Trong bài pháp thoại hôm nay, chúng
tôi sẽ nói đến sự thực tập ở giai đoạn I của sự Quán tưởng Giác niệm về Hơi thở
(Ànàpànasati) liên quan đến Thân (Kàya). Nhưng tôi xin được báo trước với các
bạn, có đến bốn nhóm sự việc mà ta cần phải quán sát. Mỗi nhóm lại bao gồm bốn
pháp (dhamma). Như thế, có tất cả là mười sáu pháp. Trong mười sáu pháp đó, chỉ
có hai pháp liên hệ đến chính hơi thở thôi. Hơi thở chỉ được quán tưởng trong
hai bước. Mười bốn pháp còn lại qui chiếu về các pháp khác. Tổng cộng, có tất
cả bốn phần, gọi là bốn bộ bốn (tetrads), mỗi bộ bốn chia ra bốn bước. Hôm nay,
tôi sẽ nói về hai bước đầu tiên của bộ bốn thứ nhứt. Đó là sự thực tập quán
tưởng về Thân (Kàya).
Các chuẩn bị về vật chất.
Ta khởi sự ngay tại chỗ bắt đầu
việc thực tập Quán tưởng Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati). Trước hết, ta cần
phải chọn một nơi thích hợp cho việc thực tập. Ta lựa một chỗ nào khá nhứt,
biết rằng chẳng làm sao mà có được một nơi thật hoàn hảo. Ta cố lựa một nơi nào
yên tịnh và an ổn, đủ điều kiện, thời tiết khá tốt, và chẳng hề bị khuấy rầy.
Thế nhưng, khi các điều kiện chẳng được như ý mong muốn, ta cũng nên tạm vui
lòng với những gì ta đang có. Thế nào rồi ta cũng phải chọn một nơi nào đó, ở
chốn nào đó. Ta phải nên có đủ sức để ngồi quán tưởng ngay cả trên chuyến xe
lửa đến từ Bangkok.
Đôi khi, ta có thể chú tâm đến hơi thở cho đến lúc chẳng còn nghe tiếng xe lửa
đang lăn bánh và chẳng cảm thấy lắc lư khi xe di chuyển.
Điều đó cho thấy rằng ta có thể
chọn một điạ điểm và lợi dụng các điều kiện có sẵn theo cách nào tốt nhứt cho
ta.
Ta chớ nên để mình bị bất cứ hoàn
cảnh nào đánh bại, ngay cả khi ngồi trên xe lửa. Cho dầu ta có đủ các điều kiện
hoàn hảo hay không chăng nữa, ta cũng cố gắng lợi dụng chúng đến mức tối đa và
thực hành những gì ta có thể làm được. Khi muốn thực tập, ta có thể lợi dụng
tiếng xe lửa chạy làm một đề tài quán tưởng. Tiếng "xình xịt xình
xịt" của xe lửa lăn bánh trên đường rầy có thể là đề tài quán tưởng, thay
vì hơi thở. Như thế ta cũng chẳng từ chối bất cứ điạ điểm nào trên thế giới,
cho dầu điạ điểm ấy có thích hợp cùng không. Ta chẳng nên vịn vào cớ nào khác
để đòi hỏi phải có cho được một điạ điểm lý tưởng.
Bước chuẩn bị thứ hai tiếp theo là
sự dọn mình. Thân thể cần phải được bình thường, chẳng bịnh tật, và chẳng vướng
các khó khăn về hô hấp hay tiêu hoá. Đặc biệt hơn nữa, ta cần "sửa
soạn" cái lỗ mũi để nó có thể làm tròn nhiệm vụ một cách êm ái và đúng
đắn. Vào thời xưa, người ta rót nước trong sạch vào lòng bàn tay, đưa mũi hít
vào rồi thổi hắt mạnh ra. Nếu ta làm như thế đôi ba lần, thì mũi trở nên sạch
sẽ và hơi thở được thông. Như thế, mũi sẽ nhạy cảm hơn mỗi khi hơi thở ra vào.
Đây là một thí dụ làm thế nào để chuẩn bị cho thân thể sẵn sàng.
Thời gian và thầy dạy.
Kế đến, tôi muốn nói đến thời gian
và cách chuẩn bị thời gian để thực tập. Một khi quyết tâm thực tập thật sự đàng
hoàng, ta cần nên chọn lấy một khoảng thời gian thật thích nghi mà ta có thể
tìm thấy được. Bằng không, ta hãy chấp nhận bất cứ thời gian nào ta có thể xử
dụng được. Ta đâu cần phải lệ thuộc vào một thời cố định trong ngày. Nếu có
thể, ta nên chọn khoảng thời gian nào chẳng bị khuấy rối hay xao lãng. Nếu
chẳng có thời gian được như thế, thì ta hãy dùng ngay thời gian khi rảnh rỗi
nhứt. Rồi thì tâm trí sẽ học lấy cách giữ sao cho khỏi bị xao lãng dầu có bao
nhiêu sự khuấy rối đến làm rộn. Thật ra, ta đang luyện tâm để khỏi bị xao lãng,
cho dầu có việc gì đang xảy ra ở chung quanh ta. Tâm sẽ tự học lấy cách khiến
tâm trở nên an tịnh. Bạn đừng tự hạn chế mình vào một thời nào khi mọi việc đều
êm xuôi cả, làm sao mà tìm ra được một thời như thế? Nhiều người cứ chờ tìm mãi
cho đến lúc họ chẳng thấy có thời giờ nào để thực tập quán tưởng. Điều đó chẳng
đúng. Bạn hãy luôn luôn mềm dẻo và đủ sức để thực tập vào ngay bất cứ lúc nào.
Điều cần cứu xét tiếp theo là điều
mà người ta thường gọi là đi tìm kiếm một vị sư phụ, àcàriya, một bực thầy.
Nhưng thật ra, ngay cả trong các hệ thống huấn luyện cổ truyền, người ta cũng
ít khi nói đến một vị sư phụ, mà thường gọi vị ấy là một người bạn tốt, một
thiện hữu tri thức, (kalyàna mitta) hay là thiện tri thức. Bảo rằng đó là một
"người bạn" -- một vị cố vấn có thể giúp đỡ ta được -- thì đúng. Tuy
nhiên, ta chớ nên quên nguyên tắc căn bản là chẳng có một ai có thể giúp trực
tiếp một ai cả. Thế mà ngày nay, lắm kẻ lại muốn có một vị giáo sư để trông nom
canh chừng cho họ! Một người bạn tốt là kẻ nào có sự hiểu biết và kinh nghiệm
bổn thân rộng rãi về sự thực tập quán tưởng, hay về bất cứ điều gì mà chúng ta
đang nỗ lực thực hành. Mặc dầu người ấy có đủ khả năng để giải đáp các câu hỏi
thắc mắc và giải quyết vài khó khăn, nhưng cũng chẳng cần thiết để người ấy
phải ngồi bên cạnh ta canh chừng mỗi hơi thở. Một người bạn tốt sẵn sàng giải
đáp các câu hỏi và giúp ta vượt qua vài trở ngại, như thế cũng đã quá đủ rồi. Có
được một bực thiện trí thức như vậy là một điều chuẩn bị nữa mà ta cần lo thu
xếp.
Tư thế ngồi.
Giờ đây, chúng ta xét đến các động
tác thực sự của chính việc quán tưởng. Việc đầu tiên phải bàn luận là tư thế
ngồi. Thật là cần thiết phải ngồi thế nào cho vững vàng và an toàn, để khi nơi
tâm tư, sự tỉnh giác chỉ còn nửa phần, ta chẳng phải ngã té. Bạn hãy có đủ sức
để ngồi vững như một ngọn kim tự tháp. Các kim tự tháp chẳng thể nào ngã đổ
xuống, vì chúng được xây dựng trên một nền rất vững chãi và bốn sườn xung quanh
vươn lên ngay giữa đỉnh. Chẳng cách nào để chúng có thể đổ xuống cả. Bạn hãy
nghĩ đến các ngọn kim tự tháp bên Ai cập, đã đứng vững rất lâu đời. Cách tốt
nhứt để làm giống như thế là hãy ngồi xếp bằng lại. Duỗi hai chơn ra phía
trước, rồi kéo chơn mặt gát lên đùi trái, và chơn trái gát lên đùi mặt. Những
ai còn chưa ngồi theo lối ấy lần nào, những ai còn chưa từng ngồi bẹp trên sàn
nhà, có lẽ họ cần một thời gian để tập cho thân thể ngồi trong tư thế vừa nói;
nhưng mà tư thế đó cũng rất đáng công để tập cho được. Bạn có thể bền chí, từ
từ tập luyện thân bạn ráng ngồi như thế đó. Và rồi bạn chẳng bao giờ té ngồi
nữa. Chẳng thể nào ngã tới trước, ngã ra sau, hay ngã nghiêng bên hông được.
Vào thời xưa, tư thế ngồi như vậy được gọi là thế ngồi kiết già, hay là tư thế
hoa sen (padmàsana).
Ngồi thẳng lưng rất quan trọng, với
các xương sườn và cột xương sống ngay hàng nhau, chẳng cong vẹo. Các xương sườn
cần được nằm chồng vừa vặn lên nhau để ăn khớp với nhau một cách thích hợp. Đó
là thế ngồi đúng cách bình thường của thân thể. Cột xương sống làm nơi nương
tựa thiết yếu cho hệ thống thần kinh, cho nên ta phải ngồi thẳng đứng lên để
cho nó được ngay ngắn. Đây là tư thế ngồi tốt.
Buổi ban sơ, có thể vài bạn còn
chưa bao giờ ngồi như thế. Tuy vậy, tôi yêu cầu các bạn nên cố gắng thử tập.
Lần đầu tiên, có lẽ bạn xếp được hai chơn phía trước nhưng chưa tréo nhau lại
được. Nhưng như thế cũng đủ khi mới bắt đầu. Về sau, bạn kéo được một chơn gát
lên đùi bên kia và tréo được một chơn. Sau cùng, bạn sẽ tréo cả hai chơn trong
tư thế kiết già, ngồi thế hoa sen. Tư thế ngồi nầy thật vững chắc như một ngọn
kim tự tháp và chẳng hề ngả nghiêng khi tâm bắt đầu nhập định, hay vừa đến mức
cận định. Cột xương sống thẳng đứng rất là cần thiết, vì có nhiều loại hơi thở
khác nhau: khi xương sống cong xuống, có một loại hơi thở; khi xương sống thẳng
lên, lại có một loại hơi thở khác hơn hơi thở trước. Vì lẽ đó, bạn phải cố gắng
giữ xương sống thật thẳng, dẫu rằng có sự khó khăn ở buổi ban đầu.
Kế đến là hai bàn tay. Cách thoải
mái và dễ nhứt là buông thỏng hai bàn tay đặt trên hai đầu gối. Một cách khác
là đặt bàn tay nầy vào lòng bàn tay kia. Cách nầy có vẻ hơi thiếu tiện nghi với
vài người, vì hai bàn tay sẽ trở nên hâm nóng. Nếu được đặt trên gối, chúng sẽ
bớt nóng. Vài nhóm thực tập khuyên nên xếp hai bàn tay (bàn tay nầy lên trên
bàn tay kia) với hai ngón tay cái chạm vào nhau, để có được hai bàn tay
"nhập định". Áp chặt hai bàn tay vào nhau cũng giúp cho định lực,
điều đó cũng tốt. Ở Trung Hoa người ta thường làm như thế. Bạn hãy chọn lấy lối
nào bạn thấy thích hợp với bạn: hoặc đặt trên đầu gối ít nóng hơn, hoặc để trên
đùi nếu thấy thoải mái, hoặc áp mạnh vào nhau để tăng định lực. (...)
Mắt dịu mát và chú tâm.
Giờ đến cặp mắt. Ta phải nên để mắt
mở hay nhắm lại? Nhiều người tin rằng họ phải nhắm mắt lại, vì họ chẳng thể nào
quán tưởng được khi mở mắt. Nếu bạn nghiêm chỉnh trong khi thi hành các điều
bạn đang thực tập và có đầy đủ dõng tâm thì chẳng thấy có khó khăn chi khi thực
tập với đôi mắt mở rộng. Bạn hãy bắt đầu với mắt mở. Mở mắt với quyết tâm nhìn
vào chót mũi. Điều nầy chẳng phải là chẳng thể được. Chỉ cần một chút cố gắng
là làm được. Nhìn vào chót mũi để cho mắt đừng nhìn lảng sang các sự vật khác.
Khi mắt nhắm, ta thường có khuynh hướng thiu thỉu ngủ, vậy nên thận trọng về
việc nhắm mắt. Lại nữa, khi nhắm lại thì mắt sẽ trở nên nóng và khô. Quán tưởng
với đôi mắt mở sẽ giúp ta giữ được sự tỉnh táo và duy trì được sự dịu mát và
thoải mái cho mắt. Hơn nữa, điều nầy sẽ trợ lực cho tâm được tập trung lại và
thúc đẩy sự phát triển của định lực (samàdhi, phiên âm: tam ma đề, nghĩa: định
lực). Khi định lực được phát triển tới nửa đường, thì tự nhiên đôi mắt tự động
nhắm lại. Mí mắt được thư giãn và tất nhiên sẽ khép lại. Chẳng có chi phải lo
lắng về điều nầy cả. Kỹ thuật trọn vẹn là bắt đầu với đôi mắt mở, nhìn vào chót
mũi cho đến khi nào định lực (samadhi) phát triển, bấy giờ mắt sẽ tự động nhắm
lại. Đó là cách săn sóc về mắt.
Thực tập với đôi mắt mở ra, nhìn
vào chót mũi là một giai tầng đáng lưu ý về định lực. Nếu ta an lập được tâm tư
chăm chú đến chót mũi, ta sẽ chẳng nhìn thấy đến các sự vật khác. Nếu làm được
như vậy, thì đó đã là một loại định lực (samadhi) rồi. Ta có được lợi điểm ngay
vào lúc mới khởi tập, bằng cách giản dị hướng tâm trụ lại trên chót mũi chẳng
nhìn thấy gì khác nữa. Nếu toàn thể tâm tư, nếu tất cả các mối quan tâm, đều
gom lại trong việc nhìn lên chót mũi, thế là chẳng còn gì để nhìn thấy ra nữa.
Đó là định lực (samadhi), một thứ định lực chẳng phải là không đáng kể. Vì lẽ
đó, bạn nên cố gắng thử khởi sự bằng đôi mắt mở ra.
Xin bạn hãy quan sát điều nầy mà
bất cứ ai cũng làm được. Ta chú tâm nhìn đến chót mũi, vừa có cảm giác ở mũi
lại vừa có cảm giác ở hơi thở. Cả hai việc đó có thể cùng làm một lúc. Dường
như cả hai cùng xảy ra đúng vào một lúc, nhưng thật sự thì không như vậy. Sự
kiện nầy cũng chẳng có gì khác thường, hay siêu nhiên cả. Do vì tốc lực rất
nhanh của tâm, cho nên trong khi mắt nhìn vào chót mũi, hành giả vẫn hay biết
đến hơi thở ra, hơi thở vào. Điều đó, chính bạn sẽ tự mình nhận thấy ra như
thế.
Theo dõi hơi thở với giác niệm.
Rốt cuộc rồi ta cũng đi đến việc
ghi nhận, việc quán tưởng về hơi thở. Để khởi đầu, ta cần phải có giác niệm
(Sati), tức là sự hay biết hoặc sự tỉnh giác. Ta bắt đầu xử dụng giác niệm bằng
cách chú tâm vào mỗi hơi thở vào, mỗi hơi thở ra. Ta huấn luyện giác niệm bằng
cách ghi nhận rằng ta sắp thở vào hoặc sắp thở ra. Hãy để hơi thở tiếp tục một
cách thoải mái và bình thường. Hãy để cho hơi thở được tư nhiên. Đừng can thiệp
chút nào vào hơi thở. Rồi thì quán sát kỹ mỗi hơi thở với giác niệm. Ta thở vào
như thế nào? Hơi thở ra ra làm sao? Hãy dùng giác niệm để ghi nhận hơi thở bình
thường. Trong buổi đầu, ta tập luyện và phát triển giác niệm với kỹ thuật
thường được gọi là "theo dõi" hay "đuổi theo". Hơi thở vào,
bắt đầu từ chót mũi và ta tưởng tượng như nó tận cùng nơi rún. Hơi thở ra, ta
tưởng tượng như bắt đầu nơi rún và chấm dứt ở chót mũi. Ở giữa chừng là khoảng
không gian mà hơi thở di chuyển vào và ra. Giác niệm quan sát các đặc tánh của
sự di chuyển vào và ra đó, từ nơi chót mũi cho đến rún, và rồi tới lui, tới
lui... Đừng để cho có kẽ hở, cũng đứng để cho có đứt khoảng. Đây là bài học thứ
nhứt: quán sát hơi thở với giác niệm (sati).
Ta chẳng phải là nhà giải phẩu,
nhưng ta cũng biết rằng hơi thở chỉ đi vào phổi, và hơi thở chẳng đi xuống trọn
con đường cho đến rún. Ta chỉ tưởng tượng rằng hơi thở chấm dứt ở rún, và chẳng
cho đấy là sự thật đâu. Đó chỉ là một sự giả định căn cứ trên cảm giác của ta
cùng với sức nhạy cảm đang ứng với sự di chuyển của hơi thở. Khi thở, ta
"cảm thấy" sự di chuyển xuống đến tận rún. Ta dùng cảm giác đó làm
căn bản cho việc thực tập của chúng ta và theo dõi hơi thở ở khoảng giữa từ
chót mũi đến rún.
Sự phân biệt giữa việc có phải
chính giác niệm đã theo dõi hơi thở vào và hơi thở ra, cùng với việc có phải
giác niệm đã thúc dục tâm phải theo dõi hơi thở vào và hơi thở ra, ngay trong
lúc nầy, còn chưa mấy quan trọng. Điều quan trọng duy nhứt là hiện nay là phải
quan sát hơi thở như thể là đang rượt đuổi theo hơi thở mà chẳng để bị lạc mất
nó. Hơi thở vào trong và ngưng lại một chốc. Kế đó, hơi thở ấy đi ra rồi ngưng
một chốc. Vào và ra, vào và ra, với nhiều hơi thở ngắn hơn xen vào ở giữa. Hãy
ghi nhận tất cả và đừng bỏ sót để bất cứ gì thoát khỏi được. Đừng để có khoảng
trống mà tâm có thể đi lang bang. Hãy giữ chặt tâm luôn luôn cắm sâu vào hơi
thở vào và ra.
Đấy là bài học thứ nhứt cần được
tập luyện. Có thể chẳng dễ gì đâu nhé. Có thể nó đòi hỏi ba ngày, ba tuần, hay
ba tháng cho đến khi nào bạn đã đủ sức làm được như thế. Đó là sự việc mà ta
cần làm ngay trong bước thứ nhứt. Ở đây, tôi chỉ giản dị giải thích phương pháp
tập luyện thôi. Các bạn có thể chẳng tiến được xa bao nhiêu trong một khoá tu
học mười ngày như thế nầy, nhưng điều quan trọng là biết rõ những gì cần phải làm
và bắt đầu dấn bước. Một khi các bạn đã thông hiểu đúng đắn phương pháp rồi,
thì các bạn có thể thực tập lấy cho đến khi các bạn thành công. Vậy, hãy bắt
đầu quán sát hơi thở giữa hai tiêu điểm đó mà chẳng để cho tâm có được cơ hội
chạy lang bang theo việc gì khác.
Nhiều loại hơi thở.
Trong việc thực tập sự theo dõi hơi
thở, ta có dịp quán sát nhiều đặc điểm khác nhau của hơi thở. Ta có thể cảm
nhận được nhiều sư việc. Thí dụ như, ta cảm được chiều dài và chiều ngắn của
hơi thở. Ta học một cách tự nhiên về hơi thở dài và hơi thở ngắn. Rồi ta lại
học được hơi thở thô và hơi thở tế. Lại nữa, ta quan sát được hơi thở êm dịu
với hơi thở khó khăn. Về sau, ta sẽ quan sát sự phản ứng đối với các đặc tánh
đó. Trong bước thứ nhứt, bạn hãy quán sát các loại hơi thở nầy: dài và ngắn,
thô và tế, nhẹ nhàng và nặng nề. Hãy bắt đầu quán sát các loại hơi thở đó bằng
cách dùng giác niệm (Sati) mà cảm nhận được chúng.
Ta còn cần học tập cách quán sát
trong chi tiết kỹ hơn, tức là, quán sát phản ứng hay ảnh hưởng của các loại hơi
thở. Chúng đã gây ra những phản ứng nào? Chúng ảnh hưởng ra sao đến sự hay biết
của ta? Thí dụ như, hơi thở dài ảnh hưởng như thế nào đến sự tỉnh giác của ta?
Phản ứng nào xảy ra khi thở hơi ngắn? Hơi thở thô phù và hơi thở tế nhị, hơi
thở êm dịu và hơi thở khó khăn, đã có những ảnh hưởng nào? Ta quán sát các loại
hơi thở khác nhau và các ảnh hưởng dị biệt của chúng cho đến khi nào ta có thể
phân biệt rõ ràng thế nào là hơi thở dài chẳng giống với hơi thở ngắn, hơi thở
thô khác với hơi thở tế, hơi thở êm dịu bất đồng với hơi thở khó khăn. Ta phải
nên thấu biết rõ về các đặc tánh của các hơi thở, các loại ảnh hưởng của chúng
đã tạo nên, và các phản ứng về cảm tính, về tỉnh giác của tâm trí ta đối với
chúng.
Song hành với sự quán sát vừa kể,
ta còn cần tìm nếm đến các hương vị của các loại hơi thở. Hương vị của chúng
chính là sự khởi lên các loại cảm thọ như hỉ lạc, ưu bi, khổ sở, phiền muộn, và
mãn nguyện. Hãy quán sát và thể nghiệm các hương vị, tức là hậu quả đã được gây
nên, đặc biệt là hơi thở dài, hơi thở ngắn, thô và tế, êm dịu và khó khăn. Hãy
khám phá ra tại sao chúng lại có hương vị khác nhau. Thí dụ như, ta sẽ thấy hơi
thở dài thường mang đến một cảm quan lớn lao về an hoà và phước lạc, nó có một
hương vị vui sướng nhiều hơn một hơi thở ngắn. Mỗi loại hơi thở mang đến một
loại hương vị vui sướng khác nhau. Ta học tập được cách phân tách và phân biệt
hương vị bất đồng của các loại hơi thở khi ta quan sát chúng.
Sau cùng, ta sẽ khám phá ra các
loại nguyên nhân đã khiến cho hơi thở trở nên dài, ngắn khác nhau. Tự mình, ta
từ từ khám phá ra được các nguyên nhân đó. Điều nào đã khiến cho hơi thở dài
ra? Hơi thở dài đem lại một khí sắc như thế nào? Còn hơi thở ngắn thì sao? Như
thế, ta nhờ đó mà biết được những nguyên nhân và điều kiện gây ra hơi thở dài,
ngắn khác nhau.
Có một cách giúp ta điều chỉnh được
hơi thở dài hay ngắn ngay trong các bước đầu tiên. Nếu ta muốn học cách đó, thì
ta có một kỹ thuật gọi là "đếm". Thí dụ như, trong thời gian của một
hơi thở vào, ta đếm đến năm, bắt đầu từ một cho đến năm. Nếu trong thời gian
đó, ta đếm được đến mười, từ một đến mười, thì hơi thở theo đó đã dài ra chừng
ấy. Trong thời gian một hơi thở thường, ta chỉ đếm được đến năm. Trong thời
gian một hơi thở ngắn, có thể ta chỉ đếm tới ba thôi và lúc ấy thì đổi hơi thở,
nếu ta muốn. Lúc nào cũng nên đếm cùng một nhịp độ, vì nhịp độ nhanh chậm nếu
bị thay đổi thì ảnh hưởng của sự đếm nhiều hơn hay ít hơn sẽ bị huỷ mất. Nhờ sự
đếm mà bề dài của thời gian hơi thở được điều chỉnh lại. Ta có thể kéo dài,
hoặc rút ngắn các thời gian đó lại với kỹ thuật đặc biệt nầy. Nhưng ta chẳng
cần phải dùng đến kỹ thuật ấy luôn. Đấy chỉ là một cuộc thử nghiệm nhỏ, để lâu
lâu ta điều chỉnh lại hơi thở hoặc để tìm biết về hơi thở kỹ lưỡng hơn. Bạn có
thể làm thử như thế, nếu bạn muốn.
Bước một: Hơi thở dài.
Đến đây, ta đã phát triển được một
sự hiểu biết sơ khởi thích hợp về hơi thở. Ta biết được các loại đặc tánh của
hơi thở: dài, ngắn, thô, tế, êm dịu, khó khăn. Sự hiểu biết của ta nới rộng đến
các sự việc có liên hệ với hơi thở, các phản ứng cùng ảnh hưởng của các đặc
tánh đến tâm tư ta. Ta cũng biết cả cách kiểm soát chiều dài của mỗi hơi thở.
Việc kế tiếp phải làm là bước vào sự luyện tập với chúng. Giờ đây, ta đã hiểu
biết rõ tất cả mọi sự việc đó, ta bắt đầu sự tập luyện với hơi thở dài.
Ta đang đi đến bài học thứ nhứt,
bước một, tức là sự quán tưởng về hơi thở dài. Ta có thể thở dài hơi bất cứ lúc
nào ta cần đến. Ta đã học cách kéo dài hơi thở ra và giữ nó như thế. Trong bài
học thứ nhứt nầy, ta sẽ chỉ khảo sát riêng về hơi thở dài mà thôi. Ta nghiên
cứu bản thể của hơi thở dài và tất cả các sự kiện liên quan đến nó. Khi có hơi
thở dài, hơi thở đó có thích thú không? Hơi thở đó tự nhiên và tầm thường như
thế nào? Tình trạng êm ả và hoan lạc nào đã có mặt? Hơi thở dài khác với hơi
thở ngắn ở những điểm nào? Đây là cách ta đang học tập nghiên cứu về hơi thở
dài, ứng dụng theo phương pháp vừa được mô tả ở trên, để khám phá ra các đặc
tánh, ảnh hưởng và hương vị của hơi thở dài. Ở đây, chỉ học tập về hơi thở dài
mà thôi. Bạn hãy ngồi yên và điều nghiên kỹ chỉ riêng về hơi thở dài. Đó là bài
học thứ nhứt: hiểu biết được tất cả những gì có liên quan đến hơi thở dài.
Sau cùng, ta cần quan sát thân thể
tác động liên quan như thế nào với hơi thở dài. Khi hít vào một hơi thở dài,
thân thể chuyển động ra làm sao? Ở chỗ nào có sự nở rộng ra? Ở nơi nào thân thể
thu rút lại? Khi có một hơi thở thật dài và sâu, ngực có nở ra hay rút lại
không? Còn bụng, có phình lên hay xẹp xuống không? Đấy là những sự việc mà ta
cần quan sát. Khi quan sát như thế, rất có thể bạn học được, thân thể đã chuyển
động một cách khác hơn bạn đã tưởng. Phần đông người ta thường nghĩ quá giản dị
rằng khi thở vào thì ngực nở ra và khi thở ra thì ngực thu rút lại. Tuy nhiên,
khi nghiên cứu hơi thở thật kỹ lưỡng, ta thấy khi hít vào một hơi thở thật dài
thì bụng co lại và ngực nở ra. Với một hơi thở dài đến mức tối đa, thì bụng lại
nở ra và ngực lại xẹp xuống. Ta thấy nó khác hẳn với sự tin tưởng thông thường.
Ta đừng bao giờ nên xem bất cứ việc gì như là một sự thật đã được có sẵn từ
trước. Bạn cũng còn cần phải tìm hiểu cho rõ ràng ngay cả về các sự kiện thiên
nhiên căn bản nhứt nữa.
Ta nghiên cứu mọi sự việc liên quan
đến hơi thở dài và học tập các bí ẩn của nó để biết rõ được về bản thể. Ta đủ
khả năng để quán tưởng chiều dài hơi thở. Ta đủ sức để duy trì và bảo vệ hơi
thở dài. Đìều đó có nghĩa là ta trở nên thiện xảo về các vấn đề có liên quan
đến hơi thở dài. Vậy, thực tập thở hơi thở dài là bài học thứ nhứt.
Một điều vô cùng quan trọng cần
phải học là mối liên hệ hỗ tương giữa hơi thở và thân thể. Cả hai kết nối với
nhau thật chặt chẽ. Bạn hãy khám phá ra các hiệu quả của hơi thở dài lên trên
thân thể, và phát hiện ra các niềm vui sướng và an lạc được mang đến. Về sau
nầy, bạn sẽ biết được điều bí ẩn nầy: có hai thân: thân thể và thân hơi, tức
là, tấm thân vật chất nầy với các luồng hơi thở. Ngay ở giai đoạn sơ khởi nầy,
bạn cũng nên quan sát điều đó cho thật cẩn thận, mặc dầu chúng ta sẽ nghiên cứu
thêm về điều đó, đặc biệt là ở bước thứ ba. Ngay tại bài đang học đây, ta nên
nhận thức rõ rằng thân thể với hơi thở liên kết với nhau như thế nào. Do đó,
xin bạn hãy quán sát kỹ lưỡng hơi thở khi dài khác với hơi thở khi ngắn ra làm
sao, và ảnh hưởng của chúng đã gây ra cho thân thể. Ta càng vững niềm xác tín
thêm -- qua kinh nghiệm bản thân, chớ chẳng phải qua suy tư, lý luận -- rằng
hơi thở kết hợp thật mật thiết với tấm thân vật chất.
Bước hai: Hơi thở ngắn.
Bài thứ nhứt về hơi thở dài đã được
học xong. Ta có thể bước sang bài thứ hai về hơi thở ngắn. Thật ra, ta chẳng có
chi nhiều để nói về sự thực tập ở bước nầy, vì cách hành trì cũng giống với
bước thứ nhứt. Điểm sai biệt duy nhứt giữa hai bước là ở bài thứ hai ta xử dụng
đến loại hơi thở ngắn. Những gì đã học về hơi thở dài, ta cũng học tương đương
như thế với hơi thở ngắn.
Thí dụ như, ta quan sát và cảm nhận ngay rằng hơi thở dài mang đến sự êm dịu và
thoải mái, trong khi đó hơi thở ngắn đưa tới sự bất bình thường tức là, sự bất
an, xao động và thiếu thoải mái. Với sự thông hiểu đó, ta biết cách làm thế nào
cho thân thể trở nên thoải mái, hoặc chẳng thoải mái, bằng phương pháp điều
chỉnh hơi thở. Ta cần hiểu rõ sự sai biệt bổ túc cho nhau giữa hai loại hơi thở
nầy, càng rõ ràng càng tốt. Vậy, trong bài thứ hai nầy, ta quan tâm đặc biệt
đến hơi thở ngắn. Hãy nghiên cứu mọi khía cạnh, mọi đặc tánh của hơi thở ngắn
cho đến khi bạn hiểu thật rộng rãi về nó cũng như bạn đã hiểu về hơi thở dài.
Mặc dầu hai loại hơi thở có bản thể đối ngược nhau, nhưng phuơng pháp nghiên
cứu cả hai cũng đồng nhất.
Điểm chú tâm thật đặc biệt ở đây là
sự quan sát khi ta thở hơi dài thì hơi thở đó trở nên tế nhị. Còn khi ta thở
hơi ngắn, hơi ấy lại thô phù. Khi ta đã học được cách làm cho hơi thở trở nên
tế nhị hay thô phù theo ý ta muốn, thì ta có thể ứng dụng sự hiểu biết đó để
đem phần lợi lạc về cho ta. Lợi lạc đó là hơi thở tế nhị làm lắng dịu thân thể
ta.
Hơi thở ấy trở nên mát dịu. Khi ta
muốn thân thể ta trở nên thanh lương, thì ta thở hơi thở tế nhị. Và khi muốn
hơi thở trở nên tế nhị, ta chỉ cần thở hơi thở dài ra. Đây là một điều mà ta
rất cần học và cần tập.
Một thí dụ khác là khi ta giận thì
hơi thở trở nên ngắn. Khi có hơi thở ngắn, thì thân thể trở nên bị xáo trộn và
bị phiền rộn. Nếu ta có thể thở hơi dài hơn thì cơn giận chẳng thể nào tiếp tục
lâu được nữa. Khi ta giận, hơi thở sẽ ngắn và thô phù, và rồi thân thể cũng trở
nên thô phù theo. Ta có thể đẩy cơn giận đi ra xa bằng cách thở hơi dài và nhẹ.
Thân thể sẽ được thư giãn và cơn giận kia sẽ biến mất. Đây là một trong các thí
dụ của sự liên hệ hỗ tương mật thiết giữa hơi thở, thân thể và tâm tự Đấy là
điều mà ta cần thông hiểu về sự liên hệ và dị biệt giữa hai loại hơi thở dài và
ngắn. Ta cần nên thể nghiệm điều đó, tự mình cảm nhận lấy điều đó, thực tập
điều ấy cho tinh chuyên và thiện xảo.
Thổi bay đi các tình cảm.
Để tóm tắt hai bước đầu: ta có thể
điều chỉnh, kiểm soát, giới hạn và chế ngự các tình cảm bằng cách vận dụng hơi
thở. Ta có thể khiến cho tình cảm trở nên đứng đắn, hữu dụng và lợi ích, qua
hơi thở. Xuyên qua sự thông hiểu về hơi thở, ta phát triển được khả năng kiểm
soát chính hơi thở. Nếu ta luyện tập được hơi thở, thì ta cũng kiểm soát được
các tình cảm, tức là, thích ứng được với niềm hoan lạc và sự thống khổ của đời
ta. Hãy thực tập cho đến khi nào bạn cảm nhận được điều đó. Sự luyện tập sẽ còn
dở dang, nếu ta còn chưa thấy rõ điều đó.
Khi bạn đang ngồi quán tưởng, có
một con muỗi chích bạn, tâm bạn khởi lên một tư tưởng bất thiện. Làm cách nào
đuổi đi được tư tưởng xấu đó? Đuổi nó đi bằng cách cải thiện hơi thở: khiến hơi
thở trở nên dài hơn, tế nhị hơn và đủ sức thổi bay đi cái tình cảm chẳng lành
đó. Đó là cách tốt nhứt để giải quyết một vấn đề như thế. Đấy lại là một thí dụ
khác nữa về sự ích lợi của việc thông hiểu và về các khả năng mà chúng ta hiện
đang thực tập để phát triển.
Các đề tài cùng các quan điểm cần
được học tập nơi bài thứ nhứt về hơi thở dài và bài thứ hai về hơi thở ngắn,
đều giống nhau. Điểm sai biệt duy nhứt là mọi sự việc đều bổ túc cho nhau. Số
lượng và chủng loại các sự việc cần học tập đều bằng nhau. Nhưng chỗ khác nhau
giữa hơi thở dài và hơi thở ngắn đã đưa đến nhiều loạt sự kiện bổ sung cho
nhau.
Vâng, thời gian dành cho buổi pháp
thoại hôm nay đã chấm dứt. Chúng ta chỉ có thời giờ để bàn luận bước một và
bước hai thôi. Ta sẽ xét đến các bước khác trong bộ bốn thứ nhứt vào ngày mai.
Hôm nay xin ngưng tại đây.