Hôm nay, chúng ta sẽ nghiên cứu bộ
bốn thứ ba của Pháp Quán tưởng về Hơi thở (Ànàpànasati), có liên quan đến Tâm
(citta). Bộ bốn nầy được gọi là Cittanupassanà, Quán tưởng về Tâm. Xin hãy
chuẩn bị tinh thần để học tập về Tâm.
Trước khi đi sâu vào bộ bốn thứ ba
nầy, có một điểm rất quan trọng mà chúng ta thường quên, ít nhấn mạnh đến. Mỗi
khi bạn ngồi xuống để thực tập Quán tưởng Giác niệm về Hơi thở (Ànapànasati) --
mỗi khi bạn bắt đầu bất cứ buổi thực tập nào -- bạn cần phải bắt đầu bằng bước
thứ nhứt, tức là sự thể nghiệm về hơi thở dài. Cho dầu hôm qua bạn tập đến bước
nào đi nữa, hôm nay bạn cũng phải bắt đầu lại ngay tại chỗ phải khởi đầu. Mỗi
buổi tập là một buổi mới. Từ hơi thở dài, bạn sang hơi thở ngắn, và cứ liên
tiếp như thế, bạn bước từng bước qua bước kế, hoàn tất đầy đủ mỗi bước, trước
khi tiến lên nữa, cho đến khi nào bạn tới cái bước bỏ dở ngày hôm qua. Mỗi bước
tuỳ thuộc vào bước trước. Nếu bạn còn chưa đủ khả năng để thực hiện bước thứ
nhứt, thì chẳng thể nào bạn có thể tiếp tục việc thực tập xa hơn nữa. Ngay bây
giờ, mặc dầu chúng ta đang có ý định thực hiện việc quán tưởng tâm (cittanupassanà),
chúng ta cũng phải bắt đầu ngay tại bước thứ nhứt. Điều nầy cũng đúng với tất
cả mười sáu bước thực tập. Với hơi thở vào, với hơi thở ra, ta thực tập luôn
luôn như thế. Xin nhớ, ta phải bắt đầu bất cứ buổi thực tập nào cũng bằng bước
thứ nhứt.
Sau khi thực tập thành công hai bộ
bốn thứ nhứt và thứ hai, ta bắt tay vào việc với bộ bốn thứ ba nầy, là sự Quán
tưởng Tâm (cittanupassanà). Bước thứ nhứt của bộ bốn nầy là quán tưởng, hay là
thể nghiệm, tâm dưới mọi khía cạnh của nó. Điều nầy được gọi là citta
patisamvedi, sự thể nghiệm về mọi tình trạng của tâm (= các tâm trạng) vào mọi
thời. Kể từ khi mới bắt đầu thực tập, cho đến điểm nầy, nhiều tâm trạng đã khởi
sanh lên. Nay, chúng ta phải quán sát mỗi tâm trạng ở mỗi bước. Hiện trạng của
tâm ra sao? Nó thay đổi như thế nào? Điều gì đã khởi lên trong tâm? Tâm có
những đặc tánh gì vào lúc nầy? Trong các bước trước, ta nhấn mạnh đến những
hiện tượng, những sự kiện, tâm linh nào, mà tâm đang biết đến, hay là đang thể
nghiệm. Giờ đây, ta sẵn sàng để quan sát đến chính cái tâm. Ta phải tiếp tục
quán sát để biết trực tiếp được tâm ra như thế nào vào lúc ấy. Ta thể nghiệm
được những gì? Bước thứ chín nầy bắt đầu thể nghiệm tâm xuyên qua mỗi phút giây
của sự thực tập.
Nhiễm dơ hay không?
Có nhiều đặc tánh của tâm cần được
quán sát ở đây, và tất cả các đặc tánh đó, tự chúng, phải hiện ra một cách tự
nhiên. Chúng được ta quán sát đúng như chúng đang là như thế, vào đúng thời
gian mà chúng đang hiện hữu. Đặc tánh cần phải được ghi nhận là, như nói theo
cách cổ truyền trong Kinh điển, là "tâm có bị nhiễm dơ không, tức là,
trong tâm có tham (ràga) hay không?" Các bạn đều biết tham là gì, tham mê
sắc dục cũng là một thứ tham. Nghĩa của chữ tham rất rộng. Tham tiền bạc, nữ
trang, thực phẩm, nhà cửa và tài sản cũng đều là tham cả. Cũng có thể là sự
tham luyến về một cá nhân nào (chẳng phải là vì sắc dục) như một người làm công
hay tôi tớ chẳng hạn. Tâm có nhiểm các loại tham luyến như thế không, vào lúc
nầy, hay là nó chẳng vướng đến? Nếu có tham đang hiện diện ở đây, thì quán sát
kỹ nó để phân biệt ra nó thuộc vào loại nào. Hãy biết rõ khi tâm tham thì như
thế nào? Nếu vắng bóng sự tham thì hãy quán sát việc vắng bóng đó của nó. Thở
vào rồi thở ra, trong khi đó, thể nghiệm tâm trạng thực sự lúc bấy giờ của tâm.
Đặc tánh kế tiếp của tâm cần được
quán sát là sân, (dosa) tức là sự giận, sự hờn, sự thù nghịch, sự hiềm hận.
Nghĩa của chữ sân cũng rất rộng. Đôi khi một vật bên ngoài, một người, một tình
trạng, hoặc bất cứ sự việc gì, cũng có thể làm ta giận. Mọi sự cau có, khó chịu
của tâm cũng là sân. Sân cũng nổi lên ngay cả đối với một sự việc ở bên trong
nội tâm. Khi tâm trở nên bị đè nén, kích thích, va chạm, chua cay, tâm đó được
gọi là tâm sân. Ta quán sát tâm để xem tâm đó có sân cùng không. Nếu tâm đang
sân, hãy quán sát, hay biết và hiểu rõ rằng tâm trạng đó là tâm sân. Nếu tâm
chẳng giận hay hờn, thì cũng phải biết rõ rằng nơi tâm lúc ấy chẳng có sân. Đây
là đặc điểm thứ hai mà ta cần quán sát rõ.
Đặc tánh thứ ba cần được quán sát
là sự si mê (moha)(sự mê mờ, lầm lẫn). Sự si mê biểu hiện bằng sự say đắm vào
một sự vật gì mà còn chưa biết rõ thực sự nó như thế nào. Thí dụ như, khi ta
đang nghi điều gì, ta chẳng thể nào chẳng nghĩ đến điều ấy. Và khi có ước mong
hay kỳ vọng nào, ta cũng chẳng thể nào tránh được sự trụ tâm vào điều đó. Sự si
mê có thể có nghĩa là đang bị "lạc lối bơ vơ" hoặc "mờ mịt tăm
tối", tức là, bị sự nghi ngờ và ngu tối làm tràn ngập. Rồi thì, ý kiến nầy
hay ý kiến nọ, phát xuất từ sự nghi ngờ hay sự ngu tối, khởi lên trong tâm. Đó
là đìều được gọi là si mê. Ta cần phải biết rõ trong tâm ta hiện có, hay chẳng
có, sự si mê. Nếu có si mê, thì hãy nắm ngay lấy nó và quán sát kỹ nó. Còn nếu
tâm vắng bóng sự si mê, thì hãy quát sát sự khiếm khuyết của si mê. Luôn luôn
quán tưởng tâm trạng đó trong khi thở vào và trong khi thở ra. Đây là đặc điểm
thứ ba cần phải quán sát.
Có một cách giản dị để phân biệt ba
tâm trạng: tham, sân, và si (ràga, dosa, và moha). Nếu đang có một cảm tưởng
muốn cần đến, tức là muốn gom về, kéo lại, ôm chầm lấy và nắm chặt, cảm tưởng
ấy là tham (ràga). Tham có tính cách tích cực. Sân thì chẳng thích, chẳng muốn.
Sân có tính cách tiêu cực. Sân đẩy ra xa, muốn đập phá bỏ, ngay cả muốn giết
chết nữa. Trong khi tham thì muốn kéo về, sân lại tống đi. Thứ ba là si, tức là
si mê, ngu tối. Si chẳng phân biệt được sự thật: phải trái, thiện ác. Si thì cứ
chạy vòng vòng. Và đây là chỗ khác nhau giữa ba tâm sở tham, sân, si: một thì
gom về cho mình, hai thì đẩy ra xa, ba thì chạy lẩn quẩn. Mọi người ai cũng có
thể quan sát được sự khác biệt giữa các hành vi của chúng: lôi về, đẩy đi, và
chạy lòng vòng.
Kế đến là tìm biết tâm có bị xao
lảng hay không. Các bạn đã được nghe đến danh từ nầy nơi tâm nhứt điểm rồi. Tâm
bị xao lảng chẳng phải là tâm nhứt điểm. Nó bị phân tán ra khắp nơi. Nó chẳng
đủ khả năng để ở yên và thư giãn. Nó chẳng có sự tĩnh lặng, chẳng có sự an trụ.
Hơn nữa, sự xao lãng khiến tâm bị phiền muộn, bị khuấy rối, tức là mất sự an
nhiên. Tâm có bị xao lảng không? Hay tâm đang ở trong trạng thái bình thường,
chẳng bị lơ đễnh? Hãy quán sát kỹ đặc điểm của tâm trạng nầy với hơi thở vào và
hơi thở ra. Thực tập để hiểu biết kỹ điều đó, để có thể phân biệt rõ các loại
tâm.
Bình thường hay phấn khởi?
Hai tâm trạng kế tiếp cần phải quán
sát là khi có được một tâm trạng tốt đẹp hơn tâm trạng bình thường: một tâm
trạng tốt, và một tâm trạng thông thường. Tiếng Pali gọi tâm trạng tốt nầy là
một tâm trạng cao quí, vĩ đại, mahàggatà. Nếu nói theo ngôn ngữ hằng ngày, ta
sẽ nói đó một sự hay biết rằng mình đang có một tâm trạng khá hơn, đáng vừa ý hơn,
cao hơn là vào những ngày thường. Tâm ta hiện đang có ý thức về điều đó hay
chăng? Nếu có, hãy quán sát ngay điều đó. Nếu không, hãy biết rằng tâm ta hiện
đang trong trạng thái bình thường, vào lúc nầy. Hãy quán tưởng đôi tâm trạng đó
trong khi thở vào và trong khi thở ra.
Hai tâm trạng cần quán sát tiếp
theo là khi có được một tâm trạng tuyệt đỉnh, vô thượng, chẳng có gì cao hơn
được nữa, với một tâm trạng còn có thể vượt lên cao hơn. Nói cách khác là khi
tâm ta đang thành tựu được một tình trạng cao cả nhứt mà chẳng có gì cao xa
hơn, tốt đẹp hơn nữa. Nhưng tâm ta hiện còn đang phải cố gắng lắm mới đạt đến
mức tuyệt đỉnh đó. Và điều khó khăn cho chúng ta là, một tâm trạng tuyệt đỉnh
như thế, cao quí như thế, phát triển đầy đủ như thế, chỉ có bực A la hán
(Arahant, bực giác ngộ và giải thoát hoàn toàn) mới có được. Nếu ta chưa đạt
được quả vị A la hán, thì nói theo lẽ thông thường là, lòng ta đang rất ư vừa
ý, hay là đang cảm thấy vẫn có một việc gì cao cả hơn nữa còn chưa làm được? Có
phải là ta đang cảm thấy vừa thực hiện được một điều gì thật mãn nguyện hoàn
toàn rồi chăng? Hay ta còn đang cảm thấy cần phải làm thêm điều gì hơn thế nữa?
Hai tâm trạng nầy mô tả tâm trong tình trạng đã có, hay chưa có, làm một điều
gì cao quí. Hãy quan sát kỹ tâm trong trạng thái cao quí nhứt đó, quán tưởng nó
càng lúc càng rõ rệt, để hiểu được hình thức của tâm trạng đó. Thở vào và thở
ra cùng với ý thức biết rõ như thế.
Hai tâm trạng thứ ba cần phải quan
sát là khi tâm có tập trung lại, hay chưa gom ý lại. Đó có phải là định lực hay
chưa có định lực (samàdhi). Hãy tập trung tâm ý lại. Cho dầu chưa hẳn hoàn toàn
đó là định lực, thì ảnh hưởng của sự cố gắng cũng đã khiến cho tâm tập trung
lại được. Như thế, cũng tạm gọi là một định tâm. Bạn hãy quan sát kỹ hai tình
trạng của tâm, trước và sau khi cố gắng tập trung tâm ý lại. Thở vào và thở ra
với ý thức rõ rệt về hai tình trạng đó.
Hai tâm trạng chót cần phải quán
sát là khi tâm được giải thoát hay chưa được giải thoát, nghĩa là còn có các sự
ràng buộc (upàdàna), tâm đang cố bấu niú hay là đang bám chặt vào việc gì nên
chưa được giải thoát. Tâm đang bám chặt hoặc chẳng đang bám chặt? Đó là điều mà
tôi muốn nói khi hỏi rằng tâm có được giải thoát hay chưa được giải thoát. Ngay
bây giờ, có điều gì đang cản trở tâm, hay là tâm đang được tự do? Trong trường
hợp nào, bạn cũng nên tìm hiểu cả hai cho rõ ràng. Thở vào và thở ra với ý thức
rõ rệt về điều đó. Hãy phân biệt giữa chúng đến mức thật rõ ràng, đứng đắn.
Ta biết được ta.
Nhờ thực tập như trên đây, ta biết
được rõ về ta, biết rõ được những tư tưởng nào là loại tư tưởng đặc trưng cho
ta. Rồi đó, ta sẽ hiểu biết rõ được về ta. Tâm trạng nào thường thấy nơi ta?
Thông thường, tư tưởng trong tâm hay có khuynh hướng chạy theo một đối tượng
nào đó. Nhờ quán sát các khuynh hướng đó, ta sẽ biết rõ ta hơn. Đây là một lợi
lạc đặc biệt của bước thực tập nầy. Mục đích trực tiếp của ta, tuy nhiên, là để
biết tâm ta cho thật rõ ràng và thật đầy đủ. Thông hiểu tâm ta một cách cặn kẽ
là lợi lạc đặc biệt của bước nầy. Đấy là những gì cần thực tập trong bước thứ
nhứt của bộ bốn thứ ba nầy, tức là bước thứ chín trong toàn bộ Pháp Quán tưởng
Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Làm cho tâm sảng khoái.
Giờ ta tới bước thứ hai trong bộ
bốn thứ ba, làm cho tâm được sảng khoái (abhippamodayam cittam). Từ buổi đầu,
ta đã thực tập nhiều cách để kiểm soát soát tâm, đặc biệt nhứt là trong bộ bốn
thứ nhì, tâm phát triển được khả năng tự chủ đối với các cảm thọ và có thể kiểm
soát được chúng. Điều nầy có nghĩa là đã tiến gần đến với tình trạng khuất phục
được tâm, kiểm soát được tâm. Một khi ta đã biết rõ tất cả mọi loại tâm sở và
tình trạng của chúng một cách thật đầy đủ rồi, cả tích cực và tiêu cực, thì ta
có thể đặt tâm vào một tình trạng thích hợp, hay đáng mong muốn. Bước thứ mười
nầy chính là việc thực tập để khiến cho tâm trở nên vừa lòng, vui sướng và sảng
khoái đó. Có nhiều tiếng để nói đến tình trạng đó: bằng lòng, vui thích, hân
hoan, hay bất cứ tiếng nào mà ta muốn dùng đến. Nhưng điều quan trọng là có đủ
khả năng để kiểm soát tâm để cho tâm cảm thấy hài lòng và vui thích khi ta thở
vào và thở ra.
Mỗi khi tâm cảm thấy buồn chán, sầu
não, chẳng thiết đến gì vui, ta có thể xua đuổi phiền não đó đi và đưa đến một
tâm trạng vui vẻ. Hoặc là, ngay cả khi tâm ở trong tình trạng bình thường, ta
cũng có thể làm cho nó vui lên, sảng khoái lên, với kỹ thuật nầy. Đây là một
điều rất có ích lợi. Ta đâu cần phải chịu đựng lâu dài một tâm trạng đau buồn,
bởi vì ta có thể kiểm soát được tâm ta. Mỗi khi cần đến, ta có đủ năng lực để
làm bất cứ điều gì ta cần phải làm về phương diện tâm linh. Ta có thể vui lên
bất cứ lúc nào. Nhưng xin hãy thận trọng, hai tiếng vui thích và sảng khoái đều
mang hai loại ý nghĩa khác nhau. Có loại vui thích và sảng khoái tầm thường,
trần tục, dựa trên vật chất và nhục cảm. Tuy đó cũng là một loại vui thích và
sảng khoái, nhưng đấy chẳng phải là loại mà ta chú trọng đến. Chúng tôi đòi hỏi
sự vui thích do Chánh Pháp (Dhamma) mang đến, do thông hiểu Chánh Pháp, và biết
cách ứng dụng Chánh Pháp. Ta đâu cần lệ thuộc vào vật chất và nhục cảm để kích
thích chúng ta, ta đã có Chánh Pháp giúp tâm ta được sảng khoái. Như thế, có
hai loại vui thích: sự vui thích bị ô nhiễm và sự vui thích thanh cao, chẳng
vướng vào các cấu nhiễm (kilesa, lậu hoặc). Cả hai loại đều sẵn có đấy cho ta
tiện dụng. Nếu bạn muốn có loại vui thích ô nhiễm, thì rất dễ để đạt được nó.
Còn vui thích về Chánh Pháp (Dhamma) thì cần phải đi tìm thật đứng đắn mới gặp
được. Vì lẽ nầy, xin nghiên cứu thật kỹ điều nầy cho tường tận.
Sảng khoái vì Chánh Pháp (Dhamma)
Kể cũng dễ để làm cho tâm trở nên
sảng khoái, một khi ta hiểu được nguyên nhân của sự vui thích. Sự vui thích bắt
nguồn từ cảm giác thành công, vì vừa thành tựu được một hành vi đứng đắn và
đáng khích lệ. Một cách dễ dàng, để làm tâm sảng khoái lên, là quay lại thực
tập bước thứ nhứt, thứ hai và thứ ba một lần nữa. Hãy quay lại các bước đầu và
thực tập một cách thành công. Rồi thì sẽ có sự bằng lòng và vui thích với mỗi
bước. Đây là sự vui thích có liên quan mật thiết với Chánh Pháp (Dhamma). Chúng
ta hãy quay về thực tập lại bước một, lần nữa, nhưng lần nầy thì đặc biệt đặt
tiêu điểm vào cảm giác thành công, bằng lòng, vui thích và sảng khoái. Hãy tiến
tập như thế qua mỗi bước, giống cách như thế, mãi cho tới lúc đến với niềm vui
thích làm cho ta thỏa mãn nhứt. Sự vui thích bắt nguồn từ sự bằng lòng, và sự
bằng lòng bắt nguồn từ sự thực hiện một hành vi được thành công. Bằng cách làm
khởi lên sự xác tín rằng chúng ta được an toàn và giải thoát khỏi mọi sự trói
buộc sẽ khiến cho sự bằng lòng và vui thích đến có mặt ở đây.
Một phương pháp dễ dàng, mà ta có
thể dùng đến bất cứ lúc nào, là nghĩ đến điều lành và làm được điều lành. Ta có
được đờì sống an lành, một đời đã gặp được Chánh Pháp (Dhamma) và biết rõ chắc
chắn cách dứt trừ được sự khổ sở (dukkha). Chúng ta những người may mắn nhứt
trong nhơn loại, những người đã biết được Chánh Pháp và dứt trừ sự khổ sở. Suy
tư như thế sẽ làm cho ta vui thích và sung sướng. Đấy là cách tự làm cho mình
thật là vui thích và sảng khoái. Thực hiện điều lành, thành tựu một cuộc sống
an lành, làm một người tốt, khám phá được Chánh Pháp đủ để bảo đảm cho mình
chẳng bị đau khổ -- loại suy tư nầy là một cách giản dị để làm cho tâm được
sảng khoái.
Khi chúng ta đã vững niềm tin rằng
chắc chắn ta sẽ diệt trừ được sự khổ sở (dukkha), hoặc khi chúng đạt được điều
tối hảo nhứt mà con nguời có thể đạt đến nổi, thì tự nhiên chúng ta sẽ trở nên
bằng lòng và vui thích. Chúng ta nghiên cứu để hiểu được Chánh Pháp có thể dập
tắt được sự khổ sở, để thành tựu được điều tối hảo mà nhơn loại cần đạt đến. Và
ta được bằng lòng. Ta có đủ khả năng làm cho tâm vui thích lên, sảng khoái lên,
bằng cách xử dụng kỹ thuật nầy.
Khiến tâm định tĩnh.
Một khi ta có thể làm cho tâm hân
hoan, sảng khoái như ý ta muốn rồi, thì ta thực tập bước kế tiếp. Đối tượng của
bước thứ chín nầy là định tâm (samàdaham cittam). Điều nầy có nghĩa là ta có
thể làm cho tâm tập trung lại, đưa tâm vào định lực (Samàdhi) mỗi khi ta muốn
hay ta cần đến. Bước nầy chẳng khó, bởi vì chúng đã thực tập nó ngay từ buổi
đầu, nhứt là trong bước thứ tư (an tịnh thân hành) và bước thứ tám (an định tâm
hành). Nếu ta đã có thể làm được như thế trước đây, thì bây giờ ở đây ta cũng
có thể làm được như vậy. Hãy khiến tâm tập trung vào định lực. Ta có thể dẹp bỏ
các cảm thọ khác ngay tức thời. Rồi tâm sẽ nhập định và trở nên hoan hỉ. Hơn
nữa, tâm còn có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ khác tiếp theo nữa. Khả năng nầy
rất có lợi ích.
Một vấn đề thông thường lại đặt ra
tại đây. Nhiều người lầm tưởng rằng một khi tâm đã nhập định rồi thì nó phải
bất động và chẳng thể nào di chuyển được. Họ còn tưởng rằng rồi chẳng còn có
bất cứ cảm thọ nào khởi lên cả. Đấy là sự hiểu biết rất lầm lẫn. Ngồi bất động
và cứng rắn tựa như khúc gỗ, đó chỉ là một bài thực tập huấn luyện. Nó giản dị
chỉ là sự luyện tập ở một cấp định lực cao hơn cấp bình thường. Phát triển định
lực thâm sâu hơn ở Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, cho đến mức thân thể chẳng
còn hơi thở, cũng chỉ là những bài tập về huấn luyện. Mặc dầu vậy, nếu thân thể
có thể đạt đến các cấp thật cao đó của định lực, thì ngay ở các cấp định lực
thấp hơn, cũng vẫn chẳng có vấn đề gì. Ngay đây, ở bước thứ mười một nầy, đưa
tâm nhập vào định lực (samàdhi) có nghĩa là tâm ấy đã có những đức tánh tốt đầy
đủ và sẵn sàng để làm nhiệm vụ của nó. Tâm ấy đang được chuẩn bị để thực hiện
các công tác của nó khi cần đến. Ở các bước trước, tâm đã làm thế nào để được
vui sướng. Khi tâm đó được vui sướng, nó có thừa khả năng để hoàn thành các
nhiệm vụ. Vậy, xin đừng hiểu lầm mà cho rằng khi tâm nhập định, thì ta phải
ngồi cứng bất động như khúc gỗ.
An định thanh tịnh linh hoạt.
Nếu tâm nhập định một cách đứng
đắn, ta quán sát sẽ thấy có ba đức tánh rõ rệt nơi tâm ấy. Đức tánh của tâm trở
nên cứng cỏi, ổn cố, chẳng xao lảng, và rọi chiếu về một đối tượng duy nhứt,
được gọi là tánh an định (samàhito). Tâm ấy trong sáng và thanh tịnh, chẳng bị
khuấy động bởi bất cứ gì, chẳng vướng bất cứ cấu nhiễm nào. Một tâm chẳng ô
nhiễm được gọi là tâm thanh tịnh (parisuddho). Thứ ba, tâm ấy thích hợp nhứt và
được chuẩn bị đến cao độ nhứt để hoàn thành các nhiệm vụ của tâm. Điều nầy được
gọi là tánh linh hoạt (kammaniyo) (tánh hoạt động, tánh sẵn sàng). Cũng chẳng
có hại chi khi phải ghi nhớ nằm lòng ba chữ Pali nầy: samàhito, parisuddho và
kammaniyo vì cả ba đức tánh đó cần phải có đủ khi biết thế nào là một tâm nhập định
một cách đứng đắn. Đây chẳng những là loại định lực thường hành trong các cuộc
thực tập quán tưởng chánh thức mà còn được dùng trong các công tác cần thiết
hằng ngày nữa.
Ba đức tánh đó có thể hiện diện
trong khi ta đi hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm. Có một đoạn Kinh văn trong Tạng
Pali, đáng lưu tâm, nói rằng, nếu có đầy đủ ba đức tánh trên đây trong khi
đứng, thì ta gọi đó là thiên lập, (divine standing). Nếu cả ba đức tánh đó đều
có đủ trong khi đi thì gọi đó là thiên bộ (divine walking). Nếu có đủ cả ba đức
tánh đó trong khi ngồi thì gọi đó là thiên tọa (divine sitting). Nếu có đầy đủ
ba đức tánh trên đây trong khi nằm, thì gọi đó là thiên ngoạ (divine lyìng). Rõ
ràng là nhập định đâu phải ngồi như một phiến đá hoặc một khúc gỗ -- dưới con
mắt của thế gian, đó là ù lì, cứng ngắt, và chết lịm. Tinh hoa của định lực
(samàdhi) là tâm (citta) hoàn toàn sẵn sàng để thực hiện mọi nhiệm vụ của nó,
tức là, phát triển kiến thức và sự thông hiểu từ phút nầy đến phút khác. Ở mức
tối thiểu, tâm sẽ hân hoan khi ba đức tánh đều hiện diện. Có được sự an lạc
(sukha), đó cũng là một nhiệm vụ của tâm. Và tâm trở nên sẵn sàng để làm tròn
nhiệm vụ ấy khi nó hội đủ ba đức tánh kể trên.
Hành giả khi tâm nhập định nhờ ba
đức tánh nói trên được xem như là một "bực có tâm an định"; tiếng
Pali gọi là samàhito. Đức Phật có nói, được ghi lại bằng tiếng Pali, rằng
"Khi nhập định, tâm thông hiểu hết tất cả muôn pháp (dhamma, sự vật) đúng
như thật sự chúng là như thế (samàhito yathàbhutam pajànàti)". Lợi lạc tối
thượng của samàhito, định tâm, là tâm an định để hiểu biết mọi sự vật đúng như
sự thật. Nếu có một vấn đế nào trong đời sống mà ta còn chưa tìm ra lời giải
đáp, thì hãy nhập định và câu trả lời sẽ tự động tìm đến. Khi tâm nhập định đi
đến đâu, nó cũng thấy sự vật đúng theo thực tế. Nếu ta nhìn vào bên trong chúng
ta, ta sẽ thấy mọi sự kiện đúng theo chơn lý. Điều đó có nghĩa là ta sẽ thấy vô
thường, khổ sở, và vô ngã cách dễ dàng (aniccam, dukkham, anattà), nếu tâm hội
đủ ba đức tánh về định lực.
Tự bạn, bạn sẽ thấy rằng ba đức
tánh đó đều liên quan hỗ tương nhau mật thiết. Cả ba phối hợp nhau lại thành
một đơn vị duy nhứt. Chẳng thể có sự thanh tịnh của tâm mà thiếu đi được sự an
định. Nếu chẳng có sự thanh tịnh, thì chẳng thể nào có sự an định. Và cần phải
có, vừa sự thanh tịnh, vừa sự an định, thì mới có thể có sự linh động được. Cả
ba liên hợp hoạt động với nhau. Chúng là ba thành tố của một định tâm. Xin bạn
hãy cố tìm hiểu rõ cả ba tiếng: an định, thanh tịnh và linh hoạt. Cả ba cần
được bình đẳng hoá và hợp nhứt lại để gọi là định tâm (samàhito). Chúng thật là
hữu ích, hết sức vô giá, và mãnh liệt. Thứ định lực nầy đủ khả năng để giải
quyết tất cả các bài toán của đời sống, liên quan đến các vấn đề thiên nhiên,
vật chất của thế giới, và cả đến các câu hỏi về cõi siêu thế vượt khỏi thế
gian.
Sau cùng, xin bạn hãy nhớ và hiểu
cho điểm cốt yếu nầy. Khi tâm nhập định (samàdhi), ta vẫn còn có thể đi, đứng,
hoặc ngồi, nằm, hoặc làm việc, hoặc thưởng thức thành quả của công tác mình đã
làm, hoặc giúp kẻ khác hay tự giúp nữa. Tâm nhập định (samàdhi citta) có thể
dùng vào bất cứ vấn đề nào, trong mọi hoàn cảnh. Nó có thể dùng để giải quyết
mọi vấn đề. Xin hãy quan tâm đến chữ samàhito -- người có định tâm. Nó có đủ
khả năng để hoàn tất mọi nhiệm vụ.
Giải thoát tâm.
Trong khi thở vào và thở ra, ta
thực tập cho đến khi nào đủ khả năng đạt đến ba thành tố của định tâm. Và bước
thứ mười một chấm dứt, để tới bước thứ mười hai. Bước thứ mười hai là giải
thoát tâm (vimocayam cittam). Giải thoát tâm có nghĩa là đừng để cho tâm vướng
mắc vào đâu cả. Hãy thúc dục tâm buông bỏ những gì đang bám níu vào. Tâm như
thế là một tâm trong sạch chẳng chút bợn nhơ. Nó hoàn toàn tự do. Giải thoát
tâm khỏi mọi ràng buộc có hai khía cạnh. Hoặc chính tâm tự buông bỏ lấy những
gì nó đang bám níu vào, hoặc chính ta đem các sự việc đó ra khỏi tâm. Kết quả
thì cũng như nhau. Bạn hãy lấy đem ra hết tất cả những gì mà tâm chẳng nên bám
níu vào. Rồi bạn quan sát kỹ coi còn lại những gì đang bám níu vào tâm. Hãy cố
gắng cởi mở chúng ra khỏi tâm. Đây là bước thứ mười hai.
Hiểu thật thấu đáo ý nghĩa của sự
việc mà ta gọi là ràng buộc (attachment, chấp thủ) là điều thiết yếu. Có lẽ
chúng ta còn chưa quen lắm với sự việc đó. Nhưng nếu ta còn chưa hiểu sự ràng
buộc, thì làm thế nào ta có thể tìm cách chữa trị nó? Xin tất cả các bạn hãy
nghiên cứu nó với một sự quan tâm đặc biệt. Mặc dầu đó là một hiện tượng tâm
linh, nhưng tôi dùng chữ nầy trong điạ hạt vừa vật chất lẫn tinh thần để nói
đến nó. Tôi dùng các tiếng như là: ràng buộc, nắm chặt và bám níu. Tuy nhiên,
nó vẫn là một hành vi thuộc điạ hạt tâm linh. Tâm trí còn mê mờ và hành động
theo sự mê mờ đó. Do đó, tâm trí ấy khởi lên các hành vi mà tôi gọi là ràng
buộc, hoặc bám chặt hay là bấu níu. Ta cần phải nghiên cứu nó thật cẩn thận, vì
đó là điều có mặt ở đời sống của mọi dân chúng, ở mọi người. Để mô tả gọn với
vài tiếng, thì ràng buộc là nhìn một sự vật gì như là "Ta" hoặc là
"của Ta". Hãy nắm vững nghĩa chữ ràng buộc đó và việc thực tập bước
nầy sẽ được suông sẻ.
Cách trực tiếp nhứt để thực tập
bước thứ mười hai là cứu xét cho rõ các sự trừng phạt, nguy cơ, độc hiểm, thống
khổ, và đau đớn, mỗi khi ta tự ràng buộc vào việc gì và coi đó như là
"Ta", hoặc là "của Ta". Hãy chiếu rọi thật kỹ vào các trừng
phạt độc hiểm đầy nguy cơ và thống khổ mà toàn bộ sự bị ràng buộc sẽ mang đến
cho ta chẳng thể nào tránh khỏi được. Mặt khác, nên nghiên cứu và nhận thức
được các lợi lạc, tốt đẹp và ưu điểm của việc cởi mở. Khi ta chẳng bị ràng
buộc, ta có những lợi lạc gì? Niềm an lạc nào có sẵn ở đó? Hãy quán sát kỹ
lưỡng. Khi ta tự ràng buộc mình vào một sự vật gì, thì hậu quả sẽ là loại thống
khổ nào, với cấp độ nào? Hãy xem xét cả hai mặt của đồng tiền. Thấy cho rõ ra
rằng hình phạt của sự ràng buộc và giá trị của sự cởi mở luân phiên nhau liên
tục trong tâm trí. Xuyên qua loại quán tưởng đó, tâm trí sẽ tự động được giải
thoát. Tâm trí tự nhiên sẽ buông bỏ các sự vật, và các sự vật cũng tự nhiên
thôi bám chặt nữa, nhờ quán chiếu rõ hai sự kiện đó. Tiếp tực quán chiếu đến
khi nào thấy rõ các hình phạt và sự thấp hèn của việc ràng buộc. Tiếp tục quán
chiếu cho đến khi nào thấy rõ được các lợi lạc của sự cởi mở. Quán chiếu cả hai
vào mỗi lúc ta thở vào và thở ra. Đấy là cách thực tập bước nầy.
Bốn loại ràng buộc (chấp thủ).
Đối tượng của sự ràng buộc có rất
nhiều. Hơn nữa, chúng rất tế nhị và thâm sâu. Chúng rất khó cho ta nhìn thấy,
nghe và hiểu thấu đến chúng. Tuy nhiên, ta có thể xếp chúng vào bốn loại, hay
là bốn thể thức ràng buộc. Loại thứ nhứt là tất cả mọi sự vật vật chất được dục
vọng (kàma) trân quí. Dầu đó là tài sản, vật dụng cần thiết, bảo ngọc, nữ
trang, vàng và bạc; hoặc những sự vật mà ta thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ mó đến và
tưởng nghĩ đến, tất cả những thứ đó đều làm căn bản nguồn cội cho nhục cảm và
dục vọng. Chúng là những đối tượng của sự ràng buộc về nhục cảm. Ba loại ràng
buộc còn lại có các đối tượng phi vật chất. Loại thứ nhì là những sai lầm về ý
kiến, tin tưởng, quan kiến và lý thuyết. Chúng là những điều mà ta còn chưa
hiểu nỗi, nhưng vì bị vô minh (avijjà) che lấp nên ta chấp nhận chúng, bám níu
vào chúng và có rất nhiều tà kiến. Loại thứ ba là hình thức cổ truyền hành động
và thực hành mà chúng ta noi theo. Mỗi thứ nầy, kể cả về tôn giáo hay thế tục,
cũng là hình thức của sự mê tín. Chúng là những tục lệ mà ta tự đồng hoá với
chúng và bảo vệ chúng. Sau cùng, và cũng là quan trọng hơn cả ba loại trước, là
loại ràng buộc vào các sự vật mà đồng hoá như là "Ta" hoặc là
"của Ta".
Tất cả bốn loại ràng buộc đó bao
gồm hết mọi sự vật mà ta bám níu vào. Hãy quán sát chúng và thấy ra được sự
hiểm độc thấp hèn khi bám vào chúng. Thấy cho rõ giá trị của sự cởi mở ra khỏi
chúng. Liên tục quán tưởng mỗi loại với mỗi hơi thở vào và mỗi hơi thở ra. Bằng
cách ấy, chúng được cổi ra bằng sự cởi mở tự động. Hãy phóng thích các đối
tượng ràng buộc ra. Hãy buông bõ, hãy buông bỏ, hãy buông bỏ.
Khi chúng ta nhìn đến đạo Cơ đốc
(Christianity), ta thấy đạo nầy cũng chia xẻ một mối lo về sự chấp thủ (ràng
buộc). Trên thực tế, biểu hiệu chánh của đạo Cơ đốc là hình cây Thánh giá chữ
Thập (+ ) -- dạy rằng chữ "I" thẳng đứng (trong Anh ngữ có nghĩa là
"Ta") bị dấu ngang (-) cắt bỏ đi. Điều nầy tượng trưng cho sự dẹp bỏ
mọi ràng buộc. Tất cả mọi tôn giáo đều có điểm tương đồng nơi mục tiêu chánh:
sự tận trừ mọi ràng buộc vào cái "Ta" và "của Ta". Đây là
điểm cao tột, trác tuyệt nhứt của sự tu hành. Nó xoá bỏ mọi vấn đề, đặc biệt là
sự ích kỷ là nguồn gốc gây ra các vấn đề khác. Cắt đứt sự ích kỷ thì mọi vấn đề
sẽ chấm dứt. Xin hãy quan tâm đến việc buông bỏ muôn vật. Buông bỏ bốn loại
ràng buộc là điều tốt nhứt mà ta có thể làm được.
Một nhóm sự vật khác mà tâm cần
buông bỏ vì chúng đang khuấy rầy tâm lúc nầy, là năm món che đậy, gọi là ngũ
cái (nivarana), năm thứ cản trở tâm. Chúng là những thái độ khởi lên trong tâm
từ các thói quen và các khuynh hướng suy tư của ta. Năm món che đậy, ngũ cái, đó
là: tham dục, sân hận, thụy miên (mê ngủ), trạo hối (xao động) và nghi ngờ. Ta
cần dẹp bỏ ngay ngũ cái là năm món làm che mờ tâm trí. Xa hơn nữa, có các lậu
hoặc (kilesa, cấu nhiễm, phiền não). Các tình cảm phiền não của sự tham lam
(lobha), giận hờn (dosa), và si mê (moha) cần phải được đuổi đi khỏi. Các cảm
thọ thương thích hay oán ghét, mọi khí sắc thoả ý hay bất mãn, bất cứ cố chấp
nào vào sự vật thuộc nhị nguyên thường hiện diện trong tâm, cũng đều nên gạt bỏ
ra khỏi. Sau cùng, ta sẽ nhận thức được rằng chẳng còn vấn đề nào lưu lại để
đưa tâm vào khổ sở (dukkha) nữa. Còn có ràng buộc, là còn có khổ sở. Tâm đã
hoàn toàn vắng bóng mọi ràng buộc rồi, thì tâm sẽ chẳng còn thể nghiệm sự khổ
sở, vì còn đâu cơ sở nữa để cho sự khổ sở khởi lên.
Mỗi khi tâm thấy có sự vật gì đang
đeo níu, nó liền cởi mở ra ngay. Bạn hãy thực tập như thế vào mọi thời, khi bạn
thở vào và thở ra, nơi bước thứ mười hai nầy, là bước chót của bộ bốn thứ ba
(3rd tetrad) của Pháp Quán tưởng Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati). Tính chung
lại, ta có bốn bước liên quan đặc biệt đến tâm (citta): thể nghiệm các tình
trạng khác nhau của tâm, làm cho tâm hân hoan, làm cho tâm định tĩnh, và giải
thoát tâm. Xuyên qua sự học hỏi và thực tập nầy, ta đã thành công trong việc
nghiên cứu hoàn toàn về tâm thức của chúng ta.
Xin phép được chấm dứt buổi pháp thoại tại đây.