rõ đối
tượng đó. Khi thở ra, biết rõ đối tượng đó. Khi thở vào, hiểu rõ đối tượng đó.
Khi thở ra, hiểu rõ đối tượng đó. Điều nầy thật hết sức cần thiết và cũng hữu
ích vô cùng, để phát triển đầy đủ mọi kiến thức mà ta cần phải hiểu rõ. Việc
nghiên cứu như thế sẽ mang đến một sự chuyển hoá nơi tâm trí, tức là vào ngay
bên trong của đời sống.
Thật ra, ý nghĩa của Giác niệm về
Hơi thở (Anàpànasati) rất rộng rãi và tổng quát. Giác niệm đó có nghĩa là
"chánh niệm chiếu soi vào bất cứ điều gì ngay trong lúc thở vào thở
ra". Bạn hãy tưởng tượng rằng, trong khi thở vào thở ra, bạn đang nghĩ đến
gia đình của bạn nơi hải ngoại, đến mẹ của bạn, đến vợ, chồng, con cái. Điều ấy
cũng gọi là Giác niệm về hơi thở (Ànàpànasati). Nhưng đó chẳng phải là điều mà
chúng ta cần làm ở đây. Điều mà chúng tôi đòi hỏi ở bạn là phải niệm đến Pháp
(Dhamma), tức là, những sự thật thiên nhiên có thể giải thoát tâm trí ra khỏi
sự đau đớn của khổ sở (dukkha). Bạn hãy nắm bắt các sự thật đó để tác động đến
tâm trí, tác động một cách hữu hiệu và đầy đủ để có thể vứt bỏ được mọi
"vấn đề (khó khăn)", và loại trừ sự khổ sở (dukkha). Nói cách khác,
bạn hãy thâu nhận bốn Pháp khí (dụng cụ tinh thần) mà chúng tôi vừa nói qua.
Đấy mới thật là Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) hữu dụng bực nhứt.
Bốn điều mà chúng ta cần suy
nghiệm.
Giờ đây, đến lượt câu hỏi:
"Các điều nào thích nghi, đứng đắn và cần thiết để được nắm lấy như các
đối tượng của sự suy nghiệm mỗi khi ta thở vào, thở ra?" Câu trả lời là:
các bí ẩn của thân (kàya), các bí ẩn của cảm thọ (vedanà), các bí ẩn của tâm
(citta) và các bí ẩn của Pháp (Dhamma). Các bí ẩn của bốn điều đó: thân, thọ,
tâm, pháp, là những gì mà ta cần đem vào trong tâm trí để nghiên cứu tại đấy.
Bốn điều đó khá quan trọng, tưởng
bạn nên ghi nhớ đến tên của chúng bằng danh từ Pali. Để tiện thấu hiểu rõ ràng
và tham chiếu dễ dàng sau nầy, bạn nên nhớ bốn danh từ Pali nầy: kàya, vedanà,
citta, dhamma. Chớ nên quên đó là bốn đề tài vô cùng quan trọng. Ta nên xử dụng
đến chúng nhiều hơn bất cứ đối tượng nào để huấn luyện và phát triển tâm trí,
bởi vì bốn điều đó đã có sẵn nơi chúng ta, và là căn nguyên của biết bao nhiêu
"vấn đề (khó khăn)" trong đời ta. Bởi vì chúng ta còn chưa hiểu rõ
được chúng, và bởi vì chúng ta chẳng đủ khả năng để điều chỉnh chúng, nên chúng
mới trở thành những sự việc đưa ta đến đau khổ. Vì lẽ đó, thật là quan trọng
tuyệt đối để phân biệt rõ ràng bốn điều đó: thân, cảm giác, tâm và các pháp (=
sự vật).
Giai đoạn I: Thân thể và thân hơi.
Giờ đây, ta hãy cứu xét bốn điều
trên đây riêng rẻ nhau ra, bắt đầu với Kàya, Thân. Chữ Pali kàya có nghĩa là
"nhóm" và có thể được áp dụng vào bất cứ nhóm, mớ, hay tập hợp nào
gồm nhiều sự vật. Trong trường hợp nầy, chữ kàya có nghĩa đặc biệt là một nhóm
sự vật được kết hợp với nhau thành nột tấm thân vật chất, thân thể. Tiếng Anh
body, thân, cũng có nghĩa là một nhóm. Vậy ta nên thận trọng về ý nghĩa mà chữ
thân, chữ nhóm, có thể gợi lên.
Bạn nên nhìn kỹ vào chính bạn để
thấy rõ các thân đó được lập thành như thế nào. Có những cơ quan nào ở đó và có
cả thảy được bao nhiêu? Thuộc loại yếu tố nào? Bộ phận nào của cơ quan, thành
phần nào đã kết hợp với nhau trong thân thể nầy? Sâu xa hơn nữa, có một thành
phần rất quan trọng đã nuôi dưỡng các phần còn lại của thân thể nầy, đó là hơi
thở. Hơi thở cũng được gọi là kàya, tức là thân, thân hơi, ở ngay trong toàn
thể các yếu tố khác. Ta sẽ nghiên cứu tấm thân thể xương thịt đó đã an lập như
thế nào và mối tương quan giữa thân thể với hơi thở.
Cái thân hơi rất quan trọng, bởi vì
ta thấy rằng nó đã duy trì và kéo dài đời sống nơi các phần còn lại của thân.
Tấm thân tổng quát, tức là tấm thân thể xương thịt nầy, thuộc về những sự vật
mà ta chẳng thể trực tiếp điều chỉnh được. Sự chỉnh đốn đó nằm ngoài khả năng
của ta. Tuy nhiên, có một đường lối để kiểm soát thân thể đó, làm chủ được nó,
một cách gián tiếp, nhờ xử dụng đến hơi thở. Nếu ta tác động bằng cách nào đó
đến một thân nầy (thân hơi), thì sẽ có một ảnh hưởng nào đó đến với một thân
kia (thân thể). Vì lẽ đó ta mới dùng hơi thở làm một dụng cụ để huấn luyện. Hễ
canh chừng hơi thở đến một mức độ nào thì ta có thể điều chỉnh tấm thân thể xác
nầy được đến mức độ đó. Điểm nầy sẽ được bạn nhận thấy thật rõ ràng, khi bạn đã
thực tập đến một giai đoạn đặc biệt của Giác niệm về Hơi thở
(Ànàpànasati).
Trong các bước của giai đoạn I,
những bước đầu có liên quan đến thân (kàya), ta nghiên cứu hơi thở theo một
cách đặc biệt. Ta ghi nhận mỗi loại hơi thở đến và đi, và hình thức của mỗi hơi
thở ra sao. Hơi thở dài, hơi thở ngắn, hơi thở an tịnh, hơi thở ồn ào, hơi thở
mau, hơi thở chậm: ta phải ghi nhận và biết rõ về chúng. Với tất cả các loại
hơi thở khởi lên, ta phải biết rõ bản thể của mỗi thứ, đặc tánh và công năng
của chúng.
Hãy quan sát kỹ các loại hơi thở đã
có ảnh hưởng nào đến tâm thân thể chất nầy. Hơi thở ảnh hưởng to tát đến phần
còn lại của tâm thân thể chất, và ảnh hưởng đó cần phải được thấy ra cho thật
rõ ràng. Quán sát cả hai mặt của mối tương quan ấy cho đến khi nào thấy được
chúng liên hệ hỗ tương với nhau và chẳng thể tách rời nhau ra. Thấy rõ rằng cái
thân hơi nầy gây ảnh hưởng và "pha chế" (chuyển biến) được cái thân
thể kia. Đấy là bước thứ nhứt. Hãy đặc biệt nghiên cứu hơi thở. Hãy biết rõ các
đặc tánh của tất cả các loại hơi thở. Rồi thấu hiểu rằng hơi thở liên quan mật
thiết với tấm thân thể chất nữa. Nhờ đường lối nầy, ta có thể điều chỉnh thân
thể được bằng cách điều chỉnh hơi thở.
Ý nghĩa của các bước đầu trong việc
thực tập nầy là hiểu biết được các bí ẩn của kàya, của thân. Ta biết rằng thân
hơi, tức là sự hô hấp bằng hơi thở, là một tác viên gây ảnh hưởng đến tấm thân
thể chất. Điều bí ẩn quan trọng nầy có thể được dùng để mở khoá các bí ẩn khác
trong cơ thể ta, thí dụ như sự kiện dùng hơi thở để làm chủ được thân thể.
Chẳng ai ngồi đó mà có thể thư giãn trực tiếp được tấm thân thể chất nầy, nhưng
ta đã khám phá ra được rằng, ta có thể làm thư giãn tấm thân thể chất nầy bằng
cách làm cho hơi thở trở nên êm dịu. Nếu hơi thở êm dịu thì thân thể cũng êm
dịu theo. Đó là cách ta dùng để kiểm soát gián tiếp tấm thân nầy. Về sau. ta
còn biết được thêm, nỗi mừng và niềm vui với tất cả các lợi lạc có giá trị khác
cùng đi theo với sự lắng dịu hơi thở và sự an tịnh thân tâm.
Giai đoạn II: Cảm thọ là chủ nhơn
của ta
Sau khi đã hiểu biết rõ các bí ẩn
của Kàya, Thân, ta quay sang các bí ẩn về Vedanà, Cảm thọ. Các cảm thọ (Vedanà)
có một năng lực rất mãnh liệt để ảnh hưởng đến con người và các sanh vật khác.
Lời tôi nói có thể làm bạn ngạc nhiên, nhưng toàn thể thế gian, người thú, và
các loại sanh vật khác, đều tùy thuộc vào các cảm thọ (vedanà). Họ đều sống
dưới sự ngự trị của các cảm thọ. Điều nầy có vẻ buồn cười và khó tin, nhưng xin
bạn hãy quán sát kỹ lấy mà xem. Đây là một sự kiện thực tế: chúng ta, và cả
muôn loài, đều bị bó buộc phải hành động theo lịnh của các cảm thọ. Khi có lạc
thọ (sukha vedanà) (cảm giác sướng), chúng ta cố tìm cách có thêm lạc thọ nữa.
Các lạc thọ thường đẩy tâm trí theo một hướng nào đó và gây ảnh hưởng đến một
loại hành động nào đó. Khổ thọ (dukkha vedanà) (cảm giác đau khổ, chẳng vừa ý)
ảnh hưởng đến tâm trí và đời sống của ta, theo một chiều hướng ngược lại, nhưng
vẫn dẫn dắt ta đến các phản ứng quen thuộc. Tâm trí phấn đấu chống lại chúng và
khiến chúng trở thành các "vấn đề (khó khăn)" để đưa đến sự khổ sở
(dukkha). Các cảm thọ có ảnh hưởng rất lớn mạnh đối với các hành động của chúng
ta. Toàn thể thế giới đặt dưới quyền chỉ huy của các cảm thọ, mặc dầu cũng có
những yếu tố khác xen vào. Thí dụ, như sự khát ái (tanha) (ham muốn quá mức) có
thể kiểm soát tâm trí, nhưng chính sự khát ái cũng chịu ảnh hưởng của các cảm
thọ. Vì thế, đã biết rõ các cảm thọ có ảnh hưởng mãnh liệt đến tâm trí, ta cần
phải nên thấu hiểu các bí ẩn của chúng.
Tôi sắp nói đến một điều mà có lẽ
bạn sẽ bật cười, nếu bạn muốn. "Nếu ta làm chủ nổi các cảm thọ (vedanà),
ta sẽ nắm lấy được chủ quyền trên toàn thế giới." Ta sẽ đủ sức để kiểm
soát toàn thế giới khi ta có thể kiểm soát được các cảm thọ như chúng ta thường
đòi hỏi. Rồi ta sẽ canh chừng cả thế giới nầy như hiện nó đang ở vào tình trạng
cần được kiểm soát thật cấp bách. Nay, vì có chẳng ai lưu tâm đến việc chế ngự
các cảm thọ, cho nên thế giới mới vượt ra ngoài sự kiểm soát đứng đắn. Bạn còn
chưa thấy các cuộc khủng hoảng, các vấn nạn khởi lên luôn luôn ư? Chiến tranh, nạn
đói, tham nhũng, ô nhiễm môi trường, các sự việc nầy đều là những hành vi bắt
nguồn từ sự thất bại trong việc kiểm soát các cảm thọ của chúng ta ngay tự buổi
đầu. Nếu ta kiểm soát được các cảm thọ, ta sẽ kiểm soát được toàn thể thế giới.
Đấy là điều mà bạn cần phải nên cứu xét đến.
Nếu ta biết nói đúng theo các lời
của Đức Phật, ta sẽ nói rằng nguyên nhân của tất cả mọi việc trên thế giới đều
đặt tâm điểm nơi các cảm thọ. Hằng hà sa số hành vi đã xảy ra trên thế giới
cũng bởi vì các cảm thọ đã thúc đẩy chúng ta đi đến sự ham muốn, và rồi lại
hành động theo đúng các sự ham muốn đó. Ngay cả các sự tin tưởng như đầu thai,
tái sanh đều chịu ảnh hưởng của các cảm thọ. Nếu ta đã tin tưởng, ta sẽ ngao du
khắp cõi Luân hồi, theo vòng lẩn quẩn của sanh và tử, của thiên đường và điạ
ngục. Mọi việc đều bắt nguồn từ các cảm thọ. Kiểm soát được cảm thọ là kiểm
soát được nguồn gốc, căn nguyên, sanh quán của muôn việc. Đó cho thấy sự cần
thiết phải thông hiểu các cảm thọ một cách đứng đắn và tổng hợp. Và nhờ đó mà
ta sẽ có khả năng kiểm soát nổi các cảm thọ để rồi các bí ẩn của chúng chẳng
thể nào lừa gạt được ta phải có các hành động điên rồ nữa trong tương lai.
Có ba điểm chánh cần nhận thức về
các cảm thọ (vedanà). Thứ nhứt, thông hiểu chính các cảm thọ, sự vật nào đã làm
khởi sanh các cảm thọ nơi tâm, và làm tâm bị giao động. Thứ hai, hiểu rõ bằng
cách nào các cảm thọ đã ảnh hưởng đến tâm (citta). Cảm thọ đã khơi dậy các tư
tưởng, ký ức, lời nói và hành động. Phải nên biết rõ các chuyển biến đó của
tâm. Thứ ba, khám phá ra rằng ta có thể kiểm soát tâm tư bằng cách kiểm soát
các cảm thọ, cũng giống như cách tấm thân thể chất nầy chịu ảnh hưởng của việc
điều hoà hơi thở vậy. Rồi ta mới có đủ khả năng làm chủ tâm ta, bằng cách làm
chủ được, một cách đúng đắn, các cảm thọ đang gây ảnh hưởng đến tâm tự Bí ẩn
của các cảm thọ chính là ba điểm chánh yếu nầy:
1.- Hiểu rõ chính các cảm thọ.
2.- Biết các điều gây ảnh hưởng đến
các cảm thọ.
3.- Rồi, phải biết cách kiểm soát
các điều đã gây ảnh hưởng đến các cảm thọ; cách nầy cũng giống như cách kiểm
soát chính các cảm thọ.
Vì hai giai đoạn I và II vừa qua
của sự thực tập đều tuân theo một nguyên tắc chung, nên sự so sánh giữa đôi bên
sẽ có ích lợi thêm. Trong giai đoạn I, liên quan đến thân, ta thấy được sự việc
gì đã gây ảnh hưởng đến cho tấm thân thể chất, và ta nghiên cứu sự việc đó rất
kỹ lưởng từng chi tiết. Ta thấy rõ sự việc ấy đã gây ảnh hưởng đến thân thể; và
do điều chỉnh sự việc ấy mà ta có thể kiểm soát được tấm thân thể chất nầy. Đó
là đường lối ấy (điều hoà hơi thở) mà ta noi theo để khiến cho thân thể được
tĩnh lặng và an hoà. Đối với tâm tư, sự việc gây ảnh hưởng đến các tâm trạng
chính là các cảm thọ. Do kiểm soát được các cảm thọ để khiến chúng, chẳng khuấy
động được đến các tâm trạng, mà trái lại, gây ảnh hưởng tốt đến tâm tư, ta mới
có thể khiến cho tâm trí ta trở nên an tịnh. Thế nên, giai đoạn I liên quan đến
Kàya, đến thân thể, và giai đoạn II liên quan đến Vedanà, đến cảm thọ, cả hai
đều cùng tuân theo chung một nguyên tắc và song hành với nhau trong phương pháp
thực tập.
Giai đoạn III: Cái tâm tế nhị.
Trước tiên, ta thực tập để biết các
bí ẩn của Thân (Kàya). Kế đó, ta thực tập để biết các bí ẩn của Cảm thọ
(Vedanà). Sau khi đã thực tập hai giai đoạn I và II xong, ta sẽ thực tập để
biết rõ các bí ẩn của Tâm (Citta). Tâm tư là vị giám đốc và bực lãnh tụ của đời
sống. Tâm tư hướng dẫn, còn thân thể chỉ giản dị là một dụng cụ đang bị hướng
dẫn. Nếu muốn đời sống được hướng dẫn theo con đường đúng đắn, ta cần phải
thông hiểu rõ ràng và chính xác về tâm (citta) cho đến mức mà ta có đủ khả năng
để kiểm soát được tâm. Điều nầy đòi hỏi một sự nghiên cứu đặc biệt, bởi vì các
sự việc mà ta gọi là tâm trí đó rất là tế nhị, phức tạp, và sâu xa. Ta đâu có
thể nhìn tâm bằng mắt thịt, ta cần có một cái gì đặc biệt để "thấy"
được tâm. Với giác niệm được huấn luyện tốt, việc nghiên cứu đặc biệt về tâm có
thể thực hiện được, nhưng đòi hỏi nơi ta một sự cố gắng vượt bực. Xin bạn chớ
vội ngã lòng mà bỏ dở. Mọi người trong chúng ta, ai cũng đủ khả năng để học
hỏi, nghiên cứu về tâm, hầu thông hiểu các bí ẩn của nó.
Chẳng thể nào biết trực tiếp được
tâm (citta). Ta chẳng thể sờ, chẳng thể xúc chạm trực tiếp đến nó. Tuy nhiên,
cũng có thể biết được tâm, qua các tư tưởng. Nếu ta biết được các tư tưởng là
như thế nào, ta cũng sẽ biết được tâm là như thế nào. Trên điạ hạt vật chất, để
tiện so sánh, ta chẳng thể nào biết trực tiếp thế nào là điện khí, ta chỉ biết
điện khí qua các đặc tánh của nó như dòng điện, điện thế, điện lực, v.v. Về
tâm, thì cũng như vậy. Ta chẳng thể thể nghiệm trực tiếp về tâm, nhưng ta có
thể thể nghiệm về các đặc tánh của tâm, các loại tư tưởng khác nhau. Mỗi ngày,
có bao nhiêu loại tư tưởng khởi lên, có bao nhiêu trình độ tư tưởng diễn ra?
Bạn hãy quan sát các loại tư tưởng đó. Đó là cách mà ta tìm hiểu trước nhứt về
tâm.
Ta khởi đầu nghiên cứu về tâm bằng cách quan sát các loại tư tưởng đang diễn ra
trong tâm. Tư tưởng đứng đắn của tâm diễn ra sao, còn các tư tưởng chẳng thích
đáng hiện ra cách nào? Các tư tưởng đó có bị cấu nhiễm hay chẳng bị cấu nhiễm?
Tâm đang nghĩ theo chiều hướng đứng đắn hay bất chánh, thiện lành hay dữ ác?
Hãy quán sát cho đến khi nào tìm biết được rõ tâm qua các loại tư tưởng mà tâm
có thể tư duy được. Thế thôi! Bạn chỉ biết sự thật đó đến chừng ấy, rằng bản
thể (dhamma jàti) của tâm (citta) là như thế. Đến giai đoạn nầy, nhờ sự tập
luyện về thân, kàya, và về cảm thọ, vedanà, (gây ảnh hưởng đến tâm), ta đủ khả
năng để hướng tâm theo điều ta mong muốn. Ta có thể khiến tâm suy tư theo nhiều
cách, hoặc dừng yên lại. Ta có thể khiến tâm trở nên mãn nguyện, hoặc bất mãn
nữa, nếu ta muốn. Tâm có thể thể nghiệm các giai tầng của nỗi mừng và niềm vui.
Tâm có thể an trụ, lắng yên, và định tĩnh theo nhiều cách và nhiều trình độ.
Cuối cùng, tâm có thể được giải thoát. Ta khiến cho tâm buông bỏ những sự việc mà
tâm đã mến yêu, oán ghét và bấu níu vào. Tâm được giải thoát khỏi tất cả các sự
việc đó. Đấy là bài học về các bí ẩn của tâm mà ta cần phải thực tập trong giai
đoạn III nầy của việc Quán tưởng Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati bhàvanà).
Bạn hãy học biết rõ tất cả các
trạng thái của tâm. Bạn nên có đủ khả năng để làm cho tâm trở nên thỏa thích và
bằng lòng. Rồi bạn hãy buộc tâm dừng lại và trụ yên đó. Sau hết, bạn hãy thúc
dục tâm buông bỏ hết mọi sự ràng buộc, tríu mến. Hãy ép buộc tâm phải buông bỏ.
Tâm buông bỏ các sự việc đã ràng buộc tâm, và các sự việc đã ràng buộc cũng
buông bỏ tâm ra. Đó là những gì cần phải làm để trở nên thiện xảo, lão luyện về
đề tài tâm, nơi bài học thứ ba của Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Giai đoạn IV: Thành tựu Pháp tối
cao (dhamma).
Sau khi đã học các bí ẩn của thân,
cảm thọ, và tâm, ta đến giai đoạn thứ tư bàn về Pháp (Dhamma). Như đã có nói
trước đây, Pháp, Dhamma, là Thiên nhiên trong mọi ý nghĩa của chữ nầy. Giờ đây,
ta nắm lấy sự thật về tất cả các sự vật đó, cái Chơn Lý Tối hậu của tất cả mọi
thiên nhiên, mọi bản thể, để nghiên cứu. Đây là điều mà ta thường gọi là
"học Pháp". Học nghiên cứu cả sự thật lẫn sự kiện nào là cái bí ẩn
tối cao của thiên nhiên. Với sự thông hiểu đó, ta có thể nhìn đời sống theo một
chiều hướng tốt nhứt. Ta phải nên học tập về bí ẩn của sự thật đang kiểm soát
đời sống, sự thật về vô thường, khổ, vô ngã, không và như thị (aniccam,
dukkham, anattà, sunnatà, tathatà).
Vô thường (Aniccam): biết tất cả
pháp hữu vi (= sự vật bị điều kiện hoá) đều chẳng thường hằng, và thăng trầm
luân lưu.
Khổ (Dukkham): biết tất cả pháp hữu
vi, nơi tự thân chúng, chẳng có đủ khả năng đáp ứng được nguyện vọng của chúng
ta.
Vô ngã (Anattà): biết tất cả muôn
pháp chẳng có tự ngã, chẳng có linh hồn.
Không (Sunnatà): biết tất cả đều
rỗng vắng, chẳng có tự thể, chẳng có cái "Ta", hoặc chẳng có cái gì
là "của Ta".
Như thị (Tathatà): biết đúng như
thế, biết muôn pháp là như thế đó.
Chung nhau lại. Các đặc tánh đó hợp
thành Chơn Lý Tối hậu. Ta phải quán sát các sự việc đó mãi cho đến khi nào
chúng được hoàn toàn nhận thức, hầu tâm trí chẳng còn bao giờ lạc mất hướng đi.
Khi đã thông suốt chơn lý của mọi thực tế rồi thì tâm trí chẳng còn lầm lẫn nữa
và luôn luôn biết theo đúng con đường chánh đạo.
Bạn có thể thấy hơi buồn cười, nếu
bảo rằng tất cả Chơn lý -- vô thường, khổ, vô ngã, không, như thị -- đều qui
kết về như thị (tathatà)(= như thế đó). Có lẽ bạn cũng thấy ngộ nghỉnh khi bảo
rằng Chơn Lý Tối hậu của muôn pháp trên hoàn vũ nầy đều rốt ráo quay về với sự
"như thế đó". (...) Toàn thể Chơn Lý gom gọn lại thành câu nói hằng
ngày, rất tầm thường nầy: "mọi sự việc là như thế đó". Chẳng có gì
được xem như: tốt hay xấu, đúng hay sai, lời hay lỗ, chiến bại hay chiến thắng,
phước báu hay tội ác, tích cực hay tiêu cực, khi ta nhìn đến Pháp tối cao nhứt.
Pháp ấy lại ở ngay tại đây, nơi câu nói "giản dị là như thế", bởi vì
sự "như thế đó" nó cao hơn và vươn lên khỏi mọi ý nghĩa về tích cực
và tiêu cực, lạc quan hay bi quan, vượt qua cả mọi luận cứ nhị nguyên. Đấy là
nét chấm phá sau cùng. Chơn lý cần phải biết đến ở giai đoạn IV nầy chính là sự
bí ẩn của thiên nhiên được diễn đạt thành một câu nói hết sức giản dị:
"muôn sự vật đều như thế đó, chỉ giản dị là như thế đó".
Giai đoạn đầu là thấy được Pháp đầy
đủ. Giờ đây, ta sẽ thấy tâm trí bắt đầu buông bỏ, bắt đầu nới lỏng các sự bấu
níu của nó. Các chỗ bấu níu đó sẽ tan biến đi. Điều nầy sẽ được thể nghiệm khi
bước vào thực tập về các sự bấu níu. Một khi các sự bấu níu đã được dẹp xong,
bước chót là thể nghiệm được điều mà "tâm trí được giải thoát, mọi việc
đều được giải thoát". Tuy nhiên, văn kinh lại dùng đến từ ngữ "quẳng
trả lại". Đức Phật có nói rằng, đến lúc cuối cùng, ta sẽ quẳng bỏ trả lại
tất cả". Ý nghĩa của lời nói đó là, bấy lâu nay, suốt đời, chúng ta đều là
phường trộm cắp, vì đã ăn cắp những sự vật của thiên nhiên, lấy đó làm
"của Ta", xem đó là "Ta". Chúng ta đã ngu khờ và vì thế mà
phải chịu đau khổ. Giờ đây, chúng ta trở nên khôn ngoan hơn nên mới biết từ bỏ
hết mọi sự vật. Chúng ta trả chúng lại hết cho thiên nhiên, và kể từ nay chẳng
bao giờ lại đi trộm cắp nữa. Đến bước cuối cùng nầy, chúng ta mới nhận thức
được ra rằng, "Ồ! Đó là của thiên nhiên, đâu phải của Ta." Và lúc ấy
chúng ta mới có thể quẳng trả lại hết về cho thiên nhiên.
Bước cuối cùng được kết thúc ở chỗ
đáng buồn cười nầy. Nó chấm dứt với việc chúng ta hết còn là phường trộm cắp
nữa, với sự giải thoát khỏi bất cứ hậu quả và ảnh hưởng nào của sự bấu níu,
ràng buộc. Bước cuối cùng của sự tập luyện phát triển Giác niệm về Hơi thở
(Ànàpànasati) chấm dứt tại đây. Học được bí ẩn của Pháp là học được sự hiểu
biết rằng chẳng có gì đáng để chấp thủ và rồi cũng chẳng chấp thủ vào bất cứ
gì. Tất cả đều được giải thoát. Vấn đề nay đã vào chung cuộc rồi và chấm dứt ở
đây.
Nếu chúng ta muốn lựa một tên để
đặt, ta sẽ nói đó là sự "giải phóng", sự "cứu rỗi". Dường
như tất cả mọi tôn giáo đồng có một mục đích và gọi đó bằng một tên chung. Với
chúng tôi, ý nghĩa của điều vừa được mô tả ở trên -- chấm dứt sự bấu níu và
quẳng trả lại tất cả về cho thiên nhiên -- là sự thông hiểu của chúng tôi về
giải phóng. Có lẽ các tôn giáo khác cũng gán cho sự giải phóng các ý nghĩa nào
khác nữa, nào ai đã biết chắc? Trong Phật giáo, giải phóng có nghĩa là giải
thoát ra khỏi mọi loại và mọi hình thức của sự bám chặt (chấp thủ) để chúng ta
có thể sống cuộc đời vượt lên trên thế gian nầy. Mặc dầu thân thể chúng ta còn
nương tựa vào thế gian nầy, nhưng tâm trí chúng ta vượt thoát lên khỏi đó. Như
thế, tất cả "vấn đề (khó khăn)" của chúng đều biến mất. Đấy là thể
thức phát triển tiềm năng cao nhứt của đời sống, bằng đường lối bốn giai đoạn
của sự thực tập. Còn nhiều chi tiết khác cần được cứu xét, nhưng tôi xin dành
lại vào các buổi pháp thoại sau nầy.
Hôm nay, tôi chỉ đưa ra một đại
cương tổng quát về những gì cần làm khi thực tập. Với các dữ kiện bối cảnh đó,
việc thực tập sẽ được dễ dàng hơn ở mỗi bước, mỗi giai đoạn. Giờ đây, tôi xin
kết thúc buổi pháp thoại nầy.