PHẦN BA (2)
CHƯƠNG 10
NHẬN ĐỊNH VỀ MỐI LIÊN HỆ
GIỮA TỊNH ĐỘ TÔNG,
THIỀN TÔNG VÀ DUY THỨC
TÔNG.
Tu Tịnh độ (thuần tuý) là
hướng về ngoại cảnh hay hành Pháp tướng, nương vào Tha lực bằng cách
niệm danh hiệu Phật A Di Đà, để trút bỏ phiền não, nhiễm ô, mong đạt tới
Niết bàn Tịnh độ. Tu Thiền là hướng về nội tâm, hành Pháp tính, dựa vào
Tự lực, quán sát tự tính để diệt trừ chúng sinh tính trong lòng mình,
mong cho tâm tỏ ngộ.
Nếu Tịnh độ chủ trương Tin là
tất cả, và tình cảm là then chốt, thì Thiền nhấn mạnh vào điểm “Thấy”
(Kiến) bằng trực giác tâm linh, và quen dùng khối óc hơn là con tim.
So sánh hai pháp môn Thiền và
Tịnh, ta thấy pháp môn Tịnh độ với phương pháp niệm hồng danh Phật A Di
Đà thật là thuận tiện, giản dị, dễ tu, nhờ được Tha lực gia hộ nên ít bị
chướng ngại, dù có gặp chướng ngại cũng dễ dẹp tan.
Còn tu Thiền, cậy vào sức
mình, thường gặp nhiều cam go thử thách, chẳng hạn phải suy nghĩ nát óc
để tìm giải đáp cho một câu thoại đầu hay công án bí hiểm, phải mất hàng
tháng hàng năm ấp ủ canh cánh bên lòng, mà chẳng thấy tia sáng chân lý
đâu cả. Bởi thế nên có câu : “Khô mộc đường Thiền thác lộ đa”. Y
nói tu Thiền cậy vào tự lực thường gặp nhiều nỗi nguy nan, trong khi
tham công án hoặc quán thoại đầu thường bị mất ăn, bỏ ngủ, tinh thần
căng thẳng, xác thân khô đét như cây khô mộc, gặp phải nhiều chướng ngại
khó vượt qua.
* Nhưng nếu bảo Thiền chỉ dựa
vào Tự lực mà Tịnh độ tông hoàn toàn dựa vào Tha lực là vô tình đã đánh
giá thấp pháp môn Tịnh độ bởi đã bỏ quên một yếu tố quan trọng của pháp
môn trì danh hiệu Phật, là ý chí sắt đá của hành giả để mong tiến tới
đích. Đáng lẽ phải nói : Tịnh độ tông nhờ vào ý chí cương quyết của
người tu trong việc trì danh hiệu Phật tới chỗ nhất tâm bất loạn, tức là
trông vào quyết tâm của mình để diệt vọng quy chân, lại còn được nhờ vào
năng lực hộ trì của chư Phật và Long Thần hộ pháp mới được sinh về cõi
Cực lạc Tây phương. Như vậy thì ngoài Tự lực của hành giả vốn có hạn,
lại còn được nhờ vào Tha lực vô biên của Phật và Thánh chúng nữa thì lo
gì mà chẳng thấy được bản tính chân tâm của mình ?
Pháp tướng dễ hành trì nhưng
tiến chậm. Pháp tính khó tu hơn, lại đòi hỏi phải có lợi căn, nhưng tiến
mau hơn. Tuy nhiên tới chỗ cùng đường thì hai bên lại gặp nhau ở chỗ Sự
Lý viên dung, Sự Sự vô ngại.
* Tịnh và Thiền, bề ngoài
dường như mâu thuẫn song bề trong đã đồng nhất trong sai biệt, để dung
hoà hiện thực với siêu nhiên. Nếu Thiền là lắng đọng tư duy, và Định là
tập trung tư tưởng, không để cho niệm lự dấy lên, và thắp sáng ngọn đèn
chính niệm để duy trì thường trực tính năng biết nhiệm mầu hay tri kiến
của mình, thì người tu Tịnh độ lúc nào cũng ở trong Thiền định, vì hành
giả luôn luôn ở trong tĩnh lặng của Thiền. Ý của hành giả không đuổi
theo trần cảnh và tâm của người này nhiếp câu niệm Phật trong định.
Người tu không duyên theo vang bóng của việc đã qua, không lo nghĩ về
hoàn cảnh hiện tại, cũng chẳng mơ tưởng đến việc vị lại : đó là Thiền.
Người tu lía sắc tướng và chuyên cần trì danh hiệu Phật : đó là Định.
Hiểu biết các căn, trần, và thân khẩu ý của mình đều trong sạch, đêm
ngày hướng về cõi Phật, và lúc nào cũng ý thức được công việc mình đang
làm : đó là Thiền Định. Nếu Thiền Định là phương pháp nhiệm mầu để thoát
lý mối tương quan Tâm Cảnh, siêu lên ý niệm nhị nguyên để đạt tới tâm
điểm của thực tại nhất nguyên, thì niệm Phật cũng là phương pháp đễ dẫn
tới Niệm - Vô niệm, Vô niệm - Niệm, thoát ly sự phân chia chủ khách, ra
khỏi sự khuấy động của tạp niệm để tới chỗ chính niệm, chính định và đạt
lý Nhất nguyên, Bất Nhị.
* Niệm Phật với tâm vô niệm
cũng giống như tham Thiền nhập Định để thể nhập vào tự tính thanh tịnh
của mình, hoà tan vào bản thể của vũ trụ. Như vậy tu tịnh nghiệp cũng
gồm đủ cả Giới Định Tuệ, Văn Tư Tu, và Thiền Tịnh nào có khác gì nhau ?
Do đó, người tu tịnh nghiệp đương nhiên hành cả pháp Thiền hay thực hiện
cùng một lúc pháp môn Thiền Tịnh song tu. Ngày đêm, trong bốn oai nghi,
hành giả niệm Phật trong lúc đi, niệm Phật trong lúc đứng, lúc ngồi, lúc
nằm, biết rõ lúc nào mình cũng đang niệm Phật. Hành giả ý thức rõ ràng
công việc mình đang làm, bất cứ lúc nào, như vậy hành giả đã thực hiện
công phu Thiền ở mức độ cao vậy.
- Xét trong Phật giáo Tiểu
thừa có phép tu Tứ Niệm Xứ (Sattipattana) mà niệm Phật với Niệm Xứ khác
gì nhau ? Thiền (tối thượng thừa) của Trung Quốc, so với Tứ Niệm Xứ của
Ấn Độ và phép Niệm Phật giống nhau về mặt lý thuyết. Kinh A Di Đà nói
đến bốn cảnh miền Cực lạc thì trong Thiền cũng có bốn cảnh của Thiền.
Tịnh độ dạy Niệm Phật với nhất tâm bất loạn, chẳng khác nào người ngồi
Thiền ở trong Đại Định. Thiền có Định của Thiền thì Tịnh cũng có Định
của Tịnh. Chỗ “Nhất tâm bất loạn” của Tịnh so với “Nhất hạnh tam muội”
của Thiền, nào có khác gì nhau ?
Mục 6 : Nghi vấn về mâu
thuẫn giữa Tịnh với Thiền.
Có nhiều nghi vấn giữa Tịnh độ
tông và Thiền tông cần được soi sáng để phá bỏ những chỗ mờ ám tối tăm :
1.- Thiền tông cho rằng : Niệm
Phật là có tướng hữu vi. Muốn đạt tới Vô tướng, Vô vi của Chân Tâm, Thể
tính, không thể dùng lối niệm Phật được.
- Để trả lời câu chỉ trích
trên, phái Tịnh độ cho rằng : Thiền sư khi ngồi Thiền, lúc tham thoại
đầu hay giảng pháp đều không ở trong cảnh Hữu vi sao ? Nếu cho rằng Vô
vi là làm những việc hữu vi mà không lưu ý đến việc mình làm thì Vô niệm
cũng vậy, vì Vô niệm xuất phát từ đáy lòng mình, không từ căn trần hữu
lậu. Vô là Thể của Niệm. Niệm là Dụng của Vô. Người đạt tới công phu,
Niệm - Vô niệm, Vô niệm - Niệm, thì đã tới được chỗ Niệm Vô vi rồi. Khi
ấy người niệm Phật thấy mọi pháp mà không bị nhiễm tướng của các pháp
bởi vì hành giả đã lấy Tuệ Bát Nhã chiếu soi. Niệm trước, niệm sau cứ
mặc chúng tự nhiên lui tới. Ác niệm đến thì tự tiêu. Thiện niệm đến thì
hành động, làm xong lại xả : Hành giả ở trong trạng thái Chân Tâm, như
bóng soi gương mà chẳng dính vào mặt gương nên không tạo ô nhiễm. Niệm
mà như không niệm, không niệm mà vẫn niệm, như thế gọi là Vô niệm. Khi
nói “Niệm - Vô niệm”, người ta đã dùng cái Không để vô hiệu hoá cái Hữu,
nhưng khi nói “Vô niệm - Niệm” người ta đã dùng cái Bất Không để vô hiệu
hoá cái Không. Hành động Niệm được Không hoá bằng Vô niệm. Đến lượt Vô
niệm lại bị phá huỷ bằng Bất Không (tức Hữu niệm) đẻ cho lý Bất Nhị hay
Trung Đạo, hoặc Chân Không Diệu Hữu tỏ bày. Đó là Vô Tâm mà Niêm. Niệm
Vô Tâm không mong cầu gì cả thì Sự Lý viên dung, Năng Sở hợp nhất, một
tấm gương phản ảnh vào một tấm gương, Chủ thể nhập vào đối tượng, nhạc
sĩ nhập vào cây đàn, hoạ sĩ nhập vào bút vẽ, thi sĩ nhập vào nguồn thơ,
người niệm nhập vào Đức Phật của mình. Niệm như thế gọi là “Vô niệm -
Niệm, Niệm - Vô Niệm”, chứ chẳng phải tuyệt đối bỏ hẳn ngôn ngữ, hành
động, sống như khúc gỗ, tảng đá vô tri mới là Vô niệm. Niệm - Vô niệm là
đi sâu vào thế giới tâm linh vô sai biệt và vô phân biệt mà không qua
cửa ải phân biệt Niệm với Không niệm, tức là không chặt đứt mối dây liên
hệ với đời sống hàng ngày của mình. Niệm như vậy còn có ý nghĩa là niệm
mà không dụng công, niệm một cách tự nhiên, như mây bay gió cuốn, hữu vi
một cách vô vi, và vô vi một cách hữu vi, cho nên không tác động vào bản
thể tự nhiên vốn bất động. Vì không còn tướng niệm nên không cần dụng
công diệt trừ ta niệm và nuôi dưỡng chính niệm. Ta đã thanh tịnh trong
suốt như gương thì tâm không ngại cảnh, cảnh chẳng ngại tâm, sự sự đều
vô ngại, tịch mà chiếu, chiếu mà tịch, đó là diệu dụng của tâm Bồ đề.
Cũng như Hành - Vô hành, hay Hành vô biệt niệm thì tâm không phân biệt,
không gây nhân quả vô diệt vô sinh, thể nhập vào hiện tiền, cắt đứt được
tư duy, do đó phá được cái Ta, và hoà đồng Khách Chủ vào Chân Thể của sự
vật.
2.- Có người lại đặt nghi vấn
: Muốn thấy tướng Vô tướng của các pháp, phải dùng Vô tướng, Vô niệm,
nhưng pháp môn Tịnh độ lại dùng lối Hữu tướng, Hữu hình, để đạt tới chỗ
có hình tướng là cảnh Cực lạc Tây phương cùng Phật A Di Đà, như thế
phỏng có trái lý Thực tướng Vô tướng của các pháp chăng ? Bởi vì Chân
tính thì Vô tướng, mà đã Hữu tướng, hữu hình thì không thể là Chân tính
được. Lấy cái hữu hình thì nắm bắt sao được cái vô hình tướng ? Hình ảnh
viên ngọc tươi thắm trên núi lửa và bông sen nở trên đống than hồng là
những hình ảnh mô tả sự nhiệm mầu của Chân Tâm chỉ đạt tới do một tâm
trạng vô tướng, vô tác, vô đắc, vô cầu, bởi thế mà Thiền tông đã dùng
bài thơ sau đây để chỉ cái khó đạt được của Chân Tâm Pháp tính, nếu dùng
lối hữu tướng hữu niệm của phái Tịnh độ tông :
Diệu tính hư vô bất khả phân.
Hư vô tâm ngộ, đắc hà nan ?
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận
Liên phát lô trung thấp vị can.
Dịch :
Chân tính hư vô khó đến nơi
Hư tâm mới đạt tới mà thôi.
Trên núi ngọc thiêu mầu còn nhuận
Trong lò sen nở sắc thường tươi.
- Xin thưa : Pháp môn Tịnh độ
dẫn vào phương pháp niệm Phật và cảnh Cực lạc Tây phương, tự nó không
thể đưa thẳng chúng sinh đến chỗ chứng được trực tiếp thực tướng “Không”
nhưng nó lại có công năng dẫn chúng sinh đến cõi Tịnh độ, ở đó có hoàn
cảnh thuận lợi để đưa tới chỗ chứng được thực tướng “Không” một cách dễ
dàng, bởi vì ở thế giới Cực lạc Tây phương, chúng sinh chung sống với
các bậc Hiền thánh trong một môi trường lý tưởng cộng nghiệp tốt lành,
có đủ phương tiện để học hỏi giáo lý Không và thành tựu được Phật đạo
một cách chắc chắn.
3.- Một nghi vấn nữa được nêu
lên ở đây là nguyện vọng của người tu Tịnh độ được vãng sinh Cực lạc
quốc, so với nguyện vọng của pháp tu Thiền để được thành Phật có khác
nhau không ?
Thoạt nghe ai cũng tưởng rằng
mục tiêu của phái tu Tịnh độ thua kém phái tu Thiền, nhưng xét kỹ ta lại
thấy pháp môn Tịnh độ là nơi mà người tu theo bất cứ pháp môn nào cũng
đều phải ghé qua trước khi đặt bước vào toà nha Như Lai. Nếu chưa được
vãng sinh về cõi Tịnh độ thì chưa đạt được tâm Không, còn mang nặng ưu
tư phiền muộn thì tâm chưa Định, đó là ý nghĩa của bốn chữ “Vãng sinh
Tịnh độ”. Tâm còn mang nặng sắc, tài, danh, lợi, tham luyến nhiễm ô thì
mong gì được thành Phật ? Như vậy ta đã thấy rõ chủ đích của pháp môn
Tịnh độ là rũ sạch tà niệm để tâm được trong sáng và định ở chỗ sáng đó.
Hễ có Định là có Tuệ và đây là cái mà kinh nói : “Hoa khai kiến Phật tức
văn Phật thừa, đốn khai Phật tuệ…”. Thấy Phật là thấy được chân tâm bản
tính, chuyển được Bát thức thành Tứ Trí, đổi được ba độc tham, sân, si
thành ba pháp giải thoát Giới, Định, Tuệ và thắng được sáu tên giặc (lục
căn hay lục thức) buộc nó phải hàng phục sáu pháp Lục độ, như vậy Tịnh
nào có thua kém gì Thiền ?
4.- Lại có người cho rằng :
Tịnh độ tông đặt niềm tin vào Tha lực, lấy đó làm điểm tựa cần thiết cho
việc siêu sinh. Thoạt nghe, ta thấy Tịnh độ giống như Thiên Chúa giáo
chỉ tin tưởng vào sự cứu rỗi của Chúa mà không tự tin ở sức của mình,
nhưng xét kỹ, ta lại thấy không đúng như vậy, bởi vì tuy ở pháp môn Tịnh
độ, người Phật tử phải tin vào Tha lực của Phật A Di Đà nhưng vẫn phải
nỗ lực niệm Phật đêm ngày mới tới được chỗ “Nhất tâm bất loạn”. Ngoài ra
hành giả còn phải tạo thêm nhiều phúc đức nhân duyên nữa, nhất là trong
lúc lâm chung phải giữ sao cho “thân không bệnh khổ, tâm không tham
luyến, ý không điên đảo, như vào Thiền định” mới mong được vãng sinh.
Như vậy thì người niệm Phật tới mức độ ấy khác hẳn tín đồ bên Thiên Chúa
giáo chỉ thuần ỷ lại vào ân sủng của Chúa để được đưa lên Thiên đường.
Người tu Tịnh nghiệp ở trong trạng thái ấy cũng giống như tham Thiền
trong chánh Định. Có khác chăng chỉ ở mức độ cao thấp mà thôi.
Theo kinh Hoa Nghiêm thì giữa
Thiền và Tịnh, Lý và Sự, Tri và Hành vẫn có mối dây liên hệ mật thiết
theo lý : Lý Sự và Sự Sự vô ngại pháp giới. Thiền tông và Tịnh độ tông
cùng chung một mục tiêu : đưa hành giả vào trạng thái đại Định để phát
sinh Tuệ giác. Việc tiếp dẫn của Phật A Di Đà về cõi Tây phương Cực lạc
được coi như một chiếc cầu bắc ngang nối liền tâm linh của hành giả với
Chân Như pháp giới, tức là nối liền tuệ giác siêu thoát của người tu với
cái tâm đại đồng của vũ trụ. Đó là một thứ liên giác thể nhập, và với ý
đó thì Thiền, Tịnh vốn cùng chung một điểm là phá chấp Ngã và chấp Pháp.
Thiền tông và Tịnh độ tông không hề mâu thuẫn một khi cả hai tông đó đều
cùng nhằm đạt tới Phật tính, Chân Tâm, một phái bằng lối niệm Phật với
nhất tâm bất loạn, một phái bằng lối nhập định tam muội. Giây phút đột
biến đạt đạo của Thiền Tịnh song tu, thấy Niết bàn, Tịnh độ ở tại tâm,
ngay tại đây và ngay trong lúc này. Mối dây liên lạc giữa hai tông này
được thắt chặt một cách cụ thể trên thực tế, bằng chứng là có những ngôi
chùa mệnh danh là Thiền Tịnh Đạo tràng, ở đó có nhiều vị Thiền sư chuyên
cần niệm Phật A Di Đà và quán tưởng cõi Tây phương Cực lạc để mong cầu
được vãng sinh. Với pháp môn Tịnh độ lúc nào cũng làm chủ được tâm mình,
và lúc nào cũng quan sát thiện ác chính tà, trong bốn oai nghi, lúc nào
cũng niệm Phật thì sáu chữ hồng danh nhắc nhở hành giả phải làm việc
thiện, giữ tâm thanh tịnh, không để Căn, Trần, Thức dấy lên, và ba
nghiệp thân, khẩu, ý được trong sạch thì chừng đó tâm định sẽ sinh tuệ.
Như vậy thì người tịnh nghiệp sống sáu thời trong cảnh Thiền định, chứ
chẳng phải chỉ ngồi Thiền trong chốc lát ở một nơi mà thôi.
Trong chốn tấp nập xôn xao,
chung sống với đủ mọi hạng người mà vẫn niệm Phật. Tâm không dao động
thì hành giả thực hiện được lối tu Thiền cao tột vậy. Nếu quan sát thật
kỹ, thì trong pháp môn Tịnh độ bộ Kinh A Di Đà dạy phương pháp trì danh
niệm Phật nghiêng về Sự tướng, như bộ Kinh Quán Vô Lượng Thọ lại dạy 16
phép quán, nghiêng về Lý tính. Với phương pháp thực nghiệm tâm linh,
quán tưởng Phật A Di Đà cùng cõi Tây phương Cực lạc và niệm hồng danh
Phật, thì pháp môn Tịnh độ, theo dòng Quán Niệm của Tổ Tụê Viễn gồm cả
Thiền lẫn Tịnh, có đủ cả hai lối tu Đốn và Tiệm. Mục đích của Thiền là
soi sáng ý nghĩa của sự sống, còn mục đích của Tịnh là thanh toán vấn đề
sinh tử, hai bên bổ túc cho nhau. Thiền thì chủ trương nhìn thẳng vào
tâm mình để nhận thấy tính mình là tính Phật, trong khi Tịnh độ tông lại
nhằm tới cõi Tịnh độ (vốn là tâm mình) cũng để thấy rõ tính mình là tính
Phật A Di Đà, cho nên Hư Vân Đại sư mới nói : Tịnh độ tông tức Thiền
tông không khác, vì cả hai đều cùng chung một mục đích là thanh tịnh hoá
tâm con người. Chỉ vì sau người đời quen thói phân biệt nên mới lấy niệm
Phật làm Tịnh, và chấp Thiền định là Thiền, gây nên chia rẽ, chứ xưa kia
Đức Phật Thích Ca đắc đạo có phân chia ra Thiền với Tịnh như ngày nay
đâu ? Để bày tỏ lý Thiền và Tịnh tuy hai mà một, Tây Trai Lão Hoà Thượng
mới để lại bài thơ sau đây :
Tức tâm là Phật, ý không ngoa.
Tịnh khác Thiền đâu ? vẫn một nhà.
Sắc hiển trang nghiêm mầu Diệu Hữu
Không kiêm vô ngại cõi hằng sa.
Trời Tây sáng đẹp màu châu ngọc,
Biển giác bao la đức hải hà,
Ngoảnh lại đường tu ai sớm tỉnh.
Nỗi thương ác đạo mãi vào ra.
* Thiền tông và Tịnh độ tông
không có pháp môn nào cao thấp, hơn kém, nhưng về căn cơ thì Thiền tông
có lợi cho hàng thượng căn, còn Tịnh độ tông lại nhiếp đủ mọi hạng
người. Thiền tông không phổ cập đại chúng bằng Tịnh độ tông, nhất là
trong thời đại ngày nay, tinh thần đạo đức của nhân loại sa sút, và số
người hiểu rõ về triết lý cao siêu của đạo Phật còn rất hiếm, cho nên
muốn đạt tới chính quả, hiện nay cần nên theo con đường Tịnh nghiệp mới
mong khỏi sa đoạ.
* Cùng một pháp môn Tịnh độ mà
ngày xưa được trọng thị hơn ngày nay chỉ vì bên cạnh Tịnh độ tông còn có
Thiền tông. Hai pháp môn này, trong quá khứ đều song song phát triển.
Nhiều vị cao Tăng đã theo Thiền Tịnh song tu và hiểu rõ lý niệm Phật,
thấy được Tự tính Di Đà, duy tâm Tịnh độ và nhìn nhận rằng trong pháp
môn này có Sự Lý viên dung, Sự Sự vô ngại. Tiếc rằng đến nay Thiền tông
gần như bị thất truyền đường lối vào cửa Thiền chỉ có một thiểu số cao
Tăng có thực tu, thực chứng lý Không, ẩn náu nơi rừng thẳm non cao, lánh
cư ở những nơi khuất tịch, không gây được ảnh hưởng sâu đậm trực tiếp
trong quần chúng cho nên pháp môn Tịnh độ thuần tuý mà vắng bóng Thiền,
với lối trì danh hiệu Phật cầu vãng sinh Tịnh độ trở thành một lối tu
của đại chúng, phần đông gồm những người ít học, già nua, ốm yếu, không
tự tin, quen ỷ lại chẳng biết rằng trong mỗi chúng sinh đều có viên ngọc
quý vô giá là Phật tính, Chân Tâm và với bảo bối đó thì cầu gì chẳng
được ? Do đó, số đông Phật tử ngày nay tu theo pháp môn Tịnh độ mà chẳng
hiểu lý thâm sâu của pháp vô lượng nghĩa này, một pháp khó hiểu, khó nói
như lời Phật đã dạy. Muốn cho pháp môn Tịnh độ lấy lại được phong độ xưa
thì ngày nay đành phải dựa vào Pháp Tướng Duy Thức học vậy. Căn cơ của
người bình dân Việt Nam thời nay chưa thích hợp với pháp môn nào khác
ngoài pháp môn Tịnh độ và muốn cho người căn cơ từ bậc trung trở xuống
thông hiểu được sự mầu nhiệm và ý nghĩa thâm sâu của pháp môn này thì
không gì hơn là giải bày cho họ hiểu về thuyết huân sinh, huân trưởng và
cộng nghiệp, biệt nghiệp của Duy Thức học.
* Vũ trụ quan của Phật giáo
theo pháp môn Duy Thức được thiết lập trên nền tảng tự biến và cộng
biến. Mỗi người sống trong một hoàn cảnh hay thế giới hiện tượng riêng
gọi là thế giới Đới chất cảnh được nhận thức bằng giác quan riêng của
từng cá nhân. Ngoài thế giới Đới chất cảnh còn có một thế giới Tánh
cảnh, làm bản chất cho cái thế giới Đới chất cảnh của từng người và đó
là thế giới của Thực tại tự thân, do Cộng nghiệp của chúng sinh thành
lập. Mỗi cá nhân có một nghiệp lực riêng tạo ra hoàn cảnh của chúng sinh
sống hay thế giới Y báo hoặc Tổng báo của chúng sinh ấy, và thân mạng
hay Chánh báo của y. Hoàn cảnh và thân mạng ấy tiêu hoại đi, khi một
giai đoạn sinh mệnh kết thúc, nhưng cái nghiệp lực kia vẫn còn cái đà
tồn tại (élan vital) và phát sinh ra một giai đoạn sinh mệnh mới, gồm
một căn thân mới sinh hoạt trong một Cộng nghiệp mới. Cái vòng sinh tử
tiếp nối triền miên ấy gọi là Luân hồi. Thế giới bản chất Tánh cảnh hàm
chứa trong Thức A lại da của mỗi chúng sinh, gồm có đủ cả phần Tánh cảnh
(hay thế giới Thực tại trung thực) và phần Đới chất cảnh (hay thế giới
méo mó của thực tại biến đổi theo sự sai biệt của từng cá nhân). Thức A
lại da có tác dụng chấp trì sinh mệnh và chứa đựng tất cả những hiện
tượng thực chất, cũng như những ảnh hưởng biến chất không để rơi mất.
Thế giới Tánh cảnh ấy do A lại da thức của nhiều chúng sinh trong cộng
đồng phát hiện, trong đó có phần phát hiện chung gọi là Cộng biến, và
phần phát hiện riêng gọi là Tự biến. Xã hội của loài người là một hình
thức Cộng biến do Thức A lại da của tất cả cá nhân trong tập thể tác
động sinh khởi, hay do hoạt động (hoặc nghiệp lực về thân khẩu ý) của
các cá nhân trong xã hội đó tạo ra. Xã hội (hay môi trường sinh hoạt) là
Cộng biến, còn hoàn cảnh hay số phận riêng của từng người trong tập thể,
do nghiệp riêng của mình trong tập thể tạo ra là Tự biến. Trong Cộng
biến có Tự biến và trong Tự biến có Cộng biến. Mỗi cá nhân trong đoàn
thể tuy cùng hưởng những quyền lợi về chế độ xã hội như nhau nhưng vì
mỗi người có biệt nghiệp riêng và ý chí tự do khác nhau, hành động và
suy nghĩ khác nhau, nên đã tự tạo cho mình những hoàn cảnh không giống
người khác, kẻ sướng, người khổ chẳng đồng đều.
* Pháp môn Duy thức là một
phương pháp đi từ Tướng vào Tánh, từ Sự đến Lý, một môn học phân tích
tâm lý tỉ mỉ, nói rõ sinh tử, nghiệp báo, một môn học nghiêng về suy
luận và lý trí. Hiểu được học thuyết Duy thức, ta thấy rõ tầm quan trọng
của việc niệm Phật cầu vãng sinh, một công việc huân sinh, huân tập bằng
hình ảnh và âm thanh (phương pháp nghe nhìn) nhằm gieo những chủng tử
Phật cực giác và cực lành vào A lại da thức, và tác dụng của A lại da
đối với 7 thức kia, do đó mới nhận thấy rõ sự thần diệu của việc niệm
Phật là thanh tịnh hoá dần dần tâm con người. Bằng phương pháp niệm danh
hiệu Phật, ta ngăn chặn không cho những chủng tử hữu lậu thuận lợi cho
vô minh tà kiến nẩy nở, để chúng không được hiện hành tác hại nữa, và
nhường chỗ cho những chủng tử vô lậu, vị tha, từ bi hỷ xả được sinh
trưởng tiếp nối. Chủng tử có thể hoặc tồn tại, biến chuyển hay tiêu
diệt. Chúng hiện hành để tạo nên những chủng tử mới biến chuyển từng sát
na. Bởi A lại da thức là tổng thể của mọi chủng tử, và chính A lại da
thức cũng luôn luôn biến chuyển theo luật Hằng Chuyển, cho nên bằng
phương pháp niệm Phật, ta có thể làm cho A lại da thức khỏi bị nhiễm ô,
và trang bị cho nó những hạt giống thanh tịnh, đưa nó tới giai đoạn chỉ
còn thuần những chủng tử vô cấu, có cơ hội biến hành và tham dự vào một
cộng nghiệp tốt lành. Đó là nguyên lý của công phu niệm Phật cầu vãng
sinh để biến đổi biệt nghiệp và cộng nghiệp, hay đạt tới Chân Tâm, Phật
Tính của mình, và mong chuyển biến cõi Ta bà thành nơi Tịnh độ.
* Nghiệp có thể Thiện, Ác hoặc
Vô ký và mang tính cách cá nhân hay tập thể. Cũng bởi biệt nghiệp của
từng cá nhân có mối tương quan mật thiết với cộng nghiệp của xã hội, cho
nên mỗi hành động, ý nghĩ, tư tưởng của cá nhân gây hậu quả cho xã hội,
cũng như những quyết định của xã hội ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống
của cá nhân. Đóng vai trò trọng yếu cho sự tạo nghiệp là ý thức tự do
của con người. Sự quán chiếu tự tâm và sự luyện tập những hình ảnh và âm
thanh vào Ý thức và Mạt na thức, tạo nên những động lực có tác dụng
chuyển biến tận gốc các Thức ấy trong căn để của A lại da thức, ở nơi
tận cùng thâm sâu, trong Vô Thức của hành giả. Một ngày nào đó, bằng
quán tưởng và niệm Phật, sự chuyển biến phát hiện, và khi ấy thì những
chủng tử Phật tiềm tàng lu mờ từ lâu, dưới danh nghĩa là Tuỳ miên, bỗng
trở thành rõ nét, và thành hình Phật trong sáng nơi tâm của hành giả đột
nhiên bừng giác ngộ, biến đổi tâm Thức thành bốn Trí hay chuyển được A
lại da thức thành Đại Viên Cảnh Trí để tự tách ra khỏi khối Cộng nghiệp
luân hồi sinh tử. Sức mạnh khiến cho mặt nước Chân Như yên lặng bỗng
nhiên nổi sóng gió, A lại da thức là những tác động vô thức của bản năng
sinh tồn, lôi cuốn con người vào bóng tối vô minh, tạo nghiệp bất thiện.
Bản năng sinh tồn ấy chính là các khuynh hướng âm thầm chấp ngã, chấp
pháp, nhiễm đấy tính chất ích kỷ, mê mờ, do Mạt na thức gây ra từ khi
con người mới sinh ra đời. Càng tạo nghiệp xấu bao nhiêu thì Dục vọng
càng nẩy nở và ngã ái, ngã kiến, ngã chấp, ngã si… càng bành trướng
hoành hành. Chống lại sức mạnh mù quáng đó là Ý chí Tự do Sáng suốt, tạo
điều kiện cho những chuyển biến hướng nội, về mục tiêu Chân, Thiện, Mỹ
để được giải thoát.
Trong Bát Thức Tâm Vương chỉ
duy có Ý thức (thức thứ 6) là có khả năng tự do hoạt động, không bị
nghiệp lực ràng buộc. Trái lại, nó còn có thể hoán cải được nghiệp nữa.
Tuỳ theo nghiệp tốt hay xấu mà phạm vi hoạt động của ý thức hay ý chí tự
do rộng hẹp khác nhau. Người mang nghiệp quá nặng nề xấu xa, sống trong
một cộng nghiệp (môi trường) có nhiều nghịch cảnh, lại phải mang một tấm
thân đần độn, ngu si, bị vô minh bịt kín ánh sáng chân lý do đó cũng ít
có ý chí tự do. Ý chí tự do này tác động trên biệt nghiệp dễ hơn trên
cộng nghiệp. Trên đường dẫn tới giải thoát, càng lên cao bao nhiêu, con
người lại càng thoát ly được những cộng nghiệp xấu xa, hạn chế bớt ý chí
tự do, và càng tiến đến những môi trường (cộng nghiệp) được hưởng một
chế độ tự do rộng rãi hơn thì ý chí tự do được phát triển dễ dàng hơn.
Sống trong cộng nghiệp con người không thể thay đổi được những định luật
của thế giới cộng nghiệp, tuy nhiên vẫn có thể dùng những phương tiện
thích nghi để tăng trưởng thiện nghiệp, tiêu trừ ác nghiệp riêng, do đó
mà tuy cùng sống chung trong một nghịch cảnh nhưng nếu biết tu Tịnh
nghiệp thì ít bị chi phối bởi môi trường chung mà vẫn được hưởng quả báo
của một biệt nghiệp tốt lành hơn, so với những người cùng cảnh ngộ.
* Trên lập trường Tứ Đế thì
Khổ Đế và Tập Đế liên quan đến bản năng sinh tồn mù quáng và bị luật
nhân quả trói buộc chặt chẽ, còn Diệt Đế và Đạo Đế thì liên quan đến ý
chí tự do sáng suốt và vấn đề tu dưỡng là để đối phó với luật nhân quả
thiên nhiên khắc nghiệt, bằng cách chuyển nghiệp thành Nguyện, cố gắng
gây thiện nghiệp để cải tiến sinh mệnh ngay ở kiếp này. Chính vì lẽ đó
mà Phật khuyên chúng sinh nên nỗ lực thoát ly bản năng sinh tồn của tiên
thiên mù quáng mà thực hiện cho được Ý chí tự do của Ý thức hậu thiên
sáng suốt bằng tu đạo. Giữa hai nẻo thiện ác, con người có toàn quyền
lựa chọn. Trên bước đường thăng hoa từ Cộng nghiệp với chúng sinh tiến
tới Cộng nghiệp với Thánh hiền, từ Thức phân biệt nhiễm ô chuyển thành
Tâm vô phân biệt thanh tịnh, từ tham lam ích kỷ, si mê tiến đến thấu
triệt lý Vô ngã, Vô thường, hiểu rõ thực tướng “Không” bất biến của vũ
trụ nhân sinh, tự do ý chí hay khí chất hậu thiên của con người càng
ngày càng phát triển để chống lại khuynh hướng vị kỷ, và phân biệt bất
bình đẳng, chỉ biết tuân theo mệnh lệnh của bản năng sinh tồn, hay của
khí chất tiên thiên mù quáng. Tự do ý chí vừa là mục tiêu, vừa là công
cụ. Là mục tiêu vì trước sau con người cũng phải tìm cách thoát ly đau
khổ để được giải thoát,vì nếu không có tự do ý chí thì con người sẽ
không tự lựa chọn được giữa hai nẻo Thiện Ác, và không thực sự đóng góp
được vào công cuộc tiến hoá chung. Không thể cải thiện được nội tâm một
cách sâu sắc. Không thể tự giác, tự độ, giác tha, độ tha, giác hạnh viên
mãn. Tất cả sự chuyển biến đó đều do công phu của Ý thức của con người
vẫn được hướng về nẻo Thiện bằng phương pháp Thiền định hoặc Niệm Phật
để Ý thức được chuyển thành Tuệ giác hay Diệu quan sát trí, cùng với Mạt
na thức được chuyển thành Bình đẳng tánh trí, đó là điều kiện thiết yếu
để phá Ngã và Pháp chấp và trở về với Chân Tâm bình đẳng, vô phân biệt
của mình hay được vãng sinh Tịnh độ, tức là được sống trong Cộng nghiệp
tốt đẹp của thế giới Cực lạc Tây phương trong đó chỉ có toàn những vị Bồ
tát thuần thiện, thuần lương.
Thoạt nhìn bề ngoài chúng ta
không khỏi có cảm tưởng cho phương pháp niệm Phật và quán tưởng Phật
đượm mầu sắc dị đoan, thần bí, nhưng nhìn kỹ, xét sâu ta thấy phương
pháp này hợp với lý Y tha khởi và Viên thành thực tính của Duy Thức học.
Bởi vì tâm niệm Phật là nhân lành, nguyện lực của Phật a Di Đà và nỗ lực
niệm Phật của người tu là Tăng thượng duyên, cảnh giới Cực lạc hay tâm
chân như thanh tịnh là quả. Đó là thế giới mà chúng ta góp phần xây dựng
tạo thành. Nhân sao quả vậy. Không có Chính báo và Y báo nào tốt đẹp
bằng Chính báo và Y báo ở cõi Tây phương Tịnh độ của Phật A Di Đà mà
Phật tử hàng ngày thường quán tưởng và mong cầu về đó. Khi dùng phương
pháp quán niệm thì hành giả thanh tịnh hoá được ba căn thân, khẩu, ý và
dùng Sự để hiển Lý, tiến tới Lý Sự viên dung, hay tâm cảnh nhất như Bất
Nhị. Bởi vì A lại da thức và những chủng tử nằm trong đó đều có năng lực
phát sinh ra các hiện tượng tâm lý và vật lý, và chủng tử lại là nguồn
gốc của mọi hiện hành theo luật nhân quả cho nên khi niệm Phật thì hành
giả gieo vào tạng thức của mình những hạt giống Phật, được huân sinh
huân trưởng tại đó, để đợi thời cơ thuận tiện phát khởi. Mỗi chúng sinh
có một A lại da thức riêng nằm trong khối A lại da thức chung của toàn
thể. Không có một A lại da thức nào tồn tại độc lập và biệt lập cả. A
lại da thức nào hiện hữu là nhờ sự có mặt của A lại da thức kia, trong
mối tương quan, tương duyên trùng điệp chỉ khi nào A lại da thức của một
cá nhân trở thành vô cấu, do công phu tinh luyện lâu ngày để trở thành
thật trong sạch, thì mới tách rời khỏi khối A lại da thức chung của cộng
đồng chưa giác ngộ để nhập vào bản thể sáng suốt thanh tịnh của vũ trụ,
hay nhập vào bản thể Chân Như Pháp giới. Nói khác đi, thì chừng nào công
phu tu luyện niệm Phật của hành giả đã chín mùi thì người đó nhập vào
Pháp giới tính, hay thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà và được chung sống
trong Cộng nghiệp tốt lành của các bậc Hiền, Thánh. Trái lại, nếu công
phu niệm Phật còn non thì các chủng tử Phật của người đó gieo mà chưa đủ
điều kiện để hiện hành, sẽ rơi vào khối A lại da thức chung, trong đó có
đủ thứ chủng tử thiện lẫn ác và tiềm phục tại đây. Tuy còn ở trong trạng
thái chủng tử chưa hiện hành nhưng tất cả những chủng tử này vẫn tiếp
tục chuyển biến không ngừng dưới hình thức được nhận định là bản thân
của Cộng nghiệp.
Duy Thức học chủ trương rằng :
sinh mệnh và môi trường đó chúng sinh hoạt động (hay Chính báo và Y báo)
do cả hai loại A lại da thức riêng của cá nhân, và của chung toàn thể
cộng đồng tạo thành. Đó là thuyết Cộng biến và Tự biến, hoàn cảnh sinh
sống của cá nhân là Tự biến, và hoạt động của cộng đồng là Cộng biến.
Then chốt của sự tạo thành một thế giới chính là nghiệp lực hay nghiệp
cảm Duyên khởi. Thấu hiểu được tác dụng của Cộng biến và Tự biến của dị
thục, ta mới thấy sự kiến tạo thế giới Cực lạc cũng như sự tạo lập một
cõi Bồng lai hay Tịnh độ nơi hạ giới này là hợp lý, nhờ đó mà phá tan
được mọi nghi ngờ về “nan tín chi pháp”. Vũ trụ quan của Phật giáo dựa
trên thuyết “Duyên sinh Cộng nghiệp” hay “Trùng trung duyên khởi” ở vào
thế động, rất phù hợp với tư tưởng tiến bộ và quyền bình đẳng, tự do của
con người, không phân biệt mầu da sắc tộc, có thể dùng làm nền tảng để
thực hiện lý tưởng hoà bình và đại đoàn kết của nhân loại trên toàn hành
tinh này. Trên một quy mô nhỏ hẹp hơn thì một quốc gia lấy tín ngưỡng vũ
trụ quan Duyên sinh cộng nghiệp làm điểm tựa, có thể đạt được một sự
đoàn kết quốc gia sâu rộng giữa toàn dân trong nước, không phân biệt
sang hèn, giàu nghèo và có thể tạo lập được một nền văn minh nhân bản,
hướng thiện, làm cho xã hội đó sớm trở nên hùng tráng, ấm no, hạnh phúc,
bởi vì theo lý Duy Thức thì các hiện tượng sinh diệt từng sát na, hiện
hành trở về chủng tử, chủng tử trở thành hiện hành, nương nhau mà huân
sinh, huân trưởng, biến đổi theo luật tương quan, tương duyên, cho nên
việc niệm Phật thường xuyên là cố để cho những mầm giống Phật hiện hành
trong tâm của hành giả. Niệm Phật mà đạt tới điểm cao nhất, tới giai
đoạn nhất tâm bất loạn thì quả Phật sẽ thành. Do đó mà khi ta thấu hiểu
được lý nhân quả hay lý Y tha khởi của Duy Thức, ta không còn dám coi
thường việc niệm Phật cầu vãng sinh và sẽ nhận thấy pháp môn Tịnh độ
thật là tuyệt diệu.
* Tịnh độ tông gần với Duy
thức tông bởi vì cả hai tông này đều cùng chủ trương tùng Tướng nhập
Tánh. Tịnh độ tông dùng phương pháp niệm Phật để đi tới “Niệm - Vô niệm,
Vô niệm - Niệm” mà ngộ được Chân Tâm, tức là gián tiếp đạt đạo quả bằng
cách gieo mãi chủng tử Phật vào tiềm thức của hành giả, cũng như Duy
Thức tông phải dùng Thức để truyền Thức, mượn ngôn ngữ hình danh để
truyền đạo mà nhập vào Duy Thức tính, như vẽ hình con chim trên giấy tờ
để lưu bóng con chim đang bay. Không như Thiền tông dùng Tâm truyền Tâm
để ngộ đạo một cách trực tiếp, chỉ thẳng vào Tâm để trực ngộ Chân Tâm,
không phải nhờ trung gian bất cứ một sự vật gì cả, cũng như chỉ thẳng
vào con chim đang bay trên hư không mà chẳng phải mượn bút vẽ để lưu
bóng con chim trên tờ giấy. Phương pháp của Duy thức là phân tích vạn
vật thành 100 pháp để nhận thấy rõ vạn vật đều là nhân duyên giả sinh
giả hợp, không có thực thể cố định. Đây là tướng Không, và khi đã đi tới
chỗ rốt ráo thì cúng tới Chân Không, đồng một Thể tính với Tính Không
của Thiền vậy. Cũng như người tu Tịnh nghiệp mà được vãng sinh Tịnh độ
là được về nơi để luyện cho tâm trở về với Chân Như Pháp giới, kết quả
không khác gì nhau. Tuy trên nguyên tắc Thiền tuyên bố bất lập văn tự
giáo ngoại biệt truyền, nhưng trên thực tế Thiền vẫn phải dùng ngôn ngữ,
văn tự làm phương tiện để khai tâm, dẫn đến chỗ ngộ nhập Thực tại vô
ngôn, vô niệm. Du chưa nhờ Duy thức mà được chứng ngộ, nhưng người học
Duy thức ngày nay có thể dùng sở học của mình về môn học này để làm cơ
sở cho một đức tin vững vàng và lành mạnh để thực hành pháp môn Tịnh độ,
và như vậy thì việc niệm Phật A Di Đà trở thành phần thực hành, còn phần
lý thuyết lại do pháp môn Duy Thức soi sáng. Bởi vậy một học giả đã nói
một câu rất có lý : “Học Phật ngày nay nên nghiên cứu về pháp môn Duy
Thức vì nó phù hợp với khoa học thực nghiệm đương thời, còn phần thực
hành thì nên theo pháp môn Tịnh độ”.
CHƯƠNG 11
NHẬN ĐỊNH
VỀ THA LỰC VÀ TỰ LỰC
Vấn đề Tha lực và Tự lực xưa
nay vẫn được nhiều người tranh luận sôi nổi.
Đứng trước sức mạnh cuồng bạo
của thiên nhiên, loài người tự cảm thấy mình nhỏ nhoi yếu đuối, sợ bị
tiêu diệt, nên mới phải thần phục sức mạnh của tạo hoá và dựa vào Tha
lực để an tâm lập mệnh. Đó là căn bản của bản năng sinh tồn mang nặng
tính chất ỷ lại và vô minh, ngã si và vị kỷ. Nhưng mặt khác, trong con
người biết suy nghĩ, lại có sức mạnh tinh thần quật khởi, có ý chí khát
khao tự do muốn vươn lên để đòi hỏi con người phải ức chế dục vọng để tự
cứu mình thoát khỏi sự chế ngự của thiên nhiên nhất là ngày nay khoa học
đã tiếp tay giúp loài người đoạt quyền tạo hoá trong nhiều lãnh vực, thì
loài người đã cảm thấy rằng mình đã nhiều phen thoát khỏi sự chế ngự của
thiên nhiên.
Giữa hai lập trường trái ngược
đó, hoặc là ỷ lại vào tha lực, thường thường là một đấng Thần linh cao
cả, ban phúc giáng hoạ cho con người, giao phó tính mệnh của mình vào
tay con tạo xoay vần, không còn tin ở tài sức của mình nữa, hoặc là chỉ
dựa vào Tự lực vùng lên với tinh thần dũng mãnh để tự giải thoát, không
cầu mong ở bất cứ ai. Còn một khuynh hướng thứ ba là dung hoà cả hai
phái trên, đi theo con đường “Thần, Nhân hợp tác” hay “Tự tha đồng hiệp
lực” (Synergisme). Trong Phật giáo Đại thừa, vấn đề Tha lực và Tự lực đã
từng được nhiều nhà bình luận cổ kim tranh biện, làm nổi bật hai luồng
tư tưởng khác nhau :
1.- Một đường thì thừa nhận
chúng sinh nào cũng có Phật tính và khả năng thành Phật, do đó phải tìm
cách phát huy năng lực sẵn có của mình : đó là lập trường của phái Thiền
tông chủ trương “trực chỉ nhân tâm kiến tính thành Phật”, quy Tự lực vào
một mối nhằm đạt tới Phật tính chân tâm của mình.
2.- Một đường thì tin rằng :
Các vị Bồ tát đã sẵn có lòng từ bi và lập nguyện sâu dày cứu độ chúng
sinh, nếu chưa độ tận chúng sinh thoát vòng khổ đau sinh tử, thì các
Ngài quyết không thành Phật, cho nên chẳng ai lại dại mà không cầu Phật
cùng các Bồ tát có thần lực hơn hẳn mình cứu giúp để được giải thoát :
đó là lập trường của phái Tịnh độ tông và Chân ngôn tông, quy về nguyện
lực của chư Phật và Thánh hiền.
Lập trường của Thiền tông là
chỉ trông cậy vào chính mình. Khắc phục tự tâm để tiến tới giác ngộ,
giải thoát. Những người tu Thiền phải là bậc thượng căn, hội đủ năm điều
kiện thiết yếu sau đây mới mong đạt tới Thánh quả :
1.- Giữ giới trang nghiêm.
2.- Căn cơ bén nhọn.
3.- Thông hiểu giáo lý và phân
biệt rành rẽ chân vọng, chánh tà.
4.- Có ý chí cương quyết tiến
tới mục đích đã định, không chịu lùi bước trước mọi chướng ngại trên
đường tu.
5.- Ngoài ra còn phải nương
cậy vào một bậc Thiền sư dẫn đạo cho mình, tức là vẫn phải đi theo con
đường “Tự, Tha đồng hiệp lực”. Tuy phần lớn nhờ vào ý chí sắt đá của
mình để quyết định công phu tu tập, nhưng muốn chứng ngộ thì Thiền sinh
phải tuỳ thuộc vào một yếu tố then chốt gọi là “Thời tiết nhân duyên bất
khả tư nghị”, nghĩa là dù hành giả có nỗ lực tới đâu mà “thời tiết nhân
duyên” chưa tới thì vẫn chưa thể chứng ngộ được. Bởi vì sự chứng ngộ là
trạng thái bộc phát bất thần, cũng như hòn than hồng phải được thổi hay
quạt vào để cho sức nóng của nó gia tăng tới mức độ cao tột, mới mong
bốc thành ngọn lửa được. Có thể nói đó là một loại “Thần Khải”
(Révélation). Sự bộc phát bất thần ấy tức là sự “hốt nhiên khai ngộ” mà
người Nhật Bản gọi là Satori, là giây phút thần diệu, thiêng liêng xảy
ra trong trường hợp đặc biệt mà người tu coi là một sự kiện mặc nhiên
khai ngộ, siêu việt mọi suy tư, ngôn ngữ. Giây phút thần diệu thiêng
liêng ấy chỉ đến với Thiền sinh vào lúc hành giả ở trong Đại Định hay
Quán tưởng chín mùi, và chỉ riêng người chứng ngộ ấy tự biết mà thôi,
cũng ví như người uống nước trà mới thưởng thức mùi vị đậm nhạt, thơm
ngon và nóng lạnh của chén trà mình vừa mới uống. Như trên đã nói : tuy
sự hốt nhiên khai ngộ là kết quả chủ yếu của công phu tu luyện bền gan
lâu dài của hành giả, nhưng dù cho khắc phục, gian nan khổ luyện tới mức
nào cũng vẫn chưa đủ, mà còn phải đợi “thời tiết nhân duyên” bất khả tư
nghị kia tới với mình mới thành tựu được việc lớn hằng ước mong. Bởi thế
cái “thời tiết nhân duyên” ấy đóng một vai trò quan trọng đặc biệt trong
sự thành công của hành giả. Câu nói : “Hữu cầu tất ứng, hữu cảm tất
thông” thường được dùng đến có nghĩa là Thiền sinh phải đợi tới lúc
thời tiết nhân duyên đến với mình. Và câu “Thôi trác đồng thời”
nghĩa là tình trạng quả trứng khi sắp nở, chim con trong quả trứng thôi
thúc muốn thoát ra ngoài hì ngay lúc đó chim mẹ phải mổ vào vỏ trứng,
làm cho cái vỏ đó rạn nứt mới giúp cho chú chim con phá được vỏ trứng
vây bọc nó mà chui ra ngoài. Cảnh chứng ngộ của Thiền sinh cũng vậy,
phải do nỗ lực song phương của hành giả phối hợp với Tha lực là thời
tiết nhân duyên, trong ngoài nhất trí mới mong đạt tới giây phút thiêng
liêng của sự Đại Ngộ. Như vậy thì Tự lực vẫn cần phải có Tha lực, nhưng
ở vào mức độ có giới hạn, không ỷ lại quá đáng vào Tha lực mà thôi.
Xét về chủ nghĩa Tha lực,
nghĩa là không tin ở tài sức của mình mà chỉ trông cậy vào sự giúp đỡ
của một thế lực ngoại lai, thường là một đấng thiêng liêng nào đó, nhưng
nếu không diệt được Tự ngã, tức là không từ khước được ý chí tự kỷ một
cách triệt để thì không thể hướng vào tuyệt đối được. Cũng ví như người
đi biển gặp nạn đắm thuyền, cố bám vào một mảnh ván trôi lênh đênh giữa
biển khơi trong cơn giông tố, nghĩa là ở trong cảnh tuyệt vọng tột đỉnh
chờ chết, không còn tin vào sức mình để được cứu thoát nữa, nếu không
thiết tha mong cầu Thần lực của Thượng đế thì khó lòng thoát khỏi thuỷ
tai. Muốn được cứu thoát tất phải nỗ lực xả kỷ và tinh tấn cầu nguyện
lực của Phật để được giải thoát mà không tin tấn diệt trừ vọng niệm,
cùng những nết xấu tật hư, chỉ niệm Phật suông mà thôi, trong khi vẫn
buông thả cho lục dục, thất tình của mình làm càn thì tất nhiên không
thể đạt được nguyện vọng. Cũng ví như người sắp chết đuối, chỉ còn cái
phao để bám vào, nếu không biết giữ gìn cái phao cho tốt, lại còn phạm
lỗi huỷ hoại cái phao đó thì Tha lực cũng khó hòng cứu nổi. Cuối cùng
chúng ta đi đến kết luận : Tự lực vẫn phải nhờ vào Tha lực, và trong Tha
lực vẫn có Tự lực hàm chứa. Tha lực với Tự lực chẳng qua chỉ là sự bất
đồng trên mặt danh từ mà thôi, chứ thực chất thì không có sự phân khu
biệt gì trong vấn đề đó cả. Trong Tự có Tha, trong Tha có Tự, chỉ vì câu
nệ danh ngôn nên mới bày đặt ra Tự và Tha mà thôi. Cả hai đường lối Sự
trì danh và Lý trì danh hiệu Phật A Di Đà đều đòi hỏi phải có sự nỗ lực
quyết tâm vượt bậc vững tin ở tài sức của mình. Và cũng tin cậy vào cả
nguyện lực của chư Phật gia hộ nữa. Có Tự lực dũng mãnh lại thêm được
Tha lực gia hộ thì Tự lực ấy càng vững mạnh, tăng lên gấp bội và trở
thành một sức mạnh vô biên, muốn gì chẳng được ? Như vậy thì bất luận
dựa vào Tha lực hay Tự lực danh từ tuy khác nhau, song đều đưa tới kết
quả là diệt trừ được phiền não, nhiễm ô, được giác ngộ, giải thoát, và
chung cuộc, nếu dựa vào Tha lực lấy việc niệm danh hiệu Phật làm nhân,
sẽ được hái quả Vãng sinh Tịnh độ, nghĩa là có Định thì có Tuệ, do đó
mới nói rằng : Vãng sinh Tịnh độ tức là thành Phật hay là trở về với
Chân Tâm, Phật tính của mình.
CHƯƠNG 12
PHƯƠNG PHÁP TU ĐỂ ĐƯỢC VÃNG
SINH CỰC LẠC QUỐC HAY TRỞ VỀ VỚI CHÂN TÂM BẢN TÍNH CỦA MÌNH.
* Pháp môn Tịnh độ có bốn lối
trì danh gọi là Tứ Hạnh, tuỳ căn cơ sở thích của người tu lựa chọn.
1. Niệm danh hiệu Phật A Di Đà
(không cần tụng kinh trì chú hay quán tưởng của Tịnh độ tông thuần tuý).
2. Niệm Phật A Di Đà kiêm tham
Thiền, quán tưởng Phật cùng cảnh Cực lạc Tây phương của Thiền Tịnh song
tu.
3. Niệm Phật A Di Đà (là
chính) và tụng kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kim Cương, Pháp
Hoa, Hoa Nghiêm, hoặc các phẩm Phổ Môn, Phổ Hiền hạnh nguyện (là phụ)
của Giáo Tịnh song tu.
4. Niệm Phật A Di Đà (là
chính) và Trì Chú Đại Bi, Vãng sinh, Chuẩn Đề, Lục Tự Đại Minh chân ngôn
(là phụ) của Mật Tịnh song tu.
Dưới đây tôi chỉ xin đề cập
đến hai lối tu Niệm Phật thuần tuý và Thiền Tịnh song tu mà thôi. Căn
bản của pháp môn Tịnh độ để được Vãng sinh Cực lạc quốc, hay được trở về
với Chân Tâm, bản tính của mình dựa trên phương pháp niệm hồng danh Phật
A Di Đà và quán tưởng Phật với cõi Cực lạc Tây phương tới mức nhất tâm
bất loạn.
Phật dạy : “Muốn được tiếp dẫn
về miền Cực lạc phải niệm danh hiệu Phật A Di Đà từ 1 đến 7 ngày lên
tiếp và luôn luôn tưởng nhớ tới Phật A Di Đà. Phật thương chúng sinh như
mẹ hiền thương con thơ dại, nếu con không nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì
lòng mẹ nhớ thương con cũng thành vô ích. Với lòng đại bi, Phật thương
nhớ chúng sinh, nhưng chúng sinh cũng phải nhớ tưởng tới Phật A Di Đà và
mong cầu tha thiết được về quốc độ của Ngài, như hai mẹ con xa nhau lâu
ngày cùng mong được tái ngộ. Đạo cảm ứng giao thông mới tạo được mối
giao cảm, bằng không thì khó có được sự tiếp dẫn mầu nhiệm. Để đạt tới
sự cảm thông ấy, thì người tu Tịnh độ, ngoài việc niệm danh hiệu Phật,
còn cần phải tưởng nhớ tới Phật cho nên trong pháp môn Tịnh độ, ngoài
lối trì danh hiệu Phật theo Sự Tướng, người tu còn quán tưởng Phật và
cõi Tịnh độ Tây phương theo Lý trì danh hay lối Thiền Tịnh song tu.
* Trong đạo Phật, Thiền tông
hướng về Trí, còn Tịnh độ tông lại hướng về Bi. Trí mà thiếu Bi thì cái
Trí ấy khô cạn. Bi mà thiếu Trí là cái Bi mù quáng. Trong cuộc sống phải
có đủ cả Trí lẫn Bi, dung hợp hài hoà, với mong tạo được hạnh phúc và
giải thoát cho toàn thể sinh linh. Vì thế mà Thiền Tịnh song tu được coi
là phương pháp lý tưởng của người tu để đạt tới đích : “Thượng cầu Bồ
đề, hạ hoá chúng sinh” bằng con đường Lục độ và Tứ Vô lượng tâm của đạo
Bồ tát.
Để ca tụng đường lối của Thiền
Tịnh song tu, Tổ Vĩnh Minh Diên Thọ của Liên Tông có bài kệ như sau :
Không Thiền tông, có Tịnh độ,
Vạn người tu, vạn người đỗ.
Thấy được Phật A Di Đà
Còn lo gì chẳng khai ngộ ?
Có Thiền tông, khôngTịnh
độ,
Mười người tu, chín ngại khó.
Đến khi ấm cảnh bày ra
Nhắm mắt lại, nghiệp liền thọ.
Không Thiền tông, không
Tịnh độ,
Chịu giường sắt, cột đồng đỏ.
Tu muôn kiếp với ngàn đời
Chẳng tìm được nơi nương tựa.
Có Thiền tông, có Tịnh độ,
Như thêm sừng cho mãnh hổ.
Đời hiện tại làm thầy người
Kiếp vị lai làm Phật Tổ.
Mục 7 : Phương pháp tu của
phái Tịnh độ thuần tuý.
*
Niệm Phật thì Tâm được tĩnh lặng, buông
xả mọi tạp tưởng, cũng như ly nước đục, muốn cho trong cần để yên lặng
cho cặn nhơ từ từ lắng xuống. Trong khi niệm thì danh hiệu Phật phát
xuất từ tâm thành tiếng ở miệng, tai nghe, tiếng lại trở về tâm. Tâm
tưởng, miệng niệm, tiếng đậu ở tai, rồi lại trở về tâm phát xuất, cứ
tuần tự diễn biến như thế, thì mọi tạp niệm đều chấm dứt. Muốn đạt tới
cảnh “nhất tâm bất loạn” thì không có cách nào mới lạ cả chỉ cần một
lòng tin kiên cố, rồi tập trung tâm lực toàn diện vào việc niệm danh
hiệu Phật. Phải niệm sao cho tiếng niệm nọ tiếp nối với tiếng niệm kia
không có kẻ hở. Việc tập trung tâm thức vào câu niệm Phật làm cho danh
hiệu Phật trở thành một loại Thần chú (Dharani) có năng lực đưa hành giả
tới điểm nhất tâm. Với niệm Phật chỉ cần một cái tâm chất phác, đơn
thuần. Tin sâu, Nguyện thiết và Hành trì tinh tấn là đủ. Lâu ngày niệm
lực càng mạnh sẽ tới được điểm nhất tâm bất loạn. đó là trạng thái ly
Không Thời gian, xả bỏ tri thức một cách tuyệt đối, khiến không còn thụ
cảm ký ức, khái niệm về thiện ác, sướng khổ, có không, Niết bàn, địa
ngục, giác ngộ, mê mờ… gì cả. Lúc đó thì tâm dứt bỏ được vọng tưởng trở
thành vô tâm, và thực hiện được cái Tâm hư, Vô trụ, Vô đắc, Vô cầu, Vô
công, Vô danh…
* Khi còn sơ cơ, hành giả cần
phải dùng xâu chuỗi và niệm thành tiếng rõ ràng, và ấn định thời khoá
biểu hàng ngày để nhớ rõ câu niệm, lấy đó làm tiêu chuẩn, tiếp lên mãi
mãi. Hành trì như vậy một thời gian cho quen, lâu ngày niệm lực thuần
thục, hoá thành cảnh niệm mà không niệm, không niệm mà vẫn niệm. Tới
được thói quen đó rồi thì không cần ghi số câu niệm cũng được và như thế
thì lúc nào tâm cũng ở trong chính niệm, các vọng niệm không còn quấy
phá mình nữa. Tâm lúc đó ở vào trạng thái “nhất niệm tam muội” hay “nhất
tâm bất loạn”. Nếu lúc đầu đã vội đốt giai đoạn, không chịu qua cầu
trước tướng, đòi được viên dung tự tại ngay trong khi vọng thức còn
đương sôi nổi thì làm sao có được chính niệm ? Muốn đạt tới “nhất tâm
bất loạn” bằng phương pháp trì danh hiệu Phật có thể niệm rõ ràng thành
tiếng hay niệm thầm trong bụng bốn chữ A Di Đà Phật, hoặc thêm hai chữ
“Nam mô” thành sáu chữ. Trì bốn chữ có lợi là dễ nhập tâm và niệm được
nhiều câu. Trì sáu chữ có lợi là phát tâm thành kính và cảm ứng đạo giao
dễ thành tựu. Có người chủ trương nên dùng tâm niệm thay cho khẩu niệm
vì niệm lâu dễ mỏi. Không ai có thể niệm thành tiếng suốt đêm ngày dù
chỉ là niệm nhỏ tiếng. Bởi vậy, nếu không niệm to tiếng để buộc tâm viên
ý mã không cho nó được tự do rong ruổi trong buổi sơ cơ thì dùng lối Tâm
niệm quả là dễ đạt tới điểm nhất tâm bất loạn, bởi lẽ với Tâm niệm, hành
giả nhiếp được tâm trong chính niệm. Niệm niệm Phật không dứt thì xua
đuổi được tạp niệm, dễ đạt tới Niệm - Vô niệm, Vô niệm - Niệm, tức là
luôn luôn ở trong chính niệm vậy.
* Niệm Phật theo sự Tướng (hay
Tịnh độ thuần tuý) chủ trương dựa vào niềm tin hơn là luận giả. Tín là
chính yếu và Nguyện là phụ thuộc. Trên thực tế, đối với người sơ cơ cần
phải có Nguyện và Hành để bồi đắp cho đức Tin thêm vững bền. Tin là
nguyên lý của trường phái Tịnh độ tông và Mật tông và cũng là lập trường
của Tổ Từ Mẫn Tuệ Nhật của Liên tông đời Đường bên Trung Quốc. Có vững
tin mới đưa tới trạng thái nhất tâm bất loạn và như thế thì mới đạt tới
kết quả của công phu niệm Phật như sau :
Xét ra niệm Phật dễ mà không.
Khẩu ý buông lung giữ chẳng đồng.
Miệng niệm Di Đà, tâm tán loạn.
Dù cho khán cổ vẫn hoài công.
* Niệm Phật chân chính phải là
niệm với tinh thần “tam luân không tịch” nghĩa là không còn năng và sở
niệm, nhân và quả niêm, Ngã và Pháp niệm nữa.
* Để thức tỉnh những ai niệm
Phật đừng rơi vào vọng niệm, và có được tinh thần “tam luân không tịch”
nói trên, chư Tổ đã dùng câu thoại đầu : “Người niệm Phật là ai ?”
làm cho hành giả phải giật mình tỉnh ngộ và thốt lên rằng : “Ủa ! Không
phải là tôi niệm, mà là ma chướng nào đã nhập vào tôi để niệm rồi !” .
Bấy lâu nay mình vẫn chủ trương diệt Ngã và biết rõ là không có người
niệm (Vô ngã) sao nay lại còn mê muội chấp là có người niệm ? Bởi vì cái
mớ ngũ uẩn và phương tiện để tu hành đều do nhân duyên gọi là kết tụ mà
thành, đâu phải là thật có bền lâu không hề biến đổi ? Cái Tôi
chân chính (Chân ngã) vốn xưa nay bất động không hề niệm, vậy thì ai
niệm đây ? “Người niệm” là ai ? và ai sẽ được về Tây phương Cực
lạc ? Xét cho kỹ, nghĩ cho cùng thì chính cái Giả ngã hay cái nhóm ngũ
uẩn giả hợp nó vọng niệm, chứ đâu phải là Tôi hay cái Chân ngã
niệm ? Niệm tức là động, động thì tức quai, không còn là chân nữa.
Nói cách khác thì chính cái “Tác ý” phát minh ra nguyện lực thiết
tha mong cầu được về Tây phương Cực lạc đã kết duyên với Tín Tâm tạo
thành động lực thúc đẩy làm công việc niệm Phật, lại nhờ những trợ duyên
là Tinh tiến, Tự lực và Tha lực tạo thành cái nhân duyên hay
người niệm, đưa tới trạng thái thanh tịnh của tâm là cái quả
hay kẻ thụ hưởng cảnh vui Niết bàn. Ngoài Tác ý và Thọ
là hai yếu tố tinh thần trong nhóm năm Tâm Sở biến hành (là Tác ý, Xúc,
Thọ, Tưởng, Tư) hoặc Thức và Thọ là hai yếu tố tinh thần trong nhóm ngũ
uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) một gây nhân, một hưởng quả, ngoài ra
không tìm thấy bóng dáng người niệm Phật và kẻ được về Cực lạc Tây
phương. Hai yếu tố đó chỉ là những huyễn ảnh do tâm con người tạo ra mà
thôi. Sở dĩ phải có những cái huyễn đó thì mới đạt được tới cảnh giới
Niết bàn Tịnh độ, hay trở về với chân tâm bản tính của mình vốn là Tâm
Phật. Song những thứ này vẫn là những huyễn pháp ở bậc cao hơn mà thôi ;
bởi vì không có thực pháp nào làm nhân để tu hành, cũng không có thực
pháp nào làm quả để chứng ngộ cả, chỉ vì chúng sinh đã có sẵn đầy đủ
trong tâm mình hạt giống Bồ đề từ vô thuỷ. Ta với Phật đếu có giác tính
như nhau.
Ta chỉ khác Phật ở chỗ cam tâm
sống mãi trong mê mờ tối tăm mà không chịu thắp sáng ngọn đèn lòng hay
tri kiến của mình để nhìn thấy chân lý mà thôi. Người ngộ đạo phải niệm
Phật với tinh thần phá ngã, phá pháp, triệt để như vậy mới đúng với câu
: “Tu như huyễn pháp, hành như huyễn sự”.
* Cũng như cống án Thiền : “Ai
là người niệm Phật” thì chữ Ai (chỉ vọng ngã, vọng thức hay chúng
sinh khi còn mê) tức Tác ý hay Thức là nhân để tu
hành, và chữ Phật (chỉ Chân Tâm, Chân Ngã hay chúng sinh khi đã
giác ngộ) là Thọ hay Quả của công việc tu hành. Từ mê đến
ngộ là quãng đường hành trì để phá vô minh vọng thức, triệt để phá chấp
ngã và chấp pháp, để mong chứng được “đệ nhất nghĩa Không” hay thấy được
Chân Tâm, Phật tính của mình. Khi còn là chúng sinh mê muội thì Ai
niệm Phật chưa phải là Phật. Lúc đã ngộ rồi thì Ai tức Phật,
và Phật tức Ai. Nếu còn phân biệt Ai và Phật là hai đối tượng
năng sở, chủ khách, nhân quả, khác nhau thì còn chưa hiểu được lẽ “Tức
Tâm tức Phật”, “Chúng sinh tức Phật, phiền não tức Bồ đề”, “Ta bà tức
Phật độ” và “Phật vốn là tâm luống phải tầm”, và như vậy là còn giữ
nguyên ranh giới giữa Tâm và Cảnh, Kiến phần và Tướng phần, chưa thực sự
diệt được Ngã và Pháp, chưa thực hiện được cái lý “Tương tức, Tương
nhập”, “trùng trùng duyên khởi”, hay cái “lý Bất Nhị”, “Chân Không Diệu
Hữu”, và “Sự Sự nhất thiết vô ngại”.
Sau đây là bài thơ để hiển bày
cái lý thâm sâu đó :
Đừng tìm Cực lạc với Di Đà.
Tịnh độ, Ta bà vốn ở ta.
Giác tính không phân chia cao thấp.
Hương trầm chẳng ngại toả gần xa.
Trăng Thu sáng tỏ trời cao rộng.
Gió Hạ giải nồng khắp mọi nhà.
Tịnh, nhiễm xưa nay đồng một thể
Giác, mê vốn dĩ chẳng hai mà.
Trên căn bản thì tâm bất động.
Động là hiện tượng khách trần. Do một niệm khởi mà chân tâm vốn bất
động, bỗng trở thành Vọng thức, sinh ra đủ thứ quả báo tốt xấu. Mọi niệm
tưởng đều nằm trong không gian và thời gian, cho nên khi nào vượt được
ra ngoài khuôn khổ của Không - thời gian, giới hạn tự do của con người
mới được giải thoát và thấy được Chân Tâm là một phương pháp thần diệu
để phá không gian và thời gian, diệt trừ vọng niệm đã buộc chặt con
người vào khuôn khổ chật hẹp đó, vì khi niệm Phật tới giai đoạn “nhất
tâm bất loạn” thì ta quên cả Phương lẫn Thời, quên mọi sự vật, bặt mọi
tư duy, phá được ngã lẫn pháp để chỉ còn nhớ là mình đang ở trong chính
niệm, hay ở trạng thái chánh định của chân tâm. Niệm Phật tam muội hay
Bảo vương tam muội thì diệt được vô lượng tội chướng và chúng sinh tính,
tăng trưởng được vô biên phúc tuệ và vô lượng công đức.
* Trong khi niệm Phật, đối với
người sơ cơ, vọng tưởng thi nhau đến quấy phá. Lúc đó phải niệm Phật
thành tiếng rõ ràng và dùng xâu chuỗi để đếm số câu niệm Phật cho khỏi
quên cốt để buộc chặt tâm mình lại cho nó khỏi rong ruổi, cũng như kẻ
chăn bò phải dùng đoạn dây thừng xỏ mũi bò mới điều khiển nổi con vật
còn hung hăng. Cũng có thể chẳng cần quan tâm để ý đến những vọng niệm,
coi chúng như khách vãng lai đến rồi đi, còn cái tâm chủ nhà thì vẫn ở
lại để coi nhà. Lối nào cũng chỉ nhắm vào mục tiêu đưa tới định tâm và
khi đã niệm quen rồi thì dùng lối tâm niệm, thay cho khẩu niệm là tốt
hơn hết.
Phương pháp niệm Phật có nhiều
lối :
1.- Phản văn trì danh
là lối miệng niệm, tai nghe, tâm điều khiển từng tiếng và bắt kịp những
tưởng đó. Tư tưởng và âm thanh dung hợp nhau. Cách niệm này khiến hành
giả dễ gạn lọc được vọng niệm và mau đạt được tâm thanh tịnh.
2.- Sổ châu trì danh
là lối miệng niệm Phật, tay lần tràng hạt. Với lối này, niệm lực được
mạnh nhờ sự phù trợ của xâu chuỗi, cũng ví như người leo núi, lúc đầu
chưa quen, phải dùng cây gậy để chống đỡ thì leo dốc mới dễ dàng, đỡ mỏi
và khỏi trượt chân. Với cách này thì tiếng niệm phải rõ ràng và nhớ rõ
số câu niệm của mỗi thời, tiến lên mãi mãi, nhờ vậy mà chữa được bệnh
giải đãi, đạt tới định tâm. Niệm như vậy lâu ngày thành thói quen sau
không cần ghi số câu niệm mà tâm lúc nào cũng ở trong chính niệm.
3.- Ký thập trì danh
là niệm mà đếm số câu, cứ 10 niệm là
một đơn vị, lại lần một hạt ở xâu chuỗi. Với lối này phải nhớ số câu
niệm, nếu không sẽ đếm sai và như vậy thì tâm chưa định. Phương pháp này
buộc hành giả phải chuyên tâm vào công phu niệm Phật, kết quả tốt cho
người mang tâm vọng động.
4.- Tuỳ tức trì danh
là niệm thầm không ra tiếng, lúc niệm nương vào hơi thở, mỗi hơi thở,
không cứ được bao nhiêu câu cũng coi là một niệm, và khi đếm mười hơi
thở thì gọi là Thập niệm. Cách niệm này do Từ Vân Đại sư chế ra, căn cứ
vào Kinh Quán Vô Lượng Thọ để giúp những người đa đoan công việc, với
dụng ý dùng hơi thở để nhiếp tâm. Đủ 10 hơi thở hay 10 niệm là làm tròn
công phu một buổi niệm Phật, rất tiện cho những người bận công việc mà
vẫn nhiếp được tâm bằng lối niệm Phật.
5.- Truy đỉnh trì danh
là lối niệm Phật mà không để một kẻ hở, niệm nọ niệm kia tiếp nối nhau
như hạt mưa sa, nhờ vậy mà tâm của hành giả dễ định vì oai lực của câu
niệm buộc vọng niệm phải lắng xuống cho tâm trở nên thanh tịnh.
6.- Lễ bái trì danh
là lối vừa niệm vừa lễ Phật. Lễ Phật
nhẹ nhàng, chậm rãi, đúng oai nghi. Lời niệm phải rõ ràng, rành rẽ, đi
đôi với việc lễ bái. Trong khi đó thì ý cũng phải thành khẩn, thiết tha.
Ba căn thân, khẩu, ý phối hợp với nhau chặt chẽ và tập trung vào một
mối. Phương pháp này trị được bệnh hôn trầm nhưng chỉ những người cường
tráng, sức lực gân cốt có thừa mới áp dụng được bởi lẽ lễ lâu dễ mỏi,
người yếu sức khó lòng đương nổi.
7.- Kim cương trì danh
là lối niệm chỉ hơi động môi
đôi chút, niệm nhanh như cây truỳ bằng kim cương liên tiếp giáng xuống
như cái máy. Điểm quan trọng là dù niệm thầm nhưng vẫn không hề rối
loạn, lời niệm vẫn phải gắn bó với tâm niệm. Với lối này lâu ngày thành
thói quen, sức niệm càng mau, càng nhiều, sớm đạt tới điểm nhất tâm bất
loạn. Khi nào sức dồn chứa những chủng tử Phật đã nhiều thì bất cứ lúc
nào, dù thức hay ngủ, câu niệm Phật cũng từ tạng thức của hành giả hiện
hành phát ra. Để có thể niệm được nhiều câu và đỡ mỏi. Hoà Thượng Đào
Nguyên khuyên nên :
1. Ngồi mà niệm, trừ phi đau
yếu mệt mỏi quá phải nằm để niệm là điều bất đắc dĩ.
2. Niệm bốn chữ “A Di Đà Phật”
hay ba chữ “Nam mô Phật”, thay vì sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật” để niệm
được nhiều câu trong cùng một thời gian.
3. Dùng xâu chuỗi nhẹ, hạt vừa
phải.
4. Trong khi niệm phải gác bỏ
mọi việc trần gian ra ngoài để tâm khỏi tán loạn.
* Lục Tổ Huệ Năng nói :
Vô niệm, niệm mới chánh,
Hữu niệm, niệm thành tà.
Ta phải hiểu nghĩa chữ Vô niệm
ở đây như thế nào mới đúng ? Vô niệm tức là vô tà niệm, vô dục niệm, chứ
không phải là vô chính niệm. Trong khi niệm, hành giả không được tưởng
tới bất cứ điều gì ngoài Phật A Di Đà, và cõi Tây phương Cực lạc. Người
niệm phải luôn luôn nhớ tới Giác đức của Phật, tưởng tới 48 lời nguyện
của Ngài và suy xét tường tận ý nghĩa 10 danh hiệu Phật. Có hiểu tường
tận về Phật mới làm tăng trưởng đức tin của mình và quý trọng Ngài hơn,
đúng như câu nói của một nhà nghiên cứu về Phật giáo người nước Anh bình
luận về Đức Phật.
The more I know Him
The more I love Him
The more I love Him
The more I know Him
(Càng hiểu Phật, tôi càng kính
yêu Ngài, càng kính yêu Ngài, tôi càng hiểu rõ Ngài thêm).
* Người Phật tử tu tịnh
nghiệp, trong bốn oai nghi, lúc nào cũng ý thức được sáng suốt công việc
mình đang làm là niệm Phật không ngừng.
Tổ Hụê Năng nói : “Chẳng phải
Vô niệm là không niệm mà là thường xuyên lúc nào cũng niệm Phật với tâm
vô nhiễm và diệt hết các niệm tưởng đối đầu : Năng Sở, Có Không… đó gọi
là “Vô niệm”. Muôn niệm tan vào nơi không niệm, mà trong vô niệm, Niệm
hằng sa”. Tổ Huệ Năng lấy Vô niệm làm tôn chỉ vì Ngài cho rằng : Người
đời miệng nói Kiến tính mà vẫn vọng động thì Kiến tính sao được ? Có
giới dục, khử tà, thì tâm mới định hay ở trong chính niệm và như thế mới
Kiến tính được. Danh từ Vô sih hay Bất sinh cũng vậy, phải hiểu theo
nghĩa tương tự. Vô sinh nghĩa là chỉ cần sinh một lần chót, về thế giới
Cực lạc Tây phương nữa mà thôi, không cần phải đoạ lạc mãi trong sáu ngã
luân hồi nữa. Các hiện tượng tuy có sinh diệt, nhưng tướng sinh diệt đó
là giả. Các hiện tượng giả sinh, giả diệt nên gọi là Vô sinh, Vô diệt
hay Bất sinh, Bất diệt. Nếu cho rằng Vô niệm là Không niệm, Vô sinh là
Không sinh thì chẳng hoá ra lại rơi vào hư vô chủ nghĩa, và như vậy là
muốn tránh chấp Có lại lạc vào chấp Không sao ? Bởi vậy Lục Tổ Hụê Năng
lại phải bổ túc thêm hai câu nữa :
Có không đều chẳng tưởng
Mới ngự xa bạch ngưu.
Một vị cao tăng có để lại cho
hậu thế bài thơ dưới đây :
Có niệm, đồng không niệm
Không sinh tức là sinh,
Chẳng phải rời nửa bước
Thân tới Pháp vương thành
Thời nay hiếm thấy người tu
tịnh nghiệp mà có được tác phong niệm Phật đạt tới trình độ “Niệm - Vô
niệm, Vô niệm - Niệm” như các bậc thượng căn thuở xưa. Thời nay chỉ cần
tin sâu, nguyện thiết và tinh tấn niệm Phật đã là quý lắm rồi, vì nếu
tạo được thói quen siêng năng niệm Phật thì giờ phút lâm chung ta đã tạo
được cảnh thanh lương tự tại để được chung sống với các vị Hiền Thánh,
còn lo gì đến vấn đề Hữu niệm lẫn Vô niệm nữa ? Nếu chẳng biết lượng sức
mình mà cứ muốn đạt ngay tới điểm Vô niệm từ ban đầu rồi chẳng làm nổi,
lại sinh tâm phiền não, chán nản, thực đáng thương.
Mục 8 : Phương pháp niệm
Phật của phái Thiền Tịnh song tu.
Người theo phái Thiền Tịnh
song tu có nhiều lối quán tưởng đi đôi với việc trì danh hiệu Phật A Di
Đà, đại để như :
1.- Thực tướng niệm Phật
tức quán Pháp thân Phật A Di
Đà bao trùm cả hư không bao la, kết quả mau chứng được Chân Như thực
tướng hay Lý Chân Không Diệu Hữu, hoặc Chân Tâm thanh tịnh của mình.
Phương pháp này của Thiền tông nhưng đối tượng quán tưởng lại là Phật A
Di Đà nên cũng thuộc về tông Tịnh độ. Pháp quán này do các bậc thượng
căn sử dụng nên trong Tịnh độ thuần tuý hàng hạ căn ít khi dùng đến.
2.- Quán tưởng niệm Phật
là quán Chính bào và Y báo
tức quán thân mình và cuộc sống trong cảnh Cực lạc Tây phương. Phương
pháp này được Phật Thích Ca dạy trong kinh Quán Vô Lượng Thọ. Nếu quán
tưởng thành thục thì bất cứ lúc nào hành giả cũng thấy mình như được
sống trong thế giới Cực lạc, kinh hành dạo chơi cùng với các vị Đại Bồ
tát, được nghe các loài chim hót lên lời kinh tiếng kệ du dương, lại
được học hỏi chính pháp Đại thừa cùng các vị “nhất sinh bổ xứ”. Công đức
của pháp quán này lớn lao vô cùng, nhưng ít người theo được vì sự quán
tưởng khó hành trì đối với người căn cơ thấp kém, chỉ những bậc Thiền sư
quen ngồi Thiền định mới áp dụng được mà thôi.
3.- Quán tượng niệm Phật
là chăm chú nhìn vào một bức
tranh hay một pho tượng Phật A Di Đà bày trước mặt, quan sát vẻ đẹp
trang nghiêm của Phật từng chi tiết, cho đến khi không có ảnh tượng Phật
A Di Đà trước mặt mà lúc nào cũng thấy Phật với đầy đủ tướng tốt, trang
nghiêm. Từ quán tượng niệm Phật đến “Nhất tâm bất loạn”, hành giả cảm
thông được với Phật, và hình tướng giả của Phật biến thành Thực Tướng
của Phật chói rạng sáng ngời trong tâm của hành giả, bởi vì năng lực
tinh thần và vật chất, hay Tâm và Vật chỉ là một, tượng Phật là cảnh mà
Quán niệm là Tâm. Khi đã hiểu rõ lý Nhất như rồi thì sự cảm thông giữa
hình tượng giả bên ngoài biến thành Thực Tướng của Phật trong tâm hành
giả là một sự kiện đương nhiên xảy ra.
4.- Quán chiếu
hay Giác chiếu trì danh là lối
niệm Phật hồi quang phản bản, khiến cho hành giả đi sâu vào cõi hư linh
siêu thoát, cảm thấy tâm Phật với tâm mình giao hoà và ngưng đọng trong
một khối mông mênh viên chiếu. Niệm như vậy tuy chưa mãn phần ở thế gian
này nhưng tâm đã chứng được cảnh Thường tịch quang Tịnh độ, thân tuy còn
là xác phàm, mà lòng đã ngự ở nơi Liên Đài siêu thoát, và chứng được
“Tức thân thành Phật” đúng như câu :
Thân tuy còn ở Ta bà
Mà lòng đã gửi bên toà Liên hoa.
Chỉ tiếc rằng lối tu này đòi
hỏi phải có công phu tu tập lâu ngày khó khăn, kết hợp Tịnh và Thiền ở
mức cao độ, dành riêng cho hàng thượng căn, bậc sơ cơ thiểu học, ít
người dám nghĩ tới.
5.- Liên Hoa trì danh
là tưởng như mình đang đứng trước màn lưới đế châu tại cung Trời Đế
Thích, thấy giữa mỗi mắt lưới có đính một viên minh châu toả hào quang
sáng ngời, hạt nọ hạt kia chiếu vào nhau, ánh phản xạ tạo thành một khối
lung linh rực rỡ, nói lên cái lý “trùng trùng duyên khởi”, “một là tất
cả, tất cả là một” và “tương tức, tương nhập”, “Sự sự vô ngại” của Kinh
Hoa Nghiêm. Lại thấy như mình đang đứng trước mỗi hạt châu, mà trên mỗi
hạt châu lại có một toà sen ngàn cánh, trên mỗi cánh sen có một tượng
Phật A Di Đà toả ánh linh quang ngời sáng. Lại tưởng như mình đang hành
lễ chiêm ngưỡng và nguyện cầu hằng hà sa số Phật trong khắp đạo tràng
này, tưởng mình như được tắm gội trong bầu hào quang huyền diệu, nhiệm
mầu ấy của Phật Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Công Đức.
Nói chung thì các lối trì danh
và quán tưởng kể trên mỗi lối có một công dụng trị bệnh cho hành giả để
diệt trừ vọng niệm, trở về với Chân Tâm, cách nào cũng có lợi ích cả,
tùy căn cơ của từng người lựa chọn để đi sâu vào con đường Tịnh nghiệp.
Tất cả những lối niệm Phật mà miệng niệm, tâm tưởng tới Phật được gọi là
Định Tâm niệm Phật. Trái lại, miệng tuy niệm Phật mà tâm lại nghĩ tưởng
tới đâu đâu, gọi là Tán Tâm niệm Phật, kết quả so với nhau, cách xa nhau
như trời vực. Tuy nhiên, dù là Tán Tâm nhưng vẫn gieo được vào Tạng thức
của hành giả những mầm giống Bồ đề, lúc đầu còn lu mờ, lâu ngày thành rõ
nét, rồi cũng có lúc hiện hành ra ngoài rồi huân tập trở lại bên trong
làm cho Tán Tâm hoá thành Định Tâm niệm Phật. Bởi vậy, dù lúc đầu chưa
quen lối định tâm, nhưng nếu cứ kiên tâm niệm Phật thì lâu ngày, với
thói quen niệm Phật cũng đạt tới điểm nhất tâm bất loạn, chỉ sợ lòng
người giải đãi bất chuyên mà thôi.
Để giải thích cho hàng sơ cư
cách niệm Phật sao cho đạt tới điểm nhất tâm bất loạn, Tổ Vĩnh Minh Diên
Thọ dạy rằng : “Phải dùng tâm thành kính mà niệm Phật liên tục, lúc nào
cũng giữ tâm ở trong chính niệm, cũng như người bị tử tội sắp đem đi
hành hình, hay người bị mắc nạn nước lửa bức bách, ở trong cảnh thập tử
nhất sinh, hoặc người bị giặc cướp hay ác thú rượt đuổi gấp sau lưng,
phải lớn tiếng cầu cứu luôn miệng để gọi người tới cứu mình mới mong
thoát nạn, người tu Tịnh độ phải coi việc niệm Phật gắn liền với tính
mạng của mình, không được lãng quên giây phút nào cả, dù phải bận công
việc, khi làm xong, lại trở về ngay với việc niệm Phật, coi đó là công
việc hệ trọng hàng đầu, còn mọi việc khác đều không đáng kể. Người tu
Tịnh độ phải nương vào hơi thở của mình mà niệm cho tới lúc nhắm mắt,
tắt hơi, còn hơi thở là còn niệm, như vậy mới gọi là tâm chí thành, chí
thiết, và mới mong được Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn về quốc độ của
Ngài.
- Về mặt Sự Tướng, do công phu
niệm Phật A Di Đà tới nhất tâm bất loạn, hành giả chắc chắn sẽ được đời
nghiệp vãng sinh.
- Về Lý tính cho rằng thế giới
Cực lạc ở ngay trong tâm mình, chỉ cần Kiến tính là thành Phật. Hai điểm
ấy chẳng khác nhau, chẳng qua chỉ là hai lối diễn tả để chỉ một cái đích
chung là được giác ngộ, giải thoát khỏi cảnh khổ đau trong tam giới mà
thôi.
* Một điểm đáng lưu ý là :
Niệm Phật cho tới nhất tâm bất loạn là muốn ám chỉ tời việc niệm Phật
trong giờ phút lâm chung, cần phải định tâm, dồn hết tâm lực vào việc
niệm Phật trong thời điểm quan trọng đó. Bởi vì khi sắp lìa trần cần
phải có những tư tưởng tốt lành, trong sáng để có được một nghiệp lực
tốt, ảnh hưởng quyết định mạnh mẽ tới kiếp lai sinh. Chỉ cần có từ 1 đến
10 niệm trong sạch lúc bấy giờ cũng đủ để được vãng sinh về cõi Tây
phương Cực lạc. Nhưng muốn được “nhất tâm bất loạn” khi lâm chung thì
bình nhật phải niệm Phật cho chuyên, cho thuần để có được thói quen niệm
Phật, và có được nhiều chủng tử Phật dồn chứa trong A lại da thức, ngõ
hầu khi sắp lìa trần, hành giả vừa mới khởi niệm thì chủng tử Phật liền
hiện hành ngay. Lúc đó dù không cần tâm vô niệm, mà cảnh vô niệm cũng
hiện bày. Trái lại, nếu bình nhật chẳng năng niệm Phật thành thói quen,
thì khi lâm chung sẽ bị cận tử nghiệp lôi cuốn, tâm thức tuỳ theo nghiệp
rối loạn, chính niệm chẳng thành tựu thì mong gì có được nhất tâm ?
Trong giây phút lâm chung, năm căn của người hấp hối như năm cánh cửa
khép kín, duy còn căn thứ sáu là Ý thức hoạt động yếu ớt để tiếp xúc với
ngoại cảnh. Người đang hôn mê lúc bấy giờ ở vào tình trạng như người
nhập định, hoặc người tu theo Duy Thức mà thu thúc lục căn, chính trong
lúc ấy mà người sắp lìa trần tự lực hướng về cõi Phật, lại nhờ được Tha
lực của những người chung quanh nhất tâm niệm Phật để trợ lực cho người
ấy thì có thể gây được chính niệm để được Cận tử nghiệp hướng dẫn thần
thức của người ấy về miền Cực lạc.
Bởi băn khoăn về vấn đề cần
phải giữ cho tâm thanh tịnh lúc lâm chung để niệm Phật với nhất tâm bất
loạn, Ngài Đại Ca Diếp đã hỏi Phật và được Phật giải đáp. Câu chuyện
được ghi lại trong Luận Tà Trí như sau :
“Bạch Đức Thế Tôn ! Chẳng hay
những lúc gặp tai biến bất ngờ như rủi bị ngựa xe cán chết ngay, hay bị
voi điên đuổi gấp, ác thú rượt bắt, hoặc bị người đời đánh đập, bắn giết
mà chết bất đắc kỳ tử, không kịp niệm Phật trước khi tắt thở thì thần
thức con sẽ phải sinh về nơi đâu ?”
Để trấn an Ngài Đại Ca Diếp,
Phật dạy rằng : “Ông cứ an tâm, chớ lo, không bị sinh vào ác đạo đâu mà
sợ. Bởi vì như cây kia thường vẫn nghiêng về hướng Đông, nếu gặp gió
bão, cây ấy bị trốc gốc thì nó phải ngã về hướng Đông mà đổ xuống. Người
tu tịnh nghiệp cũng vậy. Nếu hàng ngày người đó chuyên cần niệm Phật A
Di Đà chẳng may bị chết thình lình thì sẽ nhờ sức huân tập của ý thức
niệm Phật, lâu ngày dồn nén trong Tạng thức mà được sinh về cõi Cực lạc
Tây phương chẳng sai”.
Mục 9 : Kết quả công phu
niệm Phật A Di Đà
Niệm Phật nhằm đạt cho được
Phật tính nghĩa là có những đức Từ, Bi, Hỷ, Xả, Bình đẳng vô phân biệt
giống như Phật vậy. Niệm Phật mà chẳng thực hiện được chút nào những
hạnh cao cả đó, không thấy được Phật tính, Chân tâm của mình, còn bị
thất tình lục dục chi phối thì chỉ là nô lệ cho việc niệm Phật mà thôi.
Tuỳ theo công phu hành trì niệm Phật mà người tu Tịnh nghiệp, lúc sinh
thời, có thể đạt được những đạo quả sau đây :
1. Đoạt người chẳng đoạt cảnh.
2. Đoạt cảnh chẳng đoạt người.
3. Người và cảnh đều đoạt
4. Người và cảnh đều chẳng
đoạt.
Ba lớp tu này ám chỉ hai cảnh
mê và ngộ khác nhau. Ba tầng trên : Tâm và Cảnh, hoặc cả Tâm lẫn Cảnh
đều quên. Đến tầng chót (Tâm và Cảnh đều chẳng đoạt) tức là ở vào trạng
thái sau khi Tâm và Cảnh đều không quên thì Chân Tâm, Giác tính mới hiển
lộ rõ ràng, và hành giả ở vào trạng thái Chân Không tỏ bày Diệu Hữu.
Cũng giống như Thiền sư sau nhiều năm tu tập đã vượt qua các giai đoạn
thấy núi là núi, thấy sông là sông, sông khác với núi, rồi thấy núi
chẳng phải là núi, thấy sông chẳng phải là sông, rồi tháy núi tức là
sông, thấy sông tức là núi, và sau cùng trở về trạng thái “bình thường
Tâm là Đạo”, thấy núi vẫn là núi, thấy sông vẫn là sông, đâu đâu cũng
đều là đạo mầu cả. Núi đứng đó mặc núi, sông đứng đó mặc sông, núi và
sông chẳng phải hiện diện để cho ta bàn luận về chúng, vì bàn luận, suy
tư đều sai lầm cả. “Động niệm tác quai”, “ngôn ngữ tắc đạo đoạn”. Nói
cách khác thì có ba trình độ chứng ngộ hợp với ba căn thượng, trung và
hạ của những người tu.
1. Đối với hàng thượng căn thì
Tâm là Phật, Tâm là cõi Tịnh độ. Tâm ở vào cảnh Vô niệm. Chủ thể niệm và
đối tượng niệm không khác. Tâm, Cảnh đều thanh tịnh thì đó là Phật thân.
Phật thân ấy với thân của hành giả là một theo lý Bất Nhị tịch nhiên
thường tồn, siêu việt mọi tư duy nên gọi Thân Tâm ấy là Phật sống.
2. Đối với hàng trung căn, còn
phải nhờ vào sự chuyên cần trì danh hiệu Phật để tâm thuần thục. Thiện
niệm hiện hành thì ác niệm tiêu diệt. Dùng lối niệm Phật không dứt thì
trừ được vọng niệm, và tâm thường trụ nơi chánh niệm. Được như vậy thì
khi mệnh chung, hành giả đạt được cảnh Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
3. Đối với hàng hạ căn, miệng
phải chuyên cần niệm Phật, tâm luôn luôn tưởng tới hình tượng Phật, sau
khi mệnh chung tuỳ theo tâm dao động ít hay nhiều sẽ được sinh về cõi
Đồng cư Tịnh độ dành cho phàm, Thánh cùng ở chung. Ở đây dễ tu vì tránh
được nguy cơ làm cho tâm thoái chuyển. Chỉ cần được sinh về cõi này là
được dự vào hàng Thánh, như vậy chẳng khác gì lối tu Đốn ngộ của Thiền
tông.
- Người niệm Phật mà đạt được
“Niệm - Vô niệm, Vô niệm - Niệm”, tức là trừ được Tư hoặc và Kiến hoặc,
và sẽ được sinh về cõi Phương tiện Thánh cư độ, dành cho hàng Thanh văn,
Duyên giác.
- Người niệm Phật mà ngộ được
lý Nhất Tâm phá được vô minh từng phần, sẽ được sinh về cõi Thực báo
trang nghiêm độ, dành cho hàng Bồ tát.
- Người niệm Phật mà phá được
hết vô minh, vọng thức sẽ đựơc sinh về cõi Thường Tịch Quang Tịnh độ
dành cho chư Phật.
- Niệm Phật mà tâm thanh tịnh
hay đạt tới nhất tâm bất loạn thì phá được cả chấp ngã, chấp pháp chứng
được Duy Tâm Tịnh độ.
- Người niệm Phật mà được vãng
sinh về Cực lạc thế giới thì chứng được một trong chín phẩm hoa sen,
(hạ, trung và thượng phẩm), mỗi phẩm có ba cấp (thượng, trung và hạ cấp)
thuộc ba hạng căn cơ khác nhau (thượng, trung và hạ căn) cộng thành chín
bậc.
CHƯƠNG 13
ĐÀO SÂU
VÀO LÝ BẤT NHỊ
Các pháp trên thế gian này đều
không có tính riêng biệt và độc lập. Chính con người đã dùng tâm phân
biệt của mình mà gán cho các pháp những nhãn hiệu riêng mà thực ra chúng
không hề có một cách bất di dịch, do đó nếu đào sâu vào lý Bất Nhị ta sẽ
có những nhận định sau đây về các vấn đề : Sống chết, Vui buồn, Sướng
khổ, Gần xa, Không, Có, khó tu và dễ tu, thuận cảnh và nghịch cảnh, giác
và mê, trói buộc và giải thoát, Tịnh độ và Ta bà v.v… là những sự việc
mật thiết với đời sống thường nhật của người tu.
Mục 10 : Nhận định về vấn
đề Sống và Chết
Mọi sinh vật trên trời đất
luôn luôn ở trong trạng thái đồng thời sống và chết. Từng giây phút ta
đào thải những chất cặn bã và những tế bào chết trong cơ thể để tiếp thu
những chất dinh dưỡng để tạo ra những tế bào mới. Như vậy thì hiện tượng
sống chết là việc thường tình ở đời. Trong sự sống có sự chết. Hễ là
phổi thở ra, dẹp xuống mà không hút dưỡng khí vào để phồng lên là chết.
Nếu quan sát thực tướng của sự sống chết ta thấy : chúng ta chỉ sống vẻn
vẹn từng sát na sinh diệt của một luồng tư tưởng mà thôi. Khi một tướng
tâm sinh khởi thì sự sống chết bắt đầu và sự sống chấm dứt cùng với sự
hoại diệt của tướng tâm ấy, để rồi lại tiếp tục sinh ra khi một luồng tư
tưởng khác bắt đầu. Tướng tâm sinh diệt từng sát na và sự sống của chúng
sinh cũng sinh diệt từng sát na cùng với sự sống của một luồng tư tưởng.
Khi tướng tâm không sinh không diệt nữa thì sự sống ngưng lại trong một
thân tứ đại. Vì lẽ đó mà người ta không thế sống lại cái tướng tâm của
giây phút vừa qua, cũng như tướng tâm của giây phút hiện tại không thể
giống như tướng tâm của giây phút vừa qua hay sắp tới được. Hiện tượng
sống, chết tiếp nối nhau như ngày và đêm hay như sự chuyên vần tuần tự
của bốn mùa qua lại. Trong sự Sống đã có mầm của sự Chết và ngược lại.
Hình ảnh những đợt sóng xô đẩy nhau trên mặt biển khi nổi, khi chìm là
hình ảnh trung thực nhất của hiện tượng Sống Chết, biểu hiện nguồn sinh
lực vô biên của vũ trụ. Chết với Sống là hai mặt sấp ngửa của một đồng
tiền, hay hai khía cạnh của một Thực tại duy nhất. Sự Sống Chết nối tiếp
nhau từng sát na, cũng như bánh xe bò lúc nào cũng dính trên mặt đường.
Điểm này vừa rời mặt đường thì điểm kia lại tiếp theo liền đó. Nói cách
khác thì sự sống chết là một chuỗi dài liên tục những hiện tượng không
giống nhau tiếp diễn trong một cuốn phim. Vì thế mà Triết gia Héraclite
đã nói một câu có ý nghĩa tương tự : “Chúng ta không ai có diễm phúc
được tắm hai lần trên một dòng sông”. Thực ra thì cái chết và cái sống
chẳng cái nào quan trọng hơn cái nào cả. Chính cái Chết đã nuôi dưỡng
cái Sống, nếu không có cái Chết thì không thể có cái Sống được. Có cái
Chết của những tế bào già nua bị thải ra ngoài cơ thể do sự bài tiết, để
thay thế bằng những tế bào khác khoẻ mạnh hơn thì sinh vật mới sống
được. Ta thử ngẫm xem : nếu muôn loài đều sống mãi không chết thì lấy
chỗ đâu cho vạn vật sinh trưởng, lấy đâu thức ăn để nuôi dưỡng muôn loài
? Vậy thì Sống với Chết đều quan trọng như nhau, và chỉ là quy luật tự
nhiên thường tình chi phối muôn vật trong vũ trụ. Có Sinh phải có Diệt.
Có Diệt phải có Sinh. Hoa nở rồi tàn, trăng tròn lại khuyết, sum họp để
rồi phân ly. Mọi sinh vật đều bình đẳng trước cái Sống và cái Chết. Mạnh
yếu, giàu nghèo, sang hèn, lớn nhỏ, đẹp xấu… tất cả đều chịu chúng số
phận trước Tử thần. Dù kín cổng cao tường, dù được lính gác ngày đêm bảo
vệ, dù có bạc vàng đầy kho, cũng không che chở mua chuộc được sự sống và
ngăn cản được sự chết để trở thành Bất Tử. Bởi vậy ta chớ nên lo sợ cái
chết xảy ra. Nếu ta quán tưởng sự chết, như thế thì ta tránh được lỗi
Thường kiến và Đoạn kiến, ta bớt được lòng tham vị kỷ, ta thấy rõ Thực
tướng vô tướng của sự vật ở đời, hiểu được lý bất nhất, bất dị của hiện
tượng Sinh diệt, ta rõ được mối tương quan bất nhị, giữa Tử và Sinh, do
đó ta mới thuận nghiệp mà sống, an lạc tự tại. Khi đã thực sự biết rõ
giá trị của Sống Chết thì ta làm được mọi việc lợi ích cho đời.
Hiện hữu hay không hiện hữu
?
Cái hiện hữu (hay sự sống) của
con người không ngoài cái hiện hữu tuỳ thuộc vào một tràng nhân duyên.
Mỗi vật hiện hữu đều do nhân duyên, và nó sẽ tiêu diệt ngay khi những
tác dụng của tràng nhân duyên chấm dứt. Những làn sóng trên mặt biển quả
là hiện hữu nhưng ta có thể bảo làn sóng đó có tự ngã không ? Làn sóng
chỉ có khi có gió dao động nước. Mỗi làn sóng tuỳ thuộc vào sự phối hợp
của những cường độ và phương hướng của gió, đến lúc gió im hay gió đổi
chiều thì làn sóng cũng chấm dứt hoặc đổi chiều theo. Vậy thì không thể
nói là sóng có tự ngã biệt lập với nhân duyên gây ra nó được. Khi con
người còn là một hiện hữu tuỳ thuộc vào một tràng nhân duyên thì nó
không có gì để mà cố duy trì lấy sự sống không tuỳ thuộc vào nó, và con
người cũng không thể nhìn mọi vật chung quanh mình từ quan điểm ngã vị
trung tâm. Mọi người phải từ bỏ cái tiểu ngã của mình và cố gắng giúp đỡ
kẻ khác, coi người như mình, theo tư tưởng “một là tất cả, tất cả là
một”. Con người cá nhân phải nhận thức cái hiện hữu cộng đồng tức xã hội
quanh mình, vì con người không thể nào lại hoàn tonà độc lập hiện hữu
được. Không có một vật nào trong vũ trụ này lại có thể trường tồn hay tự
tại được vì mọi vật đều Vô ngã, Vô thường trong không gian và thời gian.
Không một sát na nào mà sự vật lại không biến đổi. Nếu ta có thể tìm
được một thế giới nào mà ở đó không có không gian và thời gian thì thế
giới đó mới đích thực là Niết bàn, giải thoát.
Đã hiểu rõ sự Sống Chết là một
hiện tượng biến đổi tự nhiên và giá trị của sự Sống Chết, cùng mối tương
quan giữa người và người, người và xã hội, ta chẳng còn nên lãng phí
thời giờ quý báu để làm những việc vô ích hay chỉ lợi riêng cho mình. Ta
cũng chẳng còn tư tưởng ham sống sợ chết. Nếu cần phải chết để bảo vệ
một lý tưởng cao đẹp ta sẵn sàng hy sinh cuộc đời mình mà không hề tiếc
nuối. Nếu ta đã hiểu rõ sự Sống Chết ta sẽ tích cực gây thiện nghiệp để
được quả báo tốt lành, ta sẽ nhẹ nhàng cất bước ra đi, khi cần phải
chết, không đắn đo luyến tiếc, như từ bỏ một chiếc dép rách cũ nát. Hiểu
rõ được lý Bất Nhị của sự Sống Chết, ta chẳng còn mong cái Chết tới sớm
để trút bỏ gánh khổ não đè nặng trong lòng, cũng chẳng mong nó đến muộn
để tận hưởng miếng đỉnh chung của cuộc đời tục luỵ. Giờ phút lâm chung
điểm lúc nào ta nhẹ nhàng cất bước ra đi lúc đó, lòng thảnh thơi, không
buồn, không vui.
Mục 11 : Nhận định về vấn
đề vui buồn, sướng khổ và thiện ác ở đời.
a. Sướng khổ, buồn vui, thiện
ác đều là những trạng thái tâm hồn và nhận thức của con người khi còn ở
trong mộng. Người ngủ mê không biết mình đang ở trong cơn mê, cũng như
người bị vô minh làm mờ ám tâm hồn, không biết mình đang ở trong cảnh
hắc ám vô minh. Cuộc đời là một giấc mộng dài. Cũng như người ngủ mê
man, khi thức giấc mới biết là mình vừa qua một cảnh mộng. Mọi cảnh vật
ở ngoài, cũng như mọi sự việc ở đời đều do tâm ta biến hiện. Nội thức
thì có, nhưng cảnh vật và sự việc ở ngoài đời thì không. Người ngủ mê
chấp cảnh trong chiêm bao thật có, cũng như người si mê chấp cảnh đời có
vui buồn, sướng khổ thật sự. Nếu ai bảo rằng cảnh đời chẳng khác nào
cảnh chiêm bao hay những cảnh chiếu trên màn ảnh thì nhất định người si
mê không chịu tin. Chỉ khi nào người ngủ mê tỉnh giấc hay người bị vô
minh dứt bỏ được tấm màn vô minh che lấp chân tâm thì lúc đó mới tin
rằng cảnh đời là huyễn và hiểu được lý Vô ngã, Vô thường. Do đó muốn có
một trái tim bình thản trước cuộc đời, và muốn thoát cảnh vui buồn sướng
khổ của nhân thế phải có quan niệm nhân sinh theo bài thơ dưới đây :
Đời người chẳng khổ cũng
không vui,
Vui khổ là tâm bệnh cả thôi.
Khổ đấy vui nầy đều cưỡng gọi
Mê, vui khổ tự sinh sôi,
Mê tình ví chẳng sinh ra nổi,
Quả Phật, chân tâm ắt sáng ngời,
Khổ, sướng, buồn vui đều giả huyễn,
Đừng nên sợ khổ chớ ham vui.
*
Xin chớ so đo, khổ với vui,
Có chi là khổ, có chi vui ?
Vui trong tham dục, vui liền khổ
Khổ chốn tu hành, khổ hoá vui
Nếu biết có vui là có khổ
Thà rằng đừng khổ cũng đừng vui.
Mong sao được sống không vui khổ
Để thoát ra ngoài cảnh khổ vui.
- Thọ vui thọ khổ đều là Vô
thường, bởi vì các pháp đều dịch biến. Khi đã hiểu rõ nguồn gốc của khổ,
vui là Tà kiến và Ái dục, ta phải cố phá cho được chấp Ngã và chấp Pháp
để không còn chạy theo vui buồn sướng khổ nữa.
* Đời người, ngoài thì bị
thiên nhiên đe doạ, trong thì bị ý chí mù quáng thao túng, nhưng trong
sự thúc phọc đó, con người biết suy nghĩ vẫn hoài bão tự do, hướng
thượng, tìm hạnh phúc. Điểm nổi bật của đạo Nhất thừa chính là ở nơi khổ
đau là tìm được giá trị của cuộc đời. Giá trị ấy không ở chỗ lấy sướng
khổ về vật chất làm thước đo để đánh giá nhân phẩm theo cấp bậc trong xã
hội, dựa trên tiền tài, danh vọng, mà lại lấy sự thực hiện sinh mệnh
vĩnh cửu, thực hiện cái hiểu biết sâu rộng và toàn diện, cùng thoả mãn
nhu cầu Đại Bi vô hạn đối với toàn thể sinh linh làm mục tiêu và lý
tưởng để đánh giá nhân phẩm. Muốn thực hiện được điều đó thì phải coi
thường khổ đau và vui sướng, tự chủ được lòng mình và vượt qua vui buồn,
sướng khổ nhờ đó mà lý tưởng Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công
đức được thực hiện lần lần.
Cái đích của người tu học Phật
pháp phải là : một mặt thì hướng thượng, từ bỏ thế giới tương đối đầy
phân biệt và sai biệt, cùng những tư tưởng vị kỷ, thấp hèn, để trau dồi
những tư tưởng xả kỷ, thanh cao, nuôi dưỡng Tâm Bi để sống với lý Bất
Nhị, rồi mặt khác lại rời bỏ cái tháp ngà ấy, không trụ ở cảnh giới
tuyệt đối thanh cao mà quay về hướng hạ, sống trong thế giới tương đối
sai biệt trong vô sai biệt, và phân biệt trong vô phân biệt, hoà quang
đồng trần, đem cái tâm rộng lớn Từ, Bi, Hỷ, Xả, Bình đẳng, Bất Nhị từ
chỗ tiêu cực không làm điều ác, tiến đến tích cực làm mọi điều lành,
không khước từ những việc thiện nhỏ nhặt nhất, để phục vụ xã hội nhân
sinh.
* Phật dạy trong kinh Kim
Cương :
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh,
Như lộ, diệc như điện,
Ứng tác, như thị quán.
Với lời kinh ấy, Phật khuyên
chúng sinh chớ nên chạy theo khách trần ảo ảnh, để chuốc lấy luỵ vào
thân. Người muốn bước chân vào cửa đạo, sợ cảnh khổ nơi thế gian, coi
khổ đau có thật, nên Phật mới phải thuyết Kinh A Di Đà dạy người đời :
Đời là bể khổ, phải nên tránh khổ cầu vui bằng cách niệm Phật A Di Đà để
cầu được về cảnh Cực lạc Tây phương. Đó là đối với người ít học, ham vui
sợ khổ. Nhưng đối với người đã hiểu rõ lý niệm Phật tức là niệm Tâm thì
ở đâu cũng thế thôi, bởi vì khi tâm đã thanh tịnh thì đâu đâu cũng là
đạo tràng và cõi Phật cả. Lúc còn mê tướng phiền não, khổ đau có thật,
do ngoại cảnh gây ra nên phải tìm cách lánh xa cõi trần, cầu mong về nơi
Tịnh độ để hưởng lạc thú vĩnh viễn, nhưng khi đã ngộ rồi, biết rõ buồn
vui, sướng khổ đều do tâm tạo thì chẳng còn lo sợ nữa. Tâm mang nặng ưu
tư, tham luyến, sân hận, si mê thì ở cảnh nào cũng cảm thấy mình bị trói
buộc đau khổ.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ?
(Kim Vân
Kiều)
Trái lại, người ngộ đạo thư
thái, hồn nhiên thì lúc nào cũng thấy mình được giải thoát, và giờ phút
nào cũng cảm thấy mình được sống trong Niết bàn, Tịnh độ. Phiền não, khổ
đau chính là hạt giống Bồ đề, vì có phiền não, khổ đau thì tâm mới trở
thành an vui, cho nên trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Phật dạy rằng : “Phải
lấy thân, tâm làm ruộng rẫy, lấy phiền não làm hạt giống, lấy trí tuệ
làm mầm mống, còn Như Lai thì ví như hoa quả, thóc lúa vậy”.
* Phật cũng dạy : “Thế gian
này không thật, cũng không hư”. Thế giới Cực lạc Tây phương mà cho là
khong thật có khi nào tâm con người đã thoát vòng tục luỵ không còn bị
phong trần làm vẫn đục nưa. Tâm mà an nhiên tự tại thì tâm ấy là tâm
Phật, tâm ấy là cõi Tịnh độ, Niết bàn. Thế giới Cực lạc được coi là thật
có khi nào ta còn cảm thấy khổ não, bất an, nhưng khi đã siêu lên mọi sự
vui buồn, sướng khổ của tình người thì chẳng còn cần gì Niết bàn, Tịnh
độ nữa. Xét ra thì Tịnh độ, Ta bà, hạnh phúc và khổ đau đều chỉ do tâm
con người mà ra cả. Những danh từ ấy chỉ để cho người còn mê, mang nặng
tâm phân biệt dùng mà thôi. Đứng trước mọi Phật pháp, muốn lựa chọn một
pháp môn nào thích hợp với căn cơ trình độ, tính tình của mình, ta hãy
tự xét kỹ lòng ta. Nếu còn cảm thấy đau khổ, buồn vui, sống chết đều
thật cả, còn ham sống sợ chết, thì ta đừng ngần ngại mà chọn ngay pháp
môn Tịnh độ làm chốn dung thân, nương cậy vào Tha lực để đới nghiệp vãng
sinh, thoát vòng sinh tử. Trái lại, nếu ta tự xét thấy lòng mình đã đủ
vững mạnh trước cảnh nghèo đói bần hàn, đứng trước tám ngọn gió thổi
xuôi, thổi ngược mà lòng ta vẫn chẳng lung lay, coi phú quý, sống chết
như phù vân, thì tha hồ muốn chọn pháp môn nào tu cũng được.
B. Vấn đề thiện, ác cũng vậy.
Không có cái tuyệt đối thiện hay tuyệt đối ác ở cõi đời này. Ta thường
quan niệm những gì có tính cách xây dựng thì coi là thiện, còn cái gì có
tính cách phá hoại thì coi là ác. Thật là lầm to ! Bởi vì cái coi là nhơ
bẩn, thối tha như phân bón hay nước tiểu mà người đời thường ghê tởm lại
làm cho cây hồng tốt tươi trổ hoa thơm ngát, như vậy thì cái thối tha,
nhơ bẩn của nước tiểu và phân bón phải được coi là Thiện chứ không Ác.
Cũng như Âm không luôn luôn xấu và Dương không luôn luôn tốt. Cương và
Nhu cũng vậy, cái nào cũng có đủ cả hai mặt thiện, ác. Khi cần đến Cương
thì Cương là tốt. Khi cần đến Nhu thì Nhu là hay. Cần Tiến thì Tiến là
tốt. Cần Thoái thì Thoái là nên. Cần duy trì thì giữ, cần xả thì bỏ,
không nhất thiết phải câu nệ, khư khư trụ mãi vào một bên. Người đạt đạo
cảm đâu ứng đó, tuỳ thuận Tâm Bi và Trí Bát Nhã. Tu là đi từ chỗ tối ra
chỗ sáng, diệt trừ phiền não, vô minh, cuối cùng phải vượt lên trên cả
thiện lẫn ác, hữu và vô, mới mong thoát khỏi gọng kìm của nhị nguyên,
tương đối để đi tới bình đẳng, vô phân biệt, không còn danh ngôn khái
niệm nữa.
Trong Kinh Hoa Nghiêm có câu
chuyện Bồ tát Văn Thù dạy Thiện Tài đồng tử về lý Bất Nhị. Một hôm Bồ
tát Văn Thù sai Thiện Tài vào rừng hái lá thuốc về dùng và dặn : “Hễ
thấy thứ gì không phải là thuốc thì đêm về”. Thiện Tài lùng kiếm khắp
nơi, chẳng tìm được thứ gì không dùng làm thuốc được, đành phải trở về
tay không, bạch lại sự việc với thầy.
Văn Thù lại bảo : “Vậy thấy
thứ gì làm thuốc được thì đem về đây”. Lần này Thiện Tài khệ nệ ôm về
một bó lá thật to tỏ vẻ hân hoan đã làm vừa lòng thầy.
Văn Thù cầm lấy mớ lá và nói
với đại chúng : Đây vừa là tiên dược để trị bệnh, lại vừa là độc dược
giết người. Không gì chẳng phải là thuốc vì khắp thế gian này toàn là
thuốc cả bởi vì toàn thể nhân loại đều có bệnh. Vì có bệnh nên mới phải
có thuốc. Vì có thuốc nên nhân loại mới bị bệnh. Thuốc và bệnh trị lẫn
cho nhau và cùng nhau tồn tại. Nếu không có bệnh thì chẳng cần đến
thuốc. Nếu không bệnh, không thuốc thì chẳng cần gì phải nói chuyện giữa
chúng ta, ngay cả độc thoại cũng chẳng cần thiết. Suy rộng ra thì tất cả
mọi pháp trên thế gian này chẳng có pháp nào thật là ác hay thật là
thiện tuyệt đối cả. Cảnh giới Tịnh độ là nơi không còn cái ác nữa, đến
cả cái thiện người ta cũng không lưu ý tới, bởi vì tất cả ở đây thuần
thiện cả. Cái thiện không còn đối tượng để so sánh là cái thiện tuyệt
đối, và cõi Tịnh độ thuộc về Bình đẳng giới trong Nhất nguyên tuyệt đối
vậy. Khi còn ở thế giới Nhị nguyên tương đối, ta cần phải tích cực làm
điều thiện, tránh điều ác, nhưng đã tới thế giới Nhất nguyên, ta phải
siêu lên trên mọi tư tưởng đối đãi giữa ác và thiện đó mới là lập trường
chân chính của đạo giải thoát Tuyệt đối, Bất nhị.
Mục 12 : Nhận định về vấn
đề xa và gần.
* Xa và gần do lòng mình đặt
ra, tuyệt nhiên không do hoàn cảnh bên ngoài. Hai người không quen biết
nhau không hề tưởng nhớ tới nhau, thì ở gần nhau mà vẫn là xa. Hai người
thương nhớ nhau, nghĩ tới nhau luôn thì dù ở cách xa nhau hàng vạn dặm
đường vẫn là gần nhau. Quốc sư Đại Đăng một buổi gặp Nhật Hoàng Đậu Đề
Hồ tâu rằng : “Bệ hạ và thần xa nhau từ vô lượng kiếp mà vẫn chưa hề rời
nhau trong phút giây. Bệ hạ và thần đối diện nhau suốt ngày mà vẫn chưa
hề gặp nhau lần nào !”. Đó là quan niệm về xa và gần của những tâm hồn
đã vượt lên trên tất cả đối đãi phân biệt về không gian và thời gian để
đứng trên mảnh đất trong sạch, “Cõi Tịnh độ của tâm”.
* Người theo sự tướng cho rằng
: “Cõi Tây phương Cực lạc thật xa, cách chốn Ta bà này hàng vạn ức cõi
Phật” : đó là quan niệm của người chưa hiểu lý Bất Nhị. Theo lý đó thì
chỉ có một cõi Tịnh độ mà thôi và đó là tâm của ta. Người mê, khi niệm
Phật cầu vãng sinh, coi cõi Cực lạc là nơi xa với sức yếu hèn của con
người mang nặng nghiệp chướng thì khó lòng tới đó được, phải tận lực cầu
khẩn Tha lực của Phật tiếp dẫn mới có thể được toại nguyện. Người có trí
tuệ, trái lại cho rằng chỉ cần thanh tịnh tâm mình là đủ. Làm cho tâm
mình trong sạch tức khắc được sống trong Niết bàn Thường lạc, ngã tịnh,
và điều kiện được về cõi Tịnh độ của tự tâm chỉ cần ngăn cản không làm
tám điều tà, trừ mười điều ác, và cố gắng làm mười điều thiện là đủ. Về
mặc tiêu cực, tám điều tà phải lìa là : Tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà
nghiệp, sinh mạng tà, phương tiện tà, niệm tà và định tà.
Về mặt tích cực mười điều tiện
phải thực hiện là :
1. Phóng sinh và tha thứ (thay
vì giết hại và căm thù).
2. Bố thí (thay vì trộm cướp,
tham lam ích kỷ).
3. Tôn trọng phẩm giá phụ nữ
(thay vì tà dâm)
4. Nói lời ngay thẳng, thành
thật (thay vì gian dối, quanh co).
5. Nói lời đoàn kết, ôn hoà
(thay vì nói lời ác độc, chia rẽ).
6. Nói lời đoan trang, chân
chính (thay vì nói thô tục, điêu ngoa, trái đạo lý luân thường).
7. Nói lời ân nghĩa, có ích
cho đời (thay vì nói lời đòn xóc hai đầu và điều đâm thọc).
8. Vun trồng và thực thi những
tư tưởng thanh cao, quý báu (thay vì có những tư tưởng vị kỷ, thấp hèn).
9. Có lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả
thương xót chúng sinh, coi người như mình.
10. Có tâm chân chính và hành
động theo chính tư duy.
Mục 13 : Nhận định về dễ tu
và khó tu - Tu trong thuận cảnh và trong nghịch cảnh.
a. Dễ tu và khó tu.
Người đã “minh tâm kiến tính” thấy
tâm mình vốn “tịch” và tính mình vốn “không”. Tâm tính không tịch tức là
Chân Tâm. Tự tính của mình xưa nay vẫn “Như thị”, không hình tướng, tịch
tĩnh, lóng trong, an nhiên tự tại. Đó là thế giới vô sai biệt và vô phân
biệt, đối lập với thế giới của giả tạo, vọng động, đầy phân biệt và sai
biệt của trí giác. Nhưng cái thế giới của tri giác phân biệt và sai biệt
lại chính từ chỗ tịch tĩnh, không tịch, mầu nhiệm của tâm linh sinh ra,
cho nên người hiểu rõ lý Bất Nhị và Chân Không Diệu Hữu của vạn pháp,
thấy sự việc ở đời chẳng thực, chẳng hư, chẳng không, chẳng có, chẳng
tâm chẳng vật một cách dứt khoát, mà mọi sự ở đời lại huyễn sinh, huyễn
diệt, từ Tạng thức biến hiện, một cách huyền diệu, do đó mà tâm của
người ấy bình thản trước cảnh buồn vui, phúc hoạ, dễ khó, thuận nghịch
và sống chết như tâm của Bàng Long Ẩn Cư sĩ thuở xưa.
Đản tự vô tâm ư vạn vật,
Hà tằng vạn vật thường vi nhiễu
* Trong vũ trụ chỉ có một thế
giới duy nhất, vô vi, tịch tĩnh, không sai biệt và không phân biệt của
tâm. Nhưng ý thức của con người lại bị thói quen, thành kiến do Sở tri
chướng tích luỹ lâu đời biến cải cái Nhất Tâm Chân Như ấy thành thế giới
hiện tượng nghìn sai muôn khác, phân hoá bởi vọng động và thể hiện trong
nếp sống bình nhật. Thế là cái một biến thành cái vạn. Thế giới hiện
tượng sai thù từ cái một sinh ra thì vạn hữu tức là Chân Tâm nên ta nhận
thấy chân tướng của sự vật thì đã vén được bức màn vô minh che lấp chúng
nên chẳng ý thức được điều đó thì ta cứ dấn thân mãi vào vòng mâu thuẫn
vướng vít đầy phân biệt sai thù, khi nhìn sự vật ở đời hời hợt qua bề
ngoài của hình danh, sắc tướng. Tu là để thấy rõ Chân tướng, Vô tướng
của sự vật, thấy rõ lý Bất Nhị của các pháp trên thế gian và sống trong
ánh sáng Chân lý Vô ngã, Vô thường biến dịch của cuộc đời dâu bể. Khi mê
còn giữ tâm phân biệt, còn thấy đời là bể khổ nên còn tìm mọi cách, hết
chạy sang Đông lại chạy sang Tây để mong thoát khỏi nghiệp báo sinh tử,
nhưng lúc đã ngộ rồi, hiểu rõ nghiệp báo sinh tử, khổ đau đều do tâm tạo
thì không còn thấy buồn, thương, đau khổ nữa. Chỉ vì Biến kế Sở chấp mà
người đời mới thấy buồn, vui, sướng, khổ, dễ tu, khó tu… mà thôi, chứ
vạn pháp xưa nay vốn vô tự tính. Cùng một hoàn cảnh, nếu còn chấp có Ngã
và Ngã sở, còn bị lệ thuộc vào Căn, Trần, Thức thì còn là phàm phu, còn
phải gánh chịu khổ não, đau buồn. Nếu biết phá bỏ mọi chấp trước và giữ
cho tâm trong trắng, phẳng lặng thì tuy sống trong Niết bàn thanh cao
vui sướng. Nhưng làm sao biết được mình đang sống trong trần lao điên
đảo, hay đang được hưởng cảnh tự tại, thanh lương ? Phải sống chung với
thiên hạ, lăn lộn trong cuộc đời phồn tạp mới biết rõ là tâm mình có còn
bị tám ngọn gió thổi ngược, xuôi làm cho ta điên đảo hay không ? Có bị
thử thách trong cuộc sống hàng ngày mới biết rõ trình độ tu chứng của
ta.
Đời sống, nhất là trong nghịch
cảnh, là tấm gương trung thực để ta soi tỏ được lòng mình.
b. Nhận định về việc tu
trong thuận cảnh và tu trong nghịch cảnh.
Không thể nào bảo thuận cảnh
hay nghịch cảnh, cảnh nào dễ tu hay khó chứng, vì dễ, khó, thuận, nghịch
đều tuỳ thuộc vào lòng mình, hoàn cảnh bên ngoài không có tự tính riêng
biệt. Cùng một bầu trời mưa tầm tã mà người nông phu đang khát khao có
nước để tưới cây, cày ruộng, dù phải lội bùn ướt đẫm quần áo, vẫn thấy
sung sướng như Trời ban cho vàng bạc. Còn người ở đô thị, đi ngoài đường
phố, gặp cơn mưa bất thần, bị bẩn chân ướt áo, lại thấy khó chịu bực
mình. Có người cho rằng thuận cảnh khó tu, vì đang sống hạnh phúc tràn
trề với vợ đẹp con ngoan, danh cao lộc hậu, khó dứt bỏ công danh sự
nghiệp hơn người nghèo túng, chẳng có một tấc đất cắm dùi, hay một đồng
tiền dính túi, trong cảnh cơ cực, bữa đói bữa no. Với những gì mình đang
nâng niu quý báu bỗng dưng lại coi như khói mây ảo ảnh thật là khó. Như
Thái Tử Tất Đạt Đa đương ở ngôi quyền quý cao sang tột đỉnh, bỗng dưng
dứt bỏ ngay tất cả để sống cuộc đời khất thực, lang thang, thật ít người
làm nổi.
Nhưng có người lại cho rằng
sống ở cõi Ta bà cực khổ, gặp những cảnh gai mắt, nghịch tai mà làm ngơ,
nhẫn được mới mau chứng ngộ. Như Đề Bà Đạt Đa là kẻ bạo nghịch đã tìm
mọi cách để hại Bồ tát Đạt Đa, mà Ngài vẫn không mạng dạ oán thù, lại
còn nhớ công ơn kẻ đã làm cho mình chứng được Tứ Vô Lượng Tâm và đạt
được lý Oán thân Bất Nhị. Như vậy thì cả hai bên đều có lý. Ở trường hợp
sau, coi người thân nghịch không khác. Ở trường hợp đầu, Bồ tát phải tìm
đến những nơi lầm than cơ cực, lửa bỏng dầu sôi để chia sẽ nỗi khổ đau
với những kẻ xấu số mong luyện Tâm Từ.
“Vô nhân kiến xúc, đạo quả
nan thành” : không có nhân khiến cho tâm can xúc động thì đạo quả
khó bề thành tựu. Cho nên người tu không sợ chướng ngại, vì có chướng
ngại mới có duyên lành để tiến bước trên đường tu. Chướng ngại là thước
đo đạo tâm của hành giả. Với cảnh ngộ nào cũng tu huyễn, luyện Trí Bát
Nhã, coi sự việc ở đời là Vô thường, Vô ngã, nên luyện được Tâm Bi và
Tâm bình đẳng vô phân biệt. Nếu nhận xét một cách khái quát thì cảnh
thuận thường dễ khiến người đời chạy theo bả vật chất, do đó mà nhụt dần
tinh tiến, mất dần đạo tâm. Ở đời, ta hay bị hại bởi lời đường mật, ít
ai bị chết bởi câu nghịch nhĩ chân ngôn, cho nên ở trong thuận cảnh cần
phải đề phòng nhiều hơn ở trong nghịch cảnh. Bởi vì nghịch cảnh có tác
dụng thức tỉnh lòng người, làm cho ta thoát ly được ác tưởng và cố gắng
phấn đấu để vươn lên cao tới nơi giải thoát rốt ráo ; còn cảnh thuận lại
âm thầm ru ngủ thức Tâm, làm cho con người dễ thoái đoạ, trở nên yếu hèn
vì quen sống trong nhung lụa, xa hoa. Nếu nói theo chiều thuận thì chúng
ta ở đời này thật là ít phúc nên mới phải sinh vào cõi Ta bà trong thời
mạt kiếp, không còn Phật tại thế nên khó tu. Nếu nói theo chiều nghịch
thì chúng ta thật là tốt phúc mới được sinh ở cõi này, được gặp nhiều
hoàn cảnh thuận tiện để hành Bồ tát đạo, luyện Tứ Vô Lượng Tâm và Lục độ
Ba la mật. Dù ở hoàn cảnh nào, thuận hay nghịch ta cũng phải phấn đấu
với lòng mình từng phút giây. Những ác tưởng là những phản ứng tự nhiên
của Thức hay của bản năng mù quáng gây nên những hành động lỗi lầm, dẫn
tới nghiệp quả bất thiện. Đó là những bệnh mà ta phải đề phòng cẩn mật.
Để nhớ tới chúng ta phải dùng Trí để niệm. Mỗi người trong hoàn cảnh
riêng của mình tự tìm cách để cảnh giác mình và nhớ tới Lương Tâm hay
Chân Tâm, Phật tính của mình. Nếu thực hành được điều đó là bước đầu ta
dấn thân vào đường hành Bồ tát đạo. Ở cõi Trời cao tột tuy được hưởng
nhiều hạnh phúc, không bị vật chất bức bách, nhưng lại thiếu những cảnh
đau thương để thức tỉnh lòng mình. Trái lại, ở chốn trần gian khổ nhẫn
này, hàng ngày phải tiếp xúc với nhiều cảnh ngộ đau buồn thì người có
Tâm Đạo khó cầm lòng được trước những thống khổ của tha nhân, nên mới
mạnh dạn dấn thân vào vòng tục luỵ mà hoà quang đồng trần để cải hoá cõi
Ta bà mong nó trở thành thế giới Cực lạc.
* Trong kinh Duy Ma Cật, Phật
dạy ông Xá Lợi Phất : “Ông nên hiểu rằng người mù không thấy mặt trăng,
mặt trời đó không phải là lỗi tại các tinh tú đó. Chỉ vì tâm của chúng
sinh bất tịnh nên mới thấy cõi Ta bà này nhơ uế, xấu xa, chứ thực ra thì
cõi thế gian này vốn vẫn trang nghiêm, thanh tịnh. Thế gian mà chúng
sinh đang sống đây, xưa nay vẫn bằng phẳng, tốt đẹp, không có gai góc,
hầm hố bẩn thỉu. Đối với Phật nhãn thì cõi Ta bà này lúc nào cũng đầy
hương vị thơm tho”. Nơi nào đầy nước mắt đau thương, những nơi nước
đọng, bùn lầy, chính là quốc độ mà Bồ tát tự nguyện dấn thân vào đó để
thực thi bản nguyện của mình. Cũng ví như hoa sen thơm ngát và thanh
khiết chỉ mọc ở chỗ bùn lầy hôi tanh, mà không thấy sinh ra trên gò cao
sạch sẽ. Bồ tát cũng vậy. Các Ngài không trốn tránh cuộc đời lầm than,
chỉ ưa vào chốn dầu sôi lửa bỏng, để xoa dịu vết thương của muôn loài
đau khổ. Hạnh phúc ở đời phải tìm ở nơi vong thân xả kỷ, xa lìa những tư
tưởng khinh mọn thấp hèn. Hạnh phúc đời chỉ có khi con người tìm thấy
nguồn vui của mình trong niềm vui của thiên hạ. Niềm vui thanh khiết,
bao la, chẳng ở đâu xa, mà buồn vui, sướng khổ, dễ khó, thuận nghịch
trong việc tu hành, tìm sự giải thoát đều ở đáy lòng mình.
Đời người không phải lúc nào
cũng duyên dáng ngát hương như đoá hồng tươi, cũng chẳng phải lúc nào
cũng buồn thương chán ghét như bụi hồng đầy gai nhọn. Hoa là hoa mà gai
là gai. Cái gì thuộc về hoa là của hoa. Cái thuộc về gai là của gai.
Không vì sợ gai nhọn chích vào da thịt mà ngại không dám hái hoa ngát
thơm tươi đẹp. Cũng không vì quá yêu hoa mà lao mình vào bụi gai, bất
chấp hiểm nguy để chuốc lấy tai biến. Người lạc quan cho thế gian này là
tuyệt đẹp như cánh hồng nhung tươi thắm ngọt ngào. Người bi quan lại cho
cõi đời tục luỵ này là nơi đầy gai nhọn gây khổ cực đau thương. Đối với
bậc liễu đạo nhìn thế gian này “Như thị, như thị”, không hẳn tươi đẹp
hay khổ đau một chiều, mà lại nhìn đời bằng cặp mắt thực tiễn, không
buồn, không vui, không say mê vẻ quyến rũ của sắc hương, nhưng nhận định
rõ Thực tướng vô tướng của hoa để hành động thận trọng cho khỏi bị gai
nhọn đâm vào da thịt mà vẫn thưởng thức được tính hoa của đất trời huyền
diệu, thấy đâu đâu cũng là đạo mầu, đâu đâu cũng là Tịnh độ.
CHƯƠNG 14
NHẬN ĐỊNH
VỀ KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN
Mục 14 : Lý tương đối của
các pháp trong vũ trụ.
Danh hiệu Phật A Di Đà (Vô
lượng quang, Vô lượng thọ, Vô lượng công đức) và thế giơi Cực lạc Tây
phương cách xa chúng ta hàng vạn ức Phật độ, đã gợi ý cho chúng ta nghĩ
tới hai pháp Phương và Thời trong 24 pháp Tâm Sở bất tương ưng hành của
Duy thức tông cùng sự liên quan tương đối của vạn pháp trong vũ trụ Vậy
ta phải có một nhận xét sao về Không gian và Thời gian ?
* Theo chân lý thì hai pháp
này chỉ là những pháp hư giả, chúng không có tự tính riêng biệt. Chúng
Vô ngã. Đó là những sản phẩm do con người tạo ra, dựa vào sự xoay vần
của trái đất quanh mình nó và quanh mặt trời. Rồi con người lại tạo ra
nào là đồng hồ để đo thời gian, nào là thước tấc để đo không gian, với
mục đích là cụ thể hoá những gì mơ hồ trong đầu óc. Giả sử trái đất này
ngừng quay hay không còn mặt trời nữa, thì ý niệm về không gian và thời
gian cũng tiêu tan luôn, đồng thời với ý niệm, nhỏ, to, trên, dưới,
trong, ngoài, quá khứ, hiện tại, vị lai, v.v… sẽ sụp đổ tan tành cùng
một lúc với toàn thể vũ trụ. Do đó ta thấy không có gì tuyệt đối, thường
tồn trong thế tương đối này cả. Cái này phải dựa vào cái kia để tồn tại
theo lý Tương tức, Tương nhập, trùng trùng duyên khởi, và Sự Sự nhất
thiết vô ngại mà Kinh Hoa Nghiêm đã đề ra. Theo chân lý thì không có một
khoảng cách nào tuyệt đối xa hay tuyệt đối gần, cũng không có một quãng
thời gian nào tuyệt đối mau hay tuyệt đối chậm cả. Không có một điểm nào
trong không gian được coi là cố định, bất di dịch, có thể dùng làm tiêu
chuẩn để ấn định vị trí cho các vật thể khác. Chữ “Định tinh” thật là vô
nghĩa và phải xoá bỏ trong Tự điển của loài người, bởi vì không có một
vật thể nào trong vũ trụ lại chẳng hằng chuyển. Do đó, tìm một thứ gì
tuyệt đối độc lập và biệt lập hoàn toàn đối với các vật thể khác thật là
uổng công. Toàn thể nhật nguyệt sơn hà trong bầu khí quyển mênh mông đều
có những mối tương quan tương duyên chằng chịt với nhau, không thể tách
rời nhau ra được. Tất cả đều nằm trong Tương đối mà nhà Bác học Einstein
mới khám phá ra cách đây non một thế kỷ.
* Trong Lã Thị Xuân Thu có câu
chuyện “Khắc chu cầu kiếm” được Cụ Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc trích dịch
trong tác phẩm Cổ Học Tinh Hoa nói về một người đi thuyền vô ý đánh rớt
thanh gươm ở giữa dòng sông. Anh ta liền đánh dấu vào mạn thuyền, nơi
lưới kiếm bị rơi xuống nước và nói rằng : “Ta đanh rơi thanh gươm ở chỗ
này đây”. Khi thuyền vừa cập bến, anh vội thuê người lặn xuống sông, nơi
đánh dấu ở mạn thuyền để mò, nhưng tìm sao được thanh gươm ngay gần bờ
sông ? Thấy vậy, thiên hạ đều cười, chê anh chàng là ngốc. Thiên hạ chê
cười vì anh ta đã không biết là con thuyền đã di động và thanh gươm đổi
vị trí, tương đối với chỗ thanh gươm bị rơi. Đó là quan niệm của người
xưa về nghĩa tương đối của không gian.
* Trong thi văn, người ta cũng
thường thấy các văn nhân thi sĩ đề cặp đến hiện tượng “thời gian ngừng
trôi”. Thi sĩ Lamartine trong bài thơ “Le Lac” đã để lại những câu bất
hủ :
Ô Temps ! Suspends ton vol
! Et vous, Heure propice, suspendez, votre cours !
(Thời gian hạ cánh chớ bay !
Giờ Hoàng đạo xin ngừng ngay bước dồn !)
Các chàng si tình đều cảm thấy
lòng mình như bị lửa đốt khi phải đợi chờ người yêu, vi mỗi phút đợi chờ
dài hơn một thế kỷ ! Trái lại, nếu được gần nhau trong một thời gian,
rồi lại phải ly biệt thì thấy thời gian ở bên nhau đi mau quá mỗi khắc,
mỗi giây tựa như mọc cánh tung bay !
* Với những người phải chịu
cực hình ngồi trên ghế điện chờ chết, hoặc trên đống than hồng, cũng cảm
thấy mỗi phút trôi qua là cả một thiên thu bất tận ! Hiển nhiên là các
văn nhân thi sĩ cũng như những gã si tình hay phạm nhân phải chịu cực
hình đều cảm thấy thời gian chẳng phải là một cái gì tuyệt đối, hoàn
toàn độc lập với thế giới chung quanh, mà lại tương đối, tuỳ thuận vào
tâm thức của con người trong cuộc. Quan niệm về thời gian tương đối của
khoa học ở chỗ, trong thi ca, thời gian tương đối lâu hay mau tuỳ thuộc
vào tâm của con người, còn trong thuyết tương đối của Einstein thì Thời
gian Tương đối lại là một hiện tượng vật lý có thể kiểm chứng, đo lường
được. Ở đây tôi chỉ xin nói sơ lược về thuyết tương đối của Einstein.
Thuyết này có hai phần :
1.- Tương đối đặc biệt hay thu
hẹp (Relativite Spéciale ou restreime) công bố năm 1905, nói về các vật
thể chuyển động đều và chịu ảnh hưởng về hấp lực của các thiên thể khác
trong vũ trụ. Thuyết Tương đối đặc biệt hay tu hẹp được tóm tắt trong
những đề tài về Tương đối của vận tốc của khoảng cách, của thời gian, và
của khối lượng.
a. Tương đối về vận tốc
: Một cậu bé chăn trâu đứng ở
bên đường nhìn thấy một chiếc xe hơi chạy vụt qua trước mặt cậu rất
nhanh. Nhưng lúc ấy một người ngồi trong toa xe lửa chạy với tốc độ
nhanh gần bằng xe hơi, lại thấy chiếc xe hơi này chạy quá chậm, gần như
bò trên mặt đường tựa một con ốc sên. Nếu xe lửa lại chạy nhanh bằng xe
hơi, thì đối với người ngồi trong xe hơi hay người ngồi trong toa xe
lửa, đều cảm thấy hai chiếc xe này cùng đứng yên không chuyển động, mà
chỉ thấy cây cối, cột điện hay nhà cửa ở ven đường thi nhau chạy ngược
chiều mà thôi.
b. Tương đối về thời gian
: Một chiếc đồng hồ luôn luôn
di chuyển, nghĩa là được mang theo với người đi du lịch, ngồi trên phi
cơ, chạy với một nhịp độ khác chiếc đồng hồ ở yên một chỗ dưới đất. Đồng
hồ được di chuyển càng mau bao nhiêu thì nhịp độ của chiếc đồng hồ ấy
lại càng chậm bấy nhiêu. Một hiện tượng thường xảy ra cho người đi du
lịch bằng phi cơ là phải điều chỉnh lại đồng hồ mang theo khi đáp xuống
phi trường nước ngoài vì giờ địa phương nơi đến khác với lúc khởi hành.
Người ta đã tính được rằng : trên một chiếc xe hơi chạy với tốc độ 90
c/s giờ thì đồng hồ chậm lại một phần nhỏ của một giây đồng hồ trong một
ngày. Vì thời gian quá ngắn nên ít người để ý tới, song sự chậm đó thực
sự có xảy ra. Nếu được di chuyển trên một hoả tiễn bay với tốc độ
150.000 c/s giờ thì đồng hồ chậm lại 3 giờ 10 phút trong một ngày, và
nếu lại được di chuyển nhanh bằng tốc độ của ánh sáng (300.000 c/s giây)
thì chiếc đồng hồ này ngưng chạy ! Thực ra thì đó chỉ là một giả thuyết
mà thôi, bởi vì trên thực tế không có một vật nào trên trái đất này lại
chạy nhanh bằng ánh sáng cả (trừ tư tưởng con người). Nhưng giả thử lại
có một loại hoả tiễn chạy nhanh tới 200.000 c/s giây, thì bằng phương
pháp trắc viễn để đó nhịp tim, nhịp mạch máu và nhịp phát triển bộ phận
trong cơ thể của phi hành gia sẽ thấy các cơ quan này hoạt động với nhịp
độ chậm hơn lúc bình thường khi còn ở mặt đất, song phi hành gia ngồi
trên hoả tiễn đang bay lại chẳng cảm thấy có sự thay đổi gì khác thường
cả, bởi vì các máy móc và lục phủ ngũ tạng của người đó đều hoạt động
chậm lại như nhau.
* Những câu chuyện thần thoại
như Lưu, Nguyễn nhập Thiên Thai hay chàng Từ Thức lạc vào Tiên động được
sống với nàng Giáng Tiên trong một thời gian mặn nồng hương lửa, sau lại
trở về cõi tục để ngao ngán tiếc rằng mình đã là người của thế hệ mấy
trăm năm về trước. Hoặc những câu chuyện khoa học giả tưởng trong đó có
những người được đưa tới các hành tinh xa lạ, có nhịp độ quay chậm hơn
trái đất, sau một thời gian sống thần tiên ở những phương trời xa lạ ấy
sẽ thấy mình đã trải qua một thời gian lâu hàng thế kỷ so với đời sống ở
trần gian.
c. Tương đối về khoảng cách
: Khi một hoả tiễn vọt lên
trời, thì người ở dưới đất thấy hoả tiễn ngắn hơn lúc nó còn nằm ở mặt
đất. Ngược lại, người ngồi hoả tiễn lại cảm thấy nhà cửa, cây cối và mọi
vật ở dưới đất nhỏ bé và ngắn hơn so với lúc bình thường.
d. Tương đối về khối lượng
: Theo Khoa học Vật lý cổ
truyền thì khối lượng và năng lượng là hai thứ hoàn toàn khác nhau và
không bao giờ thay đổi (Loi de conservation de la maitère ét loi de
conservation de l’ énergie). Einstein đã bác bỏ hản hai thuyết trên và
cho rằng : Khối lượng của một vật thể tăng lên cùng với vận tốc của nó.
Sự chuyển động hay vận tốc là một hình thức của năng lượng, và sự gia
tăng khối lượng của một vật thể kéo theo sự gia tốc hay năng lượng của
vật thể ấy. Einstein đã cô đọng thuyết này trong công thức E = MC² trong
đó E (Energie) là Năng lượng ; M (Masse) là Khối lượng của vật thể ; và
C (Constant) là hằng số 3 x 105
tức tốc độ của ánh sáng. Công
thức này có nghĩa là một vật chuyển động nhanh bao nhiêu thì sức mạnh
của nó cũng tăng lên bấy nhiêu, do đó mà một hòn sỏi rơi gần mặt đất
không gây ảnh hưởng gì cả, nhưng nếu nó lại rơi từ cửa sổ của một cao ốc
chọc trời sẽ bay vun vút xuống và có thể gây tai hại khủng khiếp đối với
những gì ở dưới đất, bởi vì sức mạnh (năng lượng) của nó có thể bằng một
khối đá lớn giáng xuống từ trên cao. Khi một vật ở nguyên một chỗ thì
năng lượng của nó bằng khối lượng của nó E = M. Như vậy theo Einstein,
vật chất không còn là một thứ cố định, không thay đổi, như khoa học cổ
điển đã quan niệm lỗi thời nữa. Vật chất sinh ra Năng lượng, và Năng
lượng sinh ra vật chất. Khối lượng và Năng lượng hỗ tương. Năng lượng có
Khối lượng và Khối lượng có Năng lượng. Nói theo lối Phật giáo thì Khối
lượng và Năng lượng tương duyên tương sinh, tương tức tương nhập với
nhau chứ không biệt lập và độc lập. Các Khoa học gia ngày nay còn cho
rằng : Bản thể của vạn hữu không phải là vật chất mà là Năng lượng (tinh
thần) và toàn thể vạn hữu chỉ là Năng lượng mà thôi, vì nếu lấy Điện tử
làm cơ sở cho vật chất thì nó không còn là vật chất nữa khi nó ở trạng
thái tinh thể loãng và ba động, cho nên các tân khoa học gia mới đi tới
kết luận : “Vật chất là năng lượng ở thể cô đọng. Và Năng lượng là vật
chất ở thể loãng”, hay “Vật chất chỉ là Tinh thần ở trạng thái chậm lụt”
(la matière n’est qu’un ralenti de l’. Esprit) bởi vì Điện tử, nền tảng
của vật chất, lại không có khối lượng khi nó ở thể loãng. Theo phương
trình của Einstein (E = MC²) thì khi người ta biến đổi hoàn toàn một
gramme than đá thành năng lượng thì sẽ được một số năng lượng tương
đương với 25 triệu kilowatt/giờ điện, đủ sức cung cấp nguồn điện lực cho
một tập thể dân cư của một quận sử dụng tuỳ thích trong suốt một năm,
hoặc có thể đun sôi 270 triệu lít nước. Còn nếu chỉ đốt cháy một gramme
than đá theo lối thường thì nhiệt lượng phát ra chỉ vừa đủ để làm ấm một
ly nước lạnh mà thôi. Nhiệt lượng sinh ra do sự đốt cháy là kết quả của
sự phản ứng hoá học thông thường. Nếu cân số tro than còn lại và số thán
khí bay ra thì ta sẽ thấy khối lượng vẫn bằng một gramme than đá nguyên
chất. Phương trình E = MC² giải thích được tại sao mặt trời cùng các
tinh tú có thể chói sáng rực rỡ và phát ra nhiệt độ hàng tỷ tỷ năm qua
mà vẫn chẳng thấm vào đâu, còn nếu chúng bị đốt cháy theo lối thông
thường, thì chúng đã bị tắt, giá lạnh và tiêu tan từ lâu rồi, chứ không
thể còn tồn tại cho tới ngày nay nữa.
Công thức E = MC² đưa tới việc
chế tạo ra nguồn năng lượng nguyên tử. Để hình dung mức độ nguyên tử
năng to lớn đến bậc nào, ta có những tài liệu sau : nếu phá hết một
kilogramme Uranium, thì năng lượng hoặc nhiệt lượng của 1kg uranium gấp
3 triệu lần nhiệt lượng của 1kg than đá đốt cháy theo lối bình thường.
Sự biến đổi vật chất ra năng lượng được ứng dụng vào việc chế tạo ra
Pile hay bom nguyên tử. Cách 40 năm sau khi công thức Einstein ra đời,
hoàn cầu có dịp được kiểm chứng bằng thực nghiệm của khoa học, và toàn
thể nhân loại thời đó đều bàng hoàng xúc động khi phải trả giá đắt cho
cuộc thí nghiệm của hai trái bom nguyên tử ném xuống tàn sát hơn 35 vạn
nhân mạng tại hai thành phố Hiroshima và Nagasaki. Vậy mà bom hạch tâm
ngày nay với sức tàn phá của hàng triệu tấn thuốc nổ T.N.T, so với bom
nguyên tử đầu tiên thời xưa còn mạnh gấp hàng ngàn vạn lần !
* Einstein lại còn đưa ra
thuyết Không gian bốn chiều để đánh đổ quan niệm lỗi thời về Không gian
ba chiều (rộng, dài và cao). Theo ông thì Không gian liên tục và thay
đổi cùng với Thời gian trôi qua. Ông cho rằng : thuyết Không gian ba
chiều không đủ để diễn tả Thực tại, mà còn cần phải thêm chiều thứ tư
nữa là Thời gian mới đo được chính xác bởi vì quả đất không ngừng quay.
Không những trái đất xoay quanh trục của nó mỗi ngày 40.000 cây số, và
xoay quanh quỹ đạo mặt trời mỗi giây đồng hồ 30 cây số, mà nó còn bị lôi
cuốn vào cơn lốc xoay tít của tất cả mọi vật thể khác trong vũ trụ nữa.
Muốn ấn định vị trí một phi cơ đang bay cần phải biết rõ phi cơ ấy ở
kinh tuyến nào, vĩ tuyến nào, độ cao nào, và ở thời điểm nào nữa. Do đó
để diễn tả vị trí của một vật thế đang di động (mà vật thể nào lại chẳng
di động hoặc bị di động ?), ta phải dùng đến quan niệm Không gian và
Thời gian (Espace Temps), nghĩa là Không gian và Thời gian là một, tương
tức, tương nhập luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau thành một thể duy
nhất bất khả phân.
Không gian 4 chiều là hình của
Không gian 3 chiều di động từng sát na. Thế giới mà ta đang sống là một
khoảng bao la, vô giới hạn, trong đó mọi hiện tượng tâm vật và sinh lý
đều diễn ra đồng thời ở trên hai bình diện Không gian và Thời gian,
không thể tách rời hai phần đó ra được. Có Không gian là có Thời gian và
ngược lại. Nếu vì một lý do gì mà Thời gian ngừng trôi theo như nguyện
vọng của những chàng trai si tình như Thi sĩ Lamartine, hay một vật thể
nào trong vũ trụ lại đóng vai trò Định tính, đứng yên một chỗ, không bị
di động trong cơn bão lốc đang xoay tít của toàn thể, thì bao nhiêu tinh
tú, sơn hà, nhật nguyệt của vũ trụ đều bị ảnh hưởng tức khắc, theo lý
“Trùng trùng duyên khởi”. Theo Einstein thì không có một điểm nào trong
Không gian lại cố định cả. Toàn thể vũ trụ đều ở trong Không, Thời gian
4 chiều, mật thiết liên đới với nhau. Sự cách trở được diễn ra đồng thời
trên cả hai mặt Phương và Thời chứ không phải chỉ thuần ở trên mặt Không
gian hoặc Thời gian mà thôi. Ánh sáng là một hình thức năng lượng nên nó
cũng có khối lượng (E = M). Khi ánh sáng xuyên qua những khối vật thể
lớn thì nó bị hút bởi các vật thể ấy và đi theo một đường cong thay vì
đường thẳng, bởi vì không gian ở đây cong hơn ở những nơi có vật thể
tương đối bé. Sự có mặt của một vật thể trong vũ trụ làm cho Không gian
bao quanh nó bị cong lại, vì vậy mà không thể có được đường thẳng tuỵêt
đối theo kiểu Toán học cổ điển. Einstein cho rằng đường thẳng chỉ có ở
những đoạn ngắn, còn ở quãng xa nó trở thành cong chứ không thẳng nữa,
và những đường thẳng song song đều gặp nhau ở tâm điểm của trái đất.
Cũng theo Einstein chỉ có thời gian địa phương chứ không có thời gian
phổ quát, vì vậy mà ý niệm về “bây giờ” chỉ được áp dụng cho “ở đây” mà
thôi, chứ không thể áp dụng cho một nơi xa xôi nào khác.
Tóm lại, theo thuyết của
Einstein thì Không gian và Thời gian không được coi là hai thực thể cố
định tuyệt đối độc lập và vô cùng tận. Hai thứ đó đều không có thực,
cũng chẳng thực không. Nếu tách rời ra thì không có Không gian và Thời
gian có tự tính riêng biệt, mà chỉ khi nào chúng phối hợp với nhau chặt
chẽ thành một khối duy nhất mới diễn tả được thực tại. Trên thực tế thì
Không gian chỉ là cái dùng để chỉ khoảng cách giữa hai vật thể, và Thời
gian chỉ là cái dùng để chỉ sự liên hệ trước sau giữa các biến cố trong
trời đất. Sự hiện diện của các vật thể và các biến cố kéo theo sự có mặt
của Không gian và Thời gian. Không gian chỉ là một (Sự) trong những số
lượng biến đổi (Vô ngã), và Thời gian chỉ là một (Sự) trong tương đối
(Vô thường). Thế giới của Không gian và Thời gian chẳng qua chỉ là một
ngục tù mà chúng ta khó lòng thoát ra khỏi, bởi vì chúng ta luôn luôn bị
trói buộc trong vòng nhân duyên. Khi nào con người chưa tìm được một thế
giới không bị hạn cuộc bởi không gian và thời gian như thế giới Cực lạc
Tây phương của Phật A Di Đà (Vô lượng Thọ, Vô lượng Quang, Vô lượng Công
đức) thì con người vẫn là một sinh vật khổ đau.
Ta nhận thấy : bằng đường lối
quan sát các hiện tượng khoa học ở đầu thế kỷ XX đã khám phá ra được
chân lý Tương đối trên mặt Không gian và Thời gian và cho nhân loại nhận
thấy rõ thuyết Khối lượng và Năng lượng (E = M) hay vật chất và Tinh
thần hoặc Tâm cảnh Nhất như.
Bằng đường lối thực nghiệm tâm
linh, các Thiền sư trong đạo Phật đã nhận thấy rõ Chân lý Tương đối cách
đây trên 2500 năm. Theo đạo Phật thì quan niệm Không gian và Thời gian
là hai “Sự” khác biệt hẳn nhau hoàn toàn không đúng, và với lý “Sự sự vô
ngại” Pháp giới thì Không gian và Thời gian không còn là hai “Sự” biệt
lập và độc lập với nhau mà chúng hoà hợp với nhau như nước với sữa để
trở thành một “Sự” duy nhất Không - Thời gian trên mặt danh từ cũng như
trên mặt thực dụng.
* Một phương pháp của đạo Phật
để đạt tới thực tại tuyệt đối là loại trừ những cảm giác chủ quan do lục
căn, lục thức của cá nhân tiếp xúc với lục trần, có tính cách “biến kế
sở chấp” tính và phân biệt tính đã ghép vào thực tại tuyệt đối. Duy thức
học Phật giáo chủ trương dùng phương pháp “Thu thúc lục căn” để đạt tới
Thực tại tối hậu, nghĩa là ngăn không để cho lục căn lục trần tiếp xúc
với nhau. Nếu ta nhắm mắt, bịt tai lại, không nhìn, không nghe sự vật
diễn biến chung quanh, ta vẫn còn thấy có một ý niệm về thời gian diễn
biến bên trong, trôi đi không ngừng như một dòng suối âm thầm chảy. Ý
niệm đó cho ta cái cảm giác miên tục của dòng sinh mệnh không chia cắt
thời gian thành quá khứ, hiện tại và vị lai. Ý niệm này có tính cách
trực giác, không qua trung gian của một giác quan nào cả. Đồng thời lại
có một ý niệm thứ hai xuất hiện : đó là ý niệm về Không gian. Những gì
mà ta trông thấy quanh mình đều không phải là thực tại tuyệt đối ở ngay
chính thời gian mà chúng được quan sát, vì thực ra đó chỉ là bóng ma của
những vật ấy trong quá khứ mà thôi.
Thí dụ như ánh sáng mặt trời
mà ta nhìn thấy lúc này chỉ là thứ ánh sáng ở vào 8 phút đã trôi qua, vì
ánh sáng phải mất 8 phút để đi từ mặt trời tới trái đất. Sự kiện trên
cũng đúng với những vật ở quanh ta. Ở đây khoảng cách về thời gian trước
sau tuy ngắn ngủi, song không vì thế mà ta có thể phủ nhận được nó. Sự
cách trở như vậy đã xảy ra ở cả hai mặt Không gian và Thời gian, chứ
không chỉ thuần tuý diễn ra ở một phương diện nào mà thôi. Nói cách khác
thì chúng ta nhìn ngoại vật không chỉ riêng về mặt Không gian mà còn cả
về mặt thời gian trong quá khứ nữa. Do đó, không gian và thời gian, dưới
con mắt của nhà Duy Thức học rõ ràng có tính cách tương tức, tương nhập,
không hề cách biệt, độc lập và xa rời nhau.
* Toàn thể Pháp giới, Hư không
giới đều bị không gian và Thời gian bao vây, khó thoát.
Mặt khác toàn thể vũ trụ và
Pháp thân của Tỳ Lô Giá Na Phật, cảm ứng điều hoà, nhịp nhàng như tuân
thủ một nhịp điệu huyền vi của một trái tim khổng lồ. Trái tim ấy là A
lại da thức của toàn thể Pháp giới mà mặt trời là vật tượng trưng (hay
là Phật A Di Đà được nhân cách hoá), là nơi phát nguyên của động lực
sinh thành, theo luật “trùng trùng duyên khởi” và “tương tức tương nhập”
có diệu dụng ứng hiện ra muôn ngàn hiện tượng dung thông vô ngại, sinh
sinh hoá hoá, từ vô thuỷ đến vô chung, góp phần vào mục tiêu đưa toàn
thể thế giới tới đích “Chân, Thiện, Mỹ” - nguyên động lực ấy là cái
“Thiên Địa chi Tâm” hay cái Tâm diệu dụng của người giác ngộ dự phần
đóng góp vào cứu cánh tròn đầy của vũ trụ.
* Thể tính của Không gian và
Thời gian vốn Vô vi, bất sinh bất diệt, bất khứ bất lai, nên Không gian
và Thời gian chính là Chân như, là Như Lai, hay cái Thể Chân Không Diệu
Hữu của muôn vật, Không gian và Thời gian kết hợp lại tạo ra thế giới
vạn hữu là đại vũ trụ, con người là một tiểu vũ trụ nằm trong cái khối
đại vũ trụ ấy, cho nên khi hành giả quán chiếu tự tâm, đi sâu vào nội
giới để kiến tính thì bắt gặp Không gian và Thời gian bên trong và bên
ngoài giao hội tại nội tâm. Khi ấy thì tâm của hành giả vượt qua mọi đối
đãi giữa Hữu và Vô, nội và ngoại, trên và dưới… và cảm thấy một sự sống
động liên tục, bất nhị, hằng chuyển.
* Khi nói đến sự chứng ngộ về
Hư không trong Thiền quán ở cõi “Thức vô biên xứ” và “Hư không vô biên
xứ”, người ta đề cập đến chiều thứ tư là Thời gian. Nói cách khác thì
Không gian và Thời gian mà ta vẫn quan niệm xưa nay là “Tĩnh” và bao la
như một cái khung bất động, thực ra nó vẫn “Động” bởi vì vũ trụ không
ngừng quay và chiều thứ tư của Không gian, chính là đường gặp gỡ của
Không gian và Thời gian cùng chuyển động. Về mặt tâm linh, sự tiếp nối
giữa không gian và thời gian trở thành một sự đi sâu vào nội giới. Sự
tiếp nối đó được diễn ra trong Tâm định, giữa lúc Thiền sư đi sâu vào
nhập định tam muội. Khi tiến sâu vào đáy lòng mình bằng con đường Thiền
quán thì hành giả cảm thấy không gian và thời gian co rút ngắn lại,
tưởng chừng như tụ vào điểm “Không” nhưng kỳ thực nó lại vươn lên, tiến
tới bao la vĩnh cửu, vô cùng cực, ở chỗ thâm sâu vô đáy của Chân tâm.
Trái lại khi ngó ra phía ngoài, hành giả lại cảm thấy không gian với
thời gian như giãn dần và toả rộng, trải dài khắp nơi, tưởng chừng như
đi tới cùng cực, mà thật ra nó lại biến vào hư vô, không thấy tăm hơi,
cho nên mỗi phút giây trong Thiền quán vào Hư không Vô biên giới ví tựa
thiên thu vô tận. Trong sự dung thông dung nhiếp của Không gian và Thời
gian, nghĩa là trong cái “nhất điểm tối hậu và vô lượng” nối liền sát na
với a tăng kỳ kiếp, nối liền “nhất niệm, vạn niên” và “vạn niên, nhất
niệm” ấy có nhiều tên gọi khác nhau, nào là : Số không, giọt nước, cái
hạt, cái mầm, tinh trùng, điện tử, đương xứ… Đó là nơi khởi điểm của một
Tâm Định, từ đó sức Thiền quán lần làn toả rộng, bao la, khắp pháp giơi,
đồng thời cũng là nơi chấm dứt của mọi sự thể nhập. Chính tại nơi tụ
điểm này mà không gian bên trong và bên ngoài gặp nhau tại nội tâm, để
cùng tại đây mà không gian trong và ngoài hoà nhập với thời gian. Hành
giả lúc đó cảm thấy sự hiện diện của nó ở nhịp đập âm thầm của con tim.
* Đối với Thời gian, đạo Phật
cho rằng : Quá khứ, Hiện tại và Vị lai liên tục ví như một dòng suối
hằng chuyển không ngừng. Người tu hành sống thư thái, ung dung, không
quan tâm tới thời gian qua lại, hoà hợp với thiên nhiên trong nhịp vận
hành của toàn thể vũ trụ. Muốn hiểu quan niệm nhân sinh trên ta hãy đọc
bài kệ sau đây :
Chư hành vô thường.
Thị sinh diệt pháp.
Sinh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc ?
Chữ “Hành” ở đây bao gồm cả
ba thời : quá khứ, hiện tại và vị lai. Các tư tưởng và hành động của ta
đều là những pháp Vô thường, luôn luôn sinh diệt. Khi đã siêu lên trên
sự Sinh Diệt của các pháp, không trụ tâm vào đâu cả thì con người được
an lạc, tự tại, ở trong cảnh tịnh tĩnh Niết bàn. Vậy muốn thoát vòng tử
sinh, phải xa lìa các pháp hữu vi sinh diệt. Tâm không được trụ vào bất
cứ điểm nào của không gian và thời gian.
* Như trên đã nói : Không gian
và Thời gian là những pháp tương đối, tương tức, tương nhập, dung thông
với nhau theo lý Sự Sự vô ngại Pháp giới. Những điểm không gian và thời
gian tiếp nối nhau như những hạt điện âm dương trong một dòng điện để đi
đến chỗ không còn phân biệt nổi đâu là không gian, đâu là thời gian nữa,
bởi lẽ không có một sự vật nào ở yên tại chỗ mà không bị xê dịch từng
sát na theo cái đà hằng chuyển của toàn thể vũ trụ trong cơn lốc vô ngã,
vô thường. Dù cách xa tới đâu, dù lâu dài bao nhiêu thì không gian và
thời gian cũng chỉ là ý niệm hay những pháp mê vọng do tâm con người tạo
ra mà thôi. Chính mê vọng đã dệt thành màng lưới không gian và thời gian
để giam hãm tâm hồn chưa giác ngộ. Còn sống trong thế giới nhị nguyên
tương đối, phân biệt và sai biệt. Thực tại về Không gian và Thời gian
vốn là Chân Không Diệu Hữu, bất biến tuỳ duyên và tuỳ duyên bất biến.
Rời bỏ mê vọng, diệt trừ những tư tưởng phân biệt và sai biệt thì khoảng
cách dù to đến đâu cũng chỉ là ở trong gang tấc, và thời gian, dù lâu
dài đến đâu, cũng chỉ ở trong phút giây. Cực lạc hay Ta bà chỉ do một
niệm của tâm khởi. Khoảng cách ngàn trùng vẫn là khoảng cách của mê vọng
và Cực lạc Tây phương vẫn ở trong cuộc sống này và ở tại đây. Thực tại
thì Nhất Như không biến đổi, chỉ có Tâm vọng động của con người mới
chuyển biến không ngừng.
* Ta nghĩ sao về con số “Ba a
tăng kỳ kiếp” (Số 3 kèm theo 47 số không) là thời gian cực dài của lối
tu Tiệm ngộ, theo Sự Tướng hữu vi, hay lối tu đãi Phú so với một Niệm
hay Sát na Tam muội (1giây đồng hồ chia cho 10, kèm theo 43 số không,
1”:1043
) là thời gian cực ngắn của giác
ngộ tại tâm, hay trực giác tâm linh, theo lối tu đốn ngộ của Vô vi pháp
phải chăng chỉ do một cử chỉ quyết liệt, cực nhanh của tư tưởng quay đầu
trở lại, dứt khoát từ bỏ ác niệm, đoạn tuyệt nếp sống xưa, thay vì hướng
ngoại chạy theo tiếng gọi của vật chất, tham, sân, si, phù du biến ảo
lại hướng nội, kiến tính, để làm sáng tỏ những đức căn bản sẵn có của tự
Tâm, tìm về với Lương Tâm, Phật tính của mình.
* Biết vọng là Chân. Biết là
mê muội mà từ bỏ mê muội thì liền trở thành Phật sáng suốt, giác ngộ. Ta
phải biết Chết đi để sống lại, chết đi những nết xấu tật hư của thất
tình lục dục để được giải thoát khỏi cái Ta điên dại, điên cuồng, chỉ
quen phân biệt ngã, nhân, để sống theo ý nghĩa thiêng liêng cao cả của
Chân lý “Vật vật đồng nhất thể”, “Một là Tất cả, Tất cả là Một”.
* Khi đã từ bỏ được quan niệm
sai lầm về Không gian và Thời gian là hai thực thể độc lập tuyệt đối và
vô cùng tận ta cũng rời bỏ được quan niệm sai lầm về mạnh và yếu, lớn và
nhỏ tuyệt đối, về một và nhiều, về quá khứ, hiện tại, vị lai. Lúc đó ta
không còn phân biệt nữa, và ta có thể “đem tương quá khứ và hiện tại đặt
vào tương lai, đem tương lai và hiện tại đặt vào quá khứ, một niệm đặt
vào trong muôn niệm, đem muôn niệm đặt vào trong một sát na…
Dùng tâm bình đẳng vô phân
biệt nhìn vũ trụ ta sẽ thấy không những một hạt bụi chứa cả không gian
vô cùng mà còn chứa cả thời gian vô tận nữa, và một niệm không những
chứa không gian vô biên mà chứa cả thời gian vô hạn nữa, nếu ta biết
nhìn sự vật không hời hợt qua sắc tướng bề ngoài, mà lại nhìn sâu vào
cốt lõi, chân thể của chúng ở bên trong, hay nếu ta biết nhìn sự vật,
qua lăng kính tương tức, tương nhập, trùng trùng duyên khởi và nhất
thiết vô ngại. Với nhãn quan ấy ta sẽ thấy : phải có cái này mới có cái
kia, cái này là cái kia, cái kia là cái này… Tất cả những diễn biến
trong vũ trụ đều do sự suy động của ngọn gió nghiệp và luật nhân quả
tuần hành. Sự diễn trình biến đổi của vạn hữu có tính cách tuyệt đối
bình đẳng. Không có một vật nào quan trọng hơn vật nào bởi lẽ vạn vật
đều vô tự tính, Vô ngã, Vô thường như nhau.
Theo quan niệm “Nhất trần Pháp
giới” thì một hạt bụi chứa đủ những bí ẩn ngang các tinh cầu, và bao hàm
cả tam thiên đại thiên thế giới. Dưới con mắt của nhà Vật lý học đương
thời, họ cũng nhận thấy rõ là vũ trụ đồng nhất thể, dù là Tinh cầu, Nhật
nguyệt, côn trùng hay chất óc của con người, tất cả đều được cấu tạo
bằng những nguyên tử như nhau. Trong mỗi nguyên tử có cùng một loại vi
trần là Dương điện tử và Âm điện tử cùng Trung hoà tử. Nếu phân tích đến
cùng cực thì chỉ còn là một hệ thống về vật chất tiêu tan, và cái gì
cũng vừa liên tục, vừa đứt đoạn, vừa là vi trần vừa là làn sóng ; vừa là
Vật lại vừa là Tâm. Khuynh hướng của những nhà Vật lý học ngày nay là
quy cả vũ trụ vào trong các làn sóng điện ngắn dài.
Vật chất không thường còn mãi
mãi mà nó có thể biến đổi giả diệt giả sinh. Hễ vật chất diệt thì năng
lực sinh, mà năng lực diệt thì vật chất lại sinh. Năng lực (tinh thần)
và vật chất thay phiên nhau biến hoá. Cái tướng sinh diệt của vạn hữu do
đó chỉ là giả tướng, còn bản thể của chúng thì không hề sinh diệt. Và
như vậy thì khoa học ngày nay cũng đi tới kết luận như Phật giáo là :
Thế giới vật chất hữu hình thật ra chỉ là những bóng hình không tướng,
bất sinh, bất diệt, bất giảm, bất tăng (Rien ne se perd, rien ne se créé
- Loi de Lavoisier) và chứng minh được câu : “Sắc bất dị Không, Không
bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc…” của Bát Nhã Tâm Kinh,
cũng những câu : “Ba a tăng kỳ kiếp chẳng khác một Sát na”, “Trong một
hạt bụi chứa cả ngọn núi Tu Di”, “Ở đầu một sơi lông hiện ra mười phương
cõi Phật”, và “ngồi trong hạt cải mà chuyển được Đại Pháp Luân” của Kinh
Hoa Nghiêm. Ta cũng thấy rõ ý nghĩa những câu trong bài Tín Tâm Minh của
Tổ Tăng Xán, do Trúc Thiền dịch dưới đây :
Khoảnh khắc là vạn niên
Mười phương trước mắt liền.
Cực nhỏ là cực lớn
Đồng nhau, bặt cảnh duyên.
Cực lớn là cực nhỏ,
Đồng nhau chẳng giới biên.
Một tức là Tất cả,
Tất cả tức là Một.
Quý hồ được như vậy,
Lo gì chẳng tròn đầy
* Theo tài liệu của khoa Vật lý
học ngày nay thì trong một giọt nước có khoảng 6 triệu triệu tỷ nguyên
tử. Nếu một người chỉ nhỏ bằng một hạt nguyên tử thì toàn thể dân tộc
Việt Nam 60 triệu người, ngồi quây quần sát vào nhau, chỉ chiếm một
khoảng nhỏ xíu trên đầu một chiếc kim gút mà thôi. Hình ảnh này trung
hợp với câu thơ của một Thiền sư đời Lý :
Càn khôn tận thị mao đầu
thượng.
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung
(Càn khôn rút lại đầu lông
xíu.
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng).
* Khoa học ngày nay đã nhận
thấy rằng nguyên tử tuy rất nhỏ, song điện tử (Electron) mang tính chất
Âm điện, Proton mang tính chất Dương điện và Neutron hay Trung hoà tử,
mang thành tính chất trung tính, ba thứ này hợp lại tạo thành một hạt
nhân nguyên tử, còn nhỏ hơn nguyên tử hàng 2 tỷ lần. Nếu một nguyên tử
to bằng một quả bóng lớn thì hạt nhân nguyên tử chỉ bằng một hạt bụi nhỏ
mà thôi. Trong khoảng gần như trống rỗng chung quanh hạt nhân nguyên tử
thì các hạt Điện tử Electron quay trên một quỹ đạo tròn hay đẹp, chẳng
khác nào những hành tinh quay chung quanh mặt trời vậy. Hạt cải tuy nhỏ
so với vũ trụ, cũng như hạt nhân nguyên tử so với nguyên tử tuy chẳng ra
gì song chúng đã được tạo lập trên sự liên hệ của toàn thể. Tất cả vũ
trụ đều hoà hợp trong một tấu khúc chung để tạo nên hạt cải hay hạt nhân
nguyên tử, cũng như hạt nhân nguyên tử đã hoà hợp với toàn thể để tạo ra
nhật nguyệt, tinh cầu. Cái cực đại phải dựa trên cái cực tiểu để tồn
tại. Không có cái cực tiểu thì không thể có cái cực đại được. Càn không
nằm gọn trên đầu một sơi lông tơ chính là ý nghĩa ấy. Sự lớn nhỏ sai
biệt trên mặt Sắc tướng và hiện tượng không còn là sự lớn nhỏ nữa nếu ta
đứng trên bình diện tuyệt đối bình đẳng và dưới cặp mắt của nhà tu hành
đạt đạo, sống với tâm vô phân biệt, hay sống với lý Bất Nhị và Sự Sự
nhất thiết vô ngại. Hiểu lẽ mạnh yếu, lớn nhỏ của các pháp trong vòng
tương đối, lại hiểu lẽ Sống Chết chỉ là thường tình trong cõi đời này
thì tâm của người đạt đạo lúc nào cũng tự tại an lạc.
Mục 15 : Vũ trụ và con
người
Đứng trước vũ trụ bao la, giữa
không gian và thời gian rộng lớn bất tận, con người phải đóng một vai
trò như thế nào để xứng đáng với địa vị của mình trong Tam Tài ? Con
Đường Lý Tưởng phải chọn để tiến tới đỉnh Vinh quang Hạnh phúc Tuyệt đối
phải ra sao ? Và sự liên hệ mật thiết giữa con người biết suy nghĩ với
vũ trụ vô hồn phải như thế nào ? Đó là những mối ưu tư chính đáng và
những hoài bão thiết tha của những người có Đạo Tâm.
* Xét ra thì Con người và Vũ
trụ chỉ là Một theo lý Vạn vật đồng nhất thể. Cả hai đều phải chịu chung
quy luật Sinh, Trụ, Dị, Diệt trong guồng máy dịch biến chu trần : Nguồn
sống là Đạo, là Phật, là Tâm. Nguồn sống mầu nhiệm cao cả, thiêng liêng
tràn lan khắp nơi, triền miên, ẩn hiện, có mặt trong toàn thể các sinh
vật, từ cỏ cây côn trùng, muông thú… cho tới loài người. Thậm chí đến cả
những khoáng chất, những thể xác vô giá vô tri vẫn có sự Sống. Mọi sự
vật trên đời này chẳng gì không là Đạo, là Phật, là Tâm. Nguồn sống là
ánh sáng. Trí huệ biến chiếu muôn phương. Nguồn sống được thần linh hoá
dưới nhân cách Phật Tỳ Lô Giá Na hay Phật A Di Đà. Đứng trước sự sống
thì muôn loài như nhau. Ai làm ngăn trở nguồn sống, xúc phạm tới sinh
mạng của kẻ khác, vật khác thì người ấy đắc tội với Phật, Trời. Đạo và
Phật ở ngay trong lòng ta, sở dĩ ta chưa thấy được Phật của mình chỉ vì
Phật ở trong ta còn bị giam giữ (Như Lai tại triền). Nếu ta biết làm
sáng tỏ chiếc đèn lòng của mình để vô minh tan biến, thì Đức Phật A Di
Đà của ta sẽ xuất triền và tỏ rạng.
* Theo lý bình đẳng của các
pháp thì chẳng phải Tâm có trước hay Vật có trước, mà Tâm, Vật đồng thời
có. Vật sở dĩ có là do tâm biến hiện, mà Tâm biến hiện vì có huyễn tướng
vật thể tồn tại. Tâm Vật hoà hợp tương tức tương nhập mới là Thể viên
mãn tạo ra vũ trụ vạn hữu.
* Chẳng phải vì thích ứng với
hoàn cảnh mà con người tồn tại trải qua quá trình chuyển biến từ cấp
sinh vật hạ đẳng, leo dần tới địa vị con người. Chẳng phải vì sự tuyển
lựa tự nhiên và đấu tranh đào thải mà con người hiện hữu. Không có một
định mệnh khắt khe nào an bài số phận con người. Không có một vị Thần
Linh nào ban ân giáng hoạ cho ai cả. Cũng không phải vì ngẫu nhiên, vô
tình hay hữu ý mà vạn vật xuất hiện, mà chính là do nhân duyên mà vạn
hữu được kết hợp. Mọi vật đều giả diệt, giả sinh thuận theo luật nhân
quả nghiệp báo tự nhiên mà hiện hữu… Hạnh phúc hay không đều do mình tự
tạo. Trên lý Vô ngã, Vô thường, đạo Phật đã xây dựng thuyết Duyên khởi
trùng trùng để làm sáng tỏ lẽ sống chết, nào là : Nghiệp cảm duyên khởi,
Lục đại duyên khởi, A lại da duyên khởi, Chân như duyên khởi và Pháp
giới trùng trùng duyên khởi.
* Thiên nhiên, con người, bản
năng và tâm linh đều biến đổi không ngừng. Sự khác biệt giữa con người
và vạn hữu chỉ ở phần Sắc Tướng, hình hài, tuỳ nghiệp Thức phải mang.
Con người và vạn hữu đều cùng chung một cấu trúc. Một tế bào trong cơ
thể con người giống như của vũ trụ, do đó tâm con người là tâm điểm của
vũ trụ, còn xác thân tứ đại của con người là khung cảnh của đại vũ trụ
thu hẹp lại. Vũ trụ hằng chuyển trong con người, và mọi định luật dịch
biến trong vũ trụ đều áp dụng cho con người cả hai phần Danh và Sắc. Do
đó con người phải có bổn phận cao cả như vũ trụ mỗi ngày mỗi tươi đẹp
hơn.
Sinh ra, lớn lên, làm việc để
trả nợ cơm áo, con người thấy mình, khi bước vào đời, mang một nhiệm vụ
cao cả, là phải gánh vác cho sự tiến bộ chung của toàn thể nhân loại.
Nếu có một sự vô tình lảng tránh trách nhiệm chung ấy, của một phần tử
nào trong xã hội loài người, thì đó chỉ là bức màn vô minh rủ xuống chỗ
đó để che lấp phần linh quang riêng của phần tử đó mà thôi. Bước chân
vào đời, con người không thể tự coi mình đứng ngoài vòng vũ trụ và xã
hội loài người, hay coi vũ trụ và nhân loại là đối tượng khách quan với
mình. Nhiệm vụ đồng hành của con người và vũ trụ được thể hiện ở sự tiến
hoá chung của nhân loại trong mối tương quan chằng chịt nhân quả trùng
điệp của mọi người trên trần gian. Bởi vậy sống ở đời theo đúng nghĩa
của chữ Sống, phải hành động như một sinh linh có ý thức trách nhiệm
cao, nhận gánh vác sự mạng do vũ trụ vĩ đại đặt lên đôi vai nhỏ yếu của
mình, có như thế thì con người mới khỏi bị tấm màn vô minh vây bủa, đưa
đẩy mình vào con đường ích kỷ nhỏ hẹp, chỉ biết có phận mình, không thấy
quyền lợi của tha nhân, sống thản nhiên góp mặt với đời cho qua những
ngày vô vị để rồi trở về với cát bụi, tàn lụi như cỏ cây.
Nhìn dòng nước chảy hay đám
mây lơ lửng bay, là thấy cảnh vật mỗi lúc mỗi đổi mới. Đời người cũng
vậy. Dòng nước sau đẩy dòng nước trước chảy mau về đại dương. Thế hệ
người đi sau thôi thúc lớp người đi trước phải dồn bước về tương lai.
Thế hệ hiện tại có trách nhiệm đối với thệ hệ mai sau. Lớp người đi
trước mang di sản của tiền nhân để lại trao cho thế hệ đến sau cùng với
công sức của mình.
Những bước tiến gắn liền trách
nhiệm của mọi người trong một thời đại và mọi khung cảnh, chẳng những
đối với các bạn đồng ngũ ngày nay mà cả đối với những người ở các thế hệ
mai hậu nữa. Hai tiếng “nhân sinh” mang cả hình thức của không gian sinh
động và của thời gian chuyển biến không ngừng.
Cá nhân không thể sống tách
rời khỏi cộng đồng xã hội loài người, mà xã hội nhân quần cũng không thể
tồn tại nếu vắng bóng cá nhân. Đời sống xã hội đã gắn liền với đời sống
cá nhân theo lý Cộng nghiệp, Tự nghiệp, và Cộng biến, Tự biến trong thế
liên hoàn trùng trùng duyên khởi.
Nhìn dòng nước chảy, ta thấy
có sự kết hợp chặt chẽ giữa các giọt nước trong dòng suối với nhau để
tạo thành một dòng suối luân lưu bất tức. Dòng nước ngưng chảy nếu các
giọt nước bị đứt đoạn, mất keo sơn gắn bó. Cuộc đời cũng vậy. Dòng đời
lơ lửng nhân thế trôi nổi. Bọt nước Vô thường biến hiện ở nơi đầu ghềnh
sinh tử. Xã hội nhân sinh, tập thể biến dịch hằng chuyển mang sắc thái
mông lung, nhưng vẫn giữ được cái tính đặc thù, vì trong cái Thể chung
vẫn có Tướng, Dụng riêng. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn nhận cái Thể chung
ấy mà xoá bỏ những nét dị biệt của nhóm nhỏ, để tiến tới sự nhận định về
thiết lập một xã hội Chủ thể duy nhất là xã hội của toàn thể loài người
nói chung. Không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, giàu nghèo, văn
hoá, tôn giáo…
Nhân loại là Thể tính không
riêng tư, còn cá nhân và các đoàn thể quốc gia và đảng phái chính trị là
những hình thức dị biệt sai thù, quyền lợi khác nhau. Xã hội của toàn
thể loài người hiện nay đang lâm vào tình cảnh cốt nhục tương tàn, cá
lớn nuốt cá bé, gây bởi lòng vị kỷ cá nhân. Chữ “Cá nhân” ở đây nên hiểu
theo nghĩa rộng là đoàn thể quốc gia mang nặng tính chất phân biệt chủng
tộc và sắc thái ái quốc bộ lạc cuồng nhiệt. Chúng ta hãy mau dẹp bỏ mọi
tư tưởng kỳ thị đưa tới những chế độ chủng tộc hẹp hòi ác độc, dã man,
phát xít, những chế độ nuôi dưỡng và bám giữ lấy những quyền lợi cá
nhân, gia đình và quốc gia nhỏ bé, để nới rộng vòng tay nhân ái bao
quát, tiến tới sự liên kết và thiết lập một cộng đồng hay đại gia đình
của loài người nói chung bằng tình thương thay vì tranh chấp hận thù.
Hãy công bằng, nhân ái với mọi người, diệt trừ ngã ái, ngã si, hiểu sau
lẽ phải là mọi sự vật đều Vô ngã, Vô thường, Biến dịch, nhưng lại diễn
ra trong thường hằng của bậc thang tiến hoá chung.
Đám mây u ám với những sấm sét
ầm ầm còn kéo đến bao phủ đe doạ khắp nơi, một cơn bão khủng khiếp có
thể tận diệt muôn loài, nhưng đó lại có thể là triệu chứng một cơn đau
của một cơ thể đầy nhựa sống, cố sức vươn lên, chuyển biến, từ trạng
thái vô minh đến tuệ giác, từ cuồng loạn tới thái bình thịnh trị vĩnh
cửu, để loại bỏ những cặn bã mà trở nên tốt đẹp. Mây đen tuy kéo đến bao
phủ bầu trời, nhưng nếu lại được một ngọn gió dịu hiền cuốn sạch, thì
nền trời xanh biếc lại phô bày mầu thiên thanh tươi mát. Sự cứu vãn nhân
loại bắt đầu từ sự cứu vãn tâm linh của từng cá nhân ý thức được hiểm
hoạ của một sự tận diệt muôn loài, biết quay đầu về chân lý, và trở về
với Chân tâm, Phật tính của mình.
Mục 16 : Đạo và Đời
Sống giữa một kỷ nguyên mà
Khoa học được tôn sùng như một vị Thần linh uy quyền vạn năng, có thể
làm mưa làm gió biến đổi thời tiết, chế ngự thiên nhiên, chuyển những
vùng sa mạc cát bỏng khô cằn thành đồng ruộng phì nhiêu, phá băng giá,
lấp cạn biển, bạt núi rừng, ngăn thác nước, đem điện lực của Trời và sức
mạnh của sóng, nước, gió, lửa phục vụ cho con người nâng cao đời sống
của nhân loại ngang hàng Thần tiên, nhưng cũng có thể bắt sinh linh đi
ngược trở về đời sống hang động thời Tiền sử.
Ta cần phải biết rõ mặt trái,
mặt phải của khoa học ra sao, cùng những điểm dị đồng giữa Khoa học và
Đạo học (nhất là đối với Đạo Phật) để tìm một con đường lý tưởng, thích
hợp với loài người, và để người người cùng nhau, tay trong tay siết chặt
đem hết tâm lực ra cùng xây dựng một đời sống mới tốt đẹp hơn.
* Điểm giống nhau giữa Phật
giáo và Khoa học hiện đại là từ 25 thế kỷ qua, Phật giáo đã đẩy lui vấn
đề siêu hình ra phía sau hậu trường hoạt động, đẩy lui những tư tưởng
khổ khan, trừu tượng để báo động tình trạng khẩn trương về thân phận khổ
đau của con người.
Giống như các tư tưởng gia
đương thời. Phật giáo đã thức tỉnh con người ý thức được chình mình và
giúp con người nhận thức được hoàn bị hơn, lại chỉ cho con người phương
thức để tự giải thoát, không như những triết gia hiện đại nhìn cuộc đời
thấy hoàn toàn là phi lý, xấu xa và bi quan chán nản đến buồn nôn, không
giải quyết được gì cả. Trái lại, với lý Vô ngã, Vô thường và Tứ Diệu Đế
đã bao hàm ý thức giác ngộ về mình và người, đã chứa sẵn một năng lực
giải thoát cho toàn thể.
Chỗ giống nhau ở hai bên ở
điểm nhà Khoa học dùng trí phân biệt của sáu Thức để suy gẫm tìm tới lý
tưởng biến hoá sinh diệt của sáu Trần, nhưng ngoài trí phân biệt ấy.
Phật giáo còn dùng cả cái Trí Vô phân biệt làm công cụ quán chiếu tự
thân. Đối tượng nghiên cứu của Phật học chẳng hạn cuộc ở sắc, thanh lục
trần mà con Tâm pháp và Vô vi pháp nữa. Nhà Khoa học ngày nay tuy đôi
khi cũng dùng Tâm để nghiên cứu trong địa hạt Điện tử, nhưng đối với bản
thân của Tâm thì lại bỏ quên, hay chỉ nghiên cứu qua loa, hời hợt và
nguyên nhân không ngoài hai lý do :
a. Khoa học thường vẫn cho Tâm
và Vật là hai đối tượng riêng biệt và cho rằng hiện tượng của vật chẳng
phải do cái Tâm chủ quan có thể thay đổi được nên họ cho là đã nghiên
cứu hiện tượng của vật chất thì hà tất còn phải nghiên cứu Tâm lý nữa.
b. Dù có một số Khoa học gia
đã nhận thấy tầm quan trọng của Tâm và đem Tâm ra khảo cứu, nhưng công
cụ để khảo cứu lại vẫn dùng cái Tâm phân biệt, nhị nguyên, chứ không
dùng cái Tâm vô phân biệt, nhà Tâm lý học ngày nay vì đã dùng những công
cụ không tinh xảo là cái Thức chủ quan để nghiên cứu, nên những gì mà họ
khám phá được trong khu bí ẩn của Tâm chỉ là một mớ ít ỏi những hiện
tượng hoặc phản ứng của Tâm lý trên Sinh lý, còn đối với những pháp như
Tâm Vương, Tâm Sở trong Bách pháp thì vẫn chưa thu hoạch được gì đáng
kể.
Đối tượng thực hiện của Phật
giáo chẳng phải là vật chất thô kệch mà là Tâm pháp tế vi, nên công cụ
và phương pháp dùng để thực nghiệm chẳng giống như công cụ và phương
pháp dùng trong các phòng thí nghiệm.
Khoa học đưa đến cái biết dựa
trên Thức biến đổi từ lúc này qua lúc khác, còn Phật học lại đưa đến cái
biết dựa vào tâm ngàn đời không thay đổi.
Đó là cái biết “thực biết” bắt
nguồn từ “Chân” còn cái biết của Khoa học do Vọng mà có. Làm sao có thể
so sánh Chân với Vọng, cũng như hạt châu với mắt cá được, tuy vẫn biết
Vọng phát xuất từ Chân, và chẳng thể lìa Chân mà có được.
Vì cái biết của Khoa học là
cái biết tương đối, nên cái Hành do đó chứa đầy mâu thuẫn, khổ đau. Sự
phát triển của khoa học kỹ thuật tân tiến, với các máy tính điện tử, các
máy truyền thanh, truyền hình tối tân đã làm cho loài người đạt tới
trình độ Ngũ thông, tạo được nhiều báu vật và tiện nghi vật chất để phục
vụ cho đời sống của con người, điều đó chẳng ai còn hoài nghi phủ nhận
cả.
Ngày nay khoa học đã đạt được
những thành tích đáng kể nhằm mở rộng tầm hiểu biết của con người trong
lãnh vực không gian bằng cách đặt những máy móc trên các vệ tinh nhân
tạo để chụp hình rồi chuyển về trái đất những ảnh rõ rệt về sự hình
thành của những Thiên hà cách xa Thiên hà của chúng ta hàng tỷ tỷ năm
ánh sáng. Với cây đũa thần Nguyên tử năng, khoa học đã làm lung lay tới
cội rễ lý luận của nhiều tôn giáo trên hoàn cầu xưa nay vẫn đặt niềm tin
vào sự hiện diện của một vị Thượng đế toàn thiện toàn năng, ban phúc
giáng hoạ và ta ra muôn loài, do đó đã làm mất niềm tin vào giá trị
thiêng liêng của tinh thần đạo đức nơi đa số quần chúng ở Tây phương vốn
sùng thượng vật chất.
Nhưng đối với Phật giáo ở Đông
phương lại khác hẳn vì khoa học càng tiến bộ bao nhiêu lại càng gần chân
lý của đạo Phật bấy nhiêu. Bởi nhận thấy bước đường mà khoa học phải đi
còn dài mới khám phá được mọi bí ẩn của thiên nhiên, nên Einstein đã nói
: “Những điều mà chúng ta biết chỉ như một giọt nước, còn những điều mà
chúng ta chưa biết thì mênh mông như đại dương”. Và cũng bởi nhận thấy
những tư tưởng cao thâm của Phật giáo phù hợp với bước tiến của khoa học
trong lãnh vực : “Vạn vật đồng nhất thể”, nên nhà bác học Einstein có
những lý thuyết phù hợp với các lý thuýêt tân tiến nhất của loài người
thì đó phải là Phật giáo. Chính những phương pháp làm việc và kết quả
của những phát mình khoa học ngày nay là những điều chứng mình cụ thể
nhất cho lời Phật dạy từ trên 25 thế kỷ qua. Xin đan cử một vài thí dụ :
1. Nhà Khoa học nào có khả
năng phát minh lớn nhất, là người đã biết xa lìa những kiến thức mà mình
đã thu thập được từ trước tới nay, cũng giống như người Phật tử mà rũ bỏ
được Phiền não chướng và Sở tri chướng mới được coi là ngộ đạo.
2. Nhà Vật lý nói rằng : Khi
đi sâu vào thế giới Điện tử thì phải giã từ mọi ý niệm về có, không;
nhân, quả; trước, sau; sinh, diệt… nghĩa là tất cả những cặp mâu thuẫn
xưa nay vẫn áp dụng trong đời sống thường nhật, cũng giống như người tu
hành phải lìa bỏ mọi chấp thô, chấp tế, huyễn lớn huyễn nhỏ ở mọi cấp tu
chứng mới tiến tới ngộ vô thượng chính đẳng giác.
3. Phật dạy : “Nếu đập tan cái
Ngã chấp thì sẽ được năng lực tinh thần hùng hậu không gí sánh nổi”.
Ngày nay các nhà Vật lý học đã chứng minh rằng : nếu đập tan vật chất
đến cực vi thì có thể biến vật chất hết sức nhỏ, thành năng lực hết sức
lớn. Hai điều này thật giống nhau nếu ta hiểu rằng người tu hành khi đã
phá được Ngã chấp thì có được Đại Hùng, Đại Bi, Đại Dũng, và với sức
mạnh liên kết của Đại Trí thì nguyện vọng gì cũng đạt được, sức cản nào
cũng dẹp tan.
Theo Khoa học gia ngày nay,
các chất tử (Corpuscule de matière) có những phối hợp chằng chịt hỗ
tương. Chúng dung thông dung nhiếp với nhau để tồn tại. Như vậy đủ chứng
minh được quan niệm Tương tức Tương nhập, Trùng trùng duyên khởi, và Sự
sự nhất thiết vô ngại của Kinh Hoa Nghiêm.
Những lời vàng ngọc Phật dạy
từ ngàn xưa tới nay và mãi mãi sau này, lúc nào cũng là Chân lý Tuyệt
đối không bao giờ đổi thay. Còn những lý thuyết của Triết học và Khoa
học thì cái nọ phủ nhận hoặc thay thế cái kia, và mãi mãi ở tư thế tìm
tòi, thử nghiệm.
Đạo Phật và Khoa học khác nhau
trên căn bản : một bên thì đi sâu vào Tâm linh, một bên thì đi sâu vào
Lý trí. Lấy Tâm linh làm nênf tảng, đạo Phật có khả năng đưa nhân loại
tới cảnh hoà bình thịnh trị vĩnh cửu, hạnh phúc viên mãn, trong một nền
văn minh tột đỉnh bằng các thuyết : “Nhất thiết duy tâm tạo”, “Tự tính
Di Đà, duy tâm Tịnh độ”, “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính”,
“Tương tức, tương nhập”, “Trùng trùng duyên khởi”, “Vạn vật đồng nhất
thể”, “Bất Nhị”, “Bình đẳng tuyệt đối”, “Trung Đạo”, “Mình là người,
người là mình”, “Một là Tất cả, Tất cả là Một”, “Lý Sự viên dung”, “Sự
sự vô ngại”… để thẳng tiến tới đỉnh cao là đập tan chấp ngã, chấp pháp,
sáp nhập tâm linh con người và vũ trụ thành một khối theo lý “Vạn vật
đồng nguyên”, để xây dựng một xã hội lý tưởng cho nhân loại ngày mai.
* Bản chất của Triết học và
Khoa học thuộc về Nhị nguyên Tương đối, cưa đạt được tới Nhất nguyên
Tuyệt đối, còn bị hạn chế bởi không gian và thời gian, tuỳ thuộc vào địa
phương và thời gian mà thay đổi lập trường, chưa một ai trong giới khoa
học hiện nay dám tiên đoán rằng : Khoa học có thể đạt được thực tại
Tuỵêt đối và đem lại hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu cho loài người
trong bao lâu nữa, bởi vì khoa học chưa đi đúng đường lối, dùng lý trí
nhiều hơn tình thương, và vẫn còn coi ngoại vật là đối tượng của mình.
Còn Phật Pháp đã là sự thật Tuyệt đối từ lâu rồi, không vì không gian và
thời gian mà thay đổi, và chắc chắn với đường lối Bồ tát đạo, lấy nhẫn
nhục, từ bi vô lượng và tình thương chân thật, coi mình như người, người
như mình mà xử thể tiếp vật, có thể dẫn nhân loại tới chỗ chân thường,
chân lạc.
Khoa học chỉ chú trọng tới
ngoại giới và xao lãng phần nội giới phong phú, sâu sắc, do đó không
trực giác được Thực tại toàn diện. Người ta phải nhìn nhận rằng : Khoa
học thất bại không chứng minh được là Vật chất đẻ ra Tinh thần. Và Ngẫu
nhiên sinh ra sự Sống. Buộc lòng người ta phải chấp nhận sự phản ngẫu
nhiên hay tin vào sự có mặt, bất khả tri của trực giác tâm linh siêu
hình hay sức mạnh tinh thần đạo đức, không thể có vô ý, vô tình và ngẫu
nhiên để giải thích sự tiến hoá của quần sinh trên quá trình dẫn tới
Chân, Thiện, Mỹ. annh lamtcaiee tay sie
Các triết gia và khoa học gia
đều vọng cầu vào Lý trí và ỷ lại vào Tri thức, trong khi Phật giáo lại
lên án và phủ nhận Lý trí cùng phá bỏ Tri thức, coi đó là những chướng
ngại cho việc tiến tới Bình đẳng tính và Vô phân biệt tính của Chân Tâm.
Sự cách biệt chia rẽ giữa Thượng đế và con người, giữa con người và đồng
loại khác màu da, chủng tộc, đảng phái, thành kiến; giữa con người và
thiên nhiên ngày càng thêm sâu đậm, làm cho tâm con người ngày càng phức
tạp, đa đoan.
Vì hướng đi của khoa học quá
phiến diện, máy móc, nên loài người sống bên nhau mà thiếu niềm tin ở
thiện căn của con người, và thiếu Bác ái, Từ bi; chỉ đối xử với nhau
thuần bằng khối óc khô khan vị kỷ, chỉ thấy quyền lợi của cá nhân mà
không thấy quyền lợi của tất cả, nên dễ ly tán, phân tranh, giết hại
nhau không thương xót. Kết quả khốc hại của học thuyết Duy lý do Lý trí
hướng dẫn, làm cho con người tự huỷ diệt mình khi muốn huỷ diệt người
khác, vì thế mà nhân loại ngày càng sa đoạ. Khi đã nhận có Ta thì đồng
thời cũng nhận có cái chẳng phải Ta đối lập. Ở phi ngã là tất cả những
gì ở ngoài ta và cả ở trong ta nữa. Ở ngoài ta nó xui giục ta chiếm đoạt
cho đầy lòng tham nên tâm trí ta luôn luôn căng thẳng trong cuộc chạy
đua với tham vọng như hình với bóng. Ở trong ta nó đẻ ra con người khổ
đau, tự xé xác moi ruột gan mình, đầy đoạ mình trong những cơn cuồng
loạn tinh thần.
Với sức mạnh tâm linh, Phật
giáo còn giúp con người :
1. Đấu tranh với chính mình để
tự giải phóng khỏi những độc tố ràng buộc của Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi,
Tà kiến… hầu đạt tới một đời sống thanh cao, hạnh phúc.
2. Đấu tranh với hoàn cảnh, vũ
trụ để giải phóng con người khỏi hệ luỵ vào thiên nhiên, biến cải luật
thiên nhiên tàn bạo thành sức mạnh giúp cho con người khỏi đói lạnh. Bài
học lịch sử của những trận thế chiến vừa qua đã cho chúng ta thấy rõ :
không có quốc gia nào hoàn toàn thắng lợi, không bị thiệt hại mà toàn
thể loài người nói chung đều bị tổn thất bởi hậu quả của các loại vũ khí
giết người bén nhạy, gieo rắc tai hoạ khắp nơi, và tất cả các quốc gia
trên thế giới đều phải chịu chung những khoản thuế nặng nề để chi cho
ngân sách Quốc phòng. Toàn thể nhân loại nghèo đi rất nhiều vì đã phí
phạm tài nguyên thiên nhiên, máu xương, tiền của trên các bãi chiến
trường.
Càng tôn thờ xa hoa vật chất
lại càng dìm sâu tinh thần, đạo đức xuống bùn đen bấy nhiêu. Với lòng vị
kỷ tham tàn con người còn đang thi đua xản xuất ráo riết hàng loạt mọi
thứ khi giới giết người tối tân, chẳng khác nào một nhóm trẻ điên cuồng
cầm dao gậy đe dọa đánh chém nhau, hay cầm mồi lửa đe doạ thiêu đốt nhà
nhau, thật là một cảnh tượng vô cùng khủng khiếp !
* Hai yếu tồ then chốt của sự
tiến hoá và hạnh phúc của nhân loại là Trí tuệ và Từ bi. Thiếu Trí tuệ
thì con người sẽ khổ vì dốt nát ngu đần. Thiếu Từ bi, thì Trí tụê là lợi
khí sắc bén để tiêu diệt lẫn nhau, hòng thoả mãn lòng tham vô đáy. Tình
thương bao la và Trí tuệ sáng suốt đi đôi với nhau mới xây dựng được
chân hạnh phúc. Có Trí mà thiếu Bi là cái Trí sát nhân của Ma vương, Ác
quỷ.
Sự khác biệt giữa Đạo học và
Khoa học ở chỗ có thực hiện được không lòng Bác ái Từ bi, có thể hiện
được hay không lý Bất Nhị và Tâm Bình đẳng, Vô phân biệt. Hiện thời phần
đông nhân loại vẫn còn đi xuống dốc, mang nặng hành trang sai biệt và
phân biệt giai cấp giàu nghèo, lớn nhỏ, chủng tộc, màu da và chủ nghĩa
đủ loại mà thiếu Tâm từ, cho nên còn lùi bước thay vì hướng thượng tiến
lên để đạt tới hoà bình, tự do, hạnh phúc thật sự.
* Xét kỹ thì khoa học chỉ là
một con dao hai lưỡi, tự thân nó không tốt cũng không xấu, tuỳ Tâm con
người sử dụng. Nó có thể tạo ra Bồng lai, Tiên cảnh hay thiết lập cõi
Địa ngục ở nơi cõi trần gian này.
* Nhưng cũng may thay trong
cảnh hoàng hôn u ám của thế giới ngày nay, đã le lói những tia hy vọng
ảo mờ báo hiệu Hoàng kim thời đại có thể sắp tới. Bởi vì gần đây đã thấy
xuất hiện một nhóm học giả Tây phương (Nhóm Cahiers de l’ Étoile bên
Pháp), năm 1928, đã xuất bản tờ tuyên ngôn hô hào nhân loại trở về nguồn
với đạo Nhất Nguyên. Đồng thời cũng có một số khoa học gia lỗi lạc nhận
thấy rõ mối nguy cơ của một hướng đi lệch lạc của nhân loại thiên về
máy móc, cơ khí, nhằm đáp ứng lòng tham vô đáy, mải chạy theo bả vinh
hoa vật chất, đã đi sâu vào thế giới Điện tử thì buộc lòng họ phải suy
tư, và đặt chủ quan của họ vào công cuộc khảo cứu, thay vì vẫn quen đưng
ở vị trí khách quan để nghiên cứu ngoại giới.
Khoa học ngày nay đã trở nên
trừu tượng hơn xưa. Nhiều nhà khoa học đường thời khuyên ta nên dùng
thần trí mà rọi sâu vào thế giới tâm linh. Với lối nhìn đó, họ trở nên
linh động, uyển chuyển và lý thuyết hơn xưa, thay vì quyết đoán ngạo
nghễ một chiều như đa số học giả thuộc thế kỷ thứ 19.
Những nguyên lý : “Vật chất và
Năng lượng bất diệt” được trở thành : “Vật chất là năng lượng, và năng
lượng là vật chất ; “Nhất thể lưỡng diện”, “Khí chất tương sinh”, hay
“Tương tức và tương nhập” v.v…
Chính nhờ những nhà khoa học
tân tiến này mà nhân loại ngày nay đã thấy rõ Tâm và Vật chỉ là một, hay
“Vật chất và Năng lượng không hai” (E = M).
* Các Khoa học gia đó cho rằng
: “Những hiểu biết về vũ trụ và những trực giác trừu tượng của con
người, rồi đây sẽ quy về một mối, và cái một tiềm ẩn trong vũ trụ rồi
đây sẽ phơi bày ra ánh sáng. (Toutes les perceptions que l’homme a de
l’Univers se ramènent finalement à l’Unité, et la profonde Unité cachée
de l’Univers sera enfin dinudée). Như vậy thì càng tiến xa trên đường
khám phá ra Thực tại tối hậu của vũ trụ. Khoa học lại càng gần Chân lý
Tuyệt đối “Không hai” của đạo Phật bấy nhiêu.
* Ta nhận thấy : thảm hoạ của
một cuộc thế chiến bằng những khí giới tân tiến của khoa học sẽ tận diệt
loài người, và Hạnh phúc tuyệt đối của nhân loại ở một cõi Địa Dưỡng văn
minh, xán lạn, chỉ do ở sự lựa chọn giữa hai nẻo Thiện và Ác; một là trở
về với Chân Tâm, Phật tính, sống một cuộc đời lành mạnh biết đủ và biết
ngưng lại đúng lúc, hai là buông thả cho thất tình lục dục tự do tung
hoành, theo tiếng gọi của Tham, Sân, Si… tiến sâu vào ngõ hẻm của vật
chất xa hoa phù phiếm. Hạnh phúc của nhân loại chỉ có nếu Bi, Trí phát
triển song song, hay nếu đạo và đời cùng tiến bước về nẻo Thiện.
* Đã đến lúc chúng ta phải
thức tỉnh và hướng ngay về Tâm mình là xoá nhoà biên cương cố chấp, hoà
Tâm linh vào Thực tại đại đồng, hiệp cùng bao cái Ta khác, bạn và thù để
thực hiện lý Bất Nhị, thay vì chỉ nghĩ đến mình, lại hết lòng phục vụ
tha nhân, khiến cho niềm an lạc vô tư nảy nở, thay đổi hẳn nếp sống xưa,
làm cho ta nhìn đời bằng cặp mắt khác, buộc ta phải sửa mình để tuân
theo một nếp sống mới, lành mạnh, trong cảnh thanh tịnh của tự tâm.
* Phần đông chúng ta chẳng
thực tế chút nào cả. Ta chỉ thở than luyến tiếc bóng ma của thời quá
khứ. Ta cứ ngồi mất thời giờ bới đống tro tàn của dĩ vãng, hoặc ước ao,
khát vọng đợi chờ tương lai mờ mịt, chẳng biết bao giờ tới mà chẳng chịu
quan tâm đến hiện tại sờ sờ ngay trước mắt. Nhưng quá khứ đã mất hút
rồi, còn tương lai lại chập chờn hư ảo xa vời, đòi hỏi những điều kiện
chẳng thuộc mình giải quýêt. Chỉ có thực tại nhãn tiền mới chính là của
ta. Nhà văn André Maurois đã có những vần thơ đẹp ca ngợi phút giây vĩnh
cửu hiện tại :
Laisses au vague avenir ses
lointaines promesses.
Et au sterile passé son sourire
d’adieu
Bannis les rêves d’or et les molles
tristesses
Le Présent est à toi, et le reste à
Dieu.
Tạm dịch :
Những lời hứa hẹn xa vời
Hãy xin để lại cho thời mai sau.
Nụ cười buồn vĩnh biệt nhau.
Thì xin giữ lại nhịp cầu đã qua.
Mộng vàng uỷ mị lìa xa.
Phút này mới thật của ta trên đời.
Ngoài ra muôn sự tại Trời !
Cùng với ý nghĩa đó, một Thiền
sư Việt Nam đời Lý đã để lại mấy dòng thơ đạo vị như sau :
Đản tri kim nhật nguyệt
Thuỳ thức cựu xuân thu
Thuỷ trúc, hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân, minh nguyệt lộ toàn chân.
Dịch :
Việc ngày nay, biết ngày nay,
Còn xuân thu trước ai hay làm gì ?
Ngoại cảnh, nào đâu phải,
Hoa vàng với trúc xanh ?
Lộ vẻ chân toàn vẹn.
Kìa mây trắng, trăng thanh !
Xưa một vị Trời đã hỏi Đức
Phật : “Bạch Thế Tôn ! Cớ sao chư Tăng lại có một nếp sống tự tại, hạnh
phúc dù hàng ngày chỉ dùng có môt bữa cơm chay ?”.
Phật trả lời : “Vì họ không
than van sầu muộn về những chuyện đã qua, không nóng nẩy khát vọng về
những điều chưa tới, chỉ ung dung tập trung tư tưởng vào việc hiện tại.
Tâm không tham luyến sân hận, lúc nào cũng thảnh thơi trong cảnh hoan
lạc đạo an bần”.
* Bí quyết để có được hạnh
phúc bền vững thật là giản đơn. Tuy nhiên đã mấy ai thực hiện được Chân
lý đến nơi đến chốn ? Đó là nếp sống bình thường, giản dị, với những gì
sẵn có không mơ ước hão huyền cái chưa tới, cũng chẳng luyến tiếc dĩ
vãng xa xưa, vì ta đã hiểu rõ lý Vô ngã, vô thường, nhân quả, biến dịch
của mọi sự vật trên đời này. Với triết lý : “Tri túc, tri chỉ”, và “Bình
thường tâm là đạo” ta thấy mọi sự vật ở trên đời đều theo lý Bất Nhị, và
Như thị, nên ta chẳng chạy theo vật chất tài danh, không quan tâm đến vẻ
bên ngoài, chỉ cần luyện cho cái tâm biết đủ, luôn luôn bình thản và mát
dịu như nước.
* Có những bậc già nua mà tâm
hồn còn tươi trẻ như nụ hồng hàm tiếu. Họ chẳng muốn hưởng thú an nhàn,
nghĩ dưỡng già chẳng làm gì cả, mà say sưa hoạt động không ngừng để mưu
cầu hạnh phúc cho đời, tiếc từng phút trôi qua vô ích. Tâm trí và tài
năng của họ trổ hoa tươi đẹp trong tuổi vãn niên như những nhánh phong
lan phô bày sắc hương trên cành khô mộc. Lại có những kẻ tuy tuổi còn
niên thiếu mà tâm hồn đã sớm cằn cỗi, xác xơ như những khúc cây hết
nhựa, chứa đầy thành kiến mục nát và tư tưởng lạc hậu, việc gì cũng đắn
đo suy tính, như những ông già bất lực không dám làm điều gì, sợ thiệt
đến thân, chỉ thích sống biếng lười, lại cho như thế là không ngoan, tuy
sống mà như đã chết, vì không thích ứng được với dòng đời luôn luôn biến
chuyển.
Ta phải biết sống trong hiện
tại, vui với đạo giải thoát, thảnh thơi với Tâm bình thường, rũ sạch bụi
trần để chỉ thấy một mùa xuân thanh lương tươi mát ở trong ta. Ngày đã
qua thì chìm trong bóng tối. Phút chưa tới thì huyền ảo mơ hồ. Chỉ có
tại đây và bây giờ là Chân thật (Đương xứ tức Xuân). Sao lại chán ghét
cái hiện tại, luyến tiếc quá khứ và đợi chờ tương lai ? Hướng về ngày
mai hay nhớ tới ngày trước đều là thái độ trốn tránh hiện tại, hay trốn
sống một cuộc đời bình thường. Ta mang cái tâm điên đảo mà ngồi vào bàn
ăn, hay leo lên giường ngủ với tâm trạng đang ăn mà ngậm bồ hòn cay
đắng, hay ngủ mê mà ôm hết nỗi xót xa đau đớn vào lòng thì trách chi
Phật chẳng bảo chúng ta không biết cách ăn cách ngủ !.
CHƯƠNG 15
NHẬN ĐỊNH
VỀ CÁC CÕI TỊNH ĐỘ
Tín ngưỡng về Tịnh độ, một nơi
được coi là an lạc, thanh tịnh, trang nghiêm, khác hẳn cõi tục luỵ trần
gian này đã có từ thời Đức Phật Thích Ca còn tại thế. Trong Phật thuyết
Quán Vô Lượng Thọ Kinh, Phật đã dạy bà Vi Đề Hy, vợ vua Tần Bà Ta La
biết là có cõi Cực lạc Tây phương, quốc độ của Phật A Di Đà, ở đó có
chân hạnh phúc, khác xa cõi Ta bà uế độ này. Lại một buổi trong vườn Um
Ma La, xứ Tỳ Na Ly nước Ấn Độ, Đức Phật đã giảng cho Đồng tử Bảo Tích am
hiểu về 17 cõi Tịnh độ như sau :
1.- Trực Tịnh độ.
2.- Thân Tịnh độ.
3.- Đại thừa Tịnh độ.
4.- Bố thí Tịnh độ.
5.- Trì giới Tịnh độ.
6.- Nhẫn nhục Tịnh độ.
7.- Tinh tiến Tịnh độ.
8.- Thiền định Tịnh độ.
9.- Trí tụê Tịnh độ.
10.- Trí Vô lượng Tịnh độ.
11.- Trí Nhiếp pháp Tịnh độ.
12.- Phương tiện Tịnh độ.
13.- Phẩm trợ Tịnh độ.
14.- Hồi hướng Tịnh độ.
15.- Thoát ly bạt nạn Tịnh độ.
16.- Giới hạnh trang nghiêm Tịnh độ.
17.- Thập thiện Tịnh độ.
(Xin coi Phật Học Từ Điển
về danh từ Thập thất chủng Tịnh độ).
Chúng ta thấy ở đây Phật đã
lấy những đức tính cao đẹp của tâm mà đặt tên cho các cõi Tịnh độ, vì
nếu thay thế danh từ Tịnh độ trong thập thất chủng Tịnh độ ở trên bằng
chữ Tâm, ta sẽ có những danh từ : Trực Tâm, Thâm Tâm, Đại Thừa Tâm, Bố
Thí Tâm, Trì Giới Tâm v.v…
Ngoài các cõi Tịnh độ nằm
trong tâm con người còn có những cõi Tịnh độ ở ngoài tâm, và tuỳ theo
không gian và thời gian, ta có những loại Tịnh độ như sau :
a. Tịnh độ tha phương trong
tương lai có :
1. Tây phương Cực lạc thế
giới hay Tây phương Tịnh
độ dưới quyền quản trị của Phật A Di Đà mà hàng Phật tử tu tịnh
nghiệp đều mong cầu được vãng sinh về đó.
2. Đâu suất Tịnh độ
dưới quyền điều khiển của Đức Di
Lặc, một vị Bồ tát nhất sinh bổ xứ, kế thừa Đức Phật Thích Ca sau này ở
cõi Ta bà. Ngài sẽ xuất hiện trong hội Long Hoa để tế độ toàn thể loài
người còn sống sót ở nhân gian mà chưa được siêu thoát để được về cung
trời Đâu Suất.
3. Diệu Hỷ Tịnh độ
là nơi cực kỳ sung sướng dưới quyền quản trị của A Sơ Phật hay Đại Mục
Như Lai.
4. Đông phương Tịnh độ
của Phật Dược Sư Lưu Ly Quang
Như Lai, là nơi thanh tịnh tuyệt đối. Không còn bệnh khổ phiền não, thân
tâm thường lạc. Muốn được sinh về các cõi Tịnh độ trên thì điều kiện
chung là phải phát tâm dũng mãnh quy hướng về các nơi đó với Tin sâu,
Nguyện thiết, Hành trì tinh tấn trong việc niệm danh hiệu các vị Phật
giáo chủ ở các cõi này.
b. Tịnh độ nơi Đương xứ
hay Quán Chiếu Tịnh độ
là cõi Tịnh độ nơi Tâm của hành giả khi đã giác ngộ thấy Phật ở quanh
tâm mình và ngay lúc này nghĩa là được trở về với Chân Tâm thanh tịnh
của mình. Khi đã lóng trong mọi vọng niệm phiền não ở giây phút Đại
Định.
c. Tịnh độ trong tương lai
ở cõi trần gian này tức là
cõi Ta bà uế độ này được cải thiện thành nơi Cực lạc, thanh tịnh để nhân
loại, người người cùng chung hưởng hạnh phúc đời đời.
* Phật pháp chỉ là phương tiện
ví như chiếc cầu thang có nhiều bậc phải leo từng bậc từ thấp tới cao.
Tuy biết các pháp chỉ là huyễn mà vẫn phải tuần tự leo từ bậc dưới (là
huyễn nhỏ) rồi tiến dần lên bậc trên cao hơn (là huyễn lớn) chứ không
thể đốt giai đoạn, nhảy vọt một cái lên bậc thang cao nhất, không qua
các huyễn nhỏ ở các cấp dưới.
Trên đường đi tới Chân lý cứu
cánh thì Cực lạc Tây phương được coi như một “Hoá thành dụ”, nghĩa là
một diệu pháp phương tiện trong Chân Không, rất cần đối với hành giả ở
cõi Ta Bà, còn phải dấn bước trên đường tu, cố gắng đạt tới bằng Tín,
Nguyện và Hành để được giải thoát và tự giác, giác tha, giác hành viên
mãn.
Tuy vậy phải quan niệm cõi Cực
lạc Tây phương cũng chỉ là một trạm nghĩ tạm thời, ở đó một thời gian để
thanh tịnh hoá hoàn toàn tâm mình, và quãng đường tu tập ở các cõi Tịnh
độ tha phương chỉ là giai đoạn để nỗ lực tu thân, hành Bồ tát đạo bằng
cách tái nhập thế mới mong đạt tới Phật quả..
Sự khác biệt căn bản giữa các
cõi Tịnh độ ở góc nhìn của người tu và trình độ giác ngộ của hành giả,
tu làm sao để thực hiện đầy đủ mục tiêu : “Thượng cầu Bồ đề, hạ hoá
chúng sinh” hay “Tự giác, giác tha, giác hành viên mãn”.
Nếu cho việc từ bỏ cõi Ta bà
là nơi cực khổ và nhìn nhận khổ đau có thật để mong được sống mãi mãi ở
nơi Cực lạc hưởng lạc riêng tư, thì đó chỉ là thái độ tiêu cực, có tu mà
chưa hành, chỉ mong đạt tới đích của Tiểu thừa, cầu phá Ngã mà chưa phá
Pháp, mong tự độ, tự giác mà chưa độ tha. Còn chán ghét Ta bà, còn mong
cầu về Cực lạc thì tâm còn phân biệt, chưa đoạn trừ được Tứ Tướng.
Đem tâm yêu ghét, nhị nguyên
đó mà cầu đạo cả Vô thượng Bồ đề thì tâm đó như vầng trăng còn lu mờ,
chưa thật tỏ sáng. Người ngộ đạo phải sống theo chân lý Bất Nhị, phá
triệt để các pháp mới tới được Trung đạo. Người tu khi đã đến ngưỡng cửa
của Niết bàn phải tỏ thái độ dứt khoát như Ngài A Nan, buông lời thệ
nguyện : “Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập, như nhất chúng sinh vị
thành Phật, chung bất ư thử thủ Nê hoàn”, rời bỏ ngay Niết bàn an
lạc rồi tự nguyện nhập Ta bà, xả thân hành đạo Bồ tát để độ tận chúng
sinh.
* Đại thừa Phật giáo không
thoả mãn với tư tưởng giải thoát cá nhân nửa vời ích kỷ mà muốn xây dựng
một thế giới tốt đẹp bằng tình thương, hay thực hiện một sự giải thoát
tập thể cho toàn thể nhân loại.
Lý tưởng của người tu hạnh Bồ
tát là xây dựng một xã hội đại đồng, bình đẳng, tự do, hạnh phúc chân
chính bằng cách giác ngộ Phật tính ở ngay trong lòng mỗi người. Trong xã
hội tươi đẹp đó thì con người làm chủ cả mình lẫn thiên nhiên, ai nấy
đều tự cứu lấy mình và giúp ích tha nhân cùng hưởng phúc.
Vì hiểu rằng : Khổ đau, nghiệp
chướng là lẽ thường ở đời nên người hành đạo Bồ tát không lẩn trốn khổ
đau, còn coi đó là phương tiện để xây dựng hạnh phúc, là ngọn lửa hồng
để nung luyện chí cao, hay là duyên lành để thúc đẩy chóng kết thành
Phật quả.
Người hành đạo Bồ tát hiểu
rằng : giá trị và ý nghĩa của cuộc đời không ở chỗ tìm sự sung sướng an
lạc cho bản thân làm mục tiêu, mà lại lấy sự thực hiện hạnh phúc tuyệt
đối cho muôn loài làm lý tưởng và sự nghiệp của mình. Muốn được giải
thoát rốt ráo phải là vì người, nếu chỉ làm tròn hạnh phúc cho cái Ta
nhỏ bé mà chưa thực hiện được hạnh phúc cho mọi cái Ta khác, thì lý
tưởng ấy vẫn còn chưa trọn vẹn.
Từ hai loại Niết bàn của Tiểu
thừa là Hữu dư và Vô dư Niết bàn có tính cách cá nhân, phải tiến tới Vô
trụ xứ Niết bàn, hay Tự tính thanh tịnh hoặc Bất trụ Niết bàn của Đại
thừa có tính cách vị tha, xã hội.
Tuy lấy Bình đẳng tính làm
phương tiện để đạt tới Bình đẳng giới nhưng lại không trụ ở đó mà lại
trụ ở Sai biệt giới, giúp đỡ mọi người đau khổ, nghèo khó ở hạ tầng giai
cấp xã hội. Tuy lấy giải thoát khỏi khổ đau và mong cầu Tịnh độ, Niết
bàn làm lý tưởng : vừa tự ý dấn thân vào trong vòng luân hồi để Chân,
Thiện, Mỹ hoá cõi đời này bằng những hành vi tích cực hành thiện, lại
vừa đáp ứng được lý tưởng “Thượng cầu Bồ đề, hạ hoá chúng sinh”, theo
đuổi đường lối “Tam luân Không tịch”.
Trong quá trình tiến tới mục
tiêu lý tưởng ấy, hành giả vẫn cảm thấy vui buồn như mọi người, nhưng
lại thản nhiên trước mọi khổ đau, vượt trên mọi phân biệt, đối đãi, và
dồn hết tâm lực của mình để phụng sự nhân loại. Dùng “Bất trụ xứ Niết
bàn” và “hoàn tướng hồi hướng” làm nhân sinh quan, Bồ tát tự nguyện hồi
nhập Ta bà và thực thi Tứ Nhiếp Pháp, cùng mọi người đồng cam cộng khổ
để dễ độ đời. Đạo Bồ tát lấy việc kiến thiết một cõi Tịnh độ nhân gian
để đề cao lý tưởng của mình, cho nên nếu xa rời công trình xây dựng cõi
Địa đường chung thì mất hết ý nghĩa cao đẹp của Đạo Bồ tát.
Lý tưởng kiến thiết một cõi
Tịnh độ nhân gian bắt nguồn từ những tư tưởng : “Phiền não tức Bồ đề”,
“Chúng sinh tức Phật”, “Sự tức Lý” của Bất Nhị pháp môn, nêu cao ý nghĩa
“Nhất chân Pháp giới” hay “Vạn vật đồng nhất thể”, “Chúng sinh giai hữu
Phật tính”… là những tư tưởng cao đẹp. Kết tinh trong các bộ Kinh Hoa
Nghiêm, Pháp Hoa, Niết Bàn v.v… mà cũng là chủ trương của Pháp môn Tịnh
độ.
Theo tinh thần Đại Bi, Đại Trí
của đạo Bồ tát thì không thể trốn tránh trách nhiệm của mình cùng những
phiền não của cuộc sống phồn tạp hàng ngày, bởi vì “Phật pháp bất ly thế
gian giác”, mà phải lặn lội vào đời sống thực tế, gắn bó đạo với đời, để
cải thiện đời sống xã hội ngày càng đẹp tươi hơn.
Cầu vãng sinh Cực lạc để được
tự giải thoát trong khi quanh mình chúng sinh còn quằn quại trong khổ
đau còn vị kỷ, mà phải phát tâm vô thượng Bồ đề, cầu giải thoát cho tất
cả nữa. Có độ tận chúng sinh về nơi an lạc cuối cùng mới thực hiện được
đúng đường lối của đạo giải thoát Chính đẳng chính giác. Có vãng sinh
Tịnh độ, lại có hồi chuyển Ta bà thì Bồ tát mới Tịnh độ hoá được cõi
trần gian này : đó là điểm son làm nổi bật tính cách hoạt động tích cực
của đạo Nhất thừa, đồng thời đánh giá cao quan niệm về Tịnh độ nhân gian
trong tương lai, so với cõi Tịnh độ tha phương, hoặc ở tại tâm, nơi
đương xứ, mới chỉ được coi là giải thoát nửa vời, tiêu cực.
Bồ tát đạo nói chung, và pháp
môn Tịnh độ nói riêng, là con đường đón nhận tứ chúng đồng tu để tiến
tới Niết bàn, Tịnh độ. Không thiếu gì Cư sĩ tại gia xưa và nay đã đạt
đạo nhờ đi theo con đường tịnh nghiệp. Nói đến Cư sĩ lừng danh phải kể
đến Ngài Duy Ma Cật thời Phật còn tại thế. Sau này Trung Quốc có Bàng
Long Ẩn, và ở Việt Nam có Tuệ Trung Thượng Sĩ đã không thua kém tài đức
đối với hàng xuất gia chân chính. Riêng trong pháp môn Tịnh độ nhiều
người đã đạt được Tánh và được dự về cõi Tây phương Cực lạc nhờ âm thầm
tinh tiến tu theo tịnh nghiệp, nhất tâm niệm Phật cầu vãng sinh.
* Bởi vì sự thiết lập một cõi
Tịnh độ nhân gian không thể thực hiện được một sớm một chiều, nên người
có tâm phải phát nguyện rộng lớn, ra vào trần gian hết kiếp này đến kiếp
khác để độ tận chúng sinh, quyết thực thi bằng được lý tưởng cao đẹp của
mình, bất cứ trong thời gian lâu dài bao nhiêu cũng được. Người hành Bồ
tát đạo tu theo Tứ Vô Lượng Tâm và Tứ Nhiếp Pháp, nguyện đi vào cuộc đời
để phục vụ tha nhân, lấy hạnh phúc của con người làm nguồn vui của mình.
Tinh thần vị tha là đức tính của người giác ngộ, chỉ biết giúp ích mọi
người không vì lợi danh. Không biết mệt mỏi, không quan tâm đến lời khen
chê, đe doạ hay trách móc, việc xảy đến thì làm tích cực với tinh thần
vô uý, xả kỷ, không làm không được.
* Đạo cốt ở Hành, không ở nói
suông. Có hành mới thấy cái khó khăn, khó tin, khó nói. Nói suông chỉ
biến đạo thành mớ lý thuyết vô vị. Càng Hành càng hòa hợp, cởi mở, gỡ
những mớ bất đồng và hiểu lầm sinh mâu thuẫn tranh chấp, tưởng chừng như
không hoà giải nổi. Có Hành mới mở toang cánh cửa của Trí, cánh cửa
huyền vi của đạo. Có Hành mới thấy rõ Chân lý Sự Sự nhất thiết vô ngại.
Có Hành mới chọc thủng được tấm màn bí ẩn của chữ nghĩa trong các kinh
điển Phật giáo, mới xé rách được cái áo khoác ngoài của Sắc, Tướng,
Hình, Danh, và mới nhận được lẽ nhiệm mầu của Chân lý Bất Nhị, và “Một
là Tất cả, Tất cả là Một” của muôn pháp, do cùng một tâm sinh ra, rồi
lại quay trở về tâm, đồng nhất trong sai biệt, thù đồ nhưng đồng quy.
* Nhưng thiết lập một xã hội
bình đẳng, tự do, hạnh phúc tuyệt đối, một cõi Tịnh độ nhân gian. Không
phải là phá huỷ tất cả bằng sắt, máu, mà phải dùng tình thương vô hạn,
thay vì những hành động bạo tàn, chém giết chẳng ghê tay, bởi vì tình
trạng bi đát của loài người, với những bất công, sai biệt của ngày nay
là kết quả nghiệp báo của tâm mê vọng của chúng sinh thuộc quá khứ và
hiện tại. Lay đổ nền móng cũ mà không chuyển được cái tâm của con người
thì cách mạng khó thành công và mãi vẫn còn dang dở. Nguyên nhân để cấu
tạo một xã hội công bằng, bác ái là Nghiệp lực. Phá huỷ sự sai biệt bất
công mà không lưu ý đến nguyên nhân phát sinh ra nó là Tham, Sân, Si thì
sự phá huỷ đó vô ích, bởi vì gieo nhân lành, duyên tốt thì mới được hái
quả tốt lành.
Lẽ vô thường biến dịch và
nhân quả của thiên nhiên là nguyên lý giúp chúng ta xây đắp một xã hội
lý tưởng cho ngày mai. Sự
thăng hoa hay thoái bộ trên đường dẫn tới hạnh phúc hoàn toàn do lòng
người có thực muốn hoán cải hay không ? Câu “Tâm bình, thế giới bình”
trong Kinh Hoa Nghiêm phải được coi là phương châm hành động cho những
người cầm đầu thiên hạ ngày nay muốn đạt tới một nền hoà bình vĩnh cửu.
Trong phạm vi của cá nhân, ai
ai cũng đều có bổn phận giữ cho Tâm bình, cố gắng hành Thập Thiện và
thực thi Tứ Vô Lượng Tâm. Chẳng ai có thể bảo là mình đã góp phần nhiều
nhất để kiến thiết cõi Tịnh độ chung, bởi vì sự đóng góp tích cực nhất
và nhiều nhất chính là sự toàn thắng được lòng mình, và như vậy thì chỉ
có mình mới tự đánh giá được mình đúng mức mà thôi, bởi vì chỉ có mình
mới tự biết mình đã diệt trừ được lòng Tham, Sân, Si và phá huỷ được Ngã
chấp và Pháp chấp tới mức nào.
Chỉ có Tuệ và Bi, một lòng
thương yêu nhau chân thành coi nhau như bạn hiền cùng chung lý tưởng mới
mong đến tới đích Tự do, Bình đẳng, Hoà bình, Ấm no, Hạnh phúc tuyệt
đối. Chúng ta ước mong khoa học sẽ phá huỷ được căn bản của những tư
tưởng sai lầm, và triết học Tây phương ngày càng thâm nhập sâu hơn vào
lý Bất Nhị, và bản thể Nhất Nguyên của vũ trụ để đưa loài người ngày nay
càng gần hơn tới Chân lý do đấng Giác ngộ chân chính đã đề xướng. Đó
chính là cái mà tôi muốn nói trong câu đã viện dẫn ở đoạn trên : “Khoa
học sẽ dần dần tiến ngày càng gần hơn tới đạo Phật”.
Không ai bảo ai mà tự nhiên
các triết gia và khoa học gia Tây phương hiện nay cùng tiến về hướng mà
Phật đã vạch ra từ 25 thế kỷ về trước. Chúng ta hy vọng ngày trưởng
thành của nhân loại về đạo đức và tinh thần sẽ sắp tới, mặc dù khoa học
đã bác bỏ tất cả những gì làm điểm tựa cho niềm tin về những tôn giáo ở
Tây phương, nhưng rồi các khoa học gia tân tiến cũng sẽ nhận thấy rõ vẫn
còn có một tôn giáo tiến bộ, có cơ sở vững chắc về khoa học dẫn tới chân
lý trường cửu để cứu nguy cho nhân loại bằng đường lối hoà bình.
Họ sẽ thấy viễn ảnh một thế
giới đại đồng không có kỳ thị dân tộc, ấm no, hạnh phúc hoàn toàn, khi
thừa nhận rằng mục đích cuối cùng của loài người là phải tìm cách ra
khỏi tấm màn vô minh, và lấy tình thương chân thật đối phó với nhau
mới mong giải thoát khỏi nạn tận diệt.
Chúng ta có thể đặt niềm tin ở
khả năng sáng tạo của tim óc con người, tin ở căn bản của lương tâm con
người, với tinh thần nhận thức được toàn bộ Thực tại để giải toả những
mối bất đồng giữa Tâm Vật, Tự Tha, và san bằng mọi đố kỵ, mâu thuẫn.
Chúng ta có thể tin giá trị siêu việt của triết lý đạo Phật, một đạo Từ
Bi và Giác ngộ có sức mạnh tâm linh mầu nhiệm, có khả năng hoán cải được
con người trở về với Chân Tâm, Phật tính bằng đường lối hoà bình và mở
rộng cho nhân loại triển vọng tốt đẹp là con đường Bồ tát đạo lý tưởng
để thoát khỏi ngõ bế tắc hiện tại trong lãnh vực tranh chấp nhau về ý
thức hệ và về quyền lợi riêng tư, tránh được hiểm hoạ tàn sát lẫn nhau,
và chạy đua nhau trên phạm vi sản xuất các loại vũ khí giết người tập
thể.
Bởi lẽ “Nhất thiết duy tâm
tạo” và “Nhất thiết chúng sinh giai hữư Phật tính” nên chúng ta có thể
tin rằng việc thiết lập một nền Tịnh thổ ở cõi trần gian này chẳng phải
là ảo mộng ! Tin tưởng đó là hoài bão của Thái Hư Đại Sư bên Trung Hoa
và cũng là mộng vàng của nhà Bác học có đạo tâm nước Pháp Le Comte du
Nouy hằng ấp ủ với thuyết viễn đích (Téléfinalité) chủ trương đề cao
phẩm giá con người, đặt niềm tin bất diệt ở tương lai tốt đẹp của tinh
thần, đạo đức và giá trị của khoa học, tin tưởng vào cuộc tiến hoá không
ngừng của nhân loại và ở định mệnh cao cả của con người, với sự tiếp tay
của khoa học, để đạo phục vụ đắc lực cho đời, trong mưu cầu hạnh phúc
chung của nhân loại.
Con người phải lo cải thiện
tâm hồn hơn là hoàn cảnh vật chất. Mọi người đều phải góp phần tích cực
vào việc xây dựng một xã hội huy hoàng cho ngày mai, và điều kiện tiên
quyết để đạt tới cảnh thần tiên ấy là ta phải thoát ly những dục lạc và
toàn thắng được những ác tưởng của mình. Tóm lại : theo Le Comte du Nouy
thì chúng ta đều có bổn phận phát huy cái đức Sáng sẵn có ở trong ta, nỗ
lực không ngừng tự cải thiện mình và tin tưởng vào tiềm năng huyền diệu
của con tim, đem hết tài năng sáng tạo của mình phục vụ nhận loại, vượt
qua mọi chặng đường khó khăn nhất, và chỉ ngừng lại khi nào đạt tới đỉnh
cao của Chân Thiện Mỹ.
* Quan niệm về thiết lập một
cõi Tịnh độ nhân gian hay trở về với Chân Tâm của mình, cũng là quan
niệm của Nho giáo chủ trương : “Nhất bản tán vạn thù, vạn thù quy nhất
bản”, vạn hữu biến dịch theo hai chiều vãng lai phản phục tuần hoàn, vừa
phân tán để đào thải những cặn bã thấp hèn, vừa súc tích những tinh hoa
trong sáng của trời đất để trở về nơi nguyên thể. Từ quan niệm “Vạn vật
đồng nhất thể” tiến tới chủ trương “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật
tính” và “Tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện”, ta nhận
thấy rõ Phật cũng như Nho đều chủ trương Bản thể tuỵêt đối, bất diệt
Chân Tâm của mình, biến hoá để trở thành Thánh, Hiền, Tiên, Phật, hay
“phối thiên đạt đạo”, tức là kết hợp với tuyệt đối thể vừa là căn nguyên
sinh xuất, lại vừa là đích cuối cùng mà muôn loài phải tiến tới.
* Nhưng thực hiện giấc mộng
vàng này phải dựa vào tự lực hay tha lực đây ? Tổng quát mà nói thì việc
kiến thiết cõi Tịnh độ trong tương lai, nơi trần thế này phải do nỗ lực
của từng cá nhân góp phần tích cực diệt trừ những thói hư tật xấu của
mình, song công cuộc xây dựng cõi Tịnh độ lại là một công cuộc vĩ đại
đòi hỏi một nỗ lực phi thường, vả chăng chẳng phải riêng cá nhân nào
được hưởng một màn hình mà toàn thể nhân loại đều chung hưởng hạnh phúc
đời đời, nên sự thành công mau hay chậm còn phải dựa vào một yếu tồ mầu
nhiệm, bất khả tư nghị là phật lực gia hộ thêm nữa mới mong thành tựu
hoàn mãn và mau chóng. Như vậy “Miêu thuyết phải nhường bước cho Viên
thuyết”, như vượn con vẫn phải nhờ vượn mẹ hết lòng bao bọc nâng đỡ
trong lúc còn chưa đủ lực chuyền cành một mình. Trước nỗi khổ và cộng
nghiệp sâu dầy của nhân loại, người có đạo tâm lo âu, khắc khoải nhưng
không còn cách nào hơn là cầu nguyện thiết tha mong cho Tha lực sớm hiệp
cùng Tự lực của mỗi người để thoát cảnh khổ chung.
* Cõi Tịnh độ nhân gian được
xây dựng trong một tương lai xa hay gần, một phần nhờ Tha lực của chư
Phật và Bồ tát âm thầm tiếp tay, còn phần lớn do chúng ta có chịu xuất
toàn tâm lực để kiến tạo nó hay không ?
Lỗi ở chúng ta có biết sớm ăn
năn hối cải, rũ sạch trần cấu và chịu quay về với bản tâm tự tính hay
không. Yếu tố quan trọng vẫn là yếu tố cá nhân, và nhiệm vụ trọng đại
của loài người ngày nay phải cùng nhau cố gắng thanh lọc tâm tư, diệt
trừ ba độc, đoạn tuyệt thú tính và phát huy nhân phẩm của mình. Không
nên tìm hiểu xem nỗ lực của ta có lợi ích gì cho công cuộc chung, và kỷ
phần đóng góp của ta vào lợi ích cộng đồng phỏng được là bao ? Chỉ riêng
sự cố gắng tận lực làm Thập thiện cũng đáng kể rồi. Và chỉ với tâm thành
đó cũng đủ làm cho cuộc đời mình có ý nghĩa cao cả thiêng liêng.
* Những bước tiến vĩ đại mà
khoa học đã đạt được trong công cuộc chinh phục không gian và chiến
thắng thiên nhiên thực sự chưa đem lại cho loài người hạnh phúc mong
muốn khi chưa có một sự phát triển tương đương về mặt đạo đức, tinh
thần. Trong hiện tình thế giới ngày nay, sự phát triển toàn diện và thực
sự có ích chỉ có được trên bình diện liên minh hoà giải giữa hai nền văn
minh Đông, Tây ; giữa khối óc duy lý của khoa học và trái tim siêu lý
của tôn giáo; giữa giá trị nhiệm mầu của con tim rung động trước nỗi khổ
đau của tha nhân với sự khô cằn của khối óc thuần lý, vị kỷ ; giữa tiêu
cực và tích cực ; giữa tương đối và tuyệt đối; giữa bản năng sinh tồn mù
quáng của thức giác, quen chạy theo lục dục thất tình, với sự tự do lựa
chọn của trí sáng suốt, biết đủ, và sự lựa chọn đó lại hoàn toàn tuỳ
thuộc vào quyết định của ta.
* Thế giới này được cải thiện
do quan hệ hỗ tương nhân duyên chằng chịt, nên mọi người cần phải tự cải
thiện ngăn ngừa ngã ái, ngã si, hăng hái làm việc thiện để giúp đỡ lẫn
nhau trong tinh thần xả kỷ, lợi tha để cộng nghiệp được tốt lành. Bởi lẽ
xã hội chi phối cá nhân, nhưng ý chí mỗi cá nhân góp lại cũng có thể cải
biến được cộng nghiệp của xã hội. Nguyên tắc này phù hợp với tinh thần :
Tự giác, giác tha của nhà Phật vì sự giác ngộ của mỗi người về Phật tính
sẽ gây ảnh hưởng dây chuyền tốt cho người khác quanh mình theo lý trùng
trùng duyên khởi.
Mối liên hệ hỗ tương giữa cá
nhân và đoàn thể được thể hiện qua hình ảnh của “lưới đế châu” nói trong
kinh Hoa Nghiêm. Cái lưới của Phạm Thiên vây bủa khắp vũ trụ, chiều dọc
là thời gian, chiều ngang là không gian, mỗi mắt lưới là một hạt kim
cương lóng lánh sáng ngời, tượng trưng cho một cá nhân. Một cá nhân (hay
nghiệp quả về thân, khẩu, ý của từng người) cũng như một hạt kim cương
phản chiếu vào một đời sống (hay một hạt kim cương khác) ở mọi khía cạnh
(hay hành động về thân khẩu ý) và nhắc đi nhắc lại tới vô cùng. Chẳng
khác nào trong một buồng sáu bề lát kính, nhìn vào đâu cũng thấy hình
bóng mình phản chiếu, nhắc đi nhắc lại hoài : đây chính là cái lưới ảo
hoá mà Ôn Như Hầu đã nói : “Tuồng ảo hoá đã bày ra đấy…”. Và Lão
Tử cũng bảo là : “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” (Lưới
trời lồng lộng, thưa mà khó thoát).
* Sự quan hệ hỗ tương mật
thiết giữa cá nhân và cá nhân là điều kiện thiết yếu để thành lập một xã
hội an lành hạnh phúc. Điểm xuất phát của sự thiết lập một cõi Tịnh độ
nhân gian là “tại đây và lúc này”. Nếu mọi người đều cùng sớm thực hiện
được điểm xuất phát đó thì cảnh Địa đường sẽ được thiết lập chẳng lâu.
* Theo luật “Trùng trùng duyên
khởi” và “Một là Tất cả, Tất cả là Một” thì sự Cộng biến và Tự biến tác
động lẫn nhau, đưa tới sự hình thành xã hội, là môi trường sinh hoạt của
cá nhân. Như vậy thì cõi Tịnh độ trong tương lai, tại chốn Ta bà này
được xây đắp nhanh hay chậm là bởi hành vi cải thiện tim óc của từng cá
nhân trong cộng đồng thế giới, song song với việc cải thiện guồng máy xã
hội của mối quốc gia trong mọi lãnh vực văn hoá, đạo đức, chính trị,
kinh tế… chỉ lo cải thiện con tim khối óc của từng cá nhân là những bộ
phận nhỏ mà không lo cải thiện toàn thể cơ cấu xã hội loài người hay
toàn bộ guồng máy vĩ đại của xã hội nhân loại thì chỉ là câu chuyện muốn
sửa bóng cho ngay mà hình thì không thẳng, cứ giữ nó mãi trong tình
trạng cong vẹo hiện thời, không chịu sửa đổi. Bởi vậy đồng thời với việc
thanh tịnh hoá tâm hồn của từng người, cũng cần lo thanh tịnh hoá tình
trạng xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới.
Hiện nay tinh thần, đạo đức
của nhân loại đang ở mức độ quá thấp gây nên bởi cuộc sống giả tạo, hời
hợt chạy theo vật chất xa hoa, lệ thuộc quá nhiều vào máy móc và đồng
tiền. Phải lấy Tuệ và Bi, lấy Tình thương sáng suốt, tôn trọng sự sống
thiêng liêng của muôn loài để kiến thiết một xã hội công bằng và thuần
lương, căn cứ vào sự phát huy tiềm năng và phẩm giá của con người.
Dù thời gian dùng để kiến
thiết cõi Tịnh độ nhân gian này còn dài lâu và khó khăn đến đâu cũng
phải cố gắng thực hiện bằng được bởi tình thương và hợp tác chân thành
thay vì thù hận và mưu mô xảo quyệt đấu tranh. Toà lâu đài hạnh phúc
trạng lệ của loài người không thể xây dựng bằng máu xương và nước mắt,
mà phải bằng Trí tụê và Từ bi. Thời gian để kiến thiết toà lâu đài tuỳ
thuộc vào Nghiệp quả của toàn thể loài người, từ thế hệ này qua thế hệ
khác, nhưng đích sẽ tới nơi, vào một buổi bình minh êm đẹp trong tương
lai, xa hay gần tuỳ sự tinh tiến và hợp tác chân thành của tất cả.
Mọi trở ngại việc quay về với
Chân tâm, Phật tính của mỗi người, và mọi trở ngại bước thăng hoa của
nhân loại tới một nền văn minh huy hoàng vĩnh cửu, hoặc mọi trở ngại
tình trạng ổn định của một nếp sống lành mạnh, đạo đức đều chỉ làm trì
trệ việc thành tựu cõi Địa đường này mà thôi. Chúng ta chớ nên dục tốc
bất đạt !
* Hiểu được thực tướng của các
pháp là “Không”, lại hiểu được chân lý “Chân Không Diệu Hữu” và Lý Bất
Nhị, con người sẽ đạt được Thực tại tối hậu hay Niết bàn tại tâm, và xã
hội sẽ giảm được nhiều phần tội lỗi khổ đau, bất công chia rẽ. Xã hội
loài người sẽ toàn thiện và niềm an lạc sẽ ngự trị trên cảnh Địa đường
này, trên mảnh Tâm điền này, nếu mỗi người đều thực muốn hướng về nẻo
Chân, Thiện, Mỹ. Con người toàn thiện sống trong một xã hội thực sự hạnh
phúc, hay thế giới lý tưởng tuỵêt đối, chỉ thành tựu được khi nào toàn
thể nhân loại đều ý thức được tầm quan trọng của Chân lý Vô ngã, Vô
thường, Nghiệp báo biến dịch, cùng vững tin ở đường lối hoà bình của đạo
Bồ tát và sức mạnh vô biên của tâm từ vô lượng kết hợp với Trí sáng suốt
của khoa học, biết dùng cây đũa thần Nguyên tử năng để phục vụ cho hạnh
phúc chân chính và trường cửu của con người.
* Con đường tiến hoá của nhân
loại được diễn ra trên hai chiều thuận nghịch, vãng lai, từ Nhất đến
Vạn, rồi từ Vạn đến Nhất, hay từ Thiện đến Ác rồi từ Ác đến Thiện, chứ
không phải chỉ trên một chiều tiến thẳng hay tiến theo hình trôn ốc về
một phía. Sự tiến hoá đó đi từ Bản thể Chân Tâm tiến ra Hiện tượng Vạn
hữu, rồi từ Hiện tượng Vạn hữu hoàn về Bản thể Chân Tâm. Việc quay trở
về với Chân Tâm là quyền năng của chúng ta, ai ai cũng có thể làm ngay
trong đời hiện tại, bằng cách quán tưởng, niệm Phật, cầu kinh; hồi đầu
trở lại nội tâm, đoạn tuyệt hẳn nếp sống xưa, không cần đợi tới kiếp lai
sinh mới làm được những việc đó. Với phương pháp “Quán Niệm Âm Văn” dựa
vào nhĩ căn viên thông và hồi quang phản bản, quay ngược Tụê giác chiếu
thẳng đáy lòng, ta có thể tóm thâu thời gian và không gian vào sát na
tam muội, để quá khứ và vị lai gặp nhau tại đương xứ, có gì lâu xa đâu ?
---o0o---