Hôm nay, chúng ta sẽ tóm tắt lại
những chỗ sưu tầm của Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) được các bài pháp
thoại nầy bàn đến. Chúng ta sẽ tóm lược lại mười sáu bước, theo đặc tánh chủ
yếu của chúng, giá trị các lợi lạc cùng các phương tiện để thực hiện được các
lợi lạc đó. Xin các bạn vui lòng nghe cho cẩn thận. Rồi các bạn sẽ có đủ khả
năng để hưởng dụng các lợi lạc đó đến mức tối đa.
Xin đừng quên rằng chúng ta đang
bàn về Thiên nhiên, về bốn khía cạnh của Thiên nhiên và qui luật của Thiên
nhiên biểu lộ trong bốn khía cạnh đó: thân (kàya), cảm thọ (vedanà), tâm
(citta) và Pháp (Dhamma). Thiên nhiên thanh tịnh và giản dị! Vậy, xin bạn hãy
hiểu cho rõ danh từ Dhamma jàti nầy. Nó vừa là qui luật của Thiên nhiên, vừa
tuân phục theo qui luật đó; Thiên nhiên và qui luật của nó, chẳng thể nào tách
rời nhau ra. Là sanh vật, chúng ta có nhiệm vụ phải thấu hiểu và xử dụng Thiên
nhiên như thế nào để đem lại lợi ích tối đa cho chúng ta. Mặc dầu chúng ta
chẳng thể kiểm soát Thiên nhiên được, nhưng chúng ta có thể lợi dụng Thiên
nhiên để đem phần lợi về cho mình, khi chúng ta biết hành động một cách đứng
đán chiếu theo qui luật của Thiên nhiên. Chúng ta biết đến bốn "thiên
nhiên" đó cũng chỉ vì sự lợi lạc cho đời sống của chúng ta, dầu cho đời
sống ấy có kéo dài đến bao lâu đi chăng nữa.
Thân (kàya): làm mát dịu các tình
cảm.
Đề tài thứ nhứt để thực tập Giác
niệm về Hơi thở là kàya, thân hay là các thân. Chúng ta đều hiểu rõ tầm quan
trọng của thân đối với đời sống, nên chẳng cần giải nghĩa thêm dài dòng. Tấm
thân làm cơ sở cho tâm trí. Ta cần có một thân (kàya) sẵn sàng đủ sức để tự bảo
vệ và tự bảo trì lấy nó và một tâm trí hướng theo sự lợi lạc của đời sống. Hơn
nữa, ta cần hiểu biết cách kiểm soát thân dựa theo các nhu cầu của ta, qua sự
điều chỉnh hơi thở. Nhờ làm được như thế, ta có thể thay đổi được khí sắc và
tình cảm. Thí dụ như, khi ta tức giận, ta có thể buông bỏ nổi giận hờn bằng
cách thở dài hơi. Do hơi thở dài mà cơn giận biến mất. Khi ta đang lo âu và
chẳng thể nào suy nghĩ cho thẳng thắn được, ta thở dài hơi, càng lúc càng dài,
để đuổi sự lo âu ra khỏi. Hoặc ta muốn đổi chiều một tư tưởng nầy sang một
chiều hướng tư tưởng khác, ta có thể làm được như thế bằng cách thở thật dài hơi
để quét sạch cái tư tưởng hay cái tình cảm chẳng đáng mong muốn đó và thay thế
chúng bằng một chút gì bình thường và có trật tự hơn. Thế là ta có đủ khả năng
để suy nghĩ đến những điều đáng lẽ ra phải được nghĩ đến. Vậy thì, tấm thân
(Kàya) đâu chỉ có xương với thịt mà thôi, còn có nhiều hơn thế, thân đó ảnh
hưởng cả đến tâm trí nữa.
Riêng chỉ một mình hơi thở cũng đủ
làm cho ta phải tìm hiểu cho thật rõ ràng, dầu chỉ là hơi thở suông thôi. Ta sẽ
có được sức khoẻ tốt, nếu ta biết thở một cách thật thích nghi. Như thế, thân
và những sự vật liên hợp với thân -- như hơi thở, tình cảm, và sức khoẻ -- đều
được xem như một đề tài hết sức quan trọng. Tôi hi vọng tất cả các bạn sẽ thu
lượm được thật đầy đủ các lợi điểm về giai đoạn nầy của Giác Niệm về Hơ i thở (Ànàpànasati).
Cảm thọ (vedanà): chặn đứng sự quay
cuồng.
Các cảm giác là đề tài thứ nhì. Nếu
bạn chẳng ý thức đến các tình cảm thì bạn sẽ nghĩ là chúng chẳng quan hệ gì cả.
Thật ra, chúng rất ư là quan trọng đối với nhơn loại, vì chúng có thể làm loài
người quay cuồng theo ý chúng. Hơn thế nữa, chúng còn làm cả thế giới quay
cuồng theo. Dầu là cảm giác nào mà ta đang mong muốn -- và mọi người đều đầy cả
khát vọng -- ta vẫn bị thúc đẩy để đi đến những hành động tương ứng với chúng.
MọI người đều chạy đuổi theo các cảm giác thích thú và lánh xa các cảm giác khó
chịu. Đấy là lý do tại sao các tình cảm cứ khiến cho toàn thể thế giới nầy quay
cuồng mãi. Tình cảm con người là nguyên nhân tạo nên các sự phát minh mới lạ,
tân kỳ và những sáng tạo mà nhơn loại đã sản xuất. Nghệ thuật, văn hoá, và kỹ
thuật được khám phá và tạo dựng nên cũng bởi các tình cảm, có đầy quyền lực
mãnh liệt để ép buộc ta phải đi theo chúng. Cảm thọ (Vedanà) gây ra ước muốn.
Nhu cầu được phát sanh cũng từ các cảm thọ và chạy theo các cảm thọ. Rồi ta
hành động theo tiếng gọi của các ước muốn. Vì thế mà nhiều sự việc đã xảy ra.
Ngay cả việc ta chạy theo tiền bạc cũng là để đáp lại lời yêu cầu của tình cảm,
cho dầu tình cảm đó bắt nguồn từ nhục cảm hay tình dục, hoặc giản dị hơn, từ
cái cảm giác tầm thường là mong được thoải mái.
Xin bạn hãy ráng tìm hiểu các sự
việc ấy đang ngự trị nhơn loại. Cảm thọ (Vedanà) có quyền lực và ảnh hưởng mãnh
liệt phi thường đến chúng ta. Nếu ta chẳng thể kiểm soát được các tình cảm, ta
sẽ thăng trầm lên xuống theo nhịp thị hiếu bất thườg của chúng, tức là sự khổ
sở (dukkha). Và rồi ta sẽ nhắm mắt cứ hành động theo các cảm thọ (vedanà), hiện
còn bị giam giữ trong sự vô minh (avijjà) và vì thế, mà chẳng được đứng đắn.
Điều ấy cũng giống như đối với loài súc sanh. Cả thú vật nữa, cũng chịu sự thúc
dục và hướng dẫn của các tình cảm; mọi hoạt động cuả chúng cũng chỉ là lùng
kiếm và theo đuổi các cảm thọ mong muốn. Con người cũng thế, lùng kiếm và chạy
đuổi theo các cảm thọ mà họ mong cầu.
Ngay cả việc các bạn đến khoá thiền
tập ở Suan Mokkh nầy, các bạn hi vọng tìm thấy chút gì có thể tạo nên cái cảm
thọ làm bạn vui thích. Phải chăng các bạn đến đây để tìm thấy các cãm giác
thích thú, như sự yên tĩnh và an hoà của tu viện, hoặc niềm vui về các giây
phút trầm tư mặc tưởng, hoặc bạn đã cố gắng tìm cách lánh xa khỏi cảnh xáo
trộn, tranh chấp, ưu tư và đau khổ trên thế giới? Các cảm thọ đó đưa đến mọi
hoạt động và tầm cầu; chúng thúc dục mọi cố gắng, nỗ lực. Thật vậy, chúng chính
là các chủ nhơn ông, các nhà độc tài, đối với đời sống của chúng ta, đến một
mức độ hết sức là sâu rộng. Khi ta kiểm soát được chúng, ta chẳng để chúng gây
tác hại đến ta. Khi ta chẳng đủ khả năng để kiểm soát chúng, ta trở nên nô lệ
của chúng. Còn tình trạng nào bi thảm hơn nữa, khi phải làm nô lệ cho các cảm
thọ!
Có hai loại cảm thọ (Vedanà): cảm
thọ điền rồ bị ảnh hưởng của vô minh (avijjà) và cảm thọ sáng suốt được trí huệ
minh triết (vijjà) chiếu soi đến. Nếu ta tỏ ra điên rồ vào lúc xúc (phassa, sự
tiếp xúc giữa giác quan với đối tượng) xảy ra thì ta sẽ có cảm thọ điên rồ. Nếu
ta tỏ ra khôn lanh và hiểu biết vào lúc xúc (phassa) xảy ra thì ta sẽ có được
cảm thọ đứng đắn, chơn chánh. Cảm thọ điền rồ đưa đến dục vọng còn si mê, mà ta
gọi là khát ái (tanha). Cảm thọ đứng đắn đưa đến sự ham muốn đứng đắn, đúng như
những ham muốn chơn chánh mà ta cần phải nên ham muốn. Ta phải nên cẩn thận giữ
gìn cho các cảm thọ được luôn luôn đứng đắn. Cảm thọ điên rồ đưa đến khát ái,
rồi khát ái lại lôi kéo ta chạy theo một khát ái điên rồ khác, hoặc theo một
ước muốn khá thông minh hơn. Khát ái có thể biến một ước muốn chơn chánh trở
thành ngu xuẩn. Khát ái điền rồ lôi cuốn ta quay cuồng vòng vòng, vòng vòng,
mãi chẳng biết bao nhiêu lần, thế mà ta vẫn ráng sức chịu đựng với nó. Đôi khi,
ta lại muốn lên đến tận cung trăng! Cho đến khi nào khát ái còn lưu lại đó thì
chẳng bao giờ chấm dứt mọi việc đến và đi, các phát minh, các chế biến, các
khát vọng cho một cuộc đời xa hoa phù phiếm đến bất tận. Lẽ tất nhiên, việc
kiểm soát các cảm thọ đưa đến các lợi lạc thật vĩ đại. Bạn chớ để cho chúng làm
khuấy động lên các ước muốn và nhu cầu điên rồ. Trong chiều hướng đó, bạn nên
quan tâm đến các cảm thọ.
Tâm (citta): làm việc đứng đắn.
Giờ đây, ta đến với tâm (citta).
Bạn đã biết rõ và ý thức đầy đủ về tầm quan trọng của tâm. Nếu chưa, thì cuộc
nghiên cứu của chúng ta tại đây cũng chỉ được cho bạn thấy tầm quan trọng ấy
của tâm. Mặt khác, cũng như đối với thân (kàya), và cảm thọ (vedanà), nếu tâm
chẳng được đứng đắn, thì các vấn đề khó khăn sẽ đặt ra ngay và sự khổ sở
(dukkha) sẽ xảy đến.
Ở mức tối thiểu, có ba việc ta cần phải thông hiểu về tâm. Tùy theo chức năng
mà tâm thi hành, ta gọi tâm đó dưới ba tên khác nhau. Khi nó suy nghĩ, ta gọi
đó là citta (tâm). Khi nó hay biết, ý thức về việc gì, cảm giác hay thể nghiệm
và biết rõ đến điều gì, ta gọi là mano (cảm biết). Chức năng căn bản ý thức tại
ngưỡng cửa các giác quan để thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ và hiểu biết được gọi là
vinnàna (ý thức). Ta đặt tiêu điểm lên chức năng của tâm khi nó thi hành nhiệm
vụ của nó để đặt tên cho nó: khi nó suy nghĩ, ta gọi là citta, tâm; khi nó hay
biết, ta gọi đó là mano, cảm biết; và khi nó ý thức được các cảm giác ở các
giác quan, ta gọi đó là vinnàna, ý thức.
Khi tâm hoạt động đứng đắn, thì có
nhiều kết quả tốt đẹp, và cần phải kiểm soát tâm để cho nó hoạt động thật đứng
đắn. Nếu ta chẳng kiểm soát được tâm thì nó trở nên chẳng đứng đắn. Khi nó
thiếu đứng đắn thì muôn việc đều hư hỏng cả, chẳng còn gì sót lại trên thế gian
nầy. Ta có thể nói thế gian nầy sở dĩ có được là vì chúng ta đã có tâm. Nếu ta
chẳng có tâm, thì có lẽ chẳng còn có thế gian nào nữa cả. Nếu ta tiếp tục kiểm
soát được tâm mãi và an trú nó trong chỗ đứng đắn, ta sẽ thâu nhận được các hoa
quả của sự yên tĩnh, vắng lặng, và hoà bình. Thông hiểu đầy đủ về tâm để có thể
giữ mãi tâm trong vòng kiẻm soát, đó là loại kiến thức tuyệt hảo mà loài người
cần phải biết khám phá ra để hưởng lấy. Bạn phải nên lưu tâm đặc biệt về vấn đề
nầy.
Pháp (dhamma): hai sự kiện căn bản.
Sau cùng, ta đến với Pháp (Dhamma),
hay là, đến với Chơn Lý. Trong mọi sự vật, kể cả những sự vật là chính chúng ta
nữa, và những sự vật mà chúng ta có liên hệ đến, đều có những Chơn Lý mà ta cần
phải hiểu thấu. Nếu ta chẳng hiểu đến Chơn lý đó, hay đã hiểu một cách sai lầm,
thì việc xử thế của chúng ta sẽ chẳng được đứng đắn với các sự vật đó, với đời
sống của chúng ta. Điều nầy sẽ tạo nên nhiều vấn đề khó khăn và sẽ đưa tới sự
Khổ sở (dukkha). Toàn bộ rộng rãi các kiến thức đó có thể tóm lược lại thành ra
hai đề mục chánh: sự vật kép, phức tạp gọi là chư hành (sankhàra) và các sự vật
đối ngược lại, tức là các sự vật đơn thuần, chẳng phức tạp. Có lẽ các bạn đã
học qua hai đề mục nầy trong khoa Siêu hình học rồi, dưới danh xưng là hiện
tượng (phenomene) và bản thể (noumene). Bản thể đối ngược với hiện tượng trên
nguyên tắc, nhưng cả hai lập thành một cặp đôi. Nếu sự vật nào là một hiện
tượng, thì nó phải là thể kép, phức tạp và biểu lộ ra sự thật về vô thường
(aniccam). Nếu một sự việc là bản thể thì nó thuộc vào thể đơn thuần, và chẳng
hề vô thường; trái lại, nó lại thường hằng (niccam). Vì lẽ đó, ta nghiên cứu và
học tập về vô thường nơi muôn sư vật, cho đến khi nào ta thông suốt được lẽ vô
thường thật thuần thục. Và rồi ta chẳng hề gắn bó, ràng buộc vào bất cứ sự việc
gì. Khi tâm trí chẳng còn bám níu vào bất cứ đâu nữa thì nó sẽ nhận thức ra
được cái lẽ thường hằng (niccam) đã vượt qua khỏi sự vô thường, tức là đến được
với cái bản thể -- Niết-bàn (Nibbàna). Như thế, ta hiểu được cả hai sự thực
thực tế -- điều hữu vi, bị điều kiện hoá và điều vô vi, chẳng bị điều kiện hoá --
và đó là một sự quan trọng vào bực nhứt. Đó là nguyên tắc tối quan trọng. Sự
thực tập về Pháp trong bộ bốn cuối cùng của Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
sẽ dẫn ta đến hai sự kiện căn bản đó.
Trên đây là cốt tủy của việc chúng
ta nghiên cứu vể bốn lãnh vực ấy, và các kiến thức cùng lợi lạc mà sự nghiên
cứu đó mang đến. Đấy là tinh hoa của Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Bốn Pháp đồng hành.
Còn có bốn lợi ích trong việc thực
tập Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) nữa. Ta còn được bốn điều mà tôi muốn
gọi đó là "bốn kẻ đồng hành của Pháp". Tôi đã tự tiện đặt ra danh từ
"đồng hành" nầy để có thể giải thích, một cách dễ dàng hơn. Bốn Pháp
"đồng hành" đó là sati, pannà, sampajannà và samàdhi: giác niệm, bát
nhã, phân biện và định lực. Các bạn còn nhớ ở bài pháp thoại đầu tiên, tôi có
nói, trong khi chúng ta sống trong cõi thế gian nầy, thì bốn kẻ đồng hành đó đã
giúp ta chiến thắng được mọi sự đe dọa. Với bốn kẻ đồng hành đó ta có thể gạt
bỏ được sự Khổ sở (dukkha). Dầu đang ở trong tu viện hay ra sống ở bên ngoài,
chúng ta phải xử dụng đến bốn kẻ đồng hành ấy để mà sống. Trước hết, ta có giác
niệm (sati, ý thức hiểu biết). Khi một đối tượng tiếp xúc vơi giác quan, giác
niệm (sati) có đó và mang bát nhã (panna, trí huệ) tới cho sự thể nghiệm. Một
khi bát nhã (panna) đã đến, nó liền chuyển biến thành sự phân biện (sampajannà,
trí huệ đang tác động, nghĩa là, phân biệt ra được rõ ràng) tức là sự ứng dụng
của trí huệ vào một tình trạng đặc biệt hiện có. Rồi, sức mạnh của định lực
(samàdhi, tình trạng tập trung tâm ý) gia tăng lên để trợ giúp cho sự phân biện
(sampajannà). Với sự phối hợp cộng tác của bốn Pháp đồng hành đó, ta có đủ khả
năng để chinh phục bất cứ đối tượng nào đến tiếp xúc với mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân và tâm. Bốn Pháp đồng hành đó là bốn kẻ thân tùy vô địch đang hộ vệ chúng
ta. Chúng canh chừng và bảo hộ chúng ta tựa như một đấng Thượng đế. Nếu ta biết
thực tập Giác Niệm về Hơi thở, ta sẽ thủ đắc được bốn Pháp đồng hành đó.
Thực tập các chơn lý căn bản.
Lợi ích kế tiếp là ta có đủ khả
năng để thực tập phù hợp với nguyên lý paticca samuppàda, lý duyên sanh, hay
là, sự sanh khởi bị điều kiện hoá. Lý thuyết về lý duyên sanh hết sức phức tạp
và dài dòng. Đối với vài bạn còn chưa quen với lý thuyết nầy, tôi xin nói vắn
tắt, lý duyên sanh giải thích nguyên nhân làm nguồn gốc phát sanh ra khổ sở
(dukkha). Một chuỗi dài các nguyên nhân, cái sau tùy thuộc vào cái trước, đưa
đến sự đau khổ. Đức Phật đã giảng dạy đề tài nầy dưới nhiều hình thức khác
nhau, bởi vì nó quá tế nhị và thâm sâu vô cùng, khó cho ta hiểu thấu được. Xin
các bạn hãy nghiên cứu lý thuyết nầy. Nhưng đến khi chúng ta bước vào việc thực
tập ứng dụng nó, thì lại thấy lý duyên sanh rất giản dị, giản dị đến mức tuyệt
diệu. Nó cô đọng lại ở chỗ nầy: có giác niệm (sati, sự tỉnh thức) vào đúng lúc
xảy ra sự tiếp xúc, xúc (phassa), giữa đối tượng và giác quan, và giản dị có
thế mà thôi. Xúc (phassa) là nơi gặp gỡ giữa ba việc: (1) giác quan, (2) trước
một đối tượng ở bên ngoài và (3) ý thức (vinnàna) tương ứng khởi lên ở bên
trong nội tâm. Giản dị có được giác niệm (sati) vào đúng lúc xúc (phassa) xảy
ra thì có thể giải quyết thoả đáng và trọn vẹn tất cả mọi vần đề của lý duyên
sanh (paticca samuppàda). Điều đó có nghĩa là, trước khi sự sanh khởi bị điều
kiện hoá phát triển lên được, hãy có ngay giác niệm tại đó, tại chỗ xúc
(phassa). Đừng để cho xúc trở thành mê muội. Đừng để cho một xúc ngu muội kéo
theo một cảm giác ngu muội và một cảm giác ngu muội lại đưa đến sự khát ái
(tanha) cũng ngu muội nốt. Tất cả đều ngưng lại tại chỗ đó. Đấy chính là một
lợi lạc khác của sự thực tập Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati). Sự thực tập
nầy khiến cho giác niệm (sati) trở nên dồi dào, nhanh nhẹn và thiện xảo đủ để
làm tròn nhiệm vụ vào đúng lúc xúc diễn ra, hầu chận đứng lại được dòng nguyên
nhân trong lý duyên sanh (paticca samuppàda) ngay vào lúc đó và ở tại chỗ đó.
Đây quả thật là một lợi ích vĩ đại vào bực nhứt của Giác Niệm về Hơi thở
(Ànàpànasati).
Còn một lợi ích nữa của sự thực tập
Giác niệm về Hơi thở là chúng ta thực hành được theo đúng nguyên tắc nêu trong
Bốn Chơn Lý Nhiệm mầu (Ariya sacca) một cách đễ dàng và trọn vẹn. Các bạn đều
nghe nói đến và hiểu rõ thế nào là Tứ Diệu Đế. Tinh hoa của qui luật đó là sự
Khổ sở (dukkha) phát sanh ra từ sự khát ái (yanha) ngu muội. Nếu ở đâu có sự
khát ái (tanha) thì ở đấy có sự khổ sở (dukkha). Khi ta có thể xử dụng giác
niệm (sati) để chận đứng sự khát ái (tanha) và bẻ nó gãy đi, thì chẳng còn khổ
sở (dukkha) nào nữa. Xuyên qua sự ngăn ngừa nhằm chặn đứng sự thể nghiệm của
các giác quan một cách si mê nơi xúc (phassa), thì một cảm thọ (vedanà) ngu
muội chẳng thể nào khởi lên và khát vọng (tanha) cũng chưa bị khuấy động để nổi
dậy được. Đây là cách tốt nhứt và hữu ích nhứt để thực tập về bốn Chơn Lý Nhiệm
mầu. Chận đứng được sự khát ái (tanha) bằng tốc lực và mãnh lực của giác niệm
(sati) được phát triển thêm nhờ vào sự luỵện tập đầy đủ Pháp Giác niệm về Hơi
thở (Ànàpànasati) qua tất cả bốn bộ bốn các bước thực tập.
Trái tim của Tam Bảo.
Một lợi ích xa hơn nữa của Pháp
Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) là Pháp nầy đưa ta đến gần được với ngôi Tam
Bảo (Ti ratana, Tam qui y, ba nơi nương tựa trong Phật giáo). Đó là bởi vì tinh
hoa, hay cốt lõi, của Phật bảo, Pháp bảo, và Tăng bảo (Đức Phật, Chánh Pháp và
Tăng già) nằm trong tình trạng: thanh tịnh, trong suốt và an tịch. Tình trạng
của Tâm (citta) đã trờ nên thanh tịnh, trong suốt và an tịch, đó chính là tinh
hoa của Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo. Xin bạn hãy thận trọng với ba tĩnh từ
nầy: thanh tịnh, trong suốt và an tịch. Đức Phật đâu phải chỉ là một tấm thân
hình hài vật chất; mà phải là một tình trạng tâm linh có được tâm trí đạt đến
mức thanh tịnh, trong suốt và an tịch. Đấy mới là Đức Phật chân thật. Khi ta
nhìn thấy được Pháp, thì ta đã thấy được Phật. Trái tim Chánh Pháp cũng là
thanh tịnh, trong suốt và an tịch. Còn đối với Tăng già (Sangha), là những
người, xuyên qua sự thực tập viên mãn, đã thể hiện được tâm thanh tịnh, trong
suốt và an tịch. Cả ba tĩnh từ đều rất là quan trọng. Người đầu tiên đã thực
hiện hoàn toàn tâm thanh tịnh, trong suốt và an tịch như thế, được gọi là
"Đức Phật"(Buddha), Chơn Lý được thể hiện ra đó, được gọl là
"Chánh Pháp"(Dhamma) và những kẻ đã nương tựa theo đó mà tu tập thành
công, được gọi là "Tăng già"(Sangha). Khi ta thực tập Pháp Giác Niệm
về Hơi thở (Ànàpànasati) ta làm cho tâm ta trở nên thanh tịnh, trong suốt và an
tịch, như đã được trình bày chi tiết qua các bài pháp thoại nầy. Các đức tánh
đó là hoa quả của sự vô chấp thủ (viràga, chẳng bám níu, chẳng ràng buộc), sự
đoạn diệt (nirodha) và sự từ bỏ (patinissagga) (từ bước thứ mười bốn đến bước
thứ mười sáu). Qua các bước đó, có sự thanh tịnh, trong suốt và an tịch đến với
tâm và do đó mà Ngôi Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo dễ dàng thể hiện
đến nơi tâm trí chúng ta. Đấy lại là một lợi ích khác, chẳng gì vượt hơn nổi, của
Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
Nhìn vào toàn bộ Phật giáo.
Giờ đây, lợi lạc tiếp theo là khi
thực tập Giác Niệm về Hơi thở, ta đang thực hiện được một nguyên tắc căn bản
nhứt trong Phật học, đó là ba môn học vô lậu Giới Định Huệ (Sìla Samàdhi Pannà).
Cả ba yếu tố nầy đều có mặt đầy đủ trong việc thực tập Pháp Giác Niệm về Hơi
thở (Ànàpànasati). Cái quyết tâm chẳng gì lay chuyển nổi để thực tập, đó chính
là Giới (Sìla). Khi tâm trí được đặt lên trên các hành động đứng đắn, đó cũng
là Giới. Trong chủ ý quyết định cần thiết cho sự thực tập mỗi bước của Pháp
Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati), đã có một sự trì giới tự động, tự nhiên,
chẳng cần chúng ta phải minh thị biểu lộ ra bằng một hành động đặc biệt nào.
Rồi kế đó là định lực (samàdhi) cũng hiện diện đến nữa. Bởi vì đã có chủ ý
quyết định thực tập như thế, nên ta sẽ thực tập mãi cho đến khi đắc được định
lực khởi lên. Rồi thì Bát nhã (Pannà) phát triển theo, đặc biệt là ở bộ bốn thứ
tư, đó vốn là trí huệ Bát nhã hoàn toàn nhứt. Nhờ thực tập đứng đắn Pháp Giác
Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) mà nguyên tắc căn bản nhứt của Phật giáo được
thành tựu, đưa đến sự viên mãn tròn đầy của Giới Định Huệ. Đấy là lợi lạc vĩ
đại của việc tu luyện theo toàn bộ giáo lý của Phật học.
Khi nói tóm lược lại, thì ta nói
Giới Định Huệ (Sìla Samàdhi Pannà). Nhưng khi nói cho đầy đủ chi tiết, thì ta
nói đến bảy yếu tố của Thất Giác Chi (Bojjhanga). Đức Phật có tuyên bố rằng,
khi thực tập đầy đủ mười sáu bước của Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati),
ta thực hiện được bốn lãnh vực của giác niệm (satipatthàna). Qua sự thực hiện
toàn mỹ bốn lãnh vực của giác niệm: thân, cảm thọ, tâm và Pháp, tức là nội dung
của bốn bộ bốn (tetrads) trong Pháp Giác niệm về Hơi thở, thì bảy yếu tố của sự
Giác ngộ (Bojjhanga, Thất giác chi) cũng được hoàn mãn. Và rồi sự Giác ngộ hoàn
toàn cũng được bảo đảm. Thất giác chi (Bojjhanga) chính là bảy yếu tố đưa đến
sự giác ngộ của bực A la hán (Arahant), bực nhơn giả đã giải thoát khỏi mọi khổ
sở (dukkha). Phải mất đến cả giờ để đi sâu vào các chi tiết nầy. Giờ đây, tôi
chỉ còn thời giờ để nói lên danh xưng của các yếu tố đó với các bạn mà thôi:
sati, dhammavicaya, viriya, piti, passaddhi, samàdhi và upekkha (Giác niệm,
trạch pháp, tinh tấn, hỉ, khinh an, định và xả). Bảy yếu tố đó được đầy đủ một khi
Giác niệm về Hơi thở được hoàn tất. Một khi bảy yếu tố đã đầy đủ, thì sự Giác
ngộ hoàn toàn đã được bảo đảm rồi. Mặc dầu ta chẳng đủ thời giờ để giải thích
thêm nữa, nhưng xin các bạn hiểu cho rằng bảy yếu tố của sự giác ngộ
(Bojjhanga) là điều chắc chắn đạt được một khi đã thực tập hoàn mãn Pháp Giác
Niệm về Hơi thở. Lời tuyên bố của Đức Phật được ghi rõ ràng trong Kinh Tạng,
các bạn có thể tự mình kiểm chứng lại xem.
Niết-bàn tại đây và ngay bây giờ.
Giờ đây, ta đến với một lợi ích
tích cực thâu lượm được qua sự thực tập Pháp Giác Niệm về Hơi thở. Đó là
Niết-bàn ngay trong đời nầy, chẳng cần đợi chi đến chết. Tôi muốn nói, Niết-bàn
tại đây và ngay bây giờ, tức là thứ Niết-bàn mà ta chẳng cần phải chết rồi mới
được, một thứ Niết-bàn chẳng ăn nhằm chi đến cái chết cả. Niết-bàn (Nibbàna) có
nghĩa là "thanh lương", là mát lạnh. Chữ Pali "Nibbuto"
cũng có nghĩa là thanh lương. Nếu đó là sự thanh lương, mát mẻ tạm thời, chẳng
kéo dài, và chẳng được hoàn hảo, thì ta gọi đó là Nibbuto. Tuy nhiên hương vị
của nó cũng vẫn giống y với một Niết-bàn (Nibbàna) hoàn hảo. Nibbuto cũng như
là một mẩu hàng hoá mà người thương gia đem ra để giới thiệu món hàng mà ta sẽ
thực sự mua. Cả hai phải giống nhau. Và đây chúng tôi có một mẩu Niết-bàn
(Nibbàna) để mời các bạn nếm thử trong chốc lát. Tôi gọi đó Niết-bàn tạm thời,
hay là sàmàyika nibbàna.
Sự thanh lương có thể là Niết-bàn
(Nibbàna) đang hiện khởi do "yếu tố đó".Trong tiếng Pali, chữ
"yếu tố đó" có nghĩa là một cái gì ngẫu nhiên
("coincidental"). Thí dụ như, khi có giác niệm (Sati) trong hơi thở,
thì tâm (citta) trở nên thanh lương. Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) chính
là "yếu tố đó", là tác viên, là nguyên nhân, đã gây ảnh hưởng đến sự
thanh lương đó ở tại đây. Đó là Niết-bàn tạm thời, tadanga nibbàna, một thứ
Niết-bàn ngẫu nhiên. Sự thanh lương khởi lên vì khi chẳng còn có phiền não nữa,
thì tâm (citta) trở nên thanh lương. Khi chẳng có lửa, thì phải có sự mát
nguội. Ở đây Giác niệm về hơi thở (Ànàpànasati) đã dập tắt các thứ lửa, tức là
các loại phiền não. Mặc dầu đó chỉ là tạm thời, lửa tắt và có sự mát lạnh trong
một lúc. Đó là Niết-bàn trong một lúc, do nhờ ở "yếu tố đó", ở cái
dụng cụ đó, tức là Giác Niệm về Hơi thở. Mặc dầu trong chốc lát, còn chưa được
hoàn hảo và vĩnh cửu, nhưng hương vị của Niết-bàn đó cũng được thưởng thức như
là một mẩu của vị nếm thử. Giác Niệm về Hơi thở giúp chúng ta thưởng thức được
Niết-bàn chút chút, mỗi lần một ít, lúc nầy qua lúc khác, trong suốt cuộc đời
mình hiện nay. Và chẳng có gì mà cần phải chết đi cả. Rồi thì sự thanh lương lại
kéo dài ra thêm nữa, nới rộng ra thêm nữa, và càng lập lại càng nhiều lần hơn
nữa, mãi cho đến khi đạt tới Niết-bàn hoàn hảo. Đây là một sự lợi lạc mà tôi
xem như thật là thích thú nhứt và tích cực nhứt. Mong các bạn có thể làm được
như thế!
Xin bạn hãy chắc rằng mình đã hiểu
rõ chữ Niết-bàn (Nibbàna) cho thật đúng. Nó có nghĩa là thanh lương, mát lạnh,
chớ chẳng có dính dấp gì với cái chết. Nếu có liên hệ với cái chết, như trong
thường hợp sự qua đời của một bực A la hán (Arahant), thì lại là chữ khác, Parinibbàna,
Bát Niết-bàn. Riêng chữ Nibbàna, Niết-bàn, chẳng có tiếp đầu ngữ Pari, thì chỉ
có nghĩa giản dị là thanh lương, sự vắng bóng của lửa nóng. Bạn hãy tưởng tượng
như tất cả muôn sự đều trôi chảy êm thắm đối với bạn, sức khoẻ dồi dào, kinh tế
ổn dịnh và an toàn, gia đình hạnh phước, bạn bè thân thương, và chòm xóm láng
diềng khả ái. Thế thì, cuộc đời đó của bạn thật là thanh lương, theo ý nghĩa
của chữ Niết-bàn (Nibbàna). Có thể cuộc đời đó còn chưa được hoàn hảo, chưa
phải là Niết-bàn hoàn toàn, bởi vì nó còn chờ đợi có thêm một tâm hồn thanh
lương nữa để hoàn hảo, nhưng dầu sao thì cũng đã là thanh lương rồi vậy.
Chữ Niết-bàn (Nibbàna) mang ý nghĩa
thanh lương. Nó có thể được dùng đến để chỉ các sự vật vật chất. Một hòn than
cháy nóng bỏng đang nguội dần, được gọi là đang "vào Niết-bàn". Khi
một tô súp nóng, dần dần nguội bớt đi, ta có thể nói, tô súp đó đã Niết-bàn vừa
đủ để ăn được rồi. Chữ Niết-bàn (Nibbàna) còn có thể dùng trong trường hợp các
dã thú hung ác và nguy hiểm bị bắt trong rừng đem về nuôi dưỡng, huấn luyện cho
thuần tánh để trở thành các thú vật nhà. Các dã thú đó cũng được gọi là đã
Niết-bàn. Trong các văn kinh Pali, cũng chữ Niết-bàn nầy đã được dùng cho cả
các sự vật vật chất, thú vật và con người. Nếu có cái chi đang thanh lương, mát
mẻ, chẳng chút nóng bức, thì đó là Niết-bàn theo một nghĩa nầy hay một nghĩa
nọ. Chúng ta sẽ nhận được một lợi lạc thật là thoả thích nhứt về Niết-bàn --
thanh lương nơi thân thể, thanh lương nơi tâm thần, thanh lương về mọi mặt --
qua sự thực tập Pháp Gíac niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Nói tóm lại, ta có được cuộc sống
thanh lương ngay tại đây và vào lúc nầy, tức là Niết-bàn, theo các nghĩa vừa
được giải thích ở trên. Trong tiếng Pali, tiếng Nibbuto có nghĩa là " một
người trở nên thanh lương", hoặc là "một người đã có được
Niết-bàn" (Nibbàna). Tình trạng đó là Niết-bàn, Nibbàna. Còn con người
đang trong tình trạng đó là Nibbuto.
Hơi thở cuối cùng.
Còn nhiều lợi lạc khác nữa của Pháp
Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati), nhưng kể ra hết đây thì mất cả giờ, khiến
cho tôi là người nói, và các bạn là người nghe, rất khó cho chúng ta theo dõi
hết được. Tuy nhiên, xin được phép đề cập đến một đề tài chót: ta sẽ biết rõ
được hơi thở cuối cùng của đời ta; tức là ta sẽ biết được vào hơi thở nào thì
ta sẽ chết. Điều nầy chẳng có nghĩa là chúng ta có thể chọn được lúc nào ta sẽ
lià đời. Đó chỉ có nghĩa là qua sự thực tập thật là thuần thục của chúng ta về
Pháp Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati), chúng ta đã trở nên thiện xảo với hơi
thở. Chúng ta sẽ tức khắc biết ngay liền là ta sẽ chết hay không vào cái hơi
thở đang thở nầy. Rồi chúng ta có thể tiên đoán được hơi thở cuối cùng của đời
ta. Đây là một lợi lạc rất đặc biệt là biết được hơi thở cuối cùng của đời
mình.
Đức Phật có tuyên bố rằng, chính
Ngài đã đắc được Chánh đẳng Chánh giác (anuttara sammàsambodhi) qua sự thực tập
Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati). Vì thế, tôi rất hoan hỉ để ân cần giới
thiệu với các bạn ở đây và ở khắp nơi, để muôn người đều biết rõ đến Pháp nầy
mà thực tập. Đức Phật đã thành Phật nhờ thực tập Pháp Giác Niệm về Hơi thở nầy.
Như thế, Ngài đã hiến tặng Pháp ấy cho chúng ta như là một hệ thống tốt nhứt để
thực tập. Ngài chỉ dạy cho chúng ta biết xử dụng sự thực tập nầy vì sự an lạc
của chúng ta, vì sự an lạc cho các kẻ khác, và vì sự an lạc của tầt cả mọi
người. Chẳng còn cách nào khác hay hơn là thực tập Pháp Giác Niệm về Hơi thở.
Mong các bạn hãy cẩn thận lưu tâm đến nó.
Cuộc thảo luận của chúng ta về sự
quán tưởng Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati bhàvanà) kể như đến đây đã
khá đầy đủ. Xin được phép chấm dứt tại đây bài pháp thoại chót.