Hôm nay, tôi xin nói về các bước
thứ ba và thứ tư trong bộ bốn thứ nhứt (1st tetrad), tức là các bước còn lại có
liên quan đến Thân (Kàya).
Bước thứ ba: Thể nghiệm mọi thân.
Trong bước thứ ba, mục tiêu là sự
thể nghiệm tất cả các Thân (Kàya). Cốt lõi của bước nầy là trong khi thở vào,
thở ra, hành giả cảm nhận đến tất cả thân (Kàya, nhóm, tập hợp). Ta đã bắt đầu
quan sát, trong khi thực tập hai bước đầu tiên, rằng hơi thở là một tác viên
gây điều kiện đến tấm thân vật chất bằng xương bằng thịt của chúng ta. Và bước
thứ ba nầy cũng chẳng có gì mới mẻ, ta sẽ giản dị quan sát thêm cho sâu xa, rõ
ràng, và thận trọng hơn trong hai bước trước. Ta quán tưởng một cách phân biệt
rõ ràng hơn về sự kiện là ta có hai thân (Kàya). Liên tục, chẳng gián đoạn, bạn
hãy quan sát điều đó trong khi thở vào và thở ra.
Hành giả phải nên nhớ lại một cuộc
quan sát mà ta đã thể nghiệm trước đây, nhớ lại sự kiện là hơi thở là động lực
tạo nên điều kiện, gây ảnh hưởng đến tấm thân xác thịt. Ta sẽ phân biện rõ giữa
hai sự vật (thân và hơi thở), nhưng ta lại gọi cả hai là thân, là kàya. Hơi thở
là một thân, với nghĩa, đó là một sự tập họp, một nhóm. Thân thể chất cũng là
một thân, một kàya, vì đó cũng là một sự tập họp (nhiều cơ quan, bộ phận). Có
hai nhóm, hay là hai thân: một nhóm là hơi thở gây ảnh hưởng đến nhóm kia là
tấm thân thể chất. Bạn hãy phân tách kinh nghiệm nầy để thấy thật rõ ràng rằng
hiện có hai nhóm, hay hai thân. Và hãy xem cho rõ hai thân đó đã ảnh hưởng lẫn
nhau như thế nào. Hãy quán tưởng đến chúng, một cách càng ngày càng nhấn mạnh,
cho đến khi nào thấy được thật hiển nhiên.
Khi nghe nói đến từ ngữ
"thân" (Kàya), xin bạn hãy hiểu từ ngữ đó bao trùm ý nghĩa của chữ
"nhóm". Trong văn kinh thuộc Kinh điển hệ Pali, Đức Phật dùng chữ
kàya như vầy: sabbakàyampatisamveti (thể nghiệm mọi thân) (...) Từ ngữ nầy
chẳng phải chỉ áp dụng riêng cho tấm thân vật chất của con người mà thôi, lại
còn ứng dụng vào các sự vật khác nữa. Thí dụ như trong tiếng Pali, một đội quân
lính cũng là kàya, một kàya quân lính. Kàya, thân, có nghĩa là một nhóm, một
đống, một tập hợp; xin đừng hiểu một cách hạn chế chữ ấy như chỉ là một tấm
thân xác thịt. Hơi thở được gọi là thân, (Kàya) hoặc một nhóm. Muốn hiểu được
"thể nghiệm mọi thân" là gì, ta cần phải biết nghĩa đúng đắn của chữ
"thân" rồi mới thấy được cả hai nhóm, nhóm hơi thở và nhóm thân thể.
Mục tiêu đặc biệt của bước thứ ba
nầy là ta phải biết rằng có hai nhóm và một nhóm nầy lại nuôi dưỡng, hộ trì và
tạo nên điều kiện có ảnh hưởng đến nhóm kia. Nhóm hơi thở nuôi dưỡng nhóm thân
thể. Thật ra, ta đã có kinh nghiệm về điều đó ngay từ khi mới bắt đầu thực tập
Quán tưởng Giác niệm về hơi thở (Ànàpànasati). Trước đây, ta đã thể nghiệm rằng
khi hơi thở thô phù thì thân thể trở nên trầm trệ và khi hơi thở được tế nhị thì
thân thể lắng dịu xuống. Ta đã quan sát các sự kiện đó trong khi thực tập bước
thứ nhứt và bước thứ hai. Tại bước nầy, ta đặt nặng sự quan tâm đến bí ẩn đó
cho đến khi nào nó trở thành rõ ràng tuyệt đối. Có hai nhóm. Một nhóm nuôi
dưỡng và gây ảnh hưởng đến nhóm kia. Bạn hãy biết rõ chỗ sai biệt giữa chúng.
Ba nghĩa của chữ Hành (sankhàra).
Chúng ta đang làm một thí nghiệm
nội tâm về hai thân đó đang ảnh hưởng hỗ tương lẫn nhau. Cái thân làm nguyên
nhân gây ra điều kiện có ảnh hưởng được gọi là thân hành (kàya sankhàra), để
phân biệt với tấm thân kia, cái thân đang chịu ảnh hưởng, đang nhận lấy các
điều kiện, được gọi là thân bị điều kiện hoá. Bạn hãy nghiền ngẫm trong tâm sự
kiện đó, xem nó như một cái gì bằng vật chất có thể sờ mó, tiếp xúc đến được. Bạn
hãy thấy cho thật rõ một nhóm nầy đang gây điều kiện và điều dưỡng nhóm kia.
Bạn hãy thấy cho thật rõ cả hai cùng khởi lên một lượt, cùng biến diệt một
lượt, cùng trở nên thô phù một lượt, cùng trở nên tế nhị một lượt, cùng tiến
triển một cách thoải mái, và cùng trở nên bất an cũng một lượt. Bạn hãy nhận
thức cho rõ chúng liên hệ thật mật thiết với nhau như thế nào. Đấy là tất cả
những gì cần phải hiểu thật rõ về ý nghĩa của câu nói "thể nghiệm mọi
thân". Canh chừng cả hai thân và thấy rõ chúng đang ảnh hưởng lẫn nhau.
Điều nầy thật là cần thiết để có thể thấy được Chơn lý một cách quảng bác hơn,
tức là, nhận thức được đặc tánh vô ngã (anatta). Khi quan sát đúng đắn mối
tương quan đó, ta thấy rõ những gì xảy ra chỉ giản dị là một tiến trình tự
nhiên tạo nên ảnh hưởng. Chẳng hề có một tự ngã (atta) nào, chẳng hề cái
"Ta" nào, cũng chẳng hề có một cái gì thường được gọi là "linh
hồn" trong đó cả. Sự thông hiểu nầy vô cùng hữu ích, mặc dầu điều đó vượt
hơi xa đối với mục tiêu hiện tại của bước thực tập nầy. Hiện giờ, ta chỉ cần
thông hiểu về sự kiện tạo điều kiên gây ảnh hưởng, vừa đủ để ta có thể điều
chỉnh thân thể, tức là tấm thân xác thịt, xoa dịu để lắng yên nó, bằng cách
điều chỉnh lấy thân hơi, tức là cái nhóm hơi thở.
Tôi muốn nhơn cơ hội nầy bàn luận
thêm về ba nghĩa của chữ Hành (Sankhàra). Đây là một danh từ hết sức thông dụng
và quan trọng trong Kinh điển hệ Pali, nhưng có lắm người gặp khó khăn với chữ
nầy, vì nó được dùng đến với nhiều nghĩa khác nhau. Ngôn ngữ thì thường là như
thế, chẳng được chắc chắn và ít đáng tin cậy. Có mỗi một chữ Hành, Sankhàra, mà
có đến ba nghĩa:
(1) nghĩa: tác viên gây điều kiện,
tức là nguyên nhân đã tạo điều kiện để gây ra ảnh hưởng;
(2) nghĩa: điều kiện, tức là tình
trạng kết quả của động tác đã gây ra ảnh hưởng;
(3) nghĩa: tác động của điều kiện,
tức là chính các động tác trong tiến trình tạo thành ảnh hưởng.
Ta có thể dùng chữ Hành, Sankhàra ấy để nói đến vấn đề các điều kiện gây thành
ảnh hưởng, vừa chủ thể gây ảnh hưởng, vừa đối tượng chịu ảnh hưởng và cả cái động
tác gây ra ảnh hưởng nữa. Như thế thì dễ cho các bạn lầm lẫn thật, nhưng xin
bạn hãy cứ nhớ chữ Sankhàra, Hành, có đến ba nghĩa, và cái nghĩa đúng của nó
thì còn tùy theo vị trí của nó trong khung cảnh của bài văn. Kiến thức nầy rất
có ích cho sự nghiên cứu sau nầy của bạn.
Bạn hãy học tập về ba nghĩa đó của
chữ Hành ngay trên tấm thân thể chất của bạn. Đâu cần gì phải nghiên cứu trong
sách vở, hoặc theo một đường lối lý thuyết nào. Thân thể nầy chính là một hành
(sankhàra). Nó bị điều kiện hoá bởi một số các nguyên nhân và bởi các yếu tố đã
tạo nên nó. Do đó, thân thể nầy là một hành, với nghĩa là một điều kiện, một
tình trạng chịu điều kiện hoá. Khi thân thể nầy hiện hữu, nó chính là nguyên
nhân làm khởi sanh lên nhiều sự việc khác, như tư tưởng, cảm thọ, và hành động.
Nếu chẳng có tấm thân nầy thì các tư tưởng và hành động chẳng thể nào hiện khởi
được. Do đó thân thể nầy là một tác viên tạo điều kiện, bởi vỉ chính nó đã gây
nên các động tác vừa nói. Sau cùng, ngay trong tấm thân hành (sankhàra kàya) bằng
xương thịt nầy của chúng ta, hiện đang diễn ra một tiến trình điều kiện hoá
chẳng ngừng. Vậy ta có thể khám phá ra ba phương diện của Hành (Sankhàra) ngay
trong thân thể. Bạn hãy nghiên cứu nghĩa của Hành theo cách bao quát hàm súc
đó. Rồi bạn sẽ thấy việc nhận thức về Pháp (Dhamma) càng ngày càng thâm sâu
hơn, sẽ được dễ dàng và tiện lợi, khi bạn tiến triển trên đường tu tập.
Thể nghiệm Hành (sankhàra).
Nơi bước thứ ba -- "thể nghiệm
mọi thân", thể nghiệm cả hơi thở và thân thể -- mỗi ý nghĩa trong ba nghĩa
vừa nói của chữ Hành, (Sankhàra) được thực tập. Trước nhứt, ta quán sát thân
thể chất như một sự vật được điều kiện hoá bởi hơi thở. Kế, ta xem hơi thở như
một tác viên gây nên điều kiện có ảnh hưởng đến thân thể. Và sau chót là chúng
ta quan sát cái tác động điều kiện hoá luôn luôn xảy ra cho cả hai, hơi thở và
thân thể. Như thế, trong việc thực tập bước thứ ba, ta thấy rõ được cả ba: điều
kiện, chủ thể gây điều kiện và động tác tạo ra điều kiện. Sự điều kiện hóa của
thân thể là giai tầng vật lý của hành (sankhàra). Ta còn chưa thấy việc nầy ở
giai tầng tâm linh. Bước thứ ba chính là việc làm để thấy được, ngay trong nội
tâm ta, đủ cả ba giai tầng đó khởi lên đồng thời và liên tục. Rồi thì ta sẽ
thấy được mọi sự việc về Hành, nhứt là khi nó liên quan đến thân (Kàya) và các
động tác của thân ấy, ngay tại bước thứ ba nầy.
Khi ta nghiên cứu kỹ lưỡng sự kiện
đó cho đến lúc thấy nó thật rõ ràng, hiển nhiên và hiểu biết nó một cách phổ
quát như đã được giải thích trên đây, thì ta mới có thể thể nghiệm cùng một lúc
cả ba sự kiện đó. Ngay trong khoảng thời gian của một hơi thở vào hoặc hơi thở
ra, ta cũng có thể thể nghiệm cả ba sự kiện đó "thẳng một lèo" trong
một hơi thở duy nhứt. Nếu ta có khả năng làm được như thế, thì ta đang
"thể nghiệm trọn vẹn thân hành (kayà sankhàra)" (tức là cái thân gây
điều kiện ảnh hưởng). Và như thế, ta đã hoàn tất được trọn vẹn bước thứ ba.
Cốt lõi của việc thực tập bước thứ
ba là để hiểu biết được có hai thân (kàya) và biết cách điều chỉnh một thân
(kàya) nầy qua sự điều chỉnh thân (kàya) kia. Nói cách khác, ta có thể điều
chỉnh thân thể (tấm thân xương thịt) qua thân hơi (hơi thở vào và ra). Một khi
ta biết chắc về điều nầy, một khi ta đã thấy điều ấy rõ ràng rồi, một khi ta đã
tin chắc vào sự thể nghiệm của ta về mỗi hơi thở vào, mỗi hơi thở ra, thì ta đã
thành công trong việc thực tập bước thứ ba nầy.
Bước thứ tư: Làm dịu hơi thở.
Sau khi đã biết được rằng ta có thể
điều chỉnh thân thể bằng thân hơi, ta bắt đầu thực tập bước thứ tự Đức Phật mô
tả bước thứ tư nầy như là "làm dịu thân hành, passambhayam
kàyasankhàram". Ta có thể làm như thế được, một khi đã biết rõ rằng, khả
dĩ dùng thân hơi để kiểm soát thân thể.
Đầu đề của bước thứ tư là làm dịu
thân hành (Kàya sankhàra) trong khi thở vào và làm dịu thân hành trong khi thở
ra. Điều đó có nghĩa là ta có thể làm cho thân hành (hơi thở) êm dịu hơn, và êm
dịu hơn nữa, cùng một lúc với khi ta hít vào và thở ra. Đây là vấn đề mà tôi
sắp giải thích.
XIn hãy lưu ý đến cách hành văn mô
tả bước thứ tư "làm dịu thân hành" là muốn nói đến sự làm dịu thân
hơi, làm dịu các hơi thở ra và vào. Tại bước thứ tư, mục đích của việc thực tập
là khiến hơi thở êm dịu lại. Ta làm cho hơi thở trở nên tế nhị và an hoà bằng
cách xử dụng các kỹ thuật có sẵn. Nếu ta làm êm dịu được hơi thở, thì sẽ có
được nhiều kết quả khá thích thú và mạnh mẽ. Trước hết là thân thể trở nên thư
giãn, êm ả và rất dễ thương. Kế đó, một sự lắng yên tâm tư lại khởi lên. Lại
còn nhiều kết quả khác nữa, nhưng tôi xin gát lại về sau sẽ nói đến. Bài học
tức thời hôm nay là làm êm dịu hơi thở. Biết cách điều lý hơi thở là điểm quan
trọng nhứt cần phải cứu xét trong việc thực tập bước thứ tự
Năm kỹ thuật khéo.
Khi thực tập bước thứ tư, ta có các
loại phương pháp hay phương tiện -- ta còn có thể gọi chúng là các xảo thuật
nữa -- để xử dụng trong việc làm êm dịu hơi thở. (...) Có tất cả năm kỹ thuật
khéo để làm hơi thở êm dịu lại và năm kỹ thuật đó được xếp vào năm giai đoạn:
1.- theo dõi hơi thở;
2.- canh giữ hơi thở ở một điểm nào
đó;
3.- làm khởi lên một tâm ảnh (định
tướng, nimitta) tại điểm đang canh giữ đó;
4.- vận dụng các hình ảnh đó theo
bất cứ cách nào cũng được, cốt để ta có thể điều khiển, kiểm soát chúng;
5.- chọn một trong các hình ảnh đó
và quán tưởng về nó một cách thật chú tâm, cho đến khi hơi thở trở nên thật sự
êm dịu và an hoà.
Đây là năm kỹ thuật: theo dõi, canh
giữ, khởi lên tâm ảnh, vận dụng các tâm ảnh và chọn một tâm ảnh là đối tượng
đặc biệt của định lực (samàdhi) cho đến khi nào có được sự hoàn toàn êm dịu.
Về giai đoạn thứ nhứt -- theo dõi
hay đuổi theo hơi thở -- ta đã làm ngay tự lúc mới bắt đầu thực tập. Với các
hơi thở dài và hơi thở ngắn, ta nên săn đuổi theo, hoặc theo dõi chúng. Nay, ta
chỉ cần ôn và duyệt lại cho đến khi nào ta trở nên thành thạo, thuần thục trong
việc theo dõi hơi thở. Chẳng cần phải giải thích dài dòng thêm, vì ta đã xét kỹ
qua các bước thứ nhứ, thứ hai và thứ ba rồi.
Kỹ thuật thứ nhì về sự canh giữ là
chọn một điểm trên lộ trình của hơi thở và canh chừng, hay là giữ gìn hơi thở
ngay chỗ đó. Ta chẳng còn cần phải theo dõi hơi thở nữa, nhưng kết quả cũng vẫn
như là ta đang theo dõi chúng vậy. Cái tâm nầy (citta), cái giác niệm nầy
(sati)chẳng được rời đi chỗ nào khác, mà phải trụ lại đúng vào điểm đã chọn.
Giác niệm ấy canh chừng các hơi thở khi chúng vào và ra ngang qua điểm ấy, và
kết quả cũng giống như sự theo dõi hơi thở, với một sự khác biệt là canh chừng
thì tế nhị hơn.
Thông thường, ta dùng chót mũi làm
điểm canh chừng, vì chính nơi đó các hơi thở va chạm vào. Điểm đó rất dễ giữ,
ngoại trừ khi mũi bạn quắm xuống, hoặc môi trên của bạn quá cao; trường hợp nầy
bạn sẽ cảm thấy hơi thở chạm vào môi trên. Đối với mỗi chúng ta, điểm va chạm
có thể ở vào chỗ khác nhau, tùy theo hình dạng và cấu trúc của mũi và môi.
Hãy tìm một chỗ nào dễ nhứt để quan
sát hơi thở. Kể cũng khó tìm khi ta thở bình thường; bạn hãy thở một hơi dài và
sâu và điểm đó sẽ nổi bật lên hiển nhiên. Điạ điểm cho thật đúng chính xác cũng
chẳng cần thiết, chỉ cần tìm ra được một điểm nơi mà hơi thở chạm vào chót mũi
hay ở môi trên của bạn khi bạn cảm thấy hơi thở di chuyển thật rõ ràng. Một khi
bạn thấy ra được rồi, hãy canh chừng điểm đó mỗi khi hơi thở vào và ra. Giác
niệm (Sati) trụ tại đấy và quán tưởng hơi thở khi vào, khi ra. Hãy cứ thở vào,
cứ thở ra bình thường với giác niệm canh chừng tại điểm đó. Đấy là giai đoạn hai,
trong năm kỹ thuật khéo của chúng ta.
Bạn có thể tự mình quán sát thấy
rằng khi bạn chẳng màng ghi nhận hơi thở và cứ để cho nó tự ra vào như ý nó,
thì nó sẽ gây ra chút cảm giác nào đó. Vừa khi ta bắt đầu ghi nhận nó, ngay cả
khi chỉ giản dị theo dõi nó, hơi thở liền trở nên tế nhị và êm dịu hơn. Hơi
thở, tự nó, tự điều chỉnh lấy và trở nên tế nhị để gạt gẫm ta. Hơi thở
"mưu mẹo" mánh khoé như vậy đó. Rồi thì ta ngừng chẳng đuổi theo hơi
thở nữa, chỉ canh chừng tại điểm đặc biệt trên chót mũi, thì bấy giờ hơi thở
lại càng lắng dịu xuống hơn nữa. Các bạn có thể kiểm chứng lại điều nầy theo
kinh nghiệm riêng của các bạn.
Một tâm ảnh (định tướng) hiện lên.
Giờ đây, hơi thở trở nên tế nhị và
lắng dịu hơn nữa, khi ta tạo một tâm ảnh (nimitta, định tướng) tại chỗ điểm
canh chừng. Tâm ảnh đó chỉ là một hình ảnh tưởng tượng, chẳng hề có thật. Nó
được tâm (citta) tạo nên. Đó là một sản phẩm của tâm. Bạn có thể nhắm mắt lại
và "nhìn"đến nó; và khi mở mắt ra, bạn cũng vẫn còn "thấy"
nó. Nó cũng như một ảo ảnh của thị giác mà tâm đã tạo ra để làm lắng dịu hơi
thở. Muốn làm được như thế, tâm phải tế nhị. Hơi thở, hay bất cứ việc gì, cũng
phải được thanh lọc để có thể làm khởi lên được một tâm ảnh. Hơi thở phải trở
nên càng tế nhị hơn, êm dịu hơn, cho đến khi nào tâm ảnh đã tạo xong.
Tâm ảnh có thể mang bất cứ hình thể
nào, tùy theo sự thích hợp với thân thể của mỗi người. Vài người tạo một trái
cầu -- đỏ, trắng, xanh hay bất cứ màu nào. Nó cũng có thể là một ngọn lửa đèn
cầy, hoặc một cục bông gòn, hay một làn khói. Nó có thể xem giống như mặt trời,
hoặc mặt trăng, hay một vì tinh tú. Khả năng sáng tạo của tâm còn có thể gợi
lên ngay cả hình ảnh của một mạng nhện bóng loáng phản chiếu ánh mặt trời nữa.
Các loại tâm ảnh tùy thuộc vào người tạo nên nó. Tâm chỉ nghiêng về một hướng
nào đó và tâm ảnh tự nó liền khởi lên. Nó thuần túy là một hiện tượng tâm linh
chẳng có thực thể vật chất. Và kỹ thuật khéo thứ ba được hoàn tất khi nào ta đủ
khả năng tạo nên một tâm ảnh ngay tại điểm canh chừng.
Giờ tới phiên kỹ thuật khéo thứ tự
Kỹ thuật nầy là làm thay đổi hay vận dụng các tâm ảnh theo ý ta muốn. Biến đổi
hình nầy ra hình khác. Biến đổi chúng theo cách nầy, theo cách khác, theo bất
cứ cách nào ta muốn. Điều nầy có thể làm được, vì việc làm trước tiên của tâm
là tâm thường tạo luôn ra các hình ảnh. Do đó, tâm có đủ khả năng để biến đổi
các hình ảnh, vận dụng chúng, và "chơi đùa" với chúng. Tất cả những
việc đó đều có thể thi hành dễ dàng vì nằm trong khả năng của tâm. Và đồng thời
ta lại phát triển được khả năng làm chủ được tâm, hướng nó theo ngõ tế nhị hơn
và hùng dũng hơn.
Ta có thể kiểm soát tâm nhiều hơn
lúc trước và cái tâm ấy (citta), tự nó, càng ngày càng được thanh lọc và trở
nên tế nhị hơn. Nó lắng dịu xuống đến tận mức mà ta có khả năng làm cho nó êm
dịu hoàn toàn. Giờ đây ta chỉ cần kiểm soát các tâm ảnh, biến đổi chúng theo
khuynh hướng của tâm. Tùy theo khuynh hướng của tâm, ta thể nghiệm sự thay đổi
của các tâm ảnh để có thể khiến cho hơi thở càng lúc càng trở nên êm dịu. Điều
nầy cũng chẳng khác hơn là một mánh khoé, một xảo thuật. Tuy vậy, đó là một xảo
thuật tiến bộ giúp ta nắm thêm quyền lực đối với tâm. Rồi thì hơi thở, tự nó,
tự động lắng dịu xuống. Hơi thở cần phải lắng dịu hơn mới có thể vận dụng các
tâm ảnh. Mặc dầu tâm cũng lắng dịu xuống, nhưng sự nhấn mạnh hiện giờ là nhằm
vào sự lắng dịu của hơi thở. Vậy, kỹ thuật khéo thứ tư là kiểm soát các tâm ảnh
theo ý ta muốn.
Tâm ảnh cuối cùng.
Nếu ta muốn quán sát tiến trình
theo thứ tự, của việc làm hơi thở trở nên êm dịu, ta phải coi chừng và thấy
rằng, khi ta huấn luyện theo cách được mô tả ở đây, hơi thở tự nó tự thanh lọc
lấy và lắng dịu xuống một cách tự động. Khi ta thực tập theo cách nầy, hơi thở
sẽ trở nên êm dịu. Khi hơi thở êm dịu thì thân thể cũng tự động êm dịu theo. Và
khi thân thể đã lắng dịu thì có một hiệu quả ảnh hưởng đến tâm tự Tâm (citta)
lắng dịu theo chiều tỷ lệ thuận với sự lắng dịu của thân thể, nhưng đây còn
chưa phải là ý định của chúng tôi ở điểm nầy. Sự lắng dịu tâm tư sẽ được bàn
luận đến trong một bước sau nầy. Hãy làm lắng dịu hơi thở và rồi thân thể sẽ
lắng yên. Và cộng thêm vài hiệu quả đến tâm tư nữa. Ta có thể quan sát được
tiến trình lắng dịu đó trong khi thực tập.
Kỹ thuật khéo thứ năm là chọn một
tâm ảnh (nimitta) nào thích nghi nhứt. Ta chẳng biến đổi tâm ảnh đó nữa. Lựa
được một tâm ảnh vừa vặn và thích hợp, ta quán tưởng đến nó với sự chú tâm hoàn
toàn, hầu có thể đạt đến trình độ đầy đủ của định lực (samàdhi). Tôi khuyên bạn
nên chọn một tâm ảnh nào êm dịu, thư giãn và dễ để gom vào tiêu điểm. Hãy chọn
một tâm ảnh nào chẳng làm khởi dậy tư tưởng hay tình cảm, một tâm ảnh nào chẳng
mang sẵn một ý nghĩa đặc biệt. Một điểm trắng giản dị thì cũng đủ tốt rồi.
Loại tâm ảnh tốt nhứt là lọai trung
hoà. Nếu ta chọn một tâm ảnh màu mè, nó sẽ gợi lên nhiều tư tưởng và cảm thọ.
Với các tâm ảnh hấp dẫn, ngộ nghĩnh hay phiền phức thì cũng như thế. Vài người
chọn hình ảnh của Đức Phật để làm tâm ảnh (nimitta), nhưng họ sẽ bị lôi kéo
theo nhiều loại suy tư khác. Tư tưởng giản dị là đi theo hình ảnh được thấy,
thay vì cắm sâu xuống vào sự lắng yên. Vì lẽ đó, ta sẽ chọn một hình ảnh nào tự
nhiên, chẳng có ý nghĩa đặc biệt, chẳng gợi lên các mối liên tưởng khác. Một
điểm trắng là thích hợp nhứt. Một điểm nhỏ ánh sáng cũng phù hợp. Vài người
chọn hình tượng của Đức Phật, hoặc bất cứ hình ảnh nào thấy hợp với sở thích
của họ. Còn chúng ta thì không làm như vậy; ta chọn môt điểm nào dễ quán tưởng
mà chẳng làm tư tưởng nào khởi sanh lên. Ta chọn một hình ảnh như thế và gom
tất cả tâm ý vào tiêu điểm đó, để phát triển định lực của tâm ý. Chú tâm nhìn vào
tiêu điểm giản dị đó. Tâm (citta) chẳng còn đi lang thang nơi nào nữa, mà qui
chiếu vào một đìểm duy nhứt. Vậy, kỹ thuật khéo thứ năm là chú tâm quán tưởng
vào một điểm.
Định lực hoàn toàn.
Và rồi ta chọn một tâm ảnh
(nimitta) thích hợp nhứt cho tâm để quán tưởng. Đến điểm nầy, ta cần phải biết
rằng tâm thường hay phân tán, trải rộng ra và rọi chiếu ra ngoài về mọi hướng.
Giờ đây, ta cần phải quay lại vào trong, gom tất cả luồng hướng ngoại đó vào
tiêu điểm. Danh từ Pali gọi tình trạng gom tâm ý lại nầy là ekaggatà, tâm nhất
điểm, có nghĩa là "tại đỉnh duy nhứt, tiêu diểm hay là điểm cao tuyệt
đích" Mọi sự việc đều gom vào tiêu điểm duy nhứt. Ta đã tìm thấy một tâm
ảnh thích hợp nhứt -- một điểm nhỏ ở giữa -- thì giờ đây tâm ý sẽ cắm sâu vào
điểm đó. Dòng tâm linh gom về một điểm đó cũng tựa như một tấm kính lúp phóng
đại gom các yến sáng của mặt trời hội tụ về một điểm duy nhứt, mạnh mẽ cho đến
mức làm phát cháy lên. Thí dụ nầy cho thấy sức mạnh được tập trung lại khi tất
cả năng lực của tâm đều gom về một điểm. Một khi tâm chuyên chú vào một đối
tượng được lựa chọn, thì sự rạng rỡ của nó tập trung về nơi ấy và trở nên
ekaggatà, tâm nhất điểm -- qui về điểm duy nhứt, đến một đỉnh cao duy nhứt.
Khi tâm đến tình trạng tâm nhứt
điểm, thì chẳng còn cảm thọ, tư tưởng hoặc đối tượng nào khác của tâm nữa. Nơi
đây chỉ có các thiền chi (jhànanga), tức là các yếu tố thiền định. Ở tình trạng
Sơ thiền, có năm thiền chi. Ở tình trạng nầy, tâm vẫn còn thô phù để thực hiện
nhiệm vụ quán tưởng đối tượng. Tâm đang ghi nhận đối tượng được gọi tầm
(vitakka). Tâm đang thể nghiệm đối tượng đó gọi là tứ (vicàra). Do nhờ có tầm
(vitakka) và tứ (vicàra), nên tâm trở nên thỏa mãn và mừng (piti). Và một khi
có nỗi mừng (piti) ở đó, thì cũng sanh niềm vui (sukha) cùng một lúc. Sau cùng,
tâm nhứt điểm lại tiếp tục như trước. Như thế, tâm ở trình độ định lực
(samàdhi) nầy có năm yếu tố: ghi nhận (vitakka), thể nghiệm (vicàra), nỗi mừng
(piti) cùng niềm vui (sukha) và tâm nhứt điểm (ekaggatà). Năm yếu tố đó cho
thấy tâm đang đi vào Sơ Thiền, tình trạng thiền định hoàn toàn thứ nhứt. Sự hay
biết nầy chẳng bao trùm bất cứ sự suy tư nào, nhưng cả năm hành vi đó của tâm
đều khởi sanh ra. Ta gọi chúng là các thiền chi (Jhànanga) của Thiền (Jhàna).
Nếu ta có thể nhận diện được các yếu tố đó đầy đủ hết, thì ta có thể thoả mãn
vớí sự thể nghiệm đã thành công vì đạt đến Định lực (Sanàdhi), mặc dầu còn ở
giai đoạn thứ nhứt, ở Sơ Thiền. Điều đó xem như lạ lùng thật -- hoàn toàn, mà
vẫn ở giai đoạn đầu tiên.
Trên đỉnh cao.
Tôi muốn nói kỹ thêm về từ ngữ
Ekaggatà, tâm nhứt điểm. Tiếng Pali Ekaggatà nầy thường được dịch ra là
"tánh nhứt điểm" (one pointedness). Dịch sát nghĩa từ chữ thì Ekag là
"có một điểm duy nhứt" và Agga là "đỉnh cao". Thái ngữ dịch
là yod. Chữ yod của Thái có thể chỉ vào cái ngọn, đỉnh cao nhứt, đỉnh nhọn của
một sự vật gì như ngọn núi chẳng hạn, hoặc một kim tự tháp, hay là đọt cây non
nhô lên. Tôi chẳng lấy làm chắc lắm chữ Anh "point" có đồng một nghĩa
hay không. Một điểm thì có thể ở vào bất cứ nơi nào. Nó có thể lộ ra bên hông,
hoặc ở thấp bên dưới. Đây là lý do vì sao tiếng Pali dùng chữ Agga (đỉnh, ngọn,
thiên đỉnh). Ekaggatà cũng như là chóp đỉnh của ngọn kim tự tháp. Đâu có xứng
đáng cho tâm gom vào một điểm thấp ở bên dưới. Nó phải được tập trung lại từ
dưới thấp mà vượt lên cao tận đỉnh. Đấy mới là nghĩa đứng đắn của chữ Ekaggatà.
Bạn chớ quá âu lo nếu tâm tập trung
lại tại một tiêu điểm nào chẳng được cao nhứt. Đó chỉ là bước đầu. Khi nào có
Ekaggatà, tâm nhứt điểm, thì bắt đầu có một việc thật là hữu dụng. Khi nào có
một chút tâm nhứt điểm là khi đó có định lực (samàdhi). Trong việc thực tập của
chúng ta về Quán tưởng Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati), ở bước thứ tư nầy,
cũng chẳng cần thiết phải đi vào thiền định hoàn toàn. Sự thực tập Quán tưởng
Giác niệm về Hơi thở còn chưa đòi hỏi đến các giai tầng thật tế nhị của định
lực. Ta chỉ cần có một cấp bậc vừa phải và thích hợp về định lực để tiếp tục
việc thực tập, tức là, có khá đủ định lực (samàdhi) để nhận thức các cảm thọ
mừng (piti) và vui (sukha) Ta cần xử dụng nỗi mừng và niềm vui trong bước thực
tập kế tiếp. Nếu ta nhập vào các bực Thiền của cõi sắc giới (rùpa jhàna) thì
rất tốt, vì điều đó khiến cho các bước thực tập về sau sẽ dễ dàng hơn. Nhưng
ngay khi chưa đạt đến Thiền, mà vẫn cảm nhận được nỗi mừng (piti) và niềm vui
(sukha) thì cũng là đang thực tập tốt. Giờ đây, chẳng có chi là quá khó, phải
vậy không?
Khi các cảm thọ mừng và vui có đủ
sức mạnh để tâm thức cảm nhận chúng thật rõ ràng, thì đó là có đầy đủ định lực
để tiếp tục thực tập bước thứ năm. Nếu bạn nhập vào các bực Thiền, Sơ thiền,
Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền của cõi Thiền sắc giới (rùpa jhàna) thì thật
là tuyệt rồi!
Nhưng, có định lực cần và đủ để thể
nghiệm được nỗi mừng (piti) và niềm vui (sukha) một cách thật rõ ràng, đó cũng
là vừa đủ cho bước thứ tự
Cũng dễ, khi...
Vài bạn ở đây thắc mắc chẳng biết
có khó hay dễ để thực tập. Đó là điều mà tôi chẳng thể nào giải đáp cho bạn
được. Nhưng tôi có thể nói, chẳng có chi khó khăn nếu phương pháp được ứng dụng
một cách đứng đắn. Nếu bạn đã lắng nghe cẩn thận, thì bạn sẽ hiểu cách thực tập
thế nào cho đúng. Nếu bạn tuân theo kỹ thuật đúng đắn, thì chẳng có gì quá khó
đâu. Bạn có thể hoàn tất trong một thời gian ngắn. Nếu bạn chẳng thực tập đúng
theo phương pháp, thì sẽ có nhiều khó khăn và có thể chẳng bao giờ bạn hoàn tất
được. Đối với vài người, có thể là ba ngày; hoặc ba tuần đối với người khác,
hay là ba tháng, hoặc ba năm, nào ai biết được chắc?
Phần lớn các bạn còn ở giai đoạn
đầu, tập luyện về bước thứ nhứt, nhưng điều đó chẳng có nghĩa là các bạn ấy
chẳng cần chú ý đến các lời giảng dạy về bước thứ tư nầy. Nếu bạn chẳng biết
được sẽ phải làm gì, thì sẽ vấp nhiều khó khăn khi gặp việc xảy đến. Chúng tôi
cống hiến các lời chỉ dẫn thật rõ ràng theo sự cố gắng của chúng tôi, để các
bạn có thể hiểu được đường lối đúng đắn nhứt mà thực tập. Tuy nhiên, nhiều
người chẳng thích tập theo lời chỉ dẫn. Họ muốn pha trộn tất cả vào các ý kiến
và tư tưởng riêng của họ. Họ thích dồn chung lại một cách hỗn tạp những điều họ
đã nghe được ở nơi nầy, đọc thấy ở nơi kia. Bạn có thể làm theo cách bạn thích.
Nhưng nếu bạn muốn khiến cho việc thực tập nầy thành công và dễ dàng nhứt cho
bạn, thì tôi khuyên bạn nên theo các lời chỉ dẫn đã được giải thích rõ ràng,
hữu hiệu và thành tựu về đường lối của kỹ thuật nầy.
Thực tập theo đúng phương pháp cũng
chẳng quá khó. Chẳng theo đúng lời chỉ dẫn sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì lẽ đó, ta
cần học kỹ phương pháp đúng đắn và cách áp dụng như thế nào. Rồi ta mới kỳ vọng
vào các kết quả mong muốn. Ngoài việc đó, cũng chẳng còn gì phải làm thêm,
ngoại trừ việc lập đi lập lại, và lập đi lập lại các bước cho đến khi trở thành
thuần thục như một chuyên viên. Hãy lập lại chúng cho đến khi bạn có thể nhanh
chóng làm êm dịu được hơi thở và lắng dịu thân tâm. Hãy thực tập cho đến khi
nào các bước đó chẳng cần đòi hỏi cố gắng, nỗ lực gì cả, bạn trở nên nhuần nhã
trong các hoạt động đó.
Và cũng xin chớ quên! Ở mỗi bước, ở
mỗi giai đoạn và mỗi khoảng cách giữa hai cuộc thực tập, ta vẫn phải ghi nhận
các hơi thở vào và các hơi thở ra. Đây là bối cảnh và cơ bản của giác niệm
(sati). Đây là cách làm thế nào để luôn luôn giữ tâm tuyệt đối trong chánh
niệm. Ghi nhận sự thở vào và ghi nhận sự thở ra ở mỗi giai đoạn của việc thực
tập. Rồi sự thành công trong bộ bốn thứ nhứt của Giác niệm về Hơi thở
(Ànàpànasati) sẽ đến với ta. Đây là bối cảnh lý thuyết của Giác niệm về Hơi thở
(Ànàpànasati) và cũng là các nguyên tắc hướng dẫn sự thực tập đó.
Đã hết giờ. Xin chấm dứt buổi pháp thoại ở đây.