PHẦN MỘT
CHƯƠNG 1
CHÂN
GIÁ TRỊ CỦA PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Kính thưa quý vị.
Đề tài mà tôi có duyên được trình bày
cùng quý vị hôm nay thuộc một lãnh vực rất phổ thông, song cũng rất quan
trọng, bởi vì nó liên hệ đến rất nhiều người theo đạo Phật: đó là pháp
môn Tịnh độ, một pháp môn mà hầu hết các Phật tử đều quen biết.
Pháp môn Tịnh độ là chiếc bè Từ mầu
nhiệm, giải thoát chúng sanh khỏi cảnh khổ đau phiền não trong thời mạt
pháp.
Thuở xưa, Đức Thế Tôn đã dạy: “Vô lượng
Bồ tát ở mười phương thế giới muốn nghe thuyết về pháp môn Tịnh độ mà
không được toại nguyện. Giả sử khắp tam thiên đại thiên thế giới bị nạn
hoả thiêu, nếu ai cầu được nghe giảng về pháp môn Tịnh độ mà phải băng
qua miền lửa cháy ấy thì cũng cố nên vượt qua để được nghe Diệu Pháp
này”. Lời Phật đã dạy như vậy, đủ tỏ giá trị siêu việt của pháp môn Tịnh
độ, hay pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh Cực lạc quốc đến mức độ nào
vậy.
Thời nay, chính là lúc pháp môn Tịnh độ
đang cần hơn bao giờ hết cho nhân loại, phần đông đức Tin không vững,
lại thêm căn cơ thiển bạc cho nên, muốn đạt tới chính quả thì phi con
đường Tu Tịnh Nghiệp, e khó tìm lối đi khác để giải thoát tâm linh dễ
hơn và có hiệu quả hơn. Trên đường tu, người quyết tâm tu hành thường
gặp nhiều chướng ngại ; trong nội tâm, phiền não đua nhau quấy phá, làm
cho lục dục thất tình đốt cháy tâm can ; ở ngoại trần, cảnh vật lại
khích động tà tâm, khiến cho tham, sân, si nổi dậy, làm mê mờ chân tính,
thần trí hoá hôn ám, tâm thức trở thành thác loạn. Nội ma, ngoại ma,
trong ngoài cấu kết, dệt nên màn lưới vô minh dầy đặc bao phủ Chân Tâm,
khiến con người không còn thấy đâu là Chân lý nữa. Để đối phó với các
chướng ngại vật đó, người tu cần giữ Tâm bình tĩnh, mà phương pháp an
tâm dễ dàng và hiệu nghiệm, trong bất kỳ trường hợp nào, trong khi đi,
đứng, nằm, ngồi, là trì danh hiệu Phật A Di Đà.
Trong 12 tông phái của Đạo Phật, trừ hai
tông thuộc Tiểu thừa (là Thành Thực tông và Câu Xá tông) còn 10 tông
phái thuộc Đại thừa, thì 9 tông thuộc về Chiết môn dạy cách tiêu trừ
nghiệp chướng, phá huỷ vô minh, để trở về với Chân Tâm, bản tính của
mình (như Luật tông, Mật tông, Thiền tông, Pháp tướng tông, Thiên Thai
tông, Không tông Bát nhã, Tam Luận tông, Niết Bàn tông, Hoa Nghiêm
tông), còn lại một tông thuộc về Nhiếp môn, tức là pháp môn tiếp dẫn
người niệm Phật A Di Đà vãng sinh Tịnh độ. Tuy nhiên, Tịnh độ tông chẳng
những thuộc về Nhiếp môn, mà còn thuộc cả về Chiết môn nữa, tức là kiêm
cả cầu được vãng sinh Cực lạc quốc và Kiến tính minh Tâm.
Pháp môn Niệm Phật A Di Đà đã hợp thời
cơ, khế lý, lại còn nhiếp đủ cả Thiền, Giáo, Luật và Mật, thật là viên
mãn, không có tông phái nào khả dĩ vượt qua nổi. Mỗi câu “A Di Đà Phật”
là tâm yếu của Chư Phật, dọc thì quán suốt năm thời, ngang lại gồm thâu
tám giáo, và điểm son của pháp môn Tịnh độ là từ phàm phu nặng nghiệp
quả mà tiến thẳng đến ngôi bất thoái, không như các pháp môn khác dù phá
được phiền não, nhưng khi lâm chung, tinh thần hôn mê, lại quên mất sở
tu, sở chứng, làm cho Tâm thoái chuyển, lại phải đoạ vào bát nạn tam đồ.
Do đó pháp môn Tịnh độ được đại đa số Phật tử tu trì. Thế mà đến nay vẫn
còn nhiều điều nghi vấn thì thực cần phải lưu tâm nghiên cứu để làm sáng
tỏ những điểm còn chưa rõ mới mong thoát khỏi mê đồ đáng tiếc.
CHƯƠNG 2
VÀI
DÒNG SỬ LIỆU VỀ PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Bàn về pháp môn Tịnh độ mà không nói vài
lời về sử liệu liên quan tới pháp môn này e thiếu sót.
Pháp môn Tịnh độ được xây dựng trên ba
bộ kinh:
1.- Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh,
hai quyển, còn gọi là Đại Kinh hay Đại Bản, hoặc
Kinh Vô Lượng Thọ, do Khương Tăng Khải đời Tào Nguỵ dịch, nói về
tiền thân Phật A Di Đà, khi Ngài còn là Quốc vương Vô Tránh Niệm, sau
trở thành Pháp Tạng Tỳ Kheo, đã phát ra 48 lời đại nguyện để cứu chúng
sinh thoát vòng sinh tử.
2.- Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ
Kinh, một quyển, gọi tắt là Quán Kinh, do Cương Lương Da Xá
đời Lưu Tống dịch, nói về các pháp quán tưởng Phật A Di Đà với cảnh Cực
lạc Tây phương.
3.- Phật Thuyết A Di Đà Kinh, một
quyển, gọi tắt là Tiểu Kinh, Tiểu Bản, hay Kinh A Di Đà,
do Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) đời Diệu Hưng (401 TL) dịch, tả quang
cảnh trang nghiêm hạnh phúc tuyệt vời ở miền Cực lạc Tây phương, và một
bộ Luận quan trọng do Thế Thân trứ tác nhan đề “Vãng Sinh Tịnh Độ Luận”,
được Bồ Đề Lưu Chi (Bodhirici) dịch, tóm thâu ý nghĩa các bộ trên.
Riêng bộ Kinh A Di Đà, văn phong ngắn
gọn, lời Kinh chải chuốt như một bài thơ trường thiên, được phổ biến
rộng rãi hơn các bộ Kinh khác của đạo Phật, được chọn cùng với Kinh Địa
Tạng là Kinh cầu siêu, nên hầu hết các Phật tử trong những ban Hộ niệm ở
các chùa thuộc lòng.
Một đặc điểm của tông Tịnh độ là tuy
trong tông này có nhiều vị danh Sư nổi tiếng, nhưng lại không có hệ
thống truyền thừa như các tông khác. Các Tăng, Ni, Phật tử đời sau, tuy
vậy cũng đã chọn trong các tín đồ tu Tịnh nghiệp, trải qua các thời đại,
được công nhận là có đạo hạnh và kiến thứ siêu quần, lại có công đức lớn
hộ trì chánh pháp sinh thời cùng những triệu chứng linh ứng lúc viên
tịch, suy tôn được 13 vị làm Tổ Sư trong Liên tông theo thứ tự như sau:
1.
Lô Sơn Tuệ Viễn (334-416 TL) đời Đông Tấn làm Sơ Tổ.
2.
Quang Minh Thiện Đạo (613-681 TL) đời Tuỳ, đệ nhị Tổ.
3.
Bát Châu Thừa Viễn đời Đường, đệ tam Tổ.
4.
Ngũ Hội Pháp Chiếu đời Đường, đệ tứ Tổ.
5.
Đại Nham Thiếu Khang đời Đường, đệ ngũ Tổ.
6.
Vĩnh Minh Diên Thọ đời Tống (... - 975), đệ lục Tổ.
7.
Chiêu Khánh Tỉnh Thường đời Tống, đệ thất Tổ.
8.
Vân Thê Châu Hoằng (1535-1616), hiệu Liên Trì, đời Minh, đệ bát
Tổ.
9.
Ngẫu Ích Trí Húc (1599-1655) đời Thanh, đệ cửu Tổ.
10.
Phổ Nhãn Hành Sách tự Triệt Lưu đời Thanh, đệ thập Tổ.
11.
Tiên Lâm Thực Hiền (1686-1734) hiệu Tỉnh Am đời Thanh, thập nhất
Tổ.
12.
Tư Phúc Tế Tỉnh đời Thanh, thập nhị Tổ.
13.
Linh Nham Ấn Quang huý Thanh Lương, hiệu Thường Tâm, đầu đời Dân
Quốc, thập tam Tổ.
Ngài Tuệ Viễn (334-416) họ Cổ, quê ở
Nhạn Môn (Sơn Tây), toạ chủ chùa Đông Lâm tại Lô Sơn (Giang Tây) có công
đầu trong việc truyền bá pháp môn Tịnh độ, vì Ngài đã lập ra Bạch Liên
Xã, một hội quy tụ Phật tử xuất gia lẫn tại gia, sáu thời chuyên tâm
niệm Phật A Di Đà. Tương truyền tiếng niệm Phật, tụng Kinh, cách Lô Sơn
hàng dặm đường còn nghe thấy rõ. Hội này mỗi ngày một bành trướng, tràn
lan khắp nơi vượt qua biên giới nước Trung Hoa sang Việt Nam, Triều
Tiên, Nhật Bản ... gây thành phong trào thu hút đông đảo quần chúng theo
đạo Phật, từ thành thị tới thôn quê, từ người thất học tới bậc tri thức,
từ người nhàn rỗi đến kẻ bận việc, ai ai cũng có thể theo pháp môn niệm
Phật được cả. Hội viên Bạch Liên Xã còn có sáng kiến lập ra mỹ tục chào
hỏi nhau bằng cách xưng danh hiệu Phật A Di Đà. Thói quen đó có một sức
mạnh thần bí, nhiệm mầu, làm cho đạo Phật nói chung, và pháp môn Tịnh độ
nói riêng bành trướng mau lẹ. Mấy tiếng hồng danh biến thành những hạt
giống Bồ đề huân sinh, huân trưởng vào tiềm thức của người dân ở các
nước theo đạo Phật.
Ngài Tuệ Viễn lại còn thu phục được nhân
tâm thiên hạ bằng việc, ngang nhiên trong thời phong kiến, tỏ thái độ
trí dũng bất khuất của nhà Phật viết bài: “Sa môn bất bái Vương giả
luận”, gửi tới triều đình phản đối việc buộc Ngài phải nghênh đón và bái
yết nhà vua, khi xa giá đi ngang qua địa hạt Lô Sơn, nơi có ngôi chùa mà
Ngài trụ trì.
Bài văn đó lời lẽ sâu sắc, đanh thép,
khiến nhà vua phải vì nể và mặc nhiên chấp thuận quan điểm của Ngài, đủ
tỏ uy tín của Đại sư lúc đó lớn lao tới bậc nào.
Ngài Đạo Xước (562-645 TL) Sư phụ của
Ngài Thiện Đạo, đã giảng Kinh Quán Vô Lượng Thọ tới 200 lần, và mỗi ngày
niệm danh hiệu Phật A Di Đà tới 70.000 lần, còn để lại cho đời sau bộ An
Lạc Tập, trong đó phô bày những tư tưởng của Long Thọ, so sánh việc khó
tu của Thiền và dễ tu của Tịnh, cùng những tư tưởng về tự lực và tha lực
của Đàm Loan để khuyến khích mọi người nên tu Tịnh Nghiệp. Ngài còn có
sáng kiến chế ra chuỗi tràng hạt để tiện việc đếm những câu niệm Phật
cho khỏi quên, giúp ích nhiều cho người sơ cơ mang tâm vọng động.
* Các vị Tổ trong Liên tông, đa số đều
biết trước giờ chết, lúc lâm chung thường ngồi kiết già, niệm Phật mà
hoá, đủ chứng tỏ các Ngài đã chứng quả Vô Sinh.
* Noi gương Tổ Tuệ Viễn, nhiều vị đã lập
ra những hội Niệm Phật khắp nơi. Tổ Pháp Chiếu còn phổ nhạc để quảng bá
việc niệm Phật.
Ngài Chiêu Khánh Tỉnh Thường đã tự chích
máu để viết phẩm Tịnh Hạnh trong kinh Hoa Nghiêm, do đó, hội Niệm Phật
của Ngài còn có tên là Tịnh Hạnh Xã, quy tụ rất đông Phật tử.
Ngài Quang Minh Thiện Đạo sao chép mười
vạn cuốn Kinh A Di Đà để quảng bá pháp môn Tịnh độ trong đại chúng. Ngài
Vĩnh Minh Diên Thọ, vì lập được nhiều công đức, nên Ngô Việt Vương cùng
người đương thời ca tụng và tôn Ngài là hoá thân Phật A Di Đà, do đó mà
hàng Phật tử mới lấy ngày sinh của Ngài là ngày 17 tháng 11 âm lịch là
ngày vía Phật A Di Đà (cũng có thuyết cho rằng ngày đó là ngày kỷ niệm
Tổ Tuệ Viễn viên tịch, không biết thuyết nào là đúng). Toàn thể chư Tổ
trong Liên tông, vị nào cũng để lại cho hậu thế những bộ Luận về pháp
môn Tịnh độ có giá trị, như bộ Di Đà Sớ Sao, bộ Tịnh Độ Tứ Thập Bát
Nguyện vấn đáp và Vãng Sinh Tập của Ngài Vân Thê Châu Hoằng, bộ Tịnh
Nghiệp Đường Quy Ước, và bài văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm của Ngài Thực
Hiện, bộ Ngữ Lục của Ngài Tế Tỉnh, với lời văn thiết tha kêu gọi người
đời nên tu tịnh nghiệp. Đặc biệt hơn cả, Ấn Quang Đại sư gần đây đã tận
lực hoằng dương pháp môn Tịnh độ bằng cách phát hành hàng trăm ngàn bộ
Kinh Phật và hàng trăm triệu bức hình Phật A Di Đà cùng Tam Thánh, do đó
mà Phật tử khắp nơi xu hướng về pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu vãng
sinh, ngày càng đông.
Lịch sử pháp môn Tịnh độ gắn liền với
lịch sử nước Trung Hoa. Những thời vàng son hay đen tối của pháp môn
Tịnh độ cũng là những thời kỳ xán lạn hay lầm than đau khổ của người dân
Trung Quốc, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử.
* Nguồn gốc
- Khởi nguyên từ Ấn Độ, pháp môn Tịnh độ
được một số Phạm Tăng truyền vào Trung Quốc, qua ngã đường bộ, dưới đời
vua Ai Đế nhà Tiền Hán, cuối thế kỷ thứ 2 TL
* Dịch Kinh
- Thời kỳ dịch Kinh diễn ra dưới các
triều đại Hậu Hán, Tam Quốc và Tây Tấn (thế kỷ thứ 3 TL).
* Thời kỳ phát triển
- Dưới thời Đông Tấn (317-419) với sự
xuất hiện của Ngài Tụê Viễn (334-416 TL), pháp môn Tịnh độ tiến dần vào
lòng dân tộc Trung Hoa.
* Pháp nạn
- Đạo Phật ở Trung Quốc phải qua bốn
thời kỳ pháp nạn, một phần do lòng đố kỵ của một số Nho gia và Đạo sĩ
trong nước, trước sức bành trướng mau lẹ của Phật giáo, một phần do
chính sách hà khắc tham tàn của một số vua, quan, thấy quốc khố ngày
càng hao hụt bởi nạn can qua, mới xảy ra việc tịch thu tài sản của một
số tự viện, quốc hữu hoá ruộng đất của nhà chùa, và lấy tượng Phật và
chuông đồng để đúc tiền. Bốn thời kỳ pháp nạn này được gọi là Tam Võ,
Nhất Chu (Võ Đế đời Bắc Nguỵ, 416 TL ; Võ Đế đời Bắc Chu 577 TL ; dưới
Nam Bắc Triều 420-588 TL, Võ Tôn đời Đường 842 TL, và Thế Tôn đời Hậu
Chu 955 TL. Xét về thiệt hại thì hai thời kỳ Pháp nạn đầu và cuối không
thấm vào đâu, tuy nhiên số tổn thất sau hai thời kỳ này cũng lên tới
hàng vạn Tăng, Ni phải hoàn tục. Pháp nạn thứ hai dưới Võ Đế đời Bắc Chu
577 TL được coi như đánh dấu bước đầu vào thời mạt pháp của đạo Phật vì
đó là lần pháp nạn quan trọng nhất trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc,
số tổn thất lên tới ba triệu Tăng, Ni phải hoàn tục và hàng vạn ngôi
chùa bị phá huỷ hoặc tịch thu.
* Thời hoàng kim của pháp môn Tịnh độ
được diễn ra:
a.- Dưới nhà Tuỳ (589-618) và nhà
Đường (618-907). Trong thời gian này, toàn thể các tông phái Phật
giáo đua nhau phát triển song song với Nho giáo, gây một cảnh tượng trăm
hoa đua nở. Nhiều vị danh Tăng xuất hiện, trong đó có Trí Khải hay Trí
Giả Đại sư trong Thiên Thai tông (528-597 TL) đã hết lòng hoằng dương
pháp môn Tịnh độ. Riêng trong Liên tông cũng có nhiều vị xuất sắc, lập
ra những dòng Tịnh độ khác nhau. Ngoài dòng của Tổ Tuệ Viễn ở Lô Sơn là
Tuệ Viễn Lưu chủ trương Quán tưởng niệm Phật, còn có
Thiện Đạo Lưu do Thiện Đạo (613-618 TL), chùa Quang Minh, học trò
của Đạo Xước (562- 645 TL) lập ra, chú trọng về Khẩu xưng niệm Phật,
và Từ Mẫn Lưu do Từ Mẫn Tuệ Nhật (680-748 TL) đi cầu pháp tại Ấn
Độ bằng đường thuỷ, trực tiếp kế thừa Tịnh độ giáo tại Thiên Trúc trở về
nước lập ra, và chú trọng về Đức Tin hay Thiện căn niệm Phật. Gần
ba thế kỷ phát triển rực rỡ dưới hai triều Tùy, Đường, Phật giáo được
toàn thịnh. Tiếc rằng cuối nhà Đường xảy ra nạn Võ Tôn phá Phật trong
năm Hội Xương thứ 2 (842 TL), do sự ganh tỵ của một số đạo sĩ đương
thời. Kỳ pháp nạn này là lần thứ ba, kéo dài năm năm, kết quả có 44.600
ngôi chùa bị phá huỷ, và 26.500 Tăng, Ni phải hoàn tục, đứng hàng thứ
nhì về tổn thất trong bốn kỳ pháp nạn ở Trung Quốc. Tới năm Hội Xương
thứ 6, Võ Tôn mất, Tuyên Tôn nối ngôi lại ra sức phục hưng đạo Phật,
mong chuộc tội cho tiền nhân.
Kỳ pháp nạn lần thứ tư diễn ra dưới đời
Hậu Chu (955 TL) kết thúc thời Ngũ Đại (Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn,
Hậu Hán và Hậu Chu) 907-960 TL của lịch sử Trung Quốc, đưa Phật giáo
nước này dần dần đi vào thời đuối sức không đủ lực để phát huy rực rỡ
như trước nữa. Nhưng có một hiện tượng rõ rệt đã xảy ra dưới Tống triều
là ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ đối với Nho học Trung Quốc, vì nhờ
những tư tưởng cao siêu của Phật giáo mà Nho học phục hưng được nền
Khổng học và đã chứng kiến được sự nẩy nở ngoạn mục của đoá hoa Văn học
Trung Quốc, mệnh danh là Lý Học. Chính nhờ có sự mở đường dung hoà của
Nho giáo nhập thế với Đạo giáo (Lão, Trang) xuất thế, mà có một hệ thống
triết học Tự nhiên-Siêu nhiên, do đó mà nền Nho học đời Tống, Minh mới
thâu hoá được của Phật học những điểm thiếu sót ở Khổng học sơ thuỷ để
trở thành một hệ thống triết lý nhân sinh đầy đủ cả Hình nhi thượng lẫn
Hình nhi hạ học.
b.- Dưới đời nhà Tống
(960-1279 TL) pháp môn Tịnh độ tuy còn
duy trì được cảnh tà huy của thời vàng son xưa, nhưng không còn được coi
là một pháp môn thuần tuý riêng biệt như xưa dưới đời Tuỳ, Đường nữa, mà
đã biến chất, pha trộn để trở thành một pháp môn chung của các Tông khác
như Thiền, Luật, Mật, Hoa Nghiêm và Thiên Thai. Đặc biệt Tịnh độ giáo
thuộc hệ phái Thiên Thai lại rất phồn thịnh. Nhiều vị cao tăng đã xuất
hiện trong thời kỳ này như: Diên Thọ Vĩnh Minh (tịch năm 965 TL) chủ
trương Niệm Thiền nhất trí ; Châu Khánh Tỉnh Thường ở Hàng Châu cùng với
Tuân Thúc (Bảo Vân) ; Trí Lễ (Diên Khánh) và Linh Chiếu (Siêu Quả) tỉnh
Triết Giang đã lập được nhiều hội Niệm Phật A Di Đà như ở Lô Sơn. Đồng
thời cũng có nhiều vị Cư sĩ như Vương Trung ở Hàng Châu, Phùng Ấp ở Tứ
Xuyên và Trương Luân ở Từ Châu cũng đua nhau lập hội Niệm Phật theo
gương Tổ Tuệ Viễn ở Lô Sơn, gây được phong trào sôi nổi, lôi cuốn quần
chúng tu tịnh nghiệp.
Cuối nhà Tống, nền kinh tế quốc gia lâm
nguy vì nạn chiến tranh liên tiếp phải đương đầu với các dân tộc Kim,
Liêu ở phương Bắc (Mãn Châu), triều đình nhà Tống phải hạ sách lược bán
độ điệp cho chư Tăng để lấy tiền sung công quỹ. Ai có độ điệp trong tay
được miễn lao công tạp dịch. Vì độ điệp không ghi danh tính người được
cấp mà lại để trống tên tuổi, nên đã biến thành một loại công khố phiếu
vô danh, được bán đi bán lại nhiều lần với giá càng ngày càng tăng, do
sự phá giá của đồng tiền, bởi thế gây thành tệ nạn tham nhũng, khuyến
khích kẻ có tiền đua nhau xuất gia, mua độ điệp để kiếm lời và trốn
nghĩa vụ lao động cưỡng bách, khiến cho chính, tà khó phân biệt và đưa
Phật giáo Trung Quốc vào đường đồi trụy.
- Tới nhà Nguyên (1279-1367) và
nhà Minh (1368-1661) còn thấy thấp thoáng bóng một vài vị Cao
Tăng hết lòng hoằng dương pháp môn Tịnh độ như Vân Thê Châu Hoằng
(1535-1615), Hám Sơn Đức Thanh (1546-1623), Ngẫu Ích Tri Húc (1599-1655)
đều chủ trương Thiền Tịnh song tu và Tam Giáo Đồng quy.
- Dưới nhà Thanh (1662-1911),
Phật giáo Trung Quốc bước vào thời kỳ suy tàn vì vắng bóng Tăng tài, lại
thêm nạn Hồng Tứ Toàn nhiễu loạn, nên pháp môn Tịnh độ ngày càng suy vi.
Thái Bình Thiên Quốc do họ Hồng dấy lên, đốt phá chùa tháp, giết hại
Tăng, Ni, khiến Phật giáo Trung Quốc lại một phen lâm cảnh pháp nạn gần
như tai biến Tam Võ Nhất Chu thuở xưa.
- Tới giai đoạn Cận đại (1911 trở
đi) cuộc Cách mạng Tân Hợi của Trung Hoa Dân Quốc hồi đầu đã xảy ra
nhiều vụ tịch thu tài sản của Giáo hội Phật giáo Trung Quốc và biến một
số chùa làm công sở, do chủ trương quá khích của bọn Trần Độc Tú và Ngô
Ngu dấy lên phong trào Tân Thanh Niên đòi đập phá và huỷ hoại tất cả cái
cũ, nhằm thực hiện một cuộc cách mạng đổi mới toàn diện, để tiến tới một
nền Tân văn hoá. Trong hàng ngũ Phật giáo đoàn Trung Quốc lúc bấy giờ
lại thấy xuất hiện một số cao Tăng xả thân vì Đạo, cố cứu vãn nguy cơ
phá Phật và phục hưng đạo pháp như các Ngài Ấn Quang, Viên Anh, Đỗ
Nhuận, Đạo Giai, cùng nhóm Cư sĩ Vương Nhất Đính, Dương Nhân Sơn, Đinh
Phúc Bảo, Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi đã tận lực hộ trì chánh pháp,
nhất là Thái Hư Đại sư (1889-1946) đã đứng lên hô hào Tăng, Ni, Phật tử
trong nước đoàn kết thống nhất để thành lập “Trung Quốc Phật giáo Liên
hiệp hội”. Ngài lại có sáng kiến nương theo lý thuyết Tam Dân của Cách
mạng Tân Hợi, xướng ra thuyết Tam Phật (Phật Tăng, Phật Hoá, Phật Quốc)
nhằm: 1/ Đào tạo Tăng tài, làm rường cột cho đạo Phật ; 2/ Lấy giáo lý
nhà Phật làm cơ sở thiết lập một nền văn hoá, đạo đức quốc gia theo con
đường Thập Thiện và Bồ Tát hạnh để giáo hoá quần chúng ; 3/ Và thiết lập
một cõi Tịnh độ nhân gian với mục đích đắp xây hạnh phúc cho toàn dân.
Trong sự nghiệp vận động hộ pháp và chấn
hưng đạo Phật để đối phó với thời cuộc ngày càng khẩn trương trươc nguy
cơ pháp nạn có thể bùng nổ, Thái Hư Đại sư đã tận lực hoạt động để hoàn
thành việc đoàn kết Phật giáo đồ trong nước, chỉnh lý Tăng già, canh tân
giáo dục Tăng, Ni, Phật tử, bảo vệ Phật giáo đoàn Trung Quốc thoát cảnh
suy tàn, và tiến bước kịp trào lưu của Cách mạng Tân Dân Sinh diễn ra
sôi nổi. Cùng với việc thiết lập các Phật học viện như: Võ Xương Phật
học viện, Kim Lăng học đường Nam Kinh, Tạng Văn học viện Bắc Kinh. Các
Ngài còn lập được nhiều Thư quán như Phật Học thư cục, Thế giơi thư cục,
Thế giới Phật học uyển, Thiền quán v.v..., xuất bản Đại Tạng Kinh, khiến
cho Phật giáo Trung Quốc lại được khởi sắc, gây ảnh hưởng tốt đối với
phong trào Chấn hưng Phật giáo ở các nước lân bang như Triều Tiên, Việt
Nam ...
*
Tại Việt Nam.
Đứng tại vị trí tiền đồn ở Viễn Đông, nước Việt Nam là nơi giao lưu gặp
gỡ của các nền văn minh trong vùng Đông Nam Á, bởi vậy, về mọi phương
diện, nước Việt Nam ở địa vị thuận lợi hơn ở Trung Quốc trong việc tiếp
xúc với nền văn hoá Ấn Độ. Mặt thuỷ, Việt Nam gần Ấn Độ hơn Trung Quốc.
Đường biển dễ đi hơn đường bộ, phải trèo qua dãy núi Hy Mã Lạp Sơn cao
và hiểm trở, lại phải băng qua bãi sa mạc Gobi cát bỏng mênh mông. Mặt
bộ, Việt Nam tiếp giáp với các nước láng giềng của Ấn Độ như Sri Lanca
(Tích Lan), Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào là những quốc gia có
truyền thống lâu đời về Phật giáo. Ngoài ra, dân tộc Việt Nam lại hiếu
khách, đất nước Việt Nam lại thanh bình, tương đối ít giặc giã và dễ
sống hơn ở Trung Quốc nên kiều dân các nước Cận đông và Viễn đông tới
lui buôn bán và truyền giáo, nếu không muốn lập nghiệp lâu dài thì cũng
ghé qua nước này, trước khi đặt chân vào Trung Quốc. Bởi vậy, có thể
nói: Phật giáo Ấn Độ đã sớm du nhập vào Việt Nam từ cả hai ngã đường
thủy và bộ, trước cả khi dân ta bị người Trung Hoa đô hộ và truyền bá
nền văn hoá của họ sang nước ta. Một tài liệu cho biết: hồi Sĩ Nhiếp đời
Tiền Hán làm Thái Thú đất Giao Châu (187 TL) có một người Trung Hoa tên
là Mâu Bác ( , cùng với mẹ đến tỵ nạn chiến tranh ở Giao Châu, có
viết một cuốn sách nhan đề Lý Hoặc Luận ( ), trong đó ông so
sánh ba mối Đạo lớn đang thịnh hành tại Trung Quốc lúc bấy giờ, và ông
ca tụng đạo Phật, khi đó đã có tại Giao Châu, cho là cao siêu hơn cả đạo
Lão và đạo Nho.
Trong sách “Phật Tổ Lịch Đại Không Tải”
có nói: “Vào niên hiệu Vĩnh Bình thứ 4, niên hiệu thứ 2 của Tấn Hiếu Đế
(294 TL) đã có nhiều giáo sĩ Thiên Trúc như Ma Ha Kỳ Vực (Mahajivaka),
Thiên Hữu (Kalyanaruci) và Khang Tăng Hội (K’ang Sang Houei) đã cùng
những thương gia người Ấn dùng thuyền buồm, trên đường du hoá Đông độ,
trước khi họ tới Trung Hoa, họ đã lưu trú một thời gian tại Giao Châu để
truyền bá đạo Phật. Như vậy đủ thấy rằng pháp môn Niệm Phật, cùng với
các pháp môn khác của đạo Phật đã có gốc rễ ăn sâu, bám chặt vào tâm hồn
của người bình dân Việt từ rất xa xưa. Nhưng ở đây pháp môn Tịnh độ
không còn là một pháp môn thuần tuý, mà nó đã sớm trở thành một pháp môn
chung cho các tông phái khác. Tại hầu hết các ngôi chùa ở Bắc Việt đều
có tượng Phật A Di Đà trong ba ngôi Tam thế Phật, và đều có thờ Tam
Thánh (Phật A Di Đà cùng hai vị Bồ Tát Quan Thế Âm và Đại Thế Chí). Việc
thờ phụng Phật A Di Đà cùng Bồ Tát Quan Thế Âm hay Bồ Tát Thiên thủ
thiên nhãn đã trở thành một tín ngưỡng khát khao, một món ăn tinh thần
cần thiết của dân tộc Việt Nam, cầu mong được tai qua nạn khỏi, vì phải
trải qua nhiều nỗi gian truân để đương đầu với thiên nhiên khắc nghiệt,
và một nước láng giềng hùng mạnh, tham tàn, đã áp đặt hàng ngàn năm ách
đô hộ lên đầu, lên cổ dân tộc này.
Tinh hoa của hai nền văn minh Ấn Độ và
Trung Quốc cô đúc trong các tư tưởng cao siêu của ba mối đạo lớn là Phật
giáo, Lão giáo và Khổng giáo gặp nhau trên dải đất Việt Nam, đã sớm được
dòng giống Lạc Hồng dung hoà và biến chế thành một chất bổ dưỡng, khả dĩ
phát huy được tinh thần dân tộc. “Tam Giáo đồng quy nhi thù đồ”, khiến
cho dân tộc Việt Nam có một tâm hồn hiếu hoà nhưng bất khuất. Bởi vì đại
đa số dân tộc Việt là tín đồ Phật giáo, mà đại đa số tín đồ Phật giáo
lại theo pháp môn Tịnh độ, nên pháp môn này cùng với dân tộc Việt như
hình với bóng. Đại chúng ít học muốn xa lánh cuộc đời khổ đau và tìm sự
giải thoát trong đạo Phật, không phải bằng con đường trí tụê của Thiền
tông và các tông khác thiên về Giáo, ưa suy luận trừu tượng và bác học
cùng Tự lực, mà lại bằng hiệu lực của Tâm thành cùng Đức tin và Tha lực
để mong được về Tịnh thổ của Phật A Di Đà, cho nên chỉ cần nhìn vào pháp
môn Tịnh độ tại Việt Nam cũng đủ nhận thấy một cách trung thực bộ mặt
của quốc gia này. Thời kỳ nào mà Phật giáo đồ trong nước đoàn kết, thống
nhất vào một mối, không còn chia rẽ Nam tông, Bắc tông, Cổ Sơn môn hay
Nguyên thuỷ, và tín ngưỡng của người dân được thực sự tự do, thì đó cũng
là thời kỳ mà toàn dân được an cư lạc nghiệp và thực sự hưởng hạnh phúc
ấm no.
Giở lại những trang sử nước nhà, chúng
ta nhận thấy ngay những chiến công oanh liệt dưới thời kỳ XI và XVI,
thời đại Lý, Trần, cũng là những thời kỳ vàng son của Phật giáo Việt
Nam, trong đó có nhiều vị Vua là tín đồ thuần thành của đạo Phật và có
một vài vị đã xuất thân từ chốn Thiền môn.
Vua Lý Công Uẩn thuở nhỏ là con nuôi của
Đại sư Lý Khánh Vân chùa Cổ Pháp (Bắc Ninh) và là Sa di ở chùa này. Vua
Trần Thái Tông đã từ bỏ ngai vàng, đang đêm một mình một ngựa, băng rừng
vượt núi, lội suối, trèo đèo để cầu đạo giải thoát. Hai vua Lý Thánh
Tông và Trần Nhân Tông có công sáng lập hai dòng Thiền thuần tuý quốc
gia (dòng Thiền Thảo Đường và dòng Thiền Trúc Lâm) để nêu cao tinh thần
dân tộc tự cường. Tín ngưỡng thực nghiệm tâm linh cụ thể của Phật giáo
Việt Nam trong dòng Thiền Thảo Đường được tưọng trưng bằng ngôi chùa Một
Cột, dựng trong thành Thăng Long, thờ Đức Quán Thế Âm Bồ Tát và đặt tên
là chùa Diên Hựu, có nghĩa là phúc báu lâu dài của quốc gia, dân tộc, và
đặc biệt là dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, khác hẳn tín ngưỡng các dòng
Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Bồ Đề Đạt Ma, Vô Ngôn Thông và Huệ Năng ở phương
Bắc, dòng thì thuần Ấn, dòng thì nửa Ấn nửa Hoa, còn dòng Thiền Trúc Lâm
của Việt Nam, đượm màu sắc dân tộc, đã lấy tinh thần khai phóng, phá
chấp của Tam Giáo, mà kết hợp một cách hài hoà nhuần nhuyễn Thiền với
Tịnh, Trí và Bi, đạo với đời, hợp nhất cái Hữu hạn của đạo Nhân Thiên,
với cái Vô hạn của đạo Xuất thế, gắn liền tương đối với tuyệt đối, hiện
thực với siêu nhiên, làm cho dân tộc Việt Nam vừa có Tâm Từ lại vừa anh
dũng, biết quên mình vì nghĩa cả khi giặc đến thì khoác nhung phục, xông
pha khói lửa ngoài trận địa, lúc nước yên lại mặc tấm áo vải nâu đi cày
ruộng, hoặc tìm về với đạo Phật là nguồn suối an lạc, thanh lương, đem
đạo vào đời để phụng sự nhân quần xã hội một cách đắc lực thiết tha.
Sắc thái dị biệt của dòng Thiền Trúc Lâm
Yên Tử là không theo lối tu của các dòng Thiền Trung Quốc, y cứ vào Kinh
điển như Kinh Lăng Già của phái Bồ Đề Đạt Ma, và Kinh Kim Cang của phái
Huệ Năng, mà lại dùng Kinh Vô Tự của Chân Tâm, và phép tu Lục căn sám
hối, ngày đêm sáu thời lấy Sám Pháp để thanh lọc tâm tư. Những tấm gương
mộ đạo cứu đời của các Vua đời Lý, Trần đã hun đúc nên một dân tộc hiên
ngang, quật cường, nhiễm đầy tư tưởng Sắc, Không, Vô ngã, Vô thường, Vô
vi, Vô sự của đạo giải thoát, coi nhẹ tấm thân, vì nước quên mình, bởi
thế mà từ trước tới nay đã tạo được những chiến công hiển hách, bao phen
phá tan các trận giặc Tống, Nguyên hung hãn và hiếu chiến ở phương Bắc,
đè bẹp các dân tộc Chiêm Thành, Chân Lạp ở phương Nam và phất cao ngọn
cờ độc lập để đối phó với các đạo hùng binh ồ ạt từ khắp các cường quốc
năm châu, bốn hướng bao phen đến tàn phá cõi bờ.
Thời Lê Ngoạ Triều ngược đãi Tăng sĩ và
thời gia đình trị nhà Ngô kỳ thị tôn giáo được coi là những thòi ách nạn
của quốc dân, thì đó cũng là những thời pháp nạn của Phật giáo nước nhà.
Bằng vào những chứng cứ lịch sử ấy có thể thấy rằng: Phật giáo Việt Nam
luôn gắn liền với vận mệnh của dân tộc.
---o0o---