Hôm nay chúng ta sẽ bàn luận về bộ
bốn thứ tư, (4th tetrad) tức là bốn bước cuối cùng. Bộ bốn nầy đặc biệt nghiên
cứu và học tập về Pháp (Dhamma), tức là Chơn Lý. Các bạn còn nhớ, bộ bốn thứ
nhứt nghiên cứu về hơi thở và thân thể. Bộ bốn thứ hai nghiên cứu về các cảm
thọ là hậu quả của việc điều hoà các thân hành, tức là hơi thở. Tại đó, chúng
ta chỉ nghiên cứu về các cảm thọ của tâm, còn chưa xét đến chính cái tâm
(citta). Chúng ta đã nghiên cứu các tâm hành cho đến khi học tập được tất cả
những gì về sự chuyển biến cùng các điều kiện ảnh hưởng đến tâm. Nhờ đó, ta có
thể kiểm soát được các tâm hành (citta sankhàra), tức là những điều kiện đã gây
ảnh hưởng đến các tâm trạng. Bộ bốn thứ ba nghiên cứu về tâm (citta), và cách
điều phục, kiểm soát nó. Chúng ta đã nghiên cứu, học tập, phát triển, luyện tập
và thực hành nhiều cách để kiểm soát tâm. Giờ đây, tại bộ bốn thứ tư nầy, một
khi cái tâm đó đã được huấn luyện thuần thục và đã được hàng phục rồi, chúng ta
có thể dùng nó để nghiên cứu về Pháp, Chánh Pháp (Dhamma), tức là Chơn Lý của
Thiên nhiên. Bạn hãy nhìn thấy rõ bốn bộ bốn đó đã liên quan nhau mật thiết như
thế nào: trước nhứt là thân hành (kàya sankhàra), kế đó là tâm hành (citta
sankhàra), rồi đến chính cái tâm (citta), và sau chót là Pháp (Dhamma), những
sự kiện chơn lý (sacca dhamma) về Thiên nhiên (Dhamma jàti).
Cách lập luận ở đây cũng giản dị
thôi. Một khi tâm đã chịu ở dưới quyền lực của chúng ta rồi, và ở trong vòng kiểm
soát của chúng ta, thì ta có đủ khả năng xử dụng tâm ấy để làm việc được. Do
nhờ thực tập bộ bốn thứ ba, do nhờ khả năng tập trung tâm vào định lực, mà tâm
đã có được khá nhiều sự linh hoạt, sẵn sàng hành động (kammaniyo). Tâm trở nên
thích hợp và sẵn sàng để hoàn tất nhiệm vụ của nó. Trong tiếng Pali, có một
tĩnh từ chỉ rõ tình trạng đó, là mudu có nghĩa là mềm dịu, nhu nhuyến. Trước
kia, tâm thô phù và cứng rắn, nay tâm trở nên nhu nhuyến, và tế nhị. Tâm nay
rất nhạy cảm và nhanh nhẹn, trong một tình trạng sẵn sàng để được xử dụng. Vì
lẽ đó, ta dùng nó để thi hành công tác nơi bộ bốn thứ tư nầy, mà nhiệm vụ đầu
tiên chính là để quán tưởng về vô thường.
Đặc tánh vô thường của giác niệm về
hơi thở (Ànàpànasati).
Nguyên tắc căn bản được dùng trong
toàn bộ sự thực tập nầy là xử dụng ngay những sự vật đã sẵn có ở bên trong
chúng ta, để dùng làm đối tượng khảo sát và thực tập. Ta chẳng thích dùng đến
các ngoại vật. Một khi ta đã hiểu rõ bên trong rồi, thì ta có thể ngoại suy ra
đến bên ngoài. Xin đừng bao giờ quên nguyên tắc quan trọng nầy: ta cần nên cứu
xét rõ sự vật đang hiện hữu bên trong. Vậy thì, với bước thực tập nầy, về quán
tưởng vô thường (aniccànupassì), ta sẽ quay lại với bước khởi đầu.
Trước nhứt, ta quán sát hơi thở,
chỉ hơi thở thôi, cho đến khi nào ta thấy rõ ra được hơi thở ấy là vô thường.
Ta quan sát thấy hơi thở thay đổi và trở nên dài: nó vô thường. Chiều dài cũng
thay đổi, trở nên dài hơn hoặc ngắn hơn. Chiều ngắn cũng thế, cứ thay đổi luôn.
Các tình trạng và đặc tánh khác nhau của hơi thở đều vô thường. Ảnh hưởng của
hơi thở đến thân thể cũng vô thường. Kế đến, ta quán sát cả hai thân -- thân
thể chất và thân hơi -- cũng đều vô thường. Rồi ta canh chừng để nhìn thấy sự
êm dịu của hơi thở, lại cũng vô thường, và điều nầy rất ư là rõ rệt. Hơi thở
biến đổi từ sự thô phù chuyển sang sự êm dịu, nhưng ngay cả sự êm dịu nầy cũng
vô thường nữa. Nó liên tục cứ biến đổi mãi sang thành các trạng thái khác. Bạn
hãy quán tưởng mỗi lần một bước, cho đến khi nào mỗi giai đoạn được nom thấy rõ
ra là vô thường.
Cuối cùng, các cảm thọ Hỉ (nỗi mừng) và Lạc (niềm vui) khởi lên. Hãy xem xét
chúng cho kỹ, lần lượt từng cái một. Hãy nhìn thấy ra vô thường trong mỗi khía
cạnh của các cảm thọ (vedanà) đó. Hãy quán tưởng đặc tánh vô thường trong việc
các cảm thọ nầy đã gây ảnh hưởng đến tâm. Sự lắng dịu của các cảm thọ Hỉ, Lạc
nầy cũng vô thường.
Tiếp đến, ta quán sát chính cái
tâm, nó cũng vô thường nốt. Tâm hân hoan, tươi mát là vô thường, khi nó thay
đổi thành tâm an lạc và sảng khoái. Hãy quán tưởng sự vô thường của vẻ hân hoan
và sảng khoái, cùng các tình trạng và hương vị khác nhau của chúng. Định tâm
cũng vô thường, khi nó ngã sang tình trạng mất định lực. Sự linh hoạt của định
lực (samàdhi) cũng gặp ngay sự vô thường phát khởi ở trong nó. Ngay cả tâm giải
thoát cũng vô thường, vì sự giải thoát cho tâm chỉ tạm thời.
Hãy nhận thức rõ rệt sự vô thường
ngay ở mỗi một bước, ngay ở mỗi một giao điểm, giai đoạn và phương diện của sự
thực tập nầy. Hãy khiến cho sự vô thường của mỗi bước trở nên tuyệt đối rõ
ràng, rất mực hiển nhiên và hoàn toàn chắc chắn. Đây là cách ta nên quán tưởng
như thế nào về sự vô thường của các hiện tượng tâm linh tạm bợ được gọi chung
dưới danh từ là chư hành (sankhàra). Tại bước thứ mười ba tiếp theo đây, chúng
ta sẽ quán tưởng về sự vô thường của các hành (sankhàra) đó.
Cùng với vô thường, còn có các đặc
tánh khác nữa.
Giờ đây, bạn hãy quán sát để thấy
rằng, trong việc nhận thức về vô thường, còn có sự nhận thức nhiều đặc tánh
khác nữa. Khi sự vô thường (aniccam) được thực sự nhìn thấy, thì đặc tánh nầy
cũng là đặc tánh của sự khổ sở (dukkham) nữa, tức là nó vừa xấu xí lại vừa làm
ta chẳng chịu nổi. Ta lại còn thấy cả đặc tánh vô ngã (anattà) ở trong đó nữa,
bởi vì các sự vật đó cứ thay đổi luôn, vô thường, bất toại nguyện, và vượt ngoài
vòng kiểm soát của ta. Rồi ta lại sẽ thấy chúng đều khiếm khuyết một tự ngã, đó
là sunnatà, đặc tánh rỗng không. Ta sẽ thấy chúng cứ là như thế, chỉ là như
thế, giống là như thế vậy thôi. Sự vô thường chỉ là như thế, chỉ giống như thế,
và do đó ta thấy được đặc tánh như thị (tathatà) (= cứ như thế).
Xin bạn hãy thông hiểu rõ ràng điều
nầy: các chơn lý vừa kể trên đều được nhận thức ra có liên hệ với nhau thật
chặt chẽ. Nhờ thấy được đặc tánh vô thường, ta thấy được các đặc tánh khác như
bất toại nguyện, vô ngã, rỗng không, như thị, đồng thời ta cũng thấy ra được
đặc tánh điều kiện hoá (idappaccayatà, conditionality), tức là qui luật nhân
quả. Mỗi đặc tánh tiếp diễn theo ngay vào trong đặc tánh kế sau. Một sự nhận
thức đầy đủ về vô thường cần phải bao gồm vào trong nó các đặc tánh bất toại
nguyện, vô ngã, rỗng không, như thị, qui luật của sự điều kiện hoá. Khi tất cả
các đặc tánh đó đồng thời được ta nom rõ thật đầy đủ, thì đặc tánh vô thường đã
được ta thấy ra một cách sâu xa nhứt. Đó là cách mà ta cần phải nhận thức rõ
ràng như thế nào về đặc tánh vô thường của chư hành (sankhàra, các hành).
Chúng tôi đã giải thích về chư hành
(sankhàra) và ta đã thực tập về đề tài nầy rồi. (Xin xem lại hai tiểu mục: Giải
thoát tâm, và Bốn loại ràng buộc ở cuối bài pháp số 5). Các loại nguyên nhân,
điều kiện, và các thành tố cần được "pha chế" vào hợp thể, phải được
biết rõ mới xử dụng đúng mức danh từ "chư hành" (sankhàra). Đặc tánh
của các tác viên tạo điều kiên gây thành ảnh hưởng (the conditioners) là sự vô
thường. Đặc tánh của các sự vật bị điều kiện hoá (tức là gánh chịu ảnh hưởng
của điều kiện) (the conditioned) cũng là vô thường. Đặc tánh của cái tác động,
hay là tiến trình của sự điều khiện hoá (tức là tác động của các điều kiện lên
trên sự vật) (the conditioning) lại cũng là vô thường. Nhìn thấy ra được cả ba
khía cạnh ấy thật rõ ràng như thế đó mới gọi là nhận thức được đặc tánh vô
thường một cách sâu xa và đầy đủ nhứt.
Nếu giản dị chỉ nhìn thấy riêng một mình vô thường (aniccam) mà chẳng nom thấy
rõ được các đặc tánh khác đồng khởi với nó, thì cũng chẳng có gì là lạ, là khác
thường cả. Nhận thức được vô thường (aniccam) đầy đủ cần phải bao trùm cả các
sự nhận thức về khổ sở (dukkham), vô ngã (anattà), rỗng không (sunnatà), như
thị (tathatà), và điều kiện hoá (idappaccayatà, có nguyên nhân nguồn gốc
là...). Nếu chỉ thấy riêng vô thường (aniccam), trong một cái nhìn thiếu sót,
chẳng hàm chứa khổ sở (dukkham), và vô ngã (anattà) vào bên trong thì cái nhìn
đó chẳng sâu xa, chẳng đầy đủ, để có thể giải quyết các vấn đề của chúng ta.
Như thế, trong khung cảnh bài nầy, chữ "nhận thức vô thường" phải
thật sâu rộng để trùm hết các sự nhận thức về khổ sở (dukkham), vô ngã
(anattà), rỗng không (sunnatà), như thị (tathatà) và điều kiện hoá
(idappaccayatà) nữa.
Có một câu chuyện có lẽ sẽ đem đôi
chút hứng thú đến các bạn. Trong Kinh Tạng (Suttanta pitaka), hệ Pali, Đức Phật
có nhắc đến một vị đạo sư vào thời đó, tên là Araka, có giảng dạy về vô thường,
cũng nhiều như Đức Phật đã giảng; nhưng ông ta dừng lại chẳng đi xa hơn và
chẳng nói gì về khổ sở (dukkham) và vô ngã (anattà). Điều thú vị là vào thời
Đức Phật, cũng có một nhà hiền triết Hy lạp tên là Heraclitus. Đức Phật bảo
rằng Araka đã giảng dạy, tại một lãnh thổ xa xôi, về vô thường, xem đó như là
một dòng đang trôi chảy. Có lẽ Đức Phật muốn nói đến Heraclitus, mà điểm chánh
yếu trong lời giáo huấn của ông là panta rhei (tiếng Hy lạp, nghĩa là
"muôn sự vật đều trôi chảy" hoặc "tất cả là dòng lưu
chuyển"). Tuy nhiên, nhà hiền triết nầy chỉ giảng về vô thường và chẳng
nới mở rộng thêm cái nhìn sâu sắc để bao trùm cả khổ sở dukkham), vô ngã
(anattà), không tánh (sunnatà), và như thị (tathatà). Như thế, lời giáo huấn ấy
còn chưa thành công. Nếu không, thì đã có một vị Phật khác ra đời ở đấy, vào
thời buổi đó rồi. Kiến thức về vô thường được lan rộng ở khắp nơi cả trong và
ngoài nước Ấn độ. "Lãnh thổ xa xôi" nói trong Kinh tạng, có lẽ là đã
chỉ vào một nước quốc gia ngoại bang nào đó, và tôi dựa vào điều nầy để xem như
Araka và Heraclitus là một người.
Vậy, có nhiều triển vọng để Araka,
người được Đức Phật nói đến, chính là Heraclitus. Bạn nào có lưu tâm đến thì có
thể tra cứu thêm trong lịch sử triết học Hy lạp. Dầu sao, điểm cốt yếu là nếu
chỉ nhìn riêng về vô thường thôi thì chưa đủ. Ta cần phải thấy rõ vô thường
(aniccam) đang rạng chiếu lên khổ sở (dukkham), vô ngã (anattà), không tánh
(sunnatà), và như thị (tathatà) -- cả một chuổi dài trọn vẹn của sự nhận thức.
Võn vẹn mấy chữ aniccànupassi, sự quán tưởng về vô thường, mà bao hàm hết được
sự nhận thức về bất toại nguyện, vô ngã, rỗng không, như thị, và cả điều kiện
hoá nữa.
Sự tan rả của ràng buộc.
Giờ đây, xin hãy quán sát -- nghiên
cứu thật tường tận cho đến khi thấy rõ được -- rằng sự nhận thức về vô thường
(aniccam) làm tan rả được upàdàna, sự ràng buộc. Đây là điểm chủ yếu. Nhận thức
được vô thường (aniccam) làm tan rả các ràng buộc, bởi vì đó là sự nhận thức về
các hình phạt, khổ đau, và xấu ác của sự ràng buộc. Upàdàna, (ràng buộc) tan rả
từ từ cho đến khi còn rất ít, rất ít, lưu lại. Đấy là thành quả của nhận thức
về vô thường. Thành quả đó khiến ta càng ngày càng mệt mõi và chán ngấy với
những sự vật mà ta cứ tiếp tục ràng buộc mình vào, và cùng với những sự vật mà
ta còn bị trói buộc. Upàdàna (ràng buộc) bắt đầu tan rả và đó là kết quả của
việc thật sự nhìn thấy rõ ra được vô thường.
Giờ đây ta đến bước thứ hai của bộ
bốn cuối cùng nầy, tức là bước thứ mười bốn trong toàn bộ Pháp Giác Niệm về Hơi
thở (Ànàpànasati) liên quan đến việc quán tưởng về sự phai nhạt (viràgànupassi,
quán tưởng về vô chấp thủ). Điều nầy đã bắt đầu được quán sát rồi ở bước thứ
mười ba khi sự quán tưởng về vô thường đã đưa đến sự tan rả các ràng buộc (=
các chấp thủ). Giờ đây, ta đặt tiêu điểm lên trên sự kiện tan rả (viràga) để
soi chiếu kỹ lưỡng. "Vi" có nghĩa là "chẳng", là "vô"
(chữ Hán Việt), là "chẳng có". "Ràga" là tên khác của chữ
ràng buộc, của chữ"chấp thủ"."Viràga" có nghĩa là
"chẳng có ràng buộc", là "vô chấp thủ". Nhìn vào ràng buộc
đang tan rả cũng tựa như xem các đốm dơ trên tấm vải đang từ từ phai nhạt dần.
Các đốm dơ nhiều màu sắc đó chầm chậm phai mờ, tái nhạt dần dưới ánh sáng mặt
trời, cho đến khi tấm vải trở nên trắng lại. Đây chỉ là một thí dụ vật chất về
Viràga (tức là sự vô chấp thủ, sự chẳng có ràng buộc, hoặc là sự cởi mở).
Nó giúp ta hiểu rõ thêm về mặt tinh
thần của sự tàn lụn lần lần của mọi ràng buộc. Upàdàna, sự bám níu, sự chấp
thủ, tan rả dưới ánh quang minh của trí huệ soi chiếu vào muôn sự vật đúng như
thât sự chúng là như thế -- vô thường, khổ sở, vô ngã, không tánh, và như thị
-- aniccam, dukkham, anattà, sunnatà, tathatà. Ta biết rằng sự bám níu (chấp
thủ) sẽ bớt lần lần, khi tâm ta trở nên bình đẳng đối với mọi hành (sankhàra),
tức là xem tất cả những vật mà ta luyến mến đều như nhau, (chẳng cái nào trọng
hơn cái nào). Nay chúng ta đã dứt bỏ được mọi thành kiến thiên vị, đối với tất
cả mọi sự vật, ta nhận thức được thế nào là sự phai nhạt, sự tàn lụn của mọi
bám níu ràng buộc. Hãy quán tưởng như thế với mỗi hơi thở vào và mỗi hơi thở
ra. Đấy là cách thực tập bước thứ mười bốn.
Thành quả của sự phai mờ, tàn lụn
của trói buộc, là sự ổn cố của tâm bình đẳng chẳng còn bám níu vào đâu nữa. Ta
có thể nhìn thấy một cách khá dễ dàng, thí dụ như đối với các sự vật mà trước
kia ta đắm say cuồng dục vào, nay đã bắt đầu phai mờ dần. Ta hết còn lo sợ các
sự vật mà trước kia khi chợt thấy ta đã hãi hùng. Từ từ ta bớt lo âu, càng ngày
càng ít đi, cho đến khi sự sợ hãi biến mất. Điều nầy cũng đúng với các tình cảm
khác như oán hận, khát vọng, ganh tị, lo âu, ưu sầu, luyến nhớ dĩ vãng, và v.v.
Mỗi tình cảm đó càng ngày càng bớt bộc lộ ra, co rút nhỏ lại, cho đến khi tâm
tư có đủ khả năng để tự giữ yên lặng và bất động. Có lẽ, bạn thấy rắc rối khi
nghe câu: tâm tư giữ yên lặng và bất động. Câu đó chỉ có nghĩa là: chẳng bám
chặt vào, chẳng bấu níu, chẳng xem bất cứ cái gì như là "Ta" hay là
"của Ta" cả. Hãy quán tưởng vô thường như thế, cho đến khi sự ràng
buộc của các sự vật mà ta bám níu đều tan rả hết, cho đến khi mà ta có thể giữ
được tâm tư yên lặng, bất động và bình đẳng.Đó là cách thực tập bước thứ mười
bốn nầy.
Sự dập tắt khổ sở (dukkha).
Giờ đây, ta đến bước thứ mười lăm,
quán tưởng đoạn diệt (nirodhànupassì), nghiên cứu và quán tưởng về sự đoạn diệt
các ràng buộc. Hãy quán sát sự chấm dứt của ràng buộc, sự vô chấp thủ, khi thở
vào và thở ra. Ta có thể quán sát sự đoạn diệt qua nhiều cái nhìn khác nhau về:
sự đoạn diệt của sự ràng buộc vào cái "Ta", sự đoạn diệt của lòng ích
kỷ, sự đoạn diệt của tham lam, sân hận, và si mê, cùng sự đoạn diệt của mọi
kinh nghiệm về sự khổ sở (dukkha). Tất cả các sự đoạn diệt nầy đều khởi lên
cùng một lúc với sự đoạn diệt của ràng buộc. Có nhiều hình thức của sự đoạn
diệt.
Khi ta nói đến sự diệt tận, ta nên
nhớ rằng, sự chấm dứt của khổ sở (dukkha) chính là sự thực tập về Pháp (Dhamma)
nầy. Ngay đây, ta quán sát các khía cạnh khác nhau của sự Khổ sở (dukkha) để
thấy chúng được dập tắt như thế nào. Khía cạnh thứ nhứt là sự chấm dứt của nỗi
lo sợ, hãi hùng về sanh, già, bịnh và chết. Già lão, bịnh tật và chết chóc
chẳng còn làm tâm ta khiếp sợ nữa. Đấy là một loại dập tắt được khổ sở. Khía
cạnh kế tiếp là sự chấm dứt các triệu chứng hay là các tình trạng của khổ sở,
như buồn bã, trách cứ, than vãn, thất vọng, âu sầu, đau đớn, bực tức và suy
giảm tinh thần. Tất cả các triệu chứng đó của Khổ sở được dập tắt. Khía cạnh
thứ ba có liên quan đến các niềm hi vọng, các món nhu cầu, đến các sự vật thích
thú hay chẳng hấp dẫn. Có kinh nghiệm về các sự vật mà ta chẳng ưa, là khổ sở.
Phải rời xa những sự vật mà ta thương thích, cũng là khổ sở. Chẳng có được các
điều ta cần, lại là khổ sở nữa. Các khía cạnh đó của Khổ sở cũng được dập tắt.
Sau rốt, ràng buộc vào năm uẩn
(panca khandha), đeo níu vào một uẩn (khandha) nào rồi xem đó như là
"Ta" hay là "thuộc về Ta", là khổ sở. Năm uẩn đó là tấm
thân thể chất, cảm thọ, tri giác, tư tưởng và ý thức về các giác quan. Chúng là
tổng số của mọi sự khổ sở, gánh nặng của đời sống. Một sự nhận thức đầy đủ về
bước thực tập nầy phải bao gồm hết bốn phương diện của sự dập tắt khổ sở. Dập
tắt sự hãi hùng về sanh, lão, bịnh và tử. Dập tắt các triệu chứng của khổ sở
như đau đớn, lo lắng, ưu sầu, và tuyệt vọng. Dập tắt mọi ước muốn, dục vọng về
các sự vật khả ái hay là đáng oán ghét. Sau cùng, dập tắt việc xem bất cứ uẩn
nào trong năm uẩn là "Ta". Khi bốn phương diện đó đã được dập tắt
xong, thì khổ sở cũng được dập tắt theo. Điều mà chúng ta vẫn đang khẩn thiết
mong đợi nay đã được thực hiện, ngay tại đây.
Như thế, ta nhận thức ra được tánh
cách rỗng rang, hay là sự bất hiện hữu của ràng buộc qua sự dập tắt, sự biến
mất và sự chấm dứt của ràng buộc. Ta thể nghiệm được sự vắng bóng của ràng buộc
trong bất cứ khía cạnh nào đã được nêu lên bên trên đây, trong khi ta thở vào
và thở ra. Hay giản dị hơn nữa, ta uống, nếm và thưởng thức hương vị của
Niết-bàn (Nibbàna). Hai chữ Đoạn diệt (Nirodha) và Niết-bàn (Nibbàna) đồng
nghĩa với nhau. Ta có thể dùng chữ nầy thay thế cho chữ kia. Như thế, quán
tưởng sự dập tắt mọi ràng buộc tức là quán tưởng Niết-bàn vậy.
Quẳng bỏ trả lại tất cả.
Ngay đây, ta đến bước thứ tư của bộ
bốn thứ tư, tức là bước thứ mười sáu của Pháp Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Bước nầy được gọi là sự quán tưởng quẳng ngược trả lại, Patinissaggànupassi.
Chữ Patinissagga cũng hơi ngộ nghĩnh! Nó có nghĩa là quẳng ngược về phía sau,
hay là hoàn trả lại. Khi ta tiến tới bước nầy, ta quán tưởng việc ta quẳng
ngược trả lại phía sau, việc ta hoàn trả lại tất cả những gì đã có một thời
ràng buộc ta. Đây là bước chót.
Có một ẩn dụ giản dị dùng để giải
thích bước thứ mười sáu nầy. Xuyên qua cả cuộc đời của chúng ta, chúng ta đều
là bọn trộm cả. Chúng ta đánh cắp các sự vật vốn hiện hữu một cách tự nhiên --
ở trong Thiên nhiên và thuộc về Thiên nhiên -- đó là chư hành (sankhàra). Chúng
ta cướp giựt chúng và lấy chúng làm cái "Ta" và làm tài sản của chúng
ta. Chúng ta chẳng là gì khác hơn là các tên trộm. Do lẽ đó mà chúng ta đang bị
trừng phạt vì Khổ sở. Chúng ta chịu đau đớn, thống khổ, do vì chúng ta đã đánh
cắp và tham luyến đến mức để bị ràng buộc. Một khi chúng ta đã quán sát để thấy
rõ các sự vật đúng như thật sự chúng đang là như thế, qua các bước liên tiếp
của bộ bốn nầy, thì chúng ta liền buông bỏ chúng được hết. Chúng ta thôi chẳng
còn là phường trộm cắp nữa. Chúng ta hoàn trả lại tất cả cho người chủ của thuở
ban đầu -- Thiên nhiên. Muôn sự vật đều thuộc về Thiên nhiên. Ta đừng bao giờ
đòi hỏi lấy chúng để làm "Ta" hay là "của Ta"nữa! Mục đích
của đời chúng ta đã được ẩn dụ nầy làm sáng tỏ thêm.
Đặt gánh nặng cuộc đời xuống.
Nếu các bạn thích, thì còn có một
ẩn dụ thứ hai nữa. Trong thời gian qua, chúng ta đã điên khùng đi lượm những
vật nặng như các hòn đá cuội nầy. Rồi chúng ta mang chúng theo kè kè bất cứ nơi
nào chúng ta đi đến. Vì lẽ đó nên chúng ta phải chịu khổ sở luôn luôn. Đã bao
năm trôi qua rồi như thế đó? Giờ đây, chúng ta mới nhận thấy thật là chúng ta
đã quá dại khờ tạo nên các vấn đề khó khăn cho chính chúng ta. Chúng ta nhận
thức được sự đè nén nặng nề của chúng lên chúng ta, va nay chỉ cần vứt bỏ chúng
đi hết. Thoát khỏi các gánh nặng đó, chúng ta trở nên nhe nhàng. Tất cả các vấn
đề khó khăn đó đều biến mất. Trước kia, đời sống xem như một gánh nặng. Trọn
đời ta cảm thấy như gánh nặng, cũng vì sự ngu khờ của chúng ta. Chúng ta đã đeo
dính các hành (sankhàra) tự nhiên đó, mang chúng đi khắp chốn làm cho chúng ta
phải oằn lưng lại một cách kinh khủng. Giờ đây, chúng ta quẳng chúng đi. Đấy là
một ẩn dụ khác nữa để mô tả bước cuối cùng của Pháp Giác niệm về Hơi thở
(Ànàpànasati).
Sự thực tập bước cuối cùng nầy là
để huấn luyện chúng ta quẳng đi gánh nặng của cuộc đời. Hãy quẳng đi cho hết
chẳng còn gánh nặng nào sót lại. Trước kia, ta sống dưới áp lực nặng nề của
chúng. Sức nặng của chúng đè nén chúng ta. Ta gọi cuộc sống như thế là đang
sống ở bên dưới thế giới, hay là đang đắm chìm sâu trong thế giới. Một khi
chúng ta đã quẳng đi các gánh nặng đang nhận chìm chúng ta xuống, đang giam giữ
chúng ta ở bên dưới thế giới, thì chúng ta mới trồi lên được. Và chúng ta vượt
khỏi lên trên thế giới, Chúng ta trở thành Chúa tể của thế giới. Đây mới thật
là ý nghĩa của tự do, giải thoát và an lạc.
Bạn cần phải cẩn thận nhớ kỹ ý
nghĩa của hai tình trạng đó. Sống ở bên dưới thế gian là cuộc sống trong vòng
thế tục (lokiya). Còn sống vượt lên trên thế gian là cuộc sống siêu thế
(lokuttara). Tất cả mọi vấn đề khó khăn liên quan đến hai ý nghĩa đó sẽ được
giải quyết trong khi thực tập bước thứ mười sáu nầy. Xin được nói thêm cho thật
rõ, mỗi khi chúng ta điên rồ, chúng ta đi thâu lượm các vật nặng và đeo chúng
lên để thành gánh nặng cho cuộc đời. Một khi chúng ta hiểu rằng chúng ta đang
bị hành hạ, thì chúng ta liền quẳng bỏ chúng hết. Giờ đây, chúng ta chẳng còn
mang gánh nặng nào. Sống ở bên dưới thế gian và sống vượt lên khỏi thế gian, cả
hai có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Bất cứ ai muốn được tự do, giải thoát,
thoải mái, sống vượt lên bên trên thế gian, cần phải nên nỗ lực hết sức mình để
thực tập vấn đề nầy, càng nhiều càng tốt, và bắt đầu ngay bây giờ đây.
Sự giải thoát tối thượng.
Nếu bạn thích danh từ "giải
phóng" (emancipation), thì bạn hãy ý thức rằng đây chính là con đường giải
phóng. Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) khi được thực tập thành công ở bước
cuối cùng nầy mang lại sự giải phóng. "Giải phóng" là một danh từ
thời thượng ngày nay, người ta thích dùng đến luôn. Khi chúng ta được giải
phóng khỏi mọi trói buộc, thì hoặc chúng ta buông bỏ mọi gánh nặng, hoặc chúng
ta vượt thoát được các gánh nặng ấy. Dầu sao thì "buông bỏ" hay
"vượt thoát" ý nghĩa cũng tựa như nhau. Khi có buông bỏ thì kết quả
là có sự giải phóng, hay nếu bạn muốn, thì nói là có sự cứu rỗi, cứu độ, giải
thoát, v.v. Dầu danh từ nào được dùng đi nữa, thì cũng đều có nghĩa là chúng ta
đang bắt gặp được một sự việc tốt nhứt, hoàn hảo nhứt mà nhơn loại có thể có
được. Chúng ta đã không lãng phí cuộc đời của chúng ta, chúng ta đã chẳng bỏ
trôi qua cơ hội khám phá ra Chánh Pháp (Dhamma), là điều tối hảo mà nhơn loại
cần phải đạt đến. Đấy là phần chung cuộc của câu chuyện.
Xin phép được chấm dứt buổi pháp
thoại ở đây.