PHẦN BA (1)
Kính thưa quý vị.
Trên đây là những ý kiến tương phản của
hai phái cùng tu theo pháp môn Tịnh độ, một bên thiên về hiện tượng, một
bên thiên về bản thể, cả hai phái đều đưa ra những lý lẽ để bênh vực cho
lập trường của mình và bài bác bên kia, không bên nào chịu thua bên nào
cả. Tôi đã tư duy về vấn đề này, mong tìm được những lý lẽ xác đáng để
dung hoà các mâu thuẫn bất đồng của hai bên, và trong khi quán tưởng về
đề tài này, tôi đã cố nhớ lại những lời Phật và Tổ đã dạy.
Phật đã khuyên chúng ta:
1.- “Phải dùng pháp của ta làm nhiên
liệu để đốt cháy tâm can con, làm bùng lên ngọn lửa Bát Nhã để soi sáng
con đường tiến thủ của con”. (Kinh Di Giáo).
2.- “Phải tự rèn luyện mình để trở thành
một cái phao vững chắc, hay một hòn đảo an toàn làm nơi trú ẩn, đừng bao
giờ tìm bất cứ một nơi ẩn trú nào khác ngoài ta, trong biển khổ trần lao
mông mênh của cuộc đời”. (Kinh Pháp Cú)
3.- Phải đặt trọn niềm tin ở mình, và
đặt mọi cố gắng trên Chính kiến và Chính tư duy, vì chỉ có hai thứ đó
mới đưa tới cứu cánh viên mãn”. (Kinh Pháp Cú)
4.- Đừng bao giờ tin một điều gì mà tập
tục, thói quen hay sự dạy dỗ theo lối nhồi sọ đã làm cho ta tin tưởng từ
thời còn thơ ấu. Đối với một điều cần phải dùng trí tuệ minh mẫn để xét
lại, và khi đã phân tích, cân nhắc kỹ lưỡng nếu thấy điều gì quả thật
tốt lành, lợi ích cho tất cả thì hãy tin, rồi cố gắng giúp mọi người
cùng tin và sống theo chân lý ấy”. (Anguttara Nikaya).
5.- Người nào chẳng may bị mắc vào lưới
mê muội, mù quáng, tin càn, hiểu sai và đi lạc lối rồi thì đừng hy vọng
dùng tụng kinh, cầu nguyện, lễ bái, cúng dường hoặc tu ép xác như nhịn
đói, nằm đất, thức khuya dậy sớm, hành hạ xác thân để mong trở thành
thanh tịnh, nếu trong tim óc của người ấy còn đầy chất độc tham, sân,
si, mạn, nghi, tà kiến… làm cho người đó lúc nào cũng cuồng loạn. Chẳng
phải vì những ngoan cố, khát vọng, tin nhảm, hiểu lầm, không theo chính
đạo mà con người trở thành ô trược”. (Kinh Pháp Cú).
6.- “Chính con phải tự cố gắng đi trọn
con đường của con. Ta chỉ là người hướng đạo chỉ đường cho con đi mà
thôi”. (Kinh Pháp Cú).
7.- “Cúng dường vô số Phật không bằng
cúng dường cho một người Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng. (Kinh Tứ
Thập Nhị Chương).
8.- “Niệm vô niệm niệm, Hành vô hành
hành, Tu vô tu tu, Chứng vô chứng chứng”. (Niệm đến chỗ không niệm mới
là chân niệm. Làm đến chỗ không làm mới thật là làm. Tu đến chỗ không tu
mới là chân tu. Chứng đến chỗ không chứng mới thật là chứng). (Kinh
Tứ Thập Nhị Chương).
9.- “Này, Thiện nam tử, phải biết rằng
các pháp đều bình đẳng và bất hoại diệt. Thân, Tâm và Ngã, Pháp, Sinh tử
và Niết bàn đều như Không hoa. Ở trong hành giả không có tạo tác và đình
chỉ. Ở quả tu không có thủ xả và đắc thất. Rốt ráo không có Năng, Sở,
khứ lai, sinh diệt. Có như thế mới nhập được vào Phật đạo. (Kinh Viên
Giác).
10.- Kinh Trường A Hàm có câu: “Tâm
mang thế gian đi, Tâm dẫn thế gian lại, Tâm là căn bản của các pháp. Tâm
sai khiến mọi sự mọi vật. Tâm nghĩ thiện thì hành động thiện, Tâm nghĩ
ác thì hành động ác, hạnh phúc theo tâm như bóng theo hình”.
11.- Kinh Tâm Địa Quán có câu: “Phật
pháp của ta lấy tâm làm gốc, và muôn pháp ở thế gian này đều do tâm sinh
ra cả”.
12.- Kinh Hoa Nghiêm, một bộ kinh đặc
biệt bàn nhiều về chữ tâm có những câu:
Tâm như công họa sư,
Họa chủng chủng ngũ ấm.
Nhất thiết thế gian trung,
Vô pháp nhi bất tạo !
13.- “Tâm, Phật, cập chúng sinh, thị tam
vô sai biệt”.
14.- “Tức Tâm tức Phật”.
15.- “Nhất thiết duy tâm tạo”.
16.- “Tất cả các pháp của ta chỉ như
ngón tay để chỉ mặt trăng, chớ nên lầm ngón tay là mặt trăng”. (Kinh
Viên Giác).
17.- “Tâm thanh tịnh, thế giới thanh
tịnh. Tâm nhiễm ô, thế giới nhiễm ô”.
18.- “Nhất thiết chúng sinh cụ hữu Như
Lai trí tuệ đức tướng”.
19.- Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q 27) có câu: “Nhất thiết chúng sinh tất hữu Phật tính”.
20.- Và Tổ Huệ Năng dạy:
Bồ đề chỉ hướng tâm mịch,
Hà lao hướng ngoại cầu huyền”.
21.- “Phàm phu tức Phật, phiền não tức
Bồ đề”.
22.- “Phải xoay ngược luồng nhãn quang
về phía nội tâm mà tìm chân lý, vì chân lý không ở ngoại cảnh”.
23.- “Lòng còn mải nghĩ tới sự giác ngộ
thì khó vượt được mọi mê mờ. Nguồn gốc của sự tỏ ngộ ở tâm thì nên tìm
nguồn gốc đó ở bên trong, chớ đừng phí công kiếm sự tỏ ngộ ở ngoài mà
đưa nó vào trong”.
24.- “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành
Phật”.
25.- “Đừng nghĩ đến Thiện, đừng nghĩ đến
Ác, trong lúc ấy mới hiện rõ “bản lai diện mục của mình”.
*
Hầu hết các kinh điển của Đại thừa Phật
giáo đều chú trọng đến tâm con người. Cái tâm ấy bừng sáng lên trong mỗi
bộ kinh Phật, xuyên qua bức màn danh ngôn, sắc tướng.
Từng ấy mẩu ánh sáng gom lại đủ tạo
thành một bó đuốc chân lý sáng ngời dạy tôi phải tựa nương vào tâm mình
để giải quyết mọi vấn đề khó khăn ở đời, và tôi có cảm nghĩ rằng Đức Tin
là điều quan trọng và thiết yếu đối với người học đạo, nhất là đối với
người Phật tử còn sơ cơ.
Đức Tin là mẹ của mọi công đức và phát
sinh ra mọi hạnh lành. Trong tôn giáo, đức Tin mang tính chất siêu hình
và siêu việt biên giới của suy tư. Trừ một số ít người sống trong chủ
nghĩa hoài nghi, buông thả không định hướng và phủ nhận giá trị thiêng
liêng của tâm linh thì đức Tin là điều kiện cần thiết cho người tầm đạo
muốn sống một cuộc đời hướng thượng, hữu ích.
* Trong Tín, Nguyện, Hạnh thì Tín là đức
tính căn bản, hướng dẫn người tu tiến bước trên đường đạo giải thoát.
Nhờ có đức Tin mà ta cố gắng phát huy trí tuệ và bồi dưỡng đạo đức, tạo
thiện nghiệp cùng phát tâm vô thượng Bồ đề.
Chúng ta an tâm trước mọi thử thách và
vượt qua mọi chướng ngại trên đường hành đạo. Thiếu đức Tin thì thiếu
quả quyết, dũng cảm và nhẫn nại, ta sẽ ngần ngại trước sự thử thách, do
đó việc tu dưỡng tâm linh của ta sẽ giảm phần hiệu năng. Nhưng đức Tin
ấy cần phải lành mạnh và được soi sáng bằng trí tuệ Bát Nhã để trở nên
một đức Tin sáng suốt và kiên cố, nếu không nó sẽ trở thành mê tín đưa
người vào vòng tà đạo. Ta phải lấy đức Tin để soi sáng, tránh cho đức
Tin khỏi trở thành cuồng tín, mới không lạc vào mê mờ, hành động mù
quáng sai lầm.
Và kết quả của những đêm suy tư quán
tưởng về vấn đề niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ đã đưa tôi đến
những nhận định sau đây:
CHƯƠNG 4
NHẬN ĐỊNH VỀ NGHI VẤN: CÓ HAY KHÔNG
CÓ ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ VÀ CÕI TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC ?
Bởi căn cơ của chúng sinh cao thấp không
đều, tính tình uỷ mị cứng rắn khác nhau, nên Phật mới phải dùng đủ mọi
phương tiện, mượn cái hữu hình để chỉ cái vô hình, mở quyền chỉ thực, vị
thực thi quyền, lập ra 48.000 pháp môn, xây dựng vô số thành trì giả để
đưa tới một thành trì cho đó là thực, rốt cuộc thành trì mà mọi người
tưởng là thực này, lại bị phá huỷ nốt vì đó vẫn chỉ là ảo ảnh phù du.
Đại thừa Phật giáo trong Bát Nhã Tâm Kih đã dạy cách phá vỡ các ảo ảnh
về chủ thể (ngã) và phá luôn cả cái ảo ảnh về đối tượng (pháp), để từ đó
con người nhận định về Thức tại một cách trung thực hơn. Cái ảo ảnh to
lớn nhất và khó phá nhất là ảo ảnh về chân lý tuyệt đối, về một đấng
thiêng liêng và về một cõi Niết bàn hay Thiên đường vì đó là khát vọng
ngàn đời và khắp nơi, cũng là chỗ tựa nương cuối cùng của con người đau
khổ vốn ít tin tưởng vào tài sức của mình trước sự huyền vi và sức cuồng
bạo của thiên nhiên.
Trong suốt quá trình lịch sử của nhân
loại, con người lúc nào cũng cố gắng nối liền cái hữu hạn của đời người
với cái vô cùng bất tận của không gian và thời gian. Cũng vì thế mà Phật
hay Chúa đã ngự trị trên cuộc đời cơ cực, và Niết bàn, Tịnh độ Thiên
đường đã dựng lên trên cõi sình lầy, gai góc, đầy bất hạnh này. Có bờ
bên này đối diện với bờ bên kia. Cực lạc với Ta bà, giải thoát và trói
buộc, buồn thương và hạnh phúc, hữu và vô… Đức Thích Ca Mâu Ni, Tổ Huệ
Năng… và Khrisnamurti là những vị đã thoát ly khỏi cái ảo ảnh và khát
vọng đó, đã siêu lên trên mọi trói buộc, để chẳng còn gì phải khát vọng
nữa. Bờ bên này sở dĩ có, vì có cái ảo tưởng về sự hiện hữu của bờ bên
kia. Sự thật thì giải thoát và trói buộc, Tịnh độ và Ta bà, nhân quả và
phi nhân quả, tất cả những cặp mâu thuẫn trong thế giới tương đối, nhị
nguyên, đều chỉ là những danh từ để chỉ những sự vật giả có, giả không,
những khái niệm của ý thức so đó mà tôi. Trên đường siêu thoát, người tu
phải từ bỏ dần dần cho đến thực hết những gì mình có ở đời, tương tự như
người lữ hành đi trên con đường thiên lý phải vứt bỏ ở dọc đường những
gì mang theo để đỡ cồng kềnh, nặng nhọc, vinh hoa, phú quý, từ bỏ hình
hài của mình, cho đến cả những cảm xúc, tư tưởng của mình nữa. Và ngay
cả những gì mình đã lượm được ở dọc đường tu giải thoát của nền giáo lý
Phật dạy mà ta nâng niu, gìn giữ như hạt kim cương vô giá, cũng phải coi
như những phương tiện chỉ cần thiết cho từng giai đoạn tu hành, như
những nhịp cầu hoặc chiếc bè để qua sông, khi đã tới bờ bên kia rồi thì
nhịp cầu hay chiếc bè phải để lại. Ngay cả ông lái đò đã chở mình qua
sông (là Đức Phật) cũng phải từ giã nốt, để còn phải cất bước liên tục
lên đường thiên lý làm nhiệm vụ hành đạo, có như thế mới là chân giác
ngộ. Vì Thể của Tâm vốn “không tịch” nên không thể trụ vào tướng mê ngộ
được. Cái “Hữu” bị cái “Không” vô hiệu hoá, đến lượt cái “Không” lại bị
cái “Bất không” phá huỷ để cho lý trung đạo hay “Chân không diệu hữu” tỏ
bày. Người quen nếp sống suy luận, nhị nguyên nặng đầu óc phân biệt cho
rằng các cõi Tịnh độ, Niết bàn, là nơi hư ảo, không thật có, nhưng người
có tâm vô phân biệt, quen nếp sống trực giác, tâm linh, hiểu rõ năng lực
của đức Tin và Tâm thành, lại cho là các cõi Tịnh độ và Ta bà đều thực
có, và chỉ là một, không hai.
Là một Đạo Sư dày kinh nghiệm, Đức Phật
Thích Ca đã dẫn chúng sinh đi từ thế giới khách thể hữu hình đến thế
giới bản thể vô hình, rồi lại phủ nhận cả hai thế giới hữu hình lẫn vô
hình, phá cả hai bên đối đãi để hiển lộ cái lẽ phi hữu phi vô, diệc hữu
diệc vô, hay cái lý Bất nhị trong thế gian, nhất nguyên vô phân biệt.
Mục đích của Phật là cứu vớt chúng sinh thoát khỏi khổ đau trong tam
giới, đưa tới một nơi lý tưởng Cực lạc, Niết bàn, nhưng cảnh giới cực kỳ
sung sướng là Tịnh độ, Niết bàn kia chẳng phải là đâu xa lạ, mà chính
lại vẫn là cảnh giới của tâm, ai ai cũng có, vốn vô sở đắc. Thế mới hay
mất công bôn ba tìm kiếm khó nhọc khắp nơi, nhưng lại thấy ở nơi thật
gần, ngay ở thân mình và rốt cuộc chỗ đến của lối tu tiệm ngộ theo Sự
cũng là chỗ đến của lối tu đốn ngộ theo Lý. Sự chẳng khác Lý, chỉ không
giống nhau ở căn cơ và hành trì siêng năng hay giải đãi mà thôi. Còn
chấp Có, chấp Không, chấp Sự chấp Lý là còn mê muội và mang tâm phân
biệt, chia rẽ, do đó còn bị trói buộc, khổ đau. Cũng như chứng bệnh của
loài người có nhiều, lại phải có đủ mọi thứ thuốc để điều trị. 84.000
pháp môn Phật dạy, pháp môn nào cũng tuyệt diệu cả, vì có công năng trị
bệnh cho loài người đến tận gốc, nhưng xét ra chỉ có hai loại là Pháp
tướng và Pháp tính hay Hữu môn và Không môn đưa người tu đến toà nhà Như
Lai. Khi đã tới nơi rồi thì Tướng cũng như Tính, Sự cũng như Lý, Sắc tức
là Không, Tương đối tức Tuyệt đối, Hữu vi cũng như Vô vi, đường lối tuy
khác nhau, nhưng cũng tụ tại một điểm là Chân Không, Chân Như, Chân Tâm,
Phật tính. Pháp Tướng và Pháp Tính thoạt tưởng là độc lập khác nhau,
nhưng thật ra lại bất dị, tương thành. Chúng nương lẫn nhau, tương tức
tương nhập, cũng như điện âm và điện dương tưởng là tương khắc, huỷ diệt
nhau, nào ngờ chúng lại kết thành một dòng điện âm dương đun đẩy tiếp
nối nhau để tạo thành một dòng điện âm dương đơn thuần. Pháp tướng nhờ
vào hình tướng giả bề ngoài và cái Dụng để phô bày cái Thực tướng bên
trong, hay cái Thể Chân Không của các pháp.
Người học đạo bước đầu còn dựa vào sắc
tướng âm thanh, cậy vào Tha lực nhờ đó mới cởi bỏ được phiền não, nhiễm
ô ở trong lòng. Pháp Tính nương vào tự lực của người tu nhiều hơn. Hành
giả thu thúc lục căn, quán sát tâm mình, không lưu ý tới ngoại cảnh, cố
gắng dứt bỏ chúng sinh tính, diệt trừ tận gốc tham, sân, si để tâm trở
nên thanh tịnh.
Cái đích của cửa Không cũng là cái đích
của cửa Hữu, giống nhau ở điểm phải thanh lọc những ác tưởng để tâm trở
nên hanh khiết, pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thần diệu vì nó có sức
thu hút mọi giai tầng tín đồ Phật gioá, từ bậc thượng lưu trí thức đến
hàng thất học hạ căn, từ người nhàn rỗi đến kẻ bận việc, bất cứ đi,
đứng, nằm, ngồi, đang làm công việc gì cũng có thể niệm Phật được cả.
Pháp môn đó thoả mãn được mọi Phật tử, người nặng tình cảm và tín
ngưỡng, nương vào Tha lực thì tu theo Sự tướng, lối tiệm tu, người có ý
chí tự cường, tin ở tài sức của mình thì tu theo Lý tính, lối đốn ngộ.
Nhưng dù theo Sự hay Lý, tin hay không tin có Phật A Di Đà và cõi Tây
phương Cực lạc, cũng có thể đạt được kết quả như nhau là diệt trừ phiền
não và tâm được an vui, nếu cùng siêng năng hành trì theo con đường tu
của mình đã chọn.
Điểm đặc sắc của pháp môn Tịnh độ là
người tu theo Sự tướng, không hiểu về Lý, chỉ chuyên cần niệm Phật A Di
Đà với Nhất Tâm bất loạn, cũng đạt được mục tiêu là trở về với Chân Tâm
thanh tịnh của mình, y như người rành về Lý. Vì khả năng thu hút của
pháp môn Tịnh độ và để thoả mãn cung nhằm vào mục tiêu có lợi cho đủ mọi
hạng người không thể trả lời dứt khoát là Có hay Không có Đức Phật A Di
Đà, và Có hay Không có cõi Tây phương Cực lạc, bởi lẽ nếu nghiêng hẳn về
một bên, vừa không hài lòng bên kia, lại mắc vào lỗi Biên kiến, ngả và
Có thì chấp Tướng, nghiêng về Không thì chấp Tính, bị lạc vào ngoan
không. Bởi lẽ mọi pháp trên thế gian này đều chẳng thật có, chẳng thật
không, chẳng phải hư, chẳng phải thực, nên đối với câu hỏi Có hay Không
có Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc, không thể đứng trên lập
trường trí thức thuần tuý, nghiêng về Lý, đóng khuôn trong hình thức nhị
nguyên mà trả lời Có hoặc Không dứt khoát, mà chỉ có thể đứng trên lập
trường tâm linh, trong khuôn khổ nhất nguyên mà trả lời: Có và Không, -
Cũng Có và cũng Không, hoặc chẳng phải Có và chẳng phải Không. Bởi lẽ Có
chẳng khác gì Không, Không chẳng khác gì Có, Có tức là Không, Không tức
là Có theo Bát Nhã trí.
Đối với người theo Sự, không hiểu về Lý,
còn phải dựa vào Tha lực mà nuôi dưỡng tinh thần họ. Nhưng đối với ai tu
đã lâu năm mà quen thói ỷ lại, cứ bám vào hình tướng, không chịu dưỡng
tính tu tâm mà không chịu tin ở tự lực của mình thì cần phải trả lời là
Không có.
Ở đây chúng ta nên nhớ tới lời Tổ Huệ
Năng khuyên các đệ tử cách trả lời mỗi khi có người hỏi về những sự việc
có tính cách đối nghịch. Tổ nói: “Hễ ai nghiêng về Có, phải lấy Không
để đáp lại. Hỏi Thánh thì lấy phàm, hỏi phàm thì lấy Thánh để đối đáp,
như vậy giữa hai thái cực Có, Không, Thiện, Ác… nảy sinh lý Trung Đạo
hay Bất Nhị bao trùm cả hai bên, có như thế mới khỏi mắc vào lỗi thiên
kiến cực đoan.
CHƯƠNG 5
NHẬN ĐỊNH VỀ VẤN ĐỀ ĐỚI NGHIỆP VÃNG SINH
Điểm nghi vấn Có hay Không có đới nghiệp
vãng sinh cũng được giải đáp tương tự như nghi vấn: Có hay Không có
Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc.
Để trấn an những tâm hồn yếu đuối, đức
tin không vững, và ngại mình phúc mỏng nghiệp dầy tạo nhiều quả ác, thì
mong gì được dự phần hưởng phúc ở cõi Cực lạc Tây phương để chung sống
với các bậc Hiền, Thánh. Về điểm này Cổ Đức có dạy: Phàm là chúng sinh
ai cũng phải mang nghiệp vào thân, chẳng nặng thì nhẹ, không ai thoát
khỏi nghiệp báo, do đó đừng nên thắc mắc về nhân quả, luân hồi. Cũng ví
như mây đen bao phủ bầu trời, đến khi gió thổi thì mây đen liền tan,
hoặc gian phòng đang tối, bỗng đèn điện bật sáng thì bóng tối biến liền.
Cảnh mây đen và bóng tối chỉ là hư ảo, cũng như vô minh tạm thời che
khuất Chân Tâm, chẳng phải là cảnh thật, vì đã gọi là thật thì vĩnh viễn
cứ như thế mãi không hề đổi thay. Đèn điện và gió thổi có khả năng xua
đuổi bóng đen thì ánh linh quang của trí tuệ cũng có khả năng phá tan vô
minh phiền não, cho nên chẳng sợ mang nghiệp vào thân mà chỉ cần lo gieo
nhân lành thật nhiều, và chuyên tâm thành kính niệm danh hiệu Phật A Di
Đà để tới khi lâm chung quen việc niệm Phật.
Hễ nuôi dưỡng Tín Tâm cho vững và thực
hành được từ 1 đến 10 niệm thanh tịnh trong lúc hấp hối cũng đủ để Phật
A Di Đà phóng quang tiếp dẫn về quốc độ của Ngài. Cũng ví như người phải
vác một tảng đá lớn lội qua sông trong cơn phong ba thì khó bề tránh
khỏi thuỷ tai, nhưng nếu người ấy lại được chuyên chở bằng thuyền bè,
tượng trưng cho Tha lực của chư Phật thì dù phải mang nặng hàng tấn đá
vẫn ung dung ngồi vững trên thuyền lướt sóng bình yên trong cơn giông
bão, chẳng tổn hơi sức. Đó là lý của những người tu theo Sự, tin ở Tha
lực và thuyết Đới nghiệp vãng sinh. Đối với người không hiểu về Lý thì
tất cả mọi hiện tượng tâm, vật lý đều thực có, như vậy thì nghiệp báo
sao lại chẳng có. Nhưng đối với người đã hiểu chân lý lại tin rằng: Xác
thân này hư giả, vô ngã, vọng tâm lại điên đảo, vô thường thì nghiệp báo
sao lại có được ? Đó chỉ là vấn đề nhân duyên giả sinh, giả hợp mà thôi,
vậy chẳng cần phải lo ngại. Vì thế mà tâm họ lúc nào cũng an nhiên tự
tại. Họ chẳng sợ quả báo mà chi lo không gieo được nhân lành. Họ hiểu
rằng: nhân quả là luật thiên nhiên, có vay thì phải trả. Họ tìm mọi
cách vượt lên trên nhân duyên để được giải thoát. Cũng như khi con người
đã hiểu rõ luật thiên nhiên thì không làm điều gì trái luật thiên nhiên,
lại còn biết lợi dụng sức mạnh của thiên nhiên để chế ra nào là tàu
thuỷ, tàu ngầm, thuyền buồm… để di chuyển dưới nước, vượt biển rộng; nào
là khinh khí cầu, phi cơ, hoả tiễn để đi trên không, vượt trời cao; nào
là máy in, máy điện tín, điện thoại, máy chữ… để thông tin xa nhau hàng
vạn dặm, nhờ đó mà thu ngắn được khoảng cách, nối liền quá khứ, hiện
tại, vị lai. Con người thời nay, nhờ trí thông minh của mình đã đạt được
ngũ thông và đã trở thành khổng lồ, có sức bay nhanh hơn chim, lặn sâu
hơn cá, vác nặng hơn voi, chạy nhanh hơn thỏ, nghe được suốt lục địa,
nhìn thấu các vật vô hình, lại có sức phá rừng, lấp biển, xuyên núi,
chặn đứng các thác nước cuồn cuộn đổ xuống từ cao…
Đứng trước nghiệp và khổ đau, con người
có hai cách để vượt qua:
1.- Một là đối diện với nghiệp và khổ
đau để tìm hiểu nguyên nhân sinh ra nghiệp trong thân, khẩu, ý để tìm
cách tiêu diệt những nhân tố ấy. Đó là thái độ áp dụng trong Tứ Diệu Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
2.- Hai là đối diện với nghiệp khổ đau,
nhưng không chống lại chúng theo lối ăn miếng trả miếng, mà lại dùng
Nhẫn Nhục, như một thế võ Nhu đạo, mượn cái đà của chúng để tiêu diệt
chúng. Nói cách khác, khi khổ đau và nghiệp tấn công, ta không chống cự
lại mà lợi dụng thế võ “Nhu thắng cương, nhược thắng cường”, lấy Nhẫn
nhục ba la mật để đối phó lại. Cũng như khi quân giặc đến tấn công nếu
ta đem quân ra chống cự lại, ắt phải tổn thất nhân mạng, đổ máu nặng nề,
nhưng nếu ta lại bỏ ngỏ thành áp dụng chiến thuật “vườn không, nhà
trống” thì quân giặc không giết hại được gì cả. Dùng nhẫn nhục để đối
phó thì tính nhẫn nhục của ta được tôi luyện thêm sắc bén, ta chịu đựng
khổ đau mà không kêu ca, sân hận thì ta phá được Ngã chấp, Pháp chấp,
đắc quả Vô sinh Pháp nhẫn. Khi đã không sân hận oán thù thì không gây
thêm nghiệp ác mới nữa, ta đình chỉ được luật nhân quả và đạt được Chân
Tâm, Phật tính của mình.
Bởi vì khi trực diện với nghiệp và khổ
đau thì chúng chỉ tác dụng trên con người giả của ta mà thôi, nghĩa là
chúng chỉ làm cho thể xác và tinh thần hay cái thân ngũ uẩn giả hợp này
bị ảnh hưởng, chứ tuyệt nhiên chúng không thể tác hại đến phần tinh thần
là Chân Tâm, Phật tính của con người thật (Chân Ngã) của ta được. Những
ai đã hiểu rõ luật nhân quả đều biết rằng: nghiệp với ta là một. Nghiệp
chính là mình, vì ai muốn tạo nghiệp gì tuỳ ý. Không ai thoát khỏi
nghiệp, bởi nghiệp gắn liền với tư tưởng và hành động của con người. Còn
suy tư là còn nghiệp, chẳng dữ thì lành. Họ không sợ nghiệp và khổ đau,
vì biết rằng có nghiệp mới có Giải thoát, có phiền não mới có Bồ đề.
Không bị khổ đau, không vượt qua nghiệp chướng, tất không thể nào siêu
thăng. Giải quyết những mâu thuẫn của trí thức như thế nào thì cũng giải
quyết vấn đề nghiệp báo như thế. Trí sai biệt và phân biệt được giải
quyết bằng trí Vô sai biệt và Vô phân biệt, thì nghiệp cũng được giải
quyết bằng Phi nghiệp. Đau khổ và nghiệp là duyên lành tạo niềm an lạc
cho tâm hồn, cũng như đoá sen thơm ngát mọc lên từ bãi sình lầy hôi
tanh.
Theo nghĩa thông thường thì nghiệp là
luật nhân quả tự nhiên, nhưng dưới cặp mắt của người đạt đạo quen sống
với lý Bất Nhị thì nghiệp tức là phi nghiệp. Giữa mê và ngộ, nghiệp
không tác động như nhau. Trong lúc người mê không ngớt than thân trách
phận về nghiệp quả nặng nề, thì người ngộ lại không cảm thấy gánh nặng
của nghiệp đè lên vai mình. Tuy cùng đeo nghiệp như nhau, nhưng họ lại
không để ý đến nghiệp, bởi thế, tâm họ luôn thanh thản. Họ không xoá bỏ
luật thiên nhiên nhưng tuỳ thuận thiên nhiên mà sống, đồng nhất với
thiên nhiên trong cảnh tự tại vô ngại. Nghiệp dù có đến, họ thản nhiên
chịu hậu quả của nghiệp như để trả một món nợ đã đáo hạn cho xong. Người
đạt đạo trong hoàn cảnh đau buồn, dĩ nhiên là biết nhưng dường như không
biết, bởi vì người này đã ẩn mình trong tính “Không”, nên mới giải thoát
khỏi đau buồn. Người ấy cũng cảm xúc như ai, nhưng họ hiểu rằng, không
ai tránh khỏi luật nhân quả, phải lấy tính nhẫn nhục để che cho thân
mình. Đó chẳng phải là trạng thái tinh thần trơ như gỗ đá, cũng chẳng
phải là ươn hèn, nhưng chính là tự độ, tự giác để giác tha. Bởi vì theo
luật biến hoá của vọng tâm sinh diệt, thì khi người ta đau buồn thường
hay sinh ác tưởng. Để thoả mãn ác tưởng phải tăng thêm nghiệp ác, cho
nên người tu hạnh đầu đà, nhẫn nhục, tạm ẩn trong tự tính thanh tịnh
Niết bàn để ngăn ác tưởng không cho phát sinh. Đó là một việc làm khó,
đòi hỏi phải đi ngược dòng sinh của ác tưởng. Nhờ công phu tu tập của
pháp Từ, Bi, Hỷ, Xả mới dẹp được mầm ác manh nha và an tâm vào tình
trạng khách quan thanh tịnh. Đó là một cách để diệt khổ được vui, làm
mất hiệu lực của luật nhân quả. Con người cũng có thể vượt qua nghiệp
bằng cách chuyển Nghiệp thành Nguyện. Cũng như con người, khi đã biết rõ
luật thiên nhiên thì tìm cách lợi dụng sức mạnh của thiên nhiên, vượt
qua nó để phục vụ cho hạnh phúc của mình. Tâm tạo nghiệp thì tâm cũng
giải được nghiệp. Có chuyển được nghiệp, cắt đứt mối giây nhân quả mới
khỏi bị nghiệp trói buộc. Cứ phát ra những lời đại nguyện thanh tịnh,
chân chính, vị tha, rồi cố gắng thực thi những đại nguyện ấy thì chẳng
còn sợ nghiệp báo, Nhân quả nữa.
“Bất lạc nhân quả, bất muội nhân quả”
khác nhau chính là ở điểm này. Do đó, những người này không tin thuyết
“Đới nghiệp vãng sinh”, và đối với câu hỏi: “Có hay không có đới nghiệp
vãng sinh ?” Cũng như với câu hỏi: “Chúng sinh Có hay Không có Phật
tính ?”, thì có thể trả lời: “Có và Không”, “Cũng Có và cũng Không”, hay
“Chẳng phải Có, chẳng phải Không”, hay “Chẳng phải không có, chẳng phải
Không không có”. Tiện đây, tôi xin kể lại câu chuyện rất quen thuộc đối
với đa số người trong đạo Phật:
Một bữa, một người hỏi Thiền sư Triệu
Châu:
- Bạch Hoà thượng, con chó có Phật tính
không ?
Ngài đáp: Không.
Người này lại hỏi:
- Kinh Pháp Hoa có nói: “Nhất thiết
chúng sinh giai hữu Phật tính”, cớ sao con chó lại không có Phật tính ?
Ngài đáp:
- Bởi vì Vô minh che lấp Chân Tâm, nên
nói: Không. Con chó không thấy Phật tính của nó, cho nên tuy nó có Phật
tính mà cũng coi như nó không có vậy.
Bữa khác, có người lại hỏi Thiền sư
Triệu Châu:
- Bạch Hoà thượng, con chó có Phật tính
không ?
Ngài đáp: Có
Người ấy gặng hỏi:
- Nếu có Phật tính, sao nó lại phải đội
lốt chó ?
Ngài đáp:
- Bởi vì đã biết là có Phật tính mà nó
còn hành động theo lối súc sinh, nên mới phải đội lốt chó. Cũng như
người có kiến thức mà lại cư xử thiếu nhân cách, không sống theo nhân
đạo thì phải đoạ kiếp chó và đội lốt thú chứ sao ?
Như vậy, ta thấy rõ: “Tuỳ theo căn cơ
và tính tình của người đặt câu hỏi mà phải trả lời lúc Có, lúc Không về
cùng một vấn đề, âu cũng là phương tiện để người nghe giải mê, khai
ngộ”.
CHƯƠNG 6
NHẬN ĐỊNH VỀ MỘT SỐ QUAN NIỆM SAI LẦM
THÔNG THƯỜNG CỦA NGƯỜI THỜI ĐẠI.
Xin lưu ý quý vị về mấy điểm sai lầm
thông thường sau đây của người thời đại:
Mục 1: Thuyết nhị nguyên.
Với đường lối thuần lý của triết học và
khoa học Tây phương đặt cơ sở trên luận thuyết “Cogito ergo sum” của
Descartes thì đa số người Tây phương hiện nay vẫn còn quen nhận thức
cuộc đời theo đường lối Nhị nguyên. Thậm chí họ còn đặt ra nguyên tắc
“Bài trung” (Principe du Tiers exclu) để đánh đổ chủ nghĩa “nửa vời”.
Theo họ thì việc dời đổi chẳng thế nọ
cũng thế kia, chẳng tốt thì xấu, chẳng đúng thì sai, chẳng đen thì
trắng, nếu Có thì tất chẳng phải là Không. Họ cho rằng: mọi hiện tượng
trong trời đất đều thật có, bởi vì cái gì cũng rõ ràng, sờ sờ ngay trước
mắt. Theo biện chứng: Tôi tư duy, vậy thì tôi hiện hữu, cho nên phải có
Ta, có Người, có Sinh, có Diệt, có Vật, có Tâm… quyền lợi mâu thuẫn sinh
ra tranh chấp, chứ không thể có tình trạng nửa vời, chẳng trắng, chẳng
đen, chẳng thiện, chẳng ác, chẳng đúng, chẳng sai, chẳng không, chẳng
có, mờ mờ ảo ảo. Khi nào trí óc của con người còn đi theo con đường mòn
nhị nguyên xưa nay, thì kết quả không sao tránh khỏi là phải phủ nhận
hoặc chấp nhận dứt khoát, và như thế là rơi vào thế đối lập, chia rẽ,
phân biệt bạn và thù. Phật giáo chủ trương: Chỉ khi nào không khẳng
định cũng không phủ định, và sống trong sai biệt - vô sai biệt, và phân
biệt - vô phân biệt, thì lúc đó mới đạt tới Thực tại tuyệt đối.
Nhưng gần đây đã thấy xuất hiện trên thế
giới một số Triết gia và Khoa học gia tân tiến, lên tiếng cảnh cáo đường
lối thuần lý của nền Triết học và Khoa học ở thế kỷ XIX như Heidegger,
Nietztsche, Kierkegard, Dostoiewsky. Những vị này đã can đảm nhận thấy
những khuyết điểm của quan niệm xưa kia, nhìn đời bằng con mắt thị phi,
phân biệt rành rẽ, vì sau nhiều cuộc thử nghiệm trong lãnh vực Điện tử,
họ đã đi sâu vào một thế giới lạ lùng ở đó chẳng phải là sự, chẳng phải
là tâm, mà chỉ là một hệ thống chằng chịt, trong đó quan niệm thông
thường về vật chất tan biến như mây khói. Nếu coi Điện tử là nền tảng
của vật chất như các vật thể khác thì nó lại không có khối lượng vật
chất khi nó ở thể loãng, bất động, trái lại nó lại năng động. Họ đâm ra
lúng túng không biết nên đặt Điện tử vào khu vực vật chất với danh hiệu
là Lượng tử hay Chất tử (Corpuscule de matière) hay cho nó vào hàng ngũ
Năng lực (tinh thần) với danh hiệu là Ba động của Tinh lực (Onde
d’énergie) bởi vì nó gồm đủ cả tính của vật chất lẫn năng lực, vừa là
Vật vừa là Tâm. Rốt cuộc, buộc lòng người ta phải tạm đặt cho nó danh từ
là Lượng tử Ba động (Onde Corpuscule) để chỉ cho một Thực tại nghịch lý
phi vật chất, phi tinh thần ấy.
* Theo thuyết Tất Định hay Định Mệnh của
La Place cho rằng: “Không có gì ngoài vật chất cả, và mọi hiện tượng
trong vũ trụ đều do vật chất sinh ra”, biến hoá theo luật nhân quả, do
đó có thể đoán định được tất cả những gì sẽ phải xảy ra. Nhưng tới năm
1927, nhà bác học Đức Heisenberg đã chứng minh cho thế giới thấy rằng
nguyên lý Tất Định hay Định Mệnh an bài không thể áp dụng trong thế giới
Điện tử được nữa, và không sao biết trước được vị trí và tốc độ của Điện
tử ra sao cả. Hơn nữa các Khoa học gia ngày nay không còn dám tự hào là
mình đã dùng cặp mắt và khối óc khách quan để quan sát ngoại vật như
thường lệ nữa, mà họ đã phải thú nhận rằng những đặc tính của Lượng tử
hay Chất tử đều do trí óc chủ quan của họ tạo nên, chứ thật sự thì các
vật này không có những đặc tính riêng biệt, độc lập đối với trí óc của
người quan sát (L’electron ne possède pá de propriétés indépendantes de
mon esprit - trích tài liệu Tham luận tại cuộc toạ đàm ở Cordoue, Tây
Ban Nha, năm 1979, về đề tài Sciece ét Conscience - Khoa học và Tâm
thức).
Nói khác đi, thì họ phải công nhận rằng
trong lãnh vực cực vi thì chủ thể quan sát không tách rời khỏi đối tượng
được quan sát, và như vậy thì khoa học ngày nay cũng đi tới nhận thức
giống như của Long Thọ Bồ tát trong Phật giáo Đại thừa ở thế kỷ thứ II
dương lịch là: Phi hữu phi vô, diệc hữu diệc vô, tức là pháp môn Bất
Nhị hay tâm vật nhất như, mà lời nói của loài người khó diễn tả nổi.
Phật giáo cho rằng: Các pháp đều do nhân duyên giả sinh, giả diệt, và
bản chất của chúng vốn Vô tự tính. Các pháp không tự nhiên có, phải do
tương quan với những cái không phải nó mà có, nên sự Có ấy là Giả có. Có
khái niệm về Sinh vì có khái niệm về Diệt. Sự mâu thuẫn giữa Có, Không,
Sinh, Diệt đưa đến một tổng đề Phi Có Phi Không, Phi Sinh Phi Diệt hay
Bất Nhị, nhưng trong cái Bất Nhị vẫn ngầm chứa cái Nhị đối lập với nó.
Cứ như thế, một pháp luôn luôn hàm chứa một pháp khác, mâu thuẫn với nó.
Từ đối nghịch, mâu thuẫn đi tới một tổng đề, vẫn hàm chứa một mầm mâu
thuẫn mới, nằm trong giới hạn của khái niệm, danh từ Tổng để cứu cánh
phải là Thực tại tuyệt đối vượt ra ngoài tính chất tương đối, so đo của
ngôn ngữ, khái niệm.
Hiểu rõ lý nhân duyên trùng điệp sẽ phá
tan được những cặp mâu thuẫn nhị nguyên và những khái niệm nhị biên để
đạt tới Chân lý tuyệt đối, không còn tranh luận hão huyền nữa. Thấu
triệt lý nhân duyên tức đi tới thể Không tịch, phá vỡ được Ngã chấp,
Pháp chấp và đạt tới chân trời Chân Không Diệu hữu.
Lý nhân duyên chuyển được sự thúc phọc
thành sự tự do. Trong các Kinh điển của Đại thừa Phật giáo chủ trương
Chân Không - Diệu Hữu đều hàm chứa lý đó như: Vô tận trùng trùng duyên
khởi trong Kinh Hoa Nghiêm, Thực tướng quan trong Kinh Pháp Hoa, Chân
như quan trong Khởi Tín Luận và Tịnh độ quan trong Kinh A Di Đà và Kinh
Vô Lượng Thọ.
Phật giáo chủ trương phá chấp triệt để
nào là chấp Có, chấp Không, chấp Thường, chấp Đoạn, chấp Ngã, chấp Pháp,
vì với xu hướng Nhất Nguyên hay tinh thần Bất Nhị, đạo Phật đã đạt chân
lý tuyệt đối viên dung, không còn bị vướng mắc vào lỗi lầm nào cả. Muốn
được như vậy, người Phật tử học đạo phải gột sạch óc phân biệt nhị
nguyên, từ bỏ mọi ràng buộc vào Có, Không, Thường, Đoạn, và không chấp
vào danh từ, để thấy được Thực tại toàn diện và nhất quán, một Thực tại
thoát lý cả Có lẫn Không, vượt khỏi mọi khái niệm, siêu việt trên lãnh
vực của hình, danh, sắc, tướng, ở ngoài nhận thức chủ quan, tương đối.
Muốn được như vậy thì người học đạo phải
rời bỏ mảnh đất thuần lý của khoa học và triết học cổ điển, lỗi thời mà
dấn thân vào cảnh giới tâm linh, tức là vượt qua lý trí để trực quán
thực tại nguyên thuỷ của tâm, siêu lên mọi phân biệt tỷ giảo của triết
học và khoa học nhị nguyên, chỉ thấy Thực tại trong Tỷ lượng một cách
méo mó, thiên lệch, làm cho Chủ và Khách, Tâm và Cảnh đối đầu nhau đưa
tới tình trạng phân ly, vị kỷ, cố chấp mà không thấy được chân lý “Vạn
vật đồng nhất thể”, “Chúng sinh giai hữu Phật tính”, “Ta là Người, Người
là Ta, bình đẳng vô phân biệt và vô sai biệt”. Người giác ngộ sống với
lý Bất Nhị, thấy rõ thực tướng của các pháp đều Không, Vô tướng, Vô tác,
thấy rõ tính cách ảo ảnh phù du của ý thức và giác quan là đầu mối của
vô minh, đã bóp méo và cắt xén thực tại, làm cho con người bị mù quáng
và khổ đau, và thấy được tính cách trong sáng của sự vật ở đời, khi đã
từ bỏ được nhận thức thiên lệch để thấu triệt được thực tại phổ quát,
đại đồng, và khi ấy thì phá được hàng rào ngăn cách Chủ và Khách, Tâm và
Cảnh để không còn yêu ghét, khổ đau nữa. Muốn tiến tới điểm đó thì không
thể đi theo đường lối của Lý trí suy luận, phân biệt và phải bằng trực
giác tâm linh và Đức Tin lành mạnh, tức là bằng Thiền quán và Niệm Phật,
Chính mê vọng tạo ra cảm giác, nguồn gốc của khổ đau, đưa tới ác tưởng
và hành động sai lầm. Đó là mục đích mà Phật ra đời để khai thị cho
chúng sinh ngộ nhập vào tri kiến Phật của mình và thấy được Thực tại
toàn chân.
Mục 2: Hư vô chủ nghĩa.
Thà nghiêng về phía chấp Có, khẳng định
có Đức Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc, rồi thành kính tin tưởng
vào Tha lực và chuyên cần niệm danh hiệu Phật A Di Đà, cầu mong tha
thiết được đới nghiệp vãng sinh về quốc độ của Ngài, còn hơn là ngả về
phía chấp Không, phủ nhận cõi Tịnh độ Tây phương, chẳng chịu chăm lo
gieo nhân lành, vun trồng cội đức, không tin có Tha lực để rồi chẳng
chịu khó niệm Phật, mất Tín Tâm thành người vô đạo.
Lý “Đệ Nhất nghĩa Không” hay “Nhất thiết
giai Không”, trên mặt bản thể của đạo, và thuyết “Tất cả mọi sự vật đều
thực hữu trên mặt hiện tượng” là hai bộ mặt của một Thực tại toàn diện
gồm đủ cả Tính lẫn Tướng, Thể và Dụng. Sống trong thế gian dù biết là mê
vọng, giả dối, nhưng ta vẫn phải sống hết mình, làm tròn sứ mạng của ta,
để cuộc đời mình được thăng hoa tiến bộ về mọi mặt. Ta không thể khư khư
ôm giữ mãi lý “Không” trong giấc ngủ mê man siêu hình, hoặc khoanh tay
ngồi nhìn thiên hạ, sống ngoài vòng cương toả, mà phải tích cực hoạt
động làm lợi ích cho đời, có như thế mới hiểu rõ mối liên hệ mật thiết
giữa pháp Không và pháp Có, giữa Tuyệt đối và Tương đối, giữa Chân Ngã
và Giả Ngã, giữa Phật thừa và Nhân thừa.
Câu nói: “Tự tính Di Đà, duy tâm Tịnh
độ” có nghĩa là ngoài bản tính của ta thì không có Phật A Di Đà, và
ngoài tâm mình thì không có cõi Tịnh độ. Đó là trạng thái tuyệt đối của
bản thể Chân Tâm khi đã chứng ngộ được lý “Chân Không Diệu Hữu”. Đây là
cảnh giới hư vô tịch tĩnh của bậc chân nhân khi đã phá vỡ được xiềng
xích của Ngã chấp và Pháp chấp. Đối với người thường, còn phải dầy công
tu luyện khi chưa đạt tới bậc thang đó, còn phải tập đi lần từng bước
ngắn và thấp cho khỏi vấp ngã, dựa vào Tướng, Dụng của các pháp phương
tiện để thân chứng được “Đệ Nhất nghĩa Không”. Nếu chẳng tự lượng sức
mình, cứ nhắm mắt bắt chước những bậc thượng căn, học đòi hành theo lý
“Đệ nhất nghĩa không” ngay từ lúc mới chập chững bước vào cửa đạo là một
việc làm tối nguy hiểm. Bởi vì hành động của người đạt đạo đã chứng “Đệ
nhất nghĩa Không” là hành động của người theo lý “Tri hành hợp nhất”,
còn đối với kẻ chưa am hiểu lý “Đệ nhất nghĩa Không”, cái gì cũng cho là
không cả, ngả theo Hư vô chủ nghĩa, thì chẳng khác nào người khờ dại,
phải lội qua sông khi chưa biết bơi đã vội phá huỷ cây cầu nối liền hai
bờ, hay không chịu dùng thuyền bè để qua sông. Khi ta còn ở trong vòng
tương đối, chưa ngộ được lý “Đệ nhất nghĩa Không”, thì còn phải dựa vào
sắc tướng, nương vào âm thanh để tiến tu từng bước đầu. Mỗi bậc tu có
những quả sở đắc riêng, nếu công phu nội chứng của hành giả chưa đạt tới
trình độ chín muồi thì không thể bảo rằng: Tâm Cảnh đều không, năng sở
đều tịch, do đó cảnh Cực lạc Tây phương cùng Phật A Di Đà là những đối
tượng cần thiết để nương tựa mà tiến tu cho tới giải thoát cứu cánh. Chỉ
khi nào triệt thấu được chân tướng của các pháp là Phi hữu, Phi vô, diệc
hữu diệc vô, mới khỏi bị mắc kẹt vào gọng kìm Có, Không của thế tục,
nghĩa là không còn ở trạng thái “hiệp giác bội trần”, cũng chẳng “hiệp
trần bội giác”. Pháp Có chẳng ràng buộc nổi mình nên không còn bị phiền
não quấy rối, mà pháp Không cũng chẳng lôi kéo nổi ta, do đó mới ung
dung thành tựu được mọi lợi ích cho đời. Người chấp Hữu có thể dùng môn
thuốc “Không” để trị cho lành bệnh, còn người chấp Vô, lạc vào Hư vô chủ
nghĩa thì nguy hiểm vô cùng, vì đó là một chứng bệnh nan y khó chữa.
Trong lục độ ba la mật thì Trí Bát nhã là phần cốt tuỷ cần phải đạt tới
mới mong được giải thoát. Lý Bát Nhã Chân Không là một liều tiên dược
đối với ai thiên về sự tướng, nhưng lại là một liều độc dược giết người
đối với ai không biết cách sử dụng nó. Tỷ như người hành đạo mà coi
thường giới luật, cứ sát sinh, uống rượu, ăn thịt, nói năng bừa bãi, rồi
viện lẽ “nhất thiết giai không” để biện minh cho việc làm càn bậy của
mình thì phải đoạ địa ngục nhanh như tia chớp. Những ai đã hiểu lý “Chân
Không” một cách chân chính, biết buông thả vọng duyên thì tu pháp môn
nào cũng đạt tới “Tam Luân Không tịch”, phá được Ngã và Ngã sở, lìa hết
các pháp để tới chỗ “Hành vô hành hạnh”, “Tu vô tu tu”, thì lý Bát Nhã
quả là Thánh dược lợi ích vô cùng.
* Quan niệm về “Không” biểu thị giá trị
siêu việt của thực tại, thoát ly mọi nhận thức chủ quan thiên lệch. Đó
cũng là tư tưởng tích cực nhập thế giúp ta không sợ khổ đau để ung dung
tiến bước trên đường hành đạo Bồ tát, với đôi giày Nhẫn nhục và Tinh
tiến. Nhưng muốn đạt tới Chân Không là bản thể của các pháp người học
đạo phải băng qua chặng đường dài chấp Hữu, cũng như muốn đạt tới địa vị
Vô học, phải học đủ các pháp môn, nghiên cứu đủ Tam tạng kinh điển để
không còn gì phải học nữa, rồi dùng pháp Xả để tùng Tướng nhập Tính. Nhờ
quán tưởng và Thiền định lâu ngày, nhờ tư duy sâu sắc người tu hành thấy
rằng, dù ở nội tâm hay ở ngoại cảnh, không có cái gì trường tồn vĩnh
cửu, bất biến, cũng không có tự ngã trong mọi dòng hiện tướng, do đó
người tu loại bỏ được mọi khuynh hướng ích kỷ, tham luyến, đắm say, sống
với toàn thể vũ trụ bằng trái tim tràn đầy tình thương bao la, không
tham sống, không sợ chết, vui vẻ đợi sự giải thoát đến với mình để tiếp
tục một cuộc sống tươi đẹp hơn ở kiếp sau.
Mục 3: Tri phải Hành
Biết tức là Hành, Hành tức là Biết. Biết
cặn kẽ đến ngọn nguồn tức là Giác ngộ. Giác ngộ và Hành động triệt để
theo sự hiểu biết viên mãn của mình tức là thành Phật.
Phật học và khoa học giống nhau ở điểm
chung là Tri Hành hợp nhất. Sau khi hiểu rõ lý thuyết thì nhà khoa học
đi ngay vào thực nghiệm, cũng như người học Phật đem giáo lý Phật dạy ra
thực hành ở đời.
Không bao giờ có Tri lại thiếu Hành vì
đạo Phật là một đạo thực tiễn, không ưa lý luận suông, nhất là đối với
pháp môn Tịnh độ. Bản ý của Phật là muốn cho chúng sinh thoát khổ được
vui nên Phật mới dùng phương tiện niệm Phật A Di Đà để chúng sinh gieo
những hạt giống tốt lành vào tâm hồn của mình, cốt để an tâm dưỡng tính
diệt trừ mầm ác cho tâm trở nên thanh tịnh an vui. Không cần xét xem Có
hay Không có cõi Tây phương Cực lạc rồi mới niệm Phật A Di Đà, bởi vì
biết như vậy chẳng lợi ích gì, mà còn làm mất thời giờ dùng để niệm Phật
và giảm Tín Tâm cần phải nuôi dưỡng để mỗi ngày thêm vững mạnh hơn chỉ
cần niệm Phật cho chuyên, cho thuần là đủ, rồi kết quả đạt được, tuỳ ý
muốn của hành giả, hoặc được tâm thanh tịnh ở hiện tại, hoặc được về thế
giới Cực lạc Tây phương trong vị lai, đều diệt trừ được phiền não, tâm
được tự tại cả. Vấn đề Tịnh độ, Niết bàn, Chân tâm, Phật tính thuộc về
bản thể siêu hình chỉ cảm thấy mà không thể chỉ bày hay lý giải bằng
giác quan, ngôn ngữ của người thế gian mà phải thể nghiệm bằng trực giác
và chấp nhận bằng đức Tin tuyệt đối. Tuy không thể chỉ bày những thứ đó
bằng mắt bằng tay được, bởi vì chúng không có sắc tướng, nhưng đó lại là
một thực thể thường hằng, hiện diện khắp không gian và thời gian. Khi
nào Chân Tâm hiển lộ thì Phật A Di Đà mới xuất hiện tại tâm. Đức A Di Đà
mà ta thấy được là Phật của tâm ta, do đó mới bảo là Tự tính Di Đà, duy
tâm Tịnh độ. Khi nói đến duy tâm, tự tính thì phải hiểu đó là chân tâm
thanh tịnh và Phật tính sáng suốt bất sinh bất diệt của mình, không phải
là cái tâm tà vọng bất tịnh, giả hợp, giả hoại của ta. Cầu được thấy Đức
Phật kia tức là cầu được thấy chân tâm, tự tính của mình. Mong được vãng
sinh Cực lạc thế giới tức là mong được thấy những đức tính thanh cao quý
báu của ta. Đó là ý nghĩa câu kinh “Tức Tâm tức Phật” và “Tức thân thành
Phật”.
Vấn đề Có hay Không có Phật A Di Đà và
cõi Tây phương Cực lạc chỉ là nghi vấn của hạng người sơ cơ thiên về Lý
bỏ Sự, tín tâm không vững, hoặc của những học giả mang tâm phân biệt,
nhị nguyên, chỉ muốn thoả mãn tính đa nghi mà thôi, chứ đối với bậc tu
hành chân chính đã luyện được tâm bình đẳng, Bất nhị, thì càng đi sâu
vào đường đạo lại càng gột rửa được tâm phân biệt nhị nguyên bấy nhiêu.
Những ai đã đi sâu vào đạo lý thì tín tâm sáng suốt vững mạnh, hết lòng
tin lời Phật dạy và họ hiểu rằng Phật không bao giờ nói sai lời, dối gạt
ai bao giờ và mọi thắc mắc, hoài nghi đều có hại cho đức tin. Do đó ta
thấy những bậc tu chứng cao, những vị cao Tăng thạc đức chưa từng vị nào
thắc mắc hoài nghi về vấn đề hiện hữu hay không hiện hữu của Phật A Di
Đà cả. Chắc hẳn các Ngài không muốn gieo mối hoài nghi có hại, thoái
chuyển những người mới vào đạo, tín tâm chưa vững. Các Ngài dạy rằng:
hãy cứ Tin Sâu, Nguyện thiết và Niệm Phật A Di Đà với tâm bất loạn, rồi
muốn cầu gì cũng sẽ được toại nguyện. Đó là một lời dạy bảo thiết thực
đầy ý nghĩa: Tri Hành hợp nhất mới được giác ngộ, giải thoát thành
Phật.
CHƯƠNG 7
NHẬN ĐỊNH VỀ NGHI VẤN: LỜI PHẬT VÀ
LỜI TỔ DẠY CÓ MÂU THUẪN NHAU KHÔNG ?
Phật dạy: “Y kinh giải nghĩa tam thế
Phật oan, ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết”. Phật lại dạy: “Y pháp
bất y nhân. Y nghĩa bất y ngữ. Y trí bất y thức. Y liễu nghĩa kinh bất y
bất liễu nghĩa kinh”. Người học đạo, khi đọc tụng kinh điển phải hiểu ý
Phật muốn dạy gì qua lời kinh. Muốn khỏi hiểu lầm Phật, phải xét xem
Phật đã đứng về phía tục đế của quảng đại quần chúng trong thế giới
lưỡng nguyên tương đối đầy phân biệt và sai biệt, hay đứng về phía Chân
đế trong thế giới bình đẳng nhất nguyên vô sai biệt và vô phân biệt. Khi
Phật thuyết về Viên giáo hay Chân lý tuyệt đối, Không hai thì bao nhiêu
cặp mâu thuẫn trên thế gian này đều bình đẳng như nhau: Phật, Chúng
sinh, Niết bàn, Ta bà…, bao nhiêu những pháp phương tiện đều chỉ có giá
trị phù du, ảo ảnh. Có khi Phật dùng ngôn thuyết pháp, lấy những vật hữu
hình để dẫn dắt chúng sinh thâm nhập vào thế giới vô hình của Chân
Không. Lại có khi Phật dùng vô ngôn hay tâm truyền tâm để đi vào đạo.
Đối với từng hạng người, căn cơ cao thấp khác nhau, tính tình uỷ mị, sắt
đá bất đồng, Phật tuỳ nghi nói pháp để trả lời lúc Có, lúc Không về cùng
một vấn đề. Có hiểu được lời nói của Phật mới mong thoát khỏi mắc vào
sai lầm đáng tiếc.
Một buổi, một đệ tử hỏi Phật về vấn đề
Có hay Không có Niết bàn ? Phật đáp: “Không có Niết bàn, cũng chẳng có
sinh, tử nốt”.
Thấy vậy, người đệ tử sửng sốt hỏi tiếp:
- Bạch Đức Thế Tôn, nếu vậy thì trì giới
tu Thiền, giữ gìn phạm hạnh và cầu được tri kiến Phật, chẳng có chút lợi
ích gì sao ?
Lúc đó Phạm Thiên Vương lên tiếng đáp
thay Phật, và nói:
- Này ! Thiện nam tử, kẻ ngu muội muốn
lẫn tránh hư không, chạy khắp Đông, Tây, Nam, Bắc và bốn phương bàng đâu
đâu cũng gặp hư không. Còn người đi tìm hư không mà chẳng biết hình
tướng của hư không ra sao chạy lùng khắp nơi mà chẳng thấy hư không đâu
cả, rốt cuộc chỉ tốn công vô ích.
Kẻ cầu Niết bàn cũng vậy. Người ấy hàng
ngày thường sống trong Niết bàn mà chẳng biết Niết bàn ở đâu cả. Họ
thường sống ở trong Niết bàn mà không biết Chân Thể của Niết bàn ra sao.
Bởi thương chúng sinh phải sống trong trần lao sinh tử nên Phật Thích Ca
mới chỉ cảnh giới Cực lạc Tây phương để đối lại với cảnh giới Ta bà,
mong gợi lòng ham thích được sống ở nơi hạnh phúc yên vui mà chán ghét
cõi khổ đau này. Nhưng muốn được sinh về cõi Cực lạc Tây phương phải đâu
dễ dàng mà cần phải có đủ ba điều kiện là Tín, Nguyện, và Hành, nghĩa là
phải Tin lời Phật dạy, phải thiết tha cầu nguyện được về nơi này và phải
nhất tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà, tức là phải tự mình gắng sức đem
những chủng tử lành gieo vào A lại da thức làm cho tâm mình dần dần
trong sạch. Ta nên hiểu mật ý của Phật ở đây là muốn thấy hạnh phúc thì
phải tìm ở nội tâm không ở ngoại cảnh, nghĩa là phải diệt trừ tận gốc
những dục vọng điên cuồng khiến cho cõi lòng mình được trong sạch, chính
đó là Niết bàn, Tịnh độ, nơi tạo ra hạnh phúc chân chính đời đời. Đức
Phật Thích Ca đã nhằm về phía quần chúng, phần đông căn cơ thấp kém,
không hiểu thế nào là Phật tính, chân tâm, nên Ngài mới khuyên chúng
sinh nên hướng về hưởng hạnh phúc, nhưng cõi Cực lạc đâu phải là ở nơi
xa lạ, mà chính lại là cái tâm thanh tịnh của mình, và Đức Phật A Di Đà
lại chính là Đức Phật của ta, hay chính là ta khi đã giác ngộ.
* Đối với Tổ Huệ Năng thì đối tượng của
Ngài khi giảng về vấn đề này lại là những đệ tử, phần đông là Thiền sinh
đã hiểu ít nhiều thế nào là Chân Không, Chân Như, Phật tính, nên Tổ mới
khuyên họ là phải “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”.
Phương pháp của Tổ Hụê Năng là dạy người
đời phải xa lìa đối tượng, từ bỏ quan niệm lưỡng nguyên, đi sâu vào bản
thể, sống với lý Bất Nhị, vì theo đó thì phiền não tức Bồ đề, chúng sinh
tức Phật, niệm trước còn mê muội là phàm phu, niệm sau giác ngộ liền
thành Phật. Niệm trước còn dính cảnh trần thế còn phiền não, niệm sau
lìa trần cảnh thành Bồ đề.
Tổ nói: “Tâm con người đã là Phật rồi,
còn hồ nghi gì nữa ? Bởi vì kinh Phật có nói: “Tâm sinh chủng chủng pháp
sinh. Tâm diệt chủng chủng pháp diệt”. Muốn thành Phật hay muốn có Trí
Bát Nhã phải đạt tới chỗ “Nhất hạnh và Nhất tướng Tam muội”. Nếu ở trong
bốn oai nghi, bất luận ở đâu và lúc nào cũng giữ cho tâm thuần nhất,
không trụ vào đâu cả và thực hành Tịnh độ, như thế gọi là Nhất hạnh và
Nhất tướng tam muội. Ngài có làm bài kệ khuyên chúng sinh như sau:
Yêu ghét chẳng quan tâm,
Duỗi dài hai chân nằm.
…Đối cảnh, Tâm nhiễu động,
Bồ đề làm sao lớn ?
Chủ trương của Tổ Hụê Năng khuyên người
đời hướng vào nội tâm để thành Phật, nào có gì mâu thuẫn với lời giáo
huấn của Đức Thế Tôn ? Có khác chăng chỉ là ở chỗ Tổ Hụê Năng đã dùng
lời nói thẳng để chỉ vào cái đích mà Đức Phật Thích Ca cũng ngầm mong
chúng sinh tiến tới, nhưng Phật lại không muốn nói thẳng ra vì sợ có
người không hiểu, hoặc hiểu mà lại ngại khó không dám theo. Vì thế mà
Phật đã phải dùng những pháp quyền để chỉ thực, “dĩ huyễn độ chân”, nhằm
vào cái tâm đầy ngã dục của người không hiểu thế nào là Phật tính, chân
tâm nên Ngài mới khuyên chúng sinh nên hướng về cõi Cực lạc cầu Phật A
Di Đà để được hưởng hạnh phúc tuyệt vời ở Tây phương, cách xa cõi trần
hàng vạn ức Phật độ, ai muốn được sinh về nơi ấy thì phải dốc lòng tin,
cầu nguyện được về cõi đó, và cố gắng niệm Phật A Di Đà, sẽ được Ngài
phóng quang tiếp dẫn. Thực ra theo lý Bất nhị thì cõi Tây phương Cực lạc
chỉ là tâm của người giác ngộ và Phật A Di Đà chỉ là Phật ở trong tâm
của người đó thôi.
Tổ Huệ Năng khi nêu lên thuyết “kiến
tính thành Phật” chẳng hề có bài bác tín ngưỡng của môn phái Tịnh độ,
cũng chẳng hề có ý muốn đề cao Thiền tông tối thượng thừa và hạ thấp môn
phái Tịnh độ do Thích Ca đề xướng, chẳng qua chỉ muốn thức tỉnh những ai
quá thiên về Sự trụ tâm vào hình tướng Phật và cảnh Cực lạc mà quên hẳn
tâm mình chính là Tâm Phật và tính mình là Phật tính, vì thế mà không
hiểu được ý nghĩa lời Phật dạy, chỉ biết niệm Phật cầu vãng sinh mà
chẳng biết vãn hồi Phật tính, không biết minh tâm kiến tính để thấy Phật
tại tâm mình.
* Vậy “Kiến tính” là gì ? Kiến là nhìn
thẳng. Tính là cái tính thấy biết của mình. Kiến tính là nhìn thẳng vào
lòng mình. Đó là phương pháp “hồi quang phản bản” hay “Nội quán” để quan
sát tự tâm, dùng toàn lực tinh thần (lý trí và tình cảm) làm đối tượng
cho ý thức của mình. Bởi vì những hiện tượng tâm lý có tính cách chủ
quan, ngoài mình ra không ai thấy được nên sự thấy biết ở đây phải là
trực tiếp, không bằng căn trần, giác quan hay suy luận, mà bằng Tụê nhãn
của chân tâm. Muốn thấy Phật tính của mình cần phải thấy bản tính hay
cái tính bẩm sinh thanh tịnh trong con người mình bấy lâu bị vô minh tà
kiến phiền não và sở tri làm chướng ngại, nay được sáng tỏ tức thời. Sự
trực giác đó không đến lần lần và tuần tự trong suy tư phân biệt. Từ chỗ
trực ngộ đó, ta có một nhãn quan đổi mới hẳn cuộc đời mình, làm cho ta
xử kỷ tiếp vật theo đúng chân lý. Nhìn thẳng vào lòng mình thì lòng mình
là đối tượng và tính thấy biết của mình là chủ thể. Ta tự đối diện với
ta. Ta soi vào gương lòng để nhìn thấy rõ bộ mặt thật xưa nay của mình,
hay thấy rõ lương tâm ta. Lúc đó thì Năng Sở, Chủ Khách, Tâm Cảnh, người
hát và kẻ nghe hát chỉ là một. Khi ta nhìn thẳng vào lòng mình, lắng
đọng mọi suy tư, không để cho vọng niệm buồn, thương, yêu, ghét dấy lên,
ta chợt nhận thấy tính mình là tính Phật, và bộ mặt xưa nay của ta cùng
với sắc diện quang minh của Phật không khác. Rất tiếc là xưa nay chúng
ta vẫn quen phóng luồng nhãn quang ra phía ngoài để ngó cảnh vật mà
không hướng nó về phía nội tâm. Ta mải đuổi theo những hiện tượng bên
ngoài mà quên mất Đức Phật vẫn ngự trị trong lòng mình. Điều quan trọng
là phải biết trở về Giác tính hay Tự tính Di Đà của mình. Lấy trí tuệ để
soi sáng sự vật mà không phải mượn nguồn ánh sáng hay bàn tay nào để soi
hộ mình cả. Phải cầm đuốc mà soi đường đời hay đường đạo mà đi. Đó là
giác ngộ tại tâm hay trở về với bản tính thanh tịnh của ta. Đó là Trực
giác Đốn ngộ, nhờ tự lực quán chiếu. Khác hẳn lối tìm sự giác ngộ ở
ngoài tâm hay Tiệm ngộ, nhờ vào Tha lực và sùng tín. Muốn Kiến tính phải
làm bừng sáng cái đức sáng sẵn có của mình, hay cái Tính năng biết của
ta, và nhìn đời trực tiếp theo nghĩa Kiến ( ) chứ không gián tiếp
theo nghĩa chữ Thị ( ) mang đầy tính chất phân biệt, thị phi. Đó là
phương pháp tu để được giải thoát rốt ráo, trong một Sát na, trừ sạch
các vọng niệm và làm bừng sáng cái tâm Chân Như vô sở trụ và vô sở đắc,
hay làm hiển lộ Trí Bát nhã của mình.
* Tâm con người tựa như biển cả, nổi
sóng không ngừng, khó bề Kiến tính để thấy được Tự Tính Phật hay Chân
Tâm của ta. Muốn Kiến tính phải Định Tâm an thần bằng sức mạnh tập trung
của ý chí vào nội giới, không để cho ý thức buông lung phóng ra ngoài và
phân tán năng lực tinh thần qua cửa ngõ của các giác quan. Sự chuyển
hướng luồng nhãn quang từ ngoài vào trong là cả một công phu tu luyện
lâu dài, bền bỉ, đòi hỏi phải có sự quyết tâm của hành giả để tự thắng
mình.
Khi ta suy nghĩ, ta biết lần
hồi theo đà
của suy luận. Cái biết đó là tiệm biết. Khi ta Thấy (Kiến )
ta thấy
rõ tất cả trong một sát na bừng sáng, hoặc chẳng thấy gì, chứ
không thể
thấy lần hồi được. Cái Thấy đó là thấy Đốn. Tổ Hụê Năng dạy
phương pháp
“Kiến tính thành Phật”, tức là nhắm vào cái Thấy đó. Đối với Lục
Tổ thì: hoặc là thành Phật hẳn, hoặc là không thành Phật, chứ không thể
có
việc thành Phật lần hồi, mỗi ngày một chút theo lối cải thiện
hay Tiệm
tu. Với Kiến tính thì Lý chẳng ngoài tâm, Lý là Sở ngộ mà tâm là
Năng
ngộ (Kiến phần) và Phật sở ngộ (Tướng phần) là một. Giác ngộ là
thấy rõ
chân tướng của sự sống chết trong thực tế, ở ngay lúc hiện tiền
và ngay
đây chứ không phải đâu xa và trong tương lai. Cõi Tịnh độ ở tâm
của
người giác ngộ không còn phân biệt nhân ngã, tâm cảnh nữa, tức
là ở
trạng thái sinh hoạt bình thường ngay tại đây và ngay lúc này, ý
thức
được rõ ràng công việc của mình đang làm, tức là ở trạng thái
chính niệm
vậy.
* Để giúp các đệ tử đả thông tư tưởng về
Phật tính hay Tri kiến Phật của mình, các Tổ Sư Thiền thường dùng câu
thoại đầu: “Bính Đinh đồng tử lai cầu hoả” (Bính, Đinh là hai cung Hoả
trong Tử vi). Ý muốn nói: Thần lửa lại còn đi xin lửa, để chế diễu
những ai còn si mê, lòng đầy tự ty, tự khinh mình không có khả năng
thành Phật.
Cũng như người cầu đạo cứ cầu xin người
khác chỉ đạo cho mình, chẳng ngờ mình đã sẵn có đạo nơi mình rồi, mình
đã có Phật tại tâm, còn đi kiếm Phật ở nơi khác.
* Trong Thiên Chúa giáo cũng có câu mang
ý nghĩa tương tự: “Đạo ở bên ngươi. Đạo ở trong miệng và trong lòng
ngươi, để ngươi có thể đem nó ra mà thực hiện…” (…Car la Parole est tout
près de toi pourque tu la mettes en pratique… (Bible de Jérusalem).
* Và theo quan niệm của Nho gia Trình Y
Xuyên thì người quân tử hành đạo phải thực hành cho được mục tiêu sau
đây: Không phải là truyền đạo trời cho người, mà là truyền đạo của lòng
mình cho người. Cũng không phải là truyền đạo của lòng mình cho người mà
là truyền đạo của lòng người cho người”. Có nghĩa là phải khai mở đạo
tâm hay chỉ bày Tri kiến Phật hoặc Phật tính sẵn có nơi mỗi cá nhân để
cho ai nấy đều thấy rõ mình là Phật sẽ thành, mình là Phật đang thành.
* Mỗi chúng ta đều có hạt Như ý bảo châu
tức là Phật tính hay Tri kiến Phật, một kho tàng vô giá mà ta không biết
khai thác. Muốn tìm Phật hay cõi Tịnh độ phải biết tìm trong đáy lòng
mình, bởi vì:
Liên Tâm đã sẵn trong đầu
Niết bàn chớ có tìm đâu ngoài lòng.
(B.S. Nguyễn Văn Thọ)
Để diễn tả cái ý Phật tại tâm, ngoài tâm
không có Phật, trong vườn hoa Thiền có bài thơ truyền tụng như sau:
Tùng hạ vấn đồng tử
Ngôn: Sư thệ dược khứ
Chỉ tại thử sơn trung
Vân thâm bất kiến xứ.
(Dịch: Dưới gốc tùng hỏi đồng tử. Đồng
tử thưa: Thầy tôi nói là đi hái thuốc. Chỉ quanh quẩn núi này mà thôi,
nhưng bởi mây phủ nên không thấy). Đại ý nói: Chúng sinh đi tìm Phật.
Phật chẳng ở đâu xa, chỉ ở ngay tâm mình, nhưng vì chúng sinh bị vô minh
che lấp chân tâm nên không thấy mà thôi. Phải tìm sự giải thoát ở ngay
cái hiện hữu, không ngoài sự vật ở thế gian, và đạo là Tự nhiên hay tâm
bình thường vậy. Người hành đạo phải vượt lên trên cái bình thường tương
đối để tới cái Phi thường tuyệt đối, nhưng khi đã đạt tới đó rồi, lại
phải từ nơi tuyệt đối phi thường trở về với cái bình thường tương đối
nghĩa là phải tìm cõi Phi thường trong những cái bình thường tìm cái Vô
hạn trong những cái Hữu hạn, tìm cõi Tịnh độ ở ngay chốn Ta bà, hay ở
ngay trong tâm ta. Đó là cái mà Thiền tông cho là từ trong đạo lý bình
thường mà minh tâm kiến tính vậy.
Tổ Huệ Năng dạy:
Phật Pháp tại thế gian,
Bất ly thế gian, giác
Ly thế mịch Bồ đề,
Khắp như cầu thố giác.
Nếu lánh thế gian mà tìm sự giác ngộ thì
khác nào đi tìm sừng thỏ, lông rùa khắp nơi ? Với nhãn quan đó thì
“thấy” ở đây tức “thấy cái không thể thấy được”. Thấy cái “không thấy”
tức là thấy cái Chân tướng Vô tướng, hay Chân Như hoặc Chân Không của
vạn pháp.
Cái thấy về thể tính chân tâm vốn vô
sinh, cho nên không có sự phát sinh ra cái thấy ấy. “Kiến tính thành
Phật” tức là thấy cái chân lý “Không” của mọi sự vật trong trời đất một
cách viên mãn tuyệt đối.
* Người đời thường không làm theo những
điều mình nói, chỉ ham học hỏi mà biếng nhác việc tu hành, có biết đâu
đã có Tịnh độ duy tâm thì phải có Tây phương Cực lạc thế giới, và khi có
Di Đà tự tính, tất phải thân chứng được Di Đà Tây phương. Trong khi niệm
Phật ta đình chỉ được mọi tạp niệm và thể nhập vào chỗ thâm viễn của tâm
thể thì ngay lúc đó ta là Phật A Di Đà và tâm ta là cõi Cực lạc theo lý
“Tức thân thành Phật”.
* Pháp môn Tịnh độ viên mãn ở
chỗ tỏ ngộ
được “Phật khác tức là Phật mình”. Nếu chỉ biết có “Phật mình”
thì còn
ngã kiến, ngã chấp. Nếu chỉ thấy có “Phật khác”, là còn tha
kiến, vọng
ngoại. Chấp tha kiến hay chấp ngã kiến, chấp ngoại cảnh hay chấp
nội
tâm, đều là nhị biên điên đảo. Phải nên hiểu rằng: Phật Di Đà ở
Tây
phương và Phật Di Đà trong tâm ta không khác, như thế mới là tỏ
ngộ câu: “Phật tức Tâm, Tâm tức Phật”, và mới thấy rõ lý: Phải có sự trì
danh,
cầu Phật khác hiện ra, mới ngộ được lý trì danh, thấy được “Phật
mình”
hiển lộ. Chính trong lúc ta thấy Phật A Di Đà và Thánh chúng
hiện ra đón
mình là lúc ta thấy Phật mình hiện rõ trong tự tâm.
Tất cả các pháp môn Phật dạy dù thuộc về
Tính hay Tướng đều chỉ là phương tiện, giá trị ngang nhau, nghiêng về
phía nào cũng đều có hại. Lối tu không thấp, không cao, mau, chậm. Sự
sai biệt do công phu của người hành trì, tinh tiến chuyên cần hay biếng
nhác giải đãi mà thôi. Có những người thiên về Lý mà xao lãng công phu
niệm Phật, bởi họ đã lầm lẫn Chân đế với Tục đế, không phân biệt được
Dụng với Thể, Tương đối với Tuyệt đối, còn đang lẽo đẽo trên đường tu và
đã muốn tới ngay nơi cứu cánh giải thoát rồi. Họ có biết đâu rằng: học
đạo cần phải dầy công thực tu thực chứng, qua nhiều giai đoạn trong Tục
đế mới chứng được Chân đế, chứ đâu phải là công việc dễ dàng.
Trong Kinh Kim Cương, Phật dạy ông Tu Bồ
Đề:
Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ âm thanh cầu ngã,
Thị nhân hành tà đạo,
Bất năng kiến Như Lai.
… “Như Lai giả, vô sở tòng lai, diệc
vô sở khứ, cố danh Như Lai”, và “Phàm sở hữu tướng giai thị hư
vọng”… “Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai”. Rồi Phật
lại dạy tiếp ông Tu Bồ Đề trong tiết “Vô đoạn vô diệt” của Kinh Kim
Cương: “Ông đừng tưởng rằng Như Lai không dùng sắc tướng để cầu đạo quả
Vô thượng Bồ đề bởi vì nếu khởi ra ý nghĩ đó tức là coi các pháp đều
đoạn diệt cả”, và trong bài Chú Bát Nhã Tâm Kinh cũng có câu: “Vô trí
diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố” nhưng liền ngay đấy Phật lại dạy: “Tam
thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa. Đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ
đề”. Qua những câu kinh trên, ta thấy ngay rằng: người tu cần phải trải
qua nhiều giai đoạn chứng ngộ liên tiếp trong Tục đế, dựa vào hình,
danh, sắc, tướng của các pháp phương tiện trong hiện tượng giới để lần
hồi, tòng tướng nhập tánh, đem Dụng vào Thể, từ tương đối tiến đến tuyệt
đối, tới nơi không còn gì để chứng ngộ nữa, như thế mới thật là chứng
ngộ.
Mục 4: Chân đế và Tục đế.
Lời Phật dạy trong các kinh điển thường
mang hai ý nghĩa: nghĩa bóng và nghĩa đen, nghĩa sâu và nghĩa cạn, còn
gọi là Chân đế (Thắng nghĩa đế) và Tục đế. Tương đương với hai thứ hiểu
biết, giác ngộ hoặc hai nền chân lý Tuyệt đối và Tương đối của thế gian.
Người Phật tử tuy sống trong tương đối
song phải biết hướng về Tuyệt đối để tâm được thanh cao, thoát khỏi tầm
thường vị kỷ và tìm hạnh phúc chân thật ở nơi tâm hồn an lạc, vị tha,
siêu thoát.
a) Tục đế.
Có thứ giác ngộ gián tiếp của trí thức là tập, hay cái thấy biết của
hạng người “học nhi tri chi”, do tiệm tu, dùng tinh tiến, nhẫn nại, gom
góp tư lương qua nhiều kiếp tu tập, tuy đó chưa phải là giác ngộ hoàn
toàn nhưng cũng không phải là vô giá trị.
Thứ hiểu biết này đưa tới chân lý tương
đối hay Tục đế của hạng người căn cơ từ bậc trung trở xuống, và phân làm
ba loại:
1.- Khẳng định về sự thực hữu của mọi sự
vật trong hiện tượng giới.
2.- Khẳng định về cả Hữu lẫn Vô.
3.- Không khẳng định cũng không phủ định
cả Hữu lẫn Vô.
b) Chân đế
- Có thứ hiểu biết trực tiếp do Đốn ngộ
mà được. Đó là thứ giác ngộ hay hiểu biết của hàng vô sư tự ngộ, hay của
bậc “Sinh nhi tri chi”. Nếu cái biết trên (tục đế) còn khiếm khuyết thì
cái biết dưới (chân đế) hoàn toàn viên mãn của Bát Nhã trí có giá trị
siêu việt đưa tới chân lý tuyệt đối. Cái biết mà không tự nó sinh ra tất
cả phải nhờ con đường Tha lực của tín ngưỡng hay hành động cầu phúc để
đi tới dần dần từng bước, và khi Tuệ giác đã bừng thức tỉnh thì tín
ngưỡng lùi bước, nhường chỗ cho Tuệ giác viên chiếu. Tín ngưỡng và cầu
phúc được ví như cái chốt điện dùng để bật cho sáng. Khi đã có ánh sáng
điện rồi thì chốt điện không cần đến nữa, cũng như đã giác ngộ thành
Phật thì mọi pháp phương tiện đều trở thành vô ích. Việc học Phật, lúc
đầu còn phải dùng đến tín ngưỡng để đưa tới chỗ hiểu biết tầm thường
chưa chính xác, lấy cái giả Trí. Tâm còn mang nặng phân biệt ta và
người, tâm và cảnh, yêu và ghét, ác và thiện, có và không… trong thế
giới lưỡng nguyên tương đối. Muốn đạt tới Chân trí hay Giác ngộ hoàn
toàn thì Tín chưa đủ mà còn cần phải có thực nghiệm tâm linh bằng công
phu Thiền quán nữa, và ở trong đó thì chủ thể đồng nhất với đối tượng.
Tâm và vật, hữu và vô chỉ là một. Bản thể đồng nhất ấy vừa tiềm tàng
trong hiện thực, lại vừa siêu lên trên hiện thực. Giác ngộ bằng đường
lối trực giác tâm linh đưa tới nền chân lý tuyệt đối hay Chân đế, ở đó
có ba bậc:
1.- Khẳng định về Vô Hữu.
2.- Phủ định cả Hữu lẫn Vô.
3.- Không không khẳng định và không
không phủ định cả Hữu lẫn Vô.
Ở bậc thấp thì Hữu thuộc về Chân lý
Tương đối và Vô thuộc về Chân lý tuyệt đối.
Ở bậc trung cả Hữu lần Vô đều là Chân lý
Tương đối. Phi Hữu, phi Vô, diệc Hữu diệc Vô thuộc về Chân lý Tuyệt đối.
Ở bậc cao hơn thì Nhị nguyên hay Nhất
nguyên cực đoan đều là Chân lý Tương đối, mà không phải là Nhị nguyên,
cũng không phải là Nhất nguyên mới là Chân lý Tuyệt đối. Nhận Sinh Tử và
Niết bàn đều thật có là rơi vào cực đoan Tương đối hay Tục đế. Phủ nhận
cả hai quan niệm Chân đế và Tục đế. Niết bàn và Sinh Tử là ở trong Chân
lý Tuyệt đối của Trung đạo. Nhưng cả hai đều Có và Không. Tục đế và Chân
đế là cực đoan, cần phải xa lìa, nếu ta còn chấp vào đó, mà ngay cả
quãng giữa (Trung đạo) cũng cần phải xả ly nốt, bởi vì lý Trung đạo còn
ở trong thế giới của ý niệm và danh từ. Ý niệm về Trung đạo sở dĩ Có vì
ý niệm về Có và Không, hai cực đoan phải tránh, như vậy thì Trung đạo,
chưa phải Tuyệt đối cao. Đã là ý niệm thì chưa phải là Tuyệt đối vì Chân
lý Tuyệt đối tối cao ở ngoài vòng của ý niệm, Chân lý tối cao hay Trung
đạo mà không có ý niệm được thì cũng không thể diễn tả bằng ngôn ngữ,
văn tự được.
c ) Tương đối và Tuyệt đối.
Nếu bảo rằng thế giới hiện tượng không
có thì quả là không đúng, bởi vì những giác quan của ta không cho phép
ta chấp nhận một nhận thức như vậy. Theo lý Tuyệt đối thì vạn hữu đều
không thật có, hay đều giả cả, nhưng theo lý Tương đối và mối tương quan
giữa vật này và vật kia thì vạn hữu đều có, bởi lẽ hiện tượng giới sờ sờ
ngay trước mắt ta, song nó lại chẳng trường tồn, bất biến mà chỉ là giả
tướng sinh diệt từng sát na đổi thay thất thường, không có tính cá biệt
bền vững. Thế giới hiện tượng biến động ảo ảnh phù du là do thế giới
tính bản thể Chân Không tạo ra. Chừng nào mà ta chưa nhập được vào bản
thể chung của mọi sự mọi vật thì những giả tướng ấy vẫn còn là cảnh thật
tương đối trong đó có ta, có người, vật nọ vật kia hiện ra trước giác
quan của mình. Thực tại (hay Chân lý) có hai thứ: ở thể tĩnh và ở thể
động. Thực tại ở thể tĩnh bị đóng khung trong không gian và thời gian,
không phổ cập được cho mọi loài, không thể áp dụng cho mọi trường hợp
được. Thực tại ở thể động, trái lại có tính cách khách quan, đồng nhất,
có thể áp dụng cho mọi loại, mọi nơi. Nếu nền đạo đức, luân lý ở Tây
phương thuộc về Thực tại ở thể tĩnh, thì đạo Phật Đông phương lại thuộc
về Thực tại ở thể động. Nói cách khác thì ở Tây phương, nền đạo đức luân
lý còn ở trong tương đối, nhưng đối với Phật giáo ở Đông phương nó lại
hướng về viễn đích tuyệt đối, tối thượng. Tuy quan niệm về Thiện, Ác đối
với cả Đông lẫn Tây đều như nhau trong tương đối, nhưng ở Phật giáo thì
cái Thiện không đứng nguyên một chỗ mà nó lại tiến lên mãi mãi. Cái
thiện không tĩnh ở chỗ phát khởi mà lại ở đích nhắm tới, mà đích này lại
không ở yên một chỗ, nó càng ngày càng xa tuỳ theo mức độ không có trong
thế giới tương đối mà chỉ có trong thế giới tuyệt đối của chư Phật. Cái
Thiện của loài người thuộc về bất cứ ngôn ngữ, địa phương nào, cũng chỉ
là cái Thiện trong phạm vi tương đối mà thôi. Nó được mệnh danh là “tình
trạng khả quan hơn trước”, trong khi cái Ác được gọi là “tình trạng tồi
tệ hơn xưa” vì trong ngôn ngữ của loài người không có danh từ “Toàn
thiện, Toàn ác hay Tuyệt đối Thiện, Tuyệt đối Ác”, mà chỉ được gọi là
Thiện hơn hay Ác hơn mà thôi. Bởi vậy chúng ta phải tránh cái “Bất thiện
hơn trước” và cố gắng thực hiện cho được cái “Thiện hơn xưa”. Không có
một thế giới khách quan ở ngoài thế giới chủ quan do tâm ta tạo ra, do
đó những hành động và phản ứng đều diễn ra trong cái thế giới chủ quan
ấy. Những việc thiện hay ác mà ta tưởng đã thi thố đối với người khác,
thực ra chính chúng đã gây nghiệp quả cho ta, cũng như khi ngậm máu phun
người thì miệng mình bị dơ bẩn trước. Khi làm xong một việc ác để hòng
hại ai và để thoả mãn lòng ích kỷ hay thù hận của mình, ta đã hành động
thực sai lầm, bởi đã quan niệm lệch lạc về Chân Ngã và Giả Ngã. Ban
thưởng cho một việc làm Thiện không ngoài hành động Thiện ấy, bởi vì sự
khen thưởng đã nằm trong việc Thiện đó rồi. Người làm việc Thiện được
hưởng ngay quả báo tốt lành do mình đã gieo nhân. Rốt cuộc người đó đã
trở thành một người thiện. Hình phạt đối với một việc Ác gắn liền với
hành động Ác ấy, vì người gây nghiệp bất thiện với kẻ phải lãnh quả xấu
chỉ là một, kết quả là người đó đã trở thành một gã bất thiện và mọi
hành động của kẻ ấy đều trở thành ác, nếu y không sớm thay đổi ý nghĩ,
chịu hối cải và quay về nẻo thiện.
Mọi sự vật trong thế gian này đều được
sinh thành do nhân duyên và tâm tạo vạn hữu, bề ngoài tuy khác nhau về
hình tướng, nhưng bên trong lại cùng chung một bản thể là tâm. Căn bản
của thực tại không phải là tâm vật, Thể Dụng, siêu nhiên và hiện thực
đối nhau trong thể lưỡng nguyên mà là “Nhất Chân Pháp Giới”, được nhìn
theo hai khía cạnh: hiện tượng và bản thể hay tương đối và tuyệt đối.
Thực tại tối hậu không thể làm đối tượng hoá để được hiểu biết bằng lý
trí và tình cảm cho nên phải dung nhiếp các hiện tượng bề ngoài hình như
có vẻ mâu thuẫn nhau. Lấy tâm quán tâm để tới Giác ngộ là một việc làm
thuần tuý kinh nghiệm bản thân, không ai làm thay ta được. Những ý niệm
của chúng ta đối với các vấn đề vũ trụ nhân sinh, dựa trên căn bản nhị
nguyên tương đối do biến kế sở chấp mà có, đều là mê vọng ảo huyền. Thực
tại tối hậu khác xa Thực tại tương đối hay Tục đế của thế gian, nhờ Thức
giác của con người mà đạt được khi Thực tại tối hậu được thấy, nghe, hay
biết qua lăng kính của các giác quan của so đo phân biệt. Học đạo cốt để
hiểu để thấy và để đừng chấp vào chân lý tương đối do ngôn ngữ, văn tự
biểu lộ, mà phải nương theo chân lý diễn tả trong các kinh Phật, coi đó
là ngọn hải đăng chỉ đường cho con thuyền lênh đênh trên mặt biển bao la
đầy bảo tố và dẫn lối với Chân lý Tuyệt đối. Trong khi còn lần mò đi tìm
Chân lý Tuyệt đối, ta có quyền được hoài nghi, vì nghi là lợi khí sắc
bén đôi khi giúp ta chóng giác ngộ sự thật. Phật thường khuyên chúng ta
đừng nên mù quáng chấp chặt về văn tự và hình tướng bề ngoài mà phải
dùng trí óc và công phu quán chiều chân lý để giải mê khai ngộ. Phương
pháp học Phật khác lối học cổ điển của Tây phương ở điểm không bao giờ
cố chấp, vì sự cố chấp thường che lấp chân lý. Có triệt để phá chấp, mới
mong phá tan vô minh diệt trừ vọng tưởng được. Ngã chấp và Pháp chấp,
thường bao vây trực giác. Chân lý tuyệt đối phải tìm ở ngoài thế giới
hình, danh, sắc, tướng và vượt khỏi giới hạn của không gian và thời
gian. Trong A Di Đà Sớ Sao có nói: “Lý viên ngôn thông, ngôn sinh lý
tán”. Khi phải dùng đến lời nói, văn tự để diễn tả, mà cho là như
vậy có thể đạt tới Chân lý Tuyệt đối thì chắc chắn Chân lý đó bị móp
méo, lệch lạc, không còn là Chân lý tròn đầy nữa, vì đã gọi là Chân lý
Tuyệt đối thì bản thể của nó vốn thường trụ, chỉ có thể trực nhận mà
không thể giải bày được. Muốn trực nhận Chân lý phải là bậc giác ngộ mà
tâm trí của vị này đã khai mở để đón nhận chính kiến và chính tư duy,
hầu nhìn thấy rõ chân tướng của sự vật. Mong thoát ly thế tục bằng suy
tư theo kiểu thế gian thì càng làm cho ta sa lầy thêm vào vũng bùn ngã
chấp, pháp chấp, vì khi suy nghĩ thì phải phân tích, mổ xẻ theo lối nhị
nguyên, chia cách ta với đối tượng thành hai thế giới riêng biệt, trong
khi trực nhận chân lý bằng tâm linh thì ta liền thấy mình thể nhập vào
đối tượng thành một khối duy nhất, bất khả phân. Khi ta dồn tất cả sự
chú ý của ta vào thế sự để cân nhắc, so đo ta càng bị trói buộc vào cuộc
đời với muôn ngàn hiện tượng sai khác, và như vậy ta càng bị vùi sâu vào
mớ giả tướng hỗn độn của thế giới tương đối, khó thoát ly ra khỏi. Người
thường hay bị phiền não chướng và sở tri chướng ràng buộc và màn vô minh
ngăn che cho nên những điều tai nghe mắt thấy hoa đốm nhảy múa lăng xăng
trên hư không. Chỉ khi nào hết nghiệp chướng, đạt tới Tụê Bát Nhã mới có
được cái Thấy Chân thật hay chính kiến, cái Thấy Chân thật này chỉ có
khi nào vào Thiền định hay Niệm Phật với Nhất Tâm nghĩa là phải lắng
lòng cho trong sạch, làm im bặt những xôn xao của thất tình lục dục, và
đổi hướng luồng nhãn quang xoay ngược vào nội tâm, bắt nó phải đi từ hữu
hạn đến vô cùng, từ Ý thức đến Trực giác, từ cá nhân về với đại thể, từ
Vàn thù về với Nhất nguyên, từ cái hiện hữu của thế giới hình, danh,
sắc, tướng tới cái hư không bao la của Chân thể đại đồng. Đổi hướng như
thế cho tới khi nào tâm hồn ta nhập vào cái vô lượng vô biên ở đáy lòng
mình và thấy được Tự tính Di Đà của mình, đến nỗi khi trở về với cuộc
đời cá nhân chia rẽ, đầy tham luyến dục tình thì người ngộ đạo quên hẳn
mối tương quan giữa cái Ta riêng biệt với toàn thể vũ trụ, mà chỉ thấy
mình hoà tan vào bao cái Ta khác, bạn cũng như thù. Để giúp chúng sinh
đạt tới Chân lý cứu cánh. Đức Phật đã chỉ nhiều đường lối cho chúng sinh
noi theo để từ bỏ thế giới nhị nguyên, huyền đồng cùng vũ trụ. Và phương
pháp tốt nhất vì dễ làm và đạt hiểu quả nhất là Niệm Phật A Di Đà đồng
thời quán tưởng Phật và cảnh giới Cực lạc Tây phương trang nghiêm. Khi
hành giả niệm Phật với Nhất Tâm bất loạn thì không còn thấy đối tượng
nào khác ngoài Đức Phật trong tâm mình, hành giả lúc đó nhập vào đạo,
sống tự tại an nhiên, thảnh thơi sung sướng trong Cực lạc của tự tâm.
Mục 5: Lý Chân Không Diệu Hữu và lý
Trung Đạo.
Nếu bảo rằng có một thế giới tồn tại
ngoài tâm là chấp Có, nghĩa là thêm một thực tại vào vật hay làm tăng
thêm một cái gì vào thực trạng của vật đó, như vậy là sai ; nhưng nếu
lại bảo rằng cả đến ý thức của con người cũng không tồn tại thì đó lại
là chấp Không, hay giảm bớt một cái gì ở thực trạng của vật đó, làm mất
đi một chút gì đó ở Thực tại thì đó cũng là sai nốt.
Theo thuyết Trung Đạo, Ngài Khuy Cơ đã
trình bày trong Thành Duy Thức Luận như sau: “Ly Không Hữu thuyết Duy
Thức giáo”. Như vậy ông đã phủ nhận sự thường tồn của mọi sự vật, nhưng
lại khẳng định sự tồn tại của ý thức bởi vì “Nhất thiết pháp Duy Thức
biến”. Nếu cái “Không” chẳng phải là cái không trống rỗng, và nếu Kinh
Bát Nhã chẳng hề thuyết về Hư Vô chủ nghĩa thì tất phải có một cái gì
huyền diệu biểu hiện ra thế giới hiện tượng, và cái đó chính là Thức hay
Tâm vậy. Cõi Cực lạc không thể tìm thấy ở phương trời Tây mà chỉ thấy
được ở sự gạn lọc của tâm thức và chính ở địa bàn này mà ta thực hiện
được Tự tính Di Đà. Do đó từ Chân Không hiển bày Diệu Hữư, và người ta
thấy Tự Tính Di Đà hay Chân Tâm của mình hiển lộ. Cảnh giới Tịnh độ là
cảnh giới tự giác của cái tâm thanh tịnh khi đã Kiến được Tính. Không
thể thấy được cảnh giới đó bằng tâm phân biệt nhị nguyên. Sự chứng ngộ
đó phải do tâm của hành giả tự chứng lấy bằng nổ lực của ý chí. Ngoài
những lời Phật dạy trong các kinh điển thì tất cả những gì cần cho người
tu đều đã sẵn có trong lòng mình, đó là Tín, Nguyện và Hành. Muốn đạt
tới cảnh giới đó thì phải trị bệnh biếng lười, ngờ vực, do dự, và phải
nhất tâm tinh tiến nhẫn nại để thực hiện ước nguyện của mình. Tha lực
chỉ đến khi nào tâm ta đã gạn lọc hết nhơ nhiễm và trở nên trong sáng
sẵn sàng đón nhận hào quang phóng đi tự Tâm Bi vô lượng của Phật A Di Đà
tiếp dẫn ta về cõi Phật, cũng như đoá hoa Ưu đàm nở do tinh anh bên
trong phát tiết ra ngoài, hay do sự sung mãn của nội tâm tràn lan ra
ngoại cảnh.
* Lục Tổ Huệ Năng khi nêu ra thuyết “Tức
Tâm tức Phật” và “Tâm là Tịnh độ” không hề phủ nhận cõi Tịnh độ và Phật
A Di Đà mà chỉ nhằm mục tiêu nhiếp Tướng nhập Tánh, đem Dụng về Thể, để
làm sáng tỏ lý “Đệ nhất nghĩa Không” hay cái lý “Chân Không Diệu Hữu”
hoặc lý “Bất Nhị” mà thôi. Và theo đó thì tất cả những gì là hình danh
sắc tướng đều phải chối bỏ, hết thảy các pháp Hữu vi Vô vi đều giả
huyễn, bởi thế mà Niết bàn, Tịnh độ, cho đến cả Chân Tâm, Phật tính,
Phật, Bồ tát đều chỉ là những pháp phương tiện hay những ý niệm do tâm
sinh ra,và các tư tưởng về chúng sinh, Ta bà, phiền não, trói buộc, an
lạc, giải thoát, Niết bàn… đều chỉ có trong mối tương quan tương duyên
đối đãi nhau trong thế gian này mà thôi. Cũng bởi lý “Đệ Nhất nghĩa
Không” mà đối với người đã vun trồng đức tin thực vững chắc. Tin Phật
cũng như tin mình thật sâu xa thì sẽ sống trong lý Bất Nhị và sẽ thấy
Tha lực và Tự lực chỉ là một. Cũng ví như vị giáo sư đầy kinh nghiệm về
sư phạm, tuỳ theo căn cơ và tính tình của học viên mà dạy dần dần từ dễ
đến khó. Phật đã dẫn chúng sinh từ thế giới hiện tượng hữu hình đến thế
giới bản thể vô hình của Chân Tâm. Còn Lục Tổ Huệ Năng lại dùng lối đi
tắt để mau tới đích, chỉ thẳng vào cái Tự Tính Phật của mình và khuyên
hàng đệ tử đã ít nhiều luyện về Pháp tính nên Kiến tính để thành Phật.
Như vậy thì Phật Thích Ca và Tổ Huệ Năng, bằng những phương tiện và
đường lối khác nhau đã nhắm chung vào một mục tiêu là Thanh tịnh Tâm để
giải thoát con người khỏi đau khổ, phiền não, chẳng gì mâu thuẫn nhau
cả.
CHƯƠNG 8
NHẬN ĐỊNH VỀ SỰ, LÝ NIỆM PHẬT.
Tu theo pháp môn Tịnh độ mà đạt tới
trạng thái nhất tâm bất loạn có hai đường lối là Sự Nhất Tâm và Lý Nhất
Tâm, dựa trên Sự Trì và Lý Trì danh hiệu Phật. Sự trì danh là lối niệm
Phật theo hình tướng bề ngoài, đại diện cho Hiển giáo và Thế tục đế. Lý
trì danh là lối niệm Phật theo lẽ phải và hành động có suy nghĩ kỹ
lưỡng, đại diện cho Mật giáo và Chân đế hay Thắng nghĩa đế. - Sự nhất
tâm thì đoạn được phiền não, phá được tư hoặc. - Lý nhất tâm thì khi
niệm Phật liền thấy được Phật của mình. Tâm không tà niệm và phá được
kiến hoặc. Lý như đôi mắt để coi đường cho khỏi lạc lối, sẩy chân. Sự
như đôi chân để bước đi, nhưng nếu không có đôi mắt thì dễ lầm đường lạc
lối và dẫm phải chông gai, hay lọt xuống hầm hố. Không có chân để đi thì
cứ đứng yên một chỗ mà nhìn, không tiến tới đích được. Sự trì danh là
phần hình thức của phái “Duy Danh” hay “Khẩu xưng niệm Phật”
(Nominalisme) chỉ đọc danh hiệu Phật mà không cần suy tưởng điều gì lìa
bỏ mọi ý thức trong lúc niệm để tâm rỗng lặng như Thiền định. Lý trì
danh là phần tinh thần của phái “Duy Niệm” (Conceptualisme) hay phái
Quán tưởng niệm Phật đòi hỏi hành giả phải có một ý niệm rõ rệt về Phật
A Di Đà. Có triệt thấu nghĩa lý các bộ Kinh A Di Đà, Vô Lượng Thọ và
Quán Vô Lượng Thọ, có hiểu tường tận đức độ của Phật A Di Đà qua 48 lời
nguyện của Ngài, có thấu rõ 10 danh hiệu Phật, có thường xuyên chiêm
ngưỡng, quán tưởng cảnh Cực lạc Tây phương, mới thiết tha mong cầu về
quốc độ của Ngài.
Trong các dòng Tịnh độ lưu hành tại
Trung Quốc, các Tổ Tuệ Viễn và Vĩnh Minh Diên Thọ đều chủ trương Quán
Niệm (thuộc phái Duy Niệm), còn Tổ Thiện Đạo cùng Đạo Xước, và sau này ở
Nhật Bản (1875) có Ngài Genku Hônen, vị Thuỷ tổ của Tịnh độ Chân tông
đều chủ trương Duy Danh hay Khẩu Xứng Niệm Phật. Các đệ tử của Ngài
Hônen là Shiran Shonin và Khuya Shonin (Không Giả Thượng Nhân) cùng
Ippen Shonin (Nhất Biến Thượng Nhân) đều chủ trương đặt hết niềm tin vào
Tâm thành. Các vị này cho rằng: Tuy nói là pháp môn Tịnh độ dễ tu, dễ
chứng, nhưng cái dễ này chỉ là tương đối với pháp môn Thiền định mà
thôi, chứ không phải đến mức độ chỉ tu lấy lệ cũng đạt tới kết quả mong
muốn. Bởi vậy, người niệm Phật phải có tâm thành và một lòng tin sắt đá
vào việc niệm Phật cầu vãng sinh. Thành Tín đủ để thay thế cho Trí Đức.
Chỉ cần niệm Phật cho chuyên vì người dù ngu đần, dốt nát và kém đức đến
đâu, nếu Tin sâu, Nguyện thiết và Hành trì tinh tiến đều được Phật A Di
Đà tiếp độ. Tỷ như người xưa cọ gỗ lấy lửa, dùng một đoạn dây cọ mài vào
một khúc gỗ khô, cọ đều tay không gián đoạn, một lúc sau lửa sẽ bật ra.
Có người hỏi Ippen Shonin cách niệm Phật
phải như sao, Ngài nói: “Chỉ cần tâm chí thiết, chí thành, xả ly ý
niệm, thọ cảm, ký ức, ngữ, pháp là đủ”. Nói rõ thêm thì Sự trì danh là
lối niệm Phật không cần hiểu rõ về Lý, chỉ đặt trọn niềm tin vào Phật
Thích Ca và Phật A Di Đà, mong cầu tha thiết được về cõi Cực lạc Tây
phương, vì tin chắc có nơi này khác hẳn Ta bà đầy khổ cực. Đó là lối
niệm Phật của phái theo pháp môn Tịnh độ thuần tuý.
Lý trì danh thuộc về Pháp tính là lối
niệm Phật mà hiểu rằng có là phương tiện thần diệu để thanh tịnh tâm
mình bằng hình ảnh với cách quán tưởng hình tượng Phật và cảnh Cực lạc
Tây phương, và bằng âm thanh với cách niệm hồng danh Phật A Di Đà, cốt
định tâm vào những tư tưởng lành mạnh để phát sinh Tuệ giác, diệt trừ
vọng tâm điên đảo, đạt tới Chân Tâm, tức thành Phật.
Tóm lại, Sự trì danh là lối tu của người
chưa hiểu được lý niệm Phật là diệu pháp để nhiếp vọng về Chân. Đó là
lối tu của người còn mang tâm phân biệt, tin chắc cõi Tây phương Cực lạc
ở ngoài cõi Ta bà, thành tâm cầu nguyện Phật A Di Đà tiếp độ để được về
nơi an dưỡng, hưởng hạnh phúc đời đời. Còn Lý trì danh là lối niệm Phật
của những ai, cũng thực hành như người tu theo Sự trì danh, nhưng lại
hiểu rằng cảnh Cực lạc Tây phương và Phật A Di Đà đều ở trong tâm của
người niệm, và do công phu thanh tịnh của Chân Tâm người hành giả hiển
bày. Người theo Lý trì danh tin rằng: Phật A Di Đà do tâm mình tạo ra,
tâm mình đã sẵn có mầm Phật, lại lấy sáu chữ hồng danh tạo ra cảnh Tây
phương Cực lạc, buộc tâm mình vào đó. Khiến nó không thể quên được cảnh
Cực lạc và Đức Phật của Từ Tâm. Như vậy thì người theo Sự trì danh hãy
còn chấp vào tướng Năng Sở đối đãi, còn thấy Phật A Di Đà và cảnh Cực
lạc ở ngoài tâm, tâm và Phật chưa dung thông, dung nhiếp với nhau. Về
phần người theo Lý trì danh thì đã tuyệt được tướng Năng Sở và hiểu rõ:
Niệm Phật là niệm Tâm dung hòa được Tâm lẫn Cảnh, bản thể và hiện tượng.
Theo Lý trì danh thì Phật A Di Đà đã sẵn có trong tâm mình, bởi lẽ:
“Nhất thiết duy Tâm tạo”. Đây là lối niệm Phật của phái Thiền Tịnh song
tu. Thực ra thì người tu tịnh nghiệp mà đạt được kết quả như ý muốn, dù
chấp Sự hay chấp Lý cũng mặc nhiên viên dung được Sự Lý trong khi hành
trì, bởi vì người chấp Lý chủ trương dùng lối niệm Phật và quán tưởng
Phật để ngộ nhập Tự tính Di Đà, phải dùng đến Sự (niệm Phật cho chuyên)
mới đạt được Lý. Còn người chấp sự nhất tâm cầu vãng sinh, ngoài ra
không còn biết gì khác nữa, nhờ đó mà tâm trở nên Định và sinh Tuệ, rồi
ngộ được Lý trì danh. Vậy suy đến cùng thì những ai tu tịnh nghiệp mà
đạt được kết quả, đã vô hình chung kết hợp được Sự Lý một cách hài hoà,
tới mức độ Sự tức Lý, Lý tức Sự viên dung vô ngại. Có điều là sự kết hợp
ấy, hành giả ý thức được việc làm của mình nhờ trình độ am hiểu Phật
pháp, còn có người lại thực hành một cách máy móc mà chẳng hiểu gì cả.
Thông thường, theo tâm lý của người trì danh hiệu Phật cầu vãng sinh,
thì lúc đầu tưởng nhớ tới Phật A Di Đà, sau đó niệm hồng danh của Ngài.
Cũng như ở mọi động tác có ý thức, sau đó hình thức lại quy định nội
dung, tác động đó hỗ tương qua lại. Trong trường hợp niệm Phật thì diễn
trình đó hơi khác một chút. Ta có thể niệm danh hiệu Phật rồi mới tưởng
nhớ tới hình ảnh cùng giới đức và những lời nguyện của Ngài. Trong lúc
lập đi lập lại nhiều lần danh hiệu Phật một cách máy móc thì một lúc nào
đó sẽ trỗi dậy trong ký ức của hành giả những ấn tượng về Đức Phật nằm
sâu trong tiềm thức. Dù muốn hay không, hiện tượng này cũng sẽ xảy ra
mỗi lúc một rõ nét hơn.
Tính và Tướng của Phật A Di Đà biến
thành một thực tại đối với tâm thức của người trì danh chẳng khác nào
hai người chơi đu tiên, kẻ đứng lên, người ngồi xuống, thay nhau liên
tục, tạo thành một cái đà đưa cả hai người bay bổng cao vút trên không
trung. Trong trường hợp trì danh hiệu Phật thì Sự là động tác của thân
và khẩu, còn Lý là động tác của ý, làm thay đổi trạng thái tâm lý của
hành giả. Đối với người sơ cơ thì Lý và Sự là hai sự việc hoàn toàn khác
nhau, nhưng khi thành tựu được công phu niệm Phật thì tuy hai mà một,
hiện tượng Sự Lý viên dung đạt được lúc hành giả hội đủ cơ duyên. Tỷ như
công việc ngào bột. Lúc đầu thì bột là bột. Bột dụ cho Sự, nước dụ cho
Lý. Tác dụng của bàn tay người ngào bột làm cho nước ngấm vào bột, bột
hút lấy nước. Tới một điểm nào đó bột không còn là những hạt khô, rời
rạc, mà nước cũng không còn là chất lỏng dễ chảy, nước với bột quyện vào
nhau, cũng như Sự và Lý tương tức, tương nhập, đến khi đó thì bột và
nước hợp thành một chất nhuyễn dẻo, dễ nặn thành bánh, và việc ngào bột
đã thành công. Trong việc niệm Phật, lúc đầu, hành giả niệm danh hiệu
Phật, nhưng tâm chưa tưởng tới Phật A Di Đà với niệm Cực lạc (tức chưa
làm công việc Thiền quán, hay chưa thực hiện phương pháp Thiền Tịnh song
tu). Nhưng nếu cứ nhắc đi nhắc lại mãi sáu chữ hồng danh một cách máy
móc, thì tới lúc Sự trì danh hiệu Phật bắt đầu có hiệu lực, và tác dụng
vào Lý trì danh. Trong tâm của hành giả lúc đó các ký ức về Phật A Di Đà
bừng tức dậy mỗi lúc một đậm nét hơn trong tâm của hành giả, từ mờ ảo
đến quang huy và lúc đó thì tác động máy móc của Sự trì danh bước qua
giai đoạn hiểu rõ tường tận Lý trì danh. Lẽ dĩ nhiên tiến trình chuyển
biến này không thể thành tựu được một sớm một chiều, mà phải trải qua
nhiều biến cải liên tiếp trong nội tâm.
Trong kinh A Di Đà có câu: “Nhược nhất
nhật, nhược nhị nhật… cho đến thất nhật”, ta phải hiểu chữ “nhật” ở đây
theo nghĩa là giai đoạn ngắn hơn hoặc dài hơn một ngày. Sự thành tựu
tiến trình hoán cải tâm linh là hiện tượng “nhất tâm bất loạn”. Đó là
đạo của pháp môn Tịnh độ. Ai có đủ điều kiện Tín, Nguyện và Hành thì cho
là tiến trình ấy có thật, còn những người thiếu đức tin thì cho là dị
đoan, mê tín. Nhưng theo Tâm lý học thì cho đó là thói quen hay tập tục
có khả năng biến đổi tâm lý con người. Đối với công việc tu hành thì ai
tu nấy chứng, ai ăn nấy nó, nếu phải chỉ bày một sự việc thuộc về tâm
lý, tín ngưỡng thì không thể làm được. Tuy nhiên, trên thực tế sự kiện
đó xảy ra hiển nhiên bất khả tư nghị.
Tiện đây, tôi xin thuật lại câu chuyện
thuộc về niệm Phật A Di Đà mà biến cải được tâm thức do Thiền Sư Bạch
Ẩn, dòng Lâm Tế kể lại đã chứng minh sự kiện đó: Sư Bạch Ẩn có một
người đệ tử, là con một ông già rất mực keo kiệt, chỉ quen chạy theo
đồng tiền mà không biết đạo lý là gì cả. Người đệ tử ấy một hôm đến vấn
kế Thiền sư để tìm cách hoán cải lòng tham vô đáy của cha mình. Sư Bạch
Ẩn đề nghị: “Cứ bảo ông già ấy niệm Phật A Di Đà tối ngày hễ hôm nào
niệm đủ 100 chuỗi hạt thì đến chùa ta trả cho một quan tiền, nhưng dặn
kỹ là phải thành thực, cấm không được gian lận”. Mỗi ngày, cứ tối đến,
Sư Bạch Ẩn lại thực hiện đúng lời đã cam kết, trả tiền sòng phẳng cho
ông lão. Vì tham được lãnh thưởng, không phải làm việc cực nhọc vất vả
mà lại được tiền, ông già siêng năng niệm Phật, đi, đứng, nằm, ngồi, bất
cứ lúc nào cũng niệm Phật để mong được lãnh tiền thưởng nhiều hơn. Qua
một thời gian, một buổi tối Sư Bạch Ẩn không thấy bóng ông già chống gậy
đến chùa để lãnh thưởng như thường lệ, hỏi ra mới biết vì mải mê niệm
Phật, ông lão quên cả việc đến chùa lãnh thưởng. Vài tháng sau, ông lão
tìm đến chùa, nét mặt hân hoan, rạng rỡ, hết lòng cảm tạ Thiền sư đã có
công hoán cải tâm thức của mình, từ vô đạo, ích kỷ tham lam, nay đã trở
nên một tín đồ thuần thành của pháp môn Tịnh độ, niệm Phật A Di Đà cầu
vãng sinh. Khi từ giã Thiền sư ra về, ông già không quên để lại chùa một
túi tiền, không rõ bao nhiêu, để cúng dường Tam Bảo.
Xét ra thì Sự và Lý trì, cả hai đường
lối cùng nhắm vào một mục tiêu: một đường thì nặng về tín ngưỡng, sùng
bái và nương cậy vào Tha lực, còn một đường thì nặng về mở mang trí tuệ,
dùng Tự lực và pháp Thiện định để Minh Tâm Kiến Tính, cầu ở Tính mình để
dứt vọng về chân. Cả hai đường lối đều đòi hỏi người tu phải quyết tâm
hành đạo. Cả hai đều đưa tới Chính giác, kết quả mau hay chậm đều do căn
cơ và duyên phận của từng người.
Người học đạo khi chưa dung hoà được
Tính và Tướng, Lý và Sự, nghĩa là còn chấp về một phía hoặc Thể hoặc
Dụng, mới dùng Tính để phá Tướng, lấy Lý để bác Sự, lấy Chân Không để
bác Giả Hữu của hiện tượng giới, gây thành những cuộc tranh chấp liên
miên, bởi lẽ họ đã không hiểu hay không chịu sống theo lý Bất Nhị, nên
mới đưa tới tình trạng là Sự chẳng thành Chân Sự, mà Lý cũng chẳng thành
Chân Lý. Thông suốt được lý Không hai thì dung hoà được mọi chấp mê để
nhập vào Nhất Chân Pháp Giới của vũ trụ. Pháp hữu vi tuy huyễn nhưng nếu
không dùng đến thì đạo quả khó thành. Pháp vô vi tuy Chân nhưng nếu cứ
khư khư chấp lấy chữ Không thì Hữu tính mất Diệu Dụng và sẽ sống xa vời
thực tế. Mê Sự thì cảm xúc nhiều sinh tâm phiền não trở ngại cho tâm
Niết bàn. Mê Lý, suy nghĩ nhiều thì Sở tri chướng gây trở ngại cho tâm
Bồ đề. Bỏ sự theo Lý thì đoạ vào nẻo tối của hàng Thanh văn. Lìa Lý theo
Sự tất mắc vào chấp mê của hàng phàm phu. Sống ở đời là phải sống trong
thực tại gồm đủ cả bản thể lẫn hiện tượng. Tính và Tướng, Lý và Sự không
bao giờ được quên Chân lý Vô ngã, Vô thường, Bất Nhị và Bản thể Chân
Không của vạn pháp. Tuy phải sống trong tương đối nhưng lại không quên
hướng thượng, cố vươn lên đích lý tưởng tuyệt đối.
Xét chung thì cả hai đường lối, chấp Sự
và chấp Lý, chấp Có và chấp Không một cách cứng rắn đều không phải là
chân lý và đều là bệnh biên kiến cả, cần phải chữa cho hết bệnh chấp đó.
Người thường hay mắc bệnh chấp Có, chỉ nhìn thấy vỏ ngoài của sự vật,
cho mọi sự vật đều thật cả rồi đem tâm luyến ái, bám giữ không chịu rời
ra, hoặc là ghét bỏ, nguyền rủa, không muốn đến gần. Hàng trí thức, duy
lý lại mắc bệnh chấp Không, thương khinh chê người theo Sự tướng, bị lỗi
tự mãn, tự kiêu, còn nguy hại hơn bệnh chấp Có, vì họ hay khuyên người
đời nên bỏ Sự theo Lý, nhưng chính họ lại không thấy được ưu điểm của
lối theo Sự tướng, chỉ chấp chặt về mặt Lý, như vậy rất có hại cho người
sơ cơ, cần phải dựa vào Sự tướng và tha lực để nâng đỡ, bồi bổ đức tin
bước đầu còn chưa vững chắc.
Người tu theo Sự trì danh mà có đức tin
vững chắc, lúc niệm Phật không còn điều gì thắc mắc nữa. Họ chỉ biết
niệm Phật không ngừng, bất cứ lúc nào, đi,
đứng, nằm, ngồi ngoài ra không để tâm
suy nghĩ điều gì khác. Người theo Lý trì danh, khi đã hiểu lẽ việc niệm
Phật nằm trong lý Bất Nhị dốc lòng tin lời Phật dạy, còn tin ở nghị lực
của mình không gì lay chuyển nổi, như vậy cũng không còn chút hoài nghi
trong lòng, bởi vì mọi thắc mắc đã bị ngọn lửa tuệ giác tam muội thiêu
huỷ hoàn toàn. Như vậy, cả hai bên đều có đức tin, có điều là người theo
Lý thì tin một cách sáng suốt hơn người tu theo về Sự, do đó mà đức tin
của họ trở thành bất thoái chuyển. Chỉ có những người theo Sự một cách
mù quáng, chẳng tin ở tài sức của mình, hay người theo về Lý mà chưa
giác ngộ được lý Bất Nhị mới kém đức tin mà tam mới dao động mà thôi.
Theo phép tu thì mỗi người, tuỳ theo căn cơ và tính tình của mình, hoặc
nặng về tình cảm hay vì ý chí sắt đá tự cường mà tự chọn lấy con đường
tu hợp với hoàn cảnh của mình. Lối tu nào cũng cần phải có đủ cả Sự lẫn
Lý, phối hợp Tín và Hành, không thể thiên về một bên Lý và Sự, Tri và
Hành đều phải cân bằng như hai cánh chim xoè rộng mới bay được cao xa.
Đức Tin là điều cốt tuỷ trong pháp môn niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh
Tịnh độ, thiếu niềm tin thì không mong thành tựu được điều ước mơ gì cả.
Thuở xưa, ông Vương Trọng Hối hỏi ông
Vương Vô Vi: “Niệm Phật như thế nào để khỏi gián đoạn và được Nhất Tâm
bất loạn ?”. Ông Vương Vô Vi đáp: “Việc tu hành Phật pháp nói chung, và
theo pháp môn Tịnh độ nói riêng đặt trọng tâm vào chữ Tín. Tín đứng hàng
đầu trong ba môn Tín, Nguyện, Hạnh. Đã tin sâu rồi thì không còn gì nghi
ngờ nữa. Nếu còn bóng dáng một chút hồ nghi, đức Tín Tâm không vững, còn
bị lung lay”.
Vương Trọng Hối nghe nói hết sức vui
mừng bèn cáo biệt mà về. Cách đó ít lâu, ông Vương Vô Vi mộng thấy ông
Vương Trọng Hối đến tạ ơn tươi cười rằng: “Nhờ nghe được câu chỉ bảo chí
tình của đạo hữu mà nay tôi đã được vãng sinh Tịnh độ Tây phương rồi”.
Đủ tỏ chữ Tin thực đáng giá ngàn vàng. Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận của
Mã Minh Bồ tát, thì tâm con người có hai phần là Tính và Tướng hay Chân
Như môn và Sinh diệt môn. Nhưng Tính tức Tướng, Lý tức Sự, Bản thể tức
Hiện tượng, Cực lạc tức Ta bà, cũng ví như nước biển, không thể bảo phần
nào là nước trong lòng biển khởi bất động và phần nào là sóng trên mặt
biển nhấp nhô, bởi chấp như thế là vô lý, không thể tách rời nước ra
khỏi sóng, và sóng ra khỏi nước được, vì Sóng là Nước, Nước là Sóng, Tâm
là Cảnh, Lý là Sự, Tinh thần là Vật chất v.v… Bỏ Lý thì chẳng vững, mà
lìa Tướng thì tính không thành. Lý và Sự cũng như đạo và khoa học, đạo
và đời, tuyệt đối và tương đối, chẳng thể rời nhau nửa bước, mà phải
nương nhau để cùng tồn tại. Nhờ Sự tướng bên ngoài mới có phần Lý tính
bên trong. Có phần Lý tính bên trong mới thấu rõ được phần Sự tướng ở
ngoài. Hành động theo Sự tướng mà thiếu suy xét thì dễ lạc vào tà đạo.
Trái lại, nếu theo Lý bỏ sự thì tâm khô cằn và dễ rơi vào hố Hư vô chủ
nghĩa cho nên kinh Phật mới dạy:
Thật tế địa bất thụ nhất trần
Phật sự muôn trung, bất xả nhất pháp
(Trong tâm thanh tịnh (thuộc về Lý) thì
không còn một mảy bụi, nhưng về Sự tướng, muốn đạt tới trạng thái thanh
tịnh thì người tu chẳng thể bỏ qua một pháp nhỏ mà không hành đến nơi
đến chốn), nhưng hành đến đâu lại xả đến đấy, Tâm không trụ vào pháp nào
cả. Phật dạy: “Phải thấy tính Không của pháp Hữu vi mới mong được giải
thoát”. Muốn thấy tính Không của các pháp thì phải xả bỏ Ngã và Ngã Sở,
bởi đó là nguồn gốc của các tướng sinh diệt Có, Không. Phải phá chấp mê
về Ngã vật lý, rồi đến chấp mê về Ngã tâm lý xã hội. Cao hơn bậc nữa,
Phật dạy: “Phải thoát khỏi cả các sinh diệt của các pháp không được giữ
lại một chút sở đắc nào cả”. Phải xa lìa tư duy, ý niệm để Tâm rỗng
lặng, không còn bóng dáng của các pháp tương đối nữa. Lúc ấy thì tâm sẽ
sạch làu làu sáng rực rỡ, nhẹ lâng lâng, và Chân Tâm, Phật tính của ta
sẽ hiển lộ.
Trên mặt bản thể vô sai biệt và vô phân
biệt thì Lý và Sự, Tâm và Vật, Không và Sắc đều quyện vào nhau, tương
tức tương nhập như sữa vào nước, không thể tách rời Lý ra khỏi Sự và Sự
ra khỏi Lý được.
Trên đường tu thì Lý và Sự phối hợp chặt
chẽ với nhau để giúp đỡ nhau cùng tồn tại. Có Lý thì hành động mới có
chủ trương cân nhắc. Có Sự mới có phương tiện để thực hiện những điều đã
suy luận và chứng minh được những gì đã lý giải. Có Lý mà không có Sự
như người có kế hoạch, bản đồ trong tay mà không chịu thực hiện kế hoạch
đã dự liệu. Có Sự mà thiếu Lý như kẻ hành động không có chủ đích, kỷ
cương, muốn đi mà chẳng biết đường lối, thiếu người dẫn đường lộ trình
mờ mịt, chẳng biết cách tiến thoái, dễ rơi vào cạm bẫy, hầm hố. Phải có
đủ cả Lý lẫn Sự, như người thông suốt đường lối, lại hăng hai cất bước
đăng trình, với cặp mắt sáng suốt và đối chân cứng cáp, lòng tinh tiến,
nhẫn nại, mới mong đạt tới đích. Tuy nhiên, trong pháp môn Tịnh độ dù
thiếu về phần Lý, song chịu khó nghe theo lời khuyên bảo của những người
đi trước mà cố gắng thực hành thì cũng có ngày thành công. Những bộ kinh
luận và lời khuyên của hàng thiện tri thức là những bó đuốc soi đường
cho những người tu tịnh nghiệp thời nay nên theo đó mà thực hành sẽ đạt
được kết quả mong muốn. Cho nên có Sự mà thiếu Lý chẳng đáng quan tâm,
chỉ e đã hiểu lý rành rẽ mà lại chẳng chịu thực hành, ưa nói suông, lý
luận hão mất thời giờ dành cho việc niệm Phật cầu vãng sinh, tới phút
lâm chung thần chết hiện đến, hồn phách hôn mê, tất sẽ bị lạc vào vòng
luân hồi khó thoát. Bởi vì Phật pháp chỉ độ kẻ dốt nát nhưng thành tâm
có chí nguyện vững vàng mà không thể độ cho những kẻ thế trí biện thông,
đức tin không vững lại kém hành trì. Những người nói năng lưu loát, hiểu
rõ Tam tạng kinh điển mà chẳng chịu khó niệm Phật có khác gì người đói
đứng ngắm bức vẽ một mâm cơm thịnh soạn, hoặc người túng thiếu mà đếm
tiền cho thiên hạ tiêu, sao bằng được lão bà ngồi xó bếp, không biết
chữ, song niệm Phật suốt đêm ngày lúc nhắm mắt lìa trần mà giữ được tâm
không tán loạn, ý không tham luyến, hết lòng cầu Phật gia hộ để được
vãng sanh, tất sẽ được Phật A Di Đà và Thánh chúng phóng quang tiếp dẫn
về nơi Cực lạc, nào đã kém ai ?
* Hiểu Phật A Di Đà là Chân Tâm, Tự Tính
của mình theo nghĩa bóng mà niệm Phật theo Lý trì danh, hay tin có Phật
A Di Đà bằng thịt bằng xương đang cai quản cõi Tịnh độ Tây phương theo
nghĩa đen, rồi nhất tâm niệm Phật theo Sự trì danh, cả hai đường lối đều
lợi ích cả, vậy ta chớ nên có thái độ bên trọng bên khinh.
* Một điểm nghi vấn cần được nêu lên ở
đây và cần phải làm cho sáng tỏ là: nếu tu theo Sự trì danh mà cũng đạt
được Chân Tâm thực tánh thì cần gì phải hiểu rõ về Lý niệm Phật cho thêm
phiền phức ? Cần gì phải thắc mắc để có hại đến đức tin ?
Xin thưa: Đành rằng người tu chỉ cần
niệm Phật cho chuyên cũng đủ, chẳng cần phải hiểu rõ về Lý niệm Phật
cũng đạt được tới đích là thanh tịnh tâm mình, nhưng trên thực tế, người
tu mà không hướng về nội tâm, lại quen chạy theo ngoại cảnh thì khó buộc
được tâm viên, ý mã của mình. Tâm đã bị lôi cuốn theo hình tướng bề
ngoài thì làm sao định được ? Làm sao niệm Phật được với “Nhất tâm bất
loạn ?” Nhược bằng niệm Phật theo Sự trì danh không vọng niệm mà chỉ có
chính niệm, hay “Nhất tâm bất loạn”, “Nhất tâm tam muội”, thì tâm sẽ
định và kết quả đạt được như người theo Lý trì danh không khác. Điểm
quan trọng là liệu có buộc được tâm ý mình hay không ? Nếu bằng đướng
lối Sự trì, chỉ chuyên niệm Phật mà không nghĩ tới điều gì khác ngoài
việc niệm Phật thì tâm luôn luôn ở trong chính niệm, hoặc ở trạng thái
“nhất tâm bất loạn” sẽ đạt được kết quả như bên Thiền tông nhìn thẳng
vào tâm mình để “Minh Tâm Kiến Tính thành Phật”. Để dung hoà hai quan
điểm Lý và Sự trì danh hiệu Phật và để nhận định một cách sáng suốt Sự
và Lý trì danh, mong đạt tới Tâm Cảnh nhất như, Lý Sự viên dung hay Tri
Hành hợp nhất, một Thiền sư trong Thiền Tịnh đạo tràng có để lại bài thơ
dưới đây để nêu rõ lập trường của mình:
Mỗi viên tràng hạt, Phật là Tâm
Phật rõ là tâm, luống phải tầm ?
Bể Phật dung hoà tâm lẫn cảnh,
Trời tâm bình đẳng Phật cùng sinh.
Bỏ tâm theo Phật còn mê muội,
Chấp Phật là tâm chẳng trọn lành.
Tâm Phật nguyên lai đều giả huyễn,
Phát tâm đồng diệt mới viên thành.
CHƯƠNG 9
NHẬN ĐỊNH VỀ MỤC TIÊU TỐI THƯỢNG CỦA HAI BỘ KINH A DI ĐÀ VÀ ĐỊA TẠNG.
Phật dạy: “Trong đại dương, giọt nước
biển nào cũng có vị mặn thì các pháp môn của ta, pháp môn nào cũng có vị
giải thoát, mà giải thoát tức là diệt trừ được những tư tưởng tạp loạn
của tâm vọng động, chứa đầy nọc độc tham, sân, si… làm cho con người khổ
đau, phiền não, được trở về trạng thái an vui của Chân Tâm, Phật tính”.
Kinh A Di Đà giống như đại đa số kinh
Phật khác có mục đích:
1. Chỉ cho chúng sinh biết rõ cõi trần
là nơi khổ đau.
2. Nguồn gốc của sự khổ đau là tạp nhiễm
những thói hư tật xấu, do lục căn, lục trần cấu kết với nhau làm cho tâm
vọng động, phát sinh ra những tư tưởng và hành động sai lầm đưa tới quả
khổ sinh tử.
3. Chỉ cho ai nấy được biết phần linh
thiêng trong con người là Chân Tâm, bản tính hay Phật tính của mình.
4. Muốn thoát ly khổ đau luân hồi sinh
tử để được hưởng đời đời hạnh phúc phải trở về với Chân Tâm, Phật Tính
của mình hay là thành Phật.
Pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh độ
dựa trên cơ sở tư tưởng: “Người ta trở thành cái mà người ta thường mơ
ước” hay: “Muốn là được” (“On devient ce à quoi on désire” hay “Vouloir
c’est pouvoir”).
Phật dạy: “Cái tính hiện tại của con
người do kết quả của những tư tưởng và hành vi của người ấy từ vô thuỷ”
hay “Sinh mệnh của một người là kết quả của những nghiệp về thân, khẩu,
ý do người đó đã tạo ra từ vô lượng kiếp. Những gì trong quá khứ đều
không bị huỷ diệt, chúng để lại những dấu ấn trong tàng thức của ta.
Nghiệp báo theo ta như bóng theo hình, do đó mà một con người hiện tại
bởi con người quá khứ tạo nên, cũng như con người tương lai là kết quả
của những suy tư và hành động của con người đó trong hiện tại. Chính ta
đã tạo ra ta. Bởi vậy người ta phải luôn luôn tưởng niệm đến những gì
cao quý và hướng đến đích Chân, Thiện, Mỹ. Con người thường mơ ước tới
cái vô cùng tận, và một đời sống hạnh phúc tươi đẹp tuyệt đối. Không ai
lại khao khát cái xấu xa, ngắn ngủi, tầm thường và gây khổ đau cho mình.
Cái Vô cùng Vô tận được thần thánh hóa bằng Đức Phật A Di Đà, Vô Lượng
Quang, Vô Lượng Thọ, Vô lượng Công đức, cái cao thượng tốt đẹp vô cùng
được lý tưởng hoá bằng cõi Cực lạc Tây phương. Nói cách khác thì tư
tưởng chỉ đạo của bộ kinh A Di Đà nằm trong hai chủ thuyết:
1. Nhất thiết duy tâm tạo (Kinh Hoa
Nghiêm).
2. Nhất thiết chúng sinh tất hữu Phật
tính (Kinh Đại Bát Niết Bàn và Kinh Pháp Hoa) khuyên người đời nên trở
về với Chân Tâm, Phật tính của mình.
Cũng như các bộ Kinh Hoa Nghiêm, Pháp
Hoa, và Đại Bát Niết Bàn, Kinh A Di Đà chủ trương tâm con người có thể
tạo ra tất cả, và ai ai cũng có thể thành Phật, nhập Niết bàn hay vãng
sinh Tịnh độ nếu mình thiết tha mong muốn. Nhưng so với các bộ kinh lớn
kể trên thì Kinh A Di Đà có phần thông tục hơn và được lan truyền trong
đại chúng rộng rãi hơn.
Căn bản của Kinh A Di Đà là thuần niệm
Phật, nhằm kết hợp trực giác tâm linh của hành giả với Chân Như Pháp
Giới, phá cái giả ngã bé nhỏ của con người để hoà tan vào cái tâm của
thiên địa đại đồng, kết quả là phá được vô minh, đập tan được Ngã và Ngã
sở, và tỏ ngộ được Chân Tâm trong sáng của ta. Trở về tự tâm hay Kiến
tính là duyệt xét lòng mình để thấy những gì là cao đẹp quang minh, và
những gì là xấu xa, thấp hèn, rồi tuân theo những lời chỉ dạy của lương
tâm, Phật tính của mình.
* Một triết gia Tây phương có những tư
tưởng đẹp, được diễn tả qua bông hoa văn nghệ sau đây: “Đối với Thượng
đế (hay Phật, Trời) ta nên có trái tim của trẻ thơ. Đối với tha nhân, ta
nên có trái tim của người Mẹ hiền. Nhưng đối với chính mình, ta phải có
trái tim của một vị thẩm phán anh minh, nghiêm khắc. Ta phải làm chủ ý
chí của ta và làm nô lệ cho lương tâm mình”. Nói theo lối Phật giáo thì
ta phải tự biết chính mình, ta mới được tự do tự tại, mới thoát khổ, và
mới thành Phật.
* Trở về với nội tâm hay Kiến tính là
nương tựa vào lương tâm mình, chẳng phải là nương tựa vào một thể xác
giả huyễn, một mớ ngũ uẩn, giả ngã biến hoại từng sát na, cũng chẳng
phải là nương tựa vào sự phiêu lưu bình bồng của một Ý thức thay đổi
không ngừng vì tất cả những thứ đó đều chẳng phải là Chân Ngã hay Chân
Tâm, mà chỉ là Vọng thức Vọng niệm đảo điên, sinh diệt luôn luôn biến
đổi mà thôi. Trở về với chính mình là nương tựa vào những đức tính sáng
suốt, bình đẳng, từ bi hỷ xả của tự tính của mình sẵn có đầy đủ, không
bị nhân duyên và căn trần chi phối. Mục đích trở về với bản tâm con
người thì bất cứ bộ kinh Phật liễu nghĩa nào cũng có vị giải thoát cả,
nhưng mỗi bộ kinh Phật lại có một lối diễn tả riêng, khi thì theo cửa
Hữu hay Pháp tướng, khi thì theo cửa Không hay Pháp tính, lại dùng những
từ ngữ khác nhau để cùng chỉ một thứ, tỷ như tâm con người.
- Kinh Hoa Nghiêm gọi là Pháp giới hay
Pháp giới tính, hoặc Sự Lý viên dung.
- Kinh Lăng Nghiêm gọi là A đà na thức,
Chân Tâm, Diệu minh, Chân Như, Chân Tính, Chân Tướng, Thực thể, Chân thể
…
- Kinh Thắng Man gọi là Như Lai Tạng.
- Kinh Duy Ma Cật gọi là Pháp Bất Nhị.
- Kinh Viên Giác thì gọi là Viên giác
Tính, Thiền định công đức, hay Diệu Giác Nguyên minh…
- Kinh Đại Bát Niết Bàn gọi là Như Lai,
Như Lai tính, Pháp tính thường trụ.
- Kinh Bát Nhã gọi nó là Không quán.
- Kinh Lăng Già gọi nó là Như Lai thanh
tịnh.
- Kinh Pháp Hoa gọi nó là Phật tính, Tự
tính thanh tịnh Niết bàn, Như ý bảo châu, Tri kiến Phật, hay Viên ngọc
vô gía giắt trong người.
- Kinh Pháp Bảo Đàn gọi nó là Bản lai
diện mục, hay ông chủ nhà.
- Luận Đại Thừa Khởi Tín gọi nó là Bản
Giác hay Giác tính.
- Luận Duy Thức gọi nó là Duy Thức tính
v.v…
Trong các kinh điển của nhà Phật chữ tâm
được diễn tả tuỳ theo Tướng, Dụng hay Thể của nó. Về phương diện hoạt
động hay diệu dụng thì tâm được gọi là pháp Nhất thừa, lý Trung Đạo, lý
Bất Nhị, hoặc Chân Đế để chỉ cho cái thực tại siêu việt, mầu nhiệm, viên
dung, cái Chân không Diệu hữu của vũ trụ. Về phương diện Thể Tính thì
gọi Tâm là Phật tính, Giác tính, Pháp tính, Bình đẳng tính, Pháp thân
Như Lai, Chân Không, Đại ngã… hay cái tính Bất sinh bất diệt, Bất khứ
bất lai, không thiện không ác của các pháp. Đứng về phương diện liên hệ
giữa bản thể và hiện tượng thì tâm được diễn tả bằng những danh từ “Như
thị, như thị” hay “Như như”.
Tâm của con người chứa đầy hạt giống
xấu, tốt lẫn lộn. Đó là nơi tụ hội của Thần lẫn Quỷ, Thần là phần thanh
cao tôn quý, Quỷ là phần ô trọc bỉ ổi, thấp hèn. Về mặt chân thì tâm có
quyền năng vô hạn, hiện diện khắp nơi như hư không. Về mặt vọng thì nó
là động cơ thúc đẩy con người đi theo con đường lục dục, thất tình, gây
khổ đau, tai hoạ, nếu nó nghiêng ngả mê mờ. Vì tâm là kho chứa đủ các
loại hạt giống của Thánh lẫn phàm nên cổ nhân lo sợ nếu nó nghiêng lệch
về một phía, thì sai một ly đi tới vạn dặm.
Đã có Thánh, phàm, ắt có chân tâm hay
Phật tâm và phàm tâm hay vọng tâm. Tự tính Di Đà hay chân tâm, Phật tính
vốn đầy đủ các đức hạnh viên chiếu hồn nhiên, ở Phật chẳng thêm, ở phàm
không thiếu. Khi cái tính thanh cao tuyệt đối ấy chưa phát hiện thì nó
vô vi. Đó là phần tiên thiên, vạn tượng hàm chứa trong đó. Nhưng khi nó
đã phát hiện ra ngoài thì nó là phần hậu thiên sinh ra thiên hình vạn
trạng. Càng đi xa ngọn nguồn trong sạch, nó lại càng ô trọc, mờ tối. Từ
một tư tưởng bất chính sinh ra mà tâm vốn bất động đã tạo duyên, tác
nghiệp, lôi cuốn con người vào guồng máy luân hối sinh tử. Tu là từ hậu
thiên trở về tiên thiên, từ vạn hữu sai thù, trở về nguyên lý căn bản,
hay tự vọng thức điên đảo hồi về chân tâm bất động để được giải thoát.
Cái tâm chỉ có một, thuộc về bản thể
tuyệt đối sinh ra vạn hữu sai thù, có hình, danh, sắc, tướng, gọi là Sự
Sự Pháp giới, nên mới có câu: “Nhất bản tán vạn thù, vạn thù quy nhất
bản”. Tất cả các pháp trong vũ trụ đều từ cái “nhất chân” ấy sinh ra nên
mới bảo: “Một là tất cả và tất cả là Một”. Tướng và Dụng của các pháp
đều vọng mà Bản thể của các pháp lại chân, cho nên giữa Chân và Vọng,
Tính và Tướng, Lý và Sự, tuy khác nhau về Tướng, Dụng, nhưng Thể lại vốn
đồng và đều dung thông, dung nhiếp với nhau như bóng với hình, nghĩa là
các pháp đều “nhất thiết vô ngại”.
Phật và tâm con người rộng lớn như thái
hư. Về mặt Thể nó bao hàm cả vạn hữu, ẩn tàng và siêu xuất. Tâm có sức
mạnh tinh thần phi thường nên ta biết cách tập trung năng lực của nó vào
một mối, đừng để cho năng lực ý phân tán thất thoát qua lỗ hổng của sáu
căn thì nó có đủ sức hoán cải cả càn khôn. Người ngồi thiền tập trung tư
tưởng trong đại định có dụng ý để năng lực tinh thần của tâm không bị
suy giảm bởi đã khép kín được sáu căn. Khi đó họ đã dùng năng lực tinh
thần (của Tâm) để quan sát sự vật và đắc một thứ trực giác siêu phàm gọi
là Bát nhã trí, thấy rõ Thực tại toàn chân. Người thường, trong phút lâm
chung, sáu căn biến hoại cũng có được một lúc tâm không vọng động và lúc
ấy nếu biết hướng về Phật pháp hoặc được bên ngoài trợ lực, nhắc nhở cho
biết để hướng về nơi thanh cao siêu thoát, và hướng tới Phật, niệm Phật
A Di Đà với tâm bất loạn thì có thể nhờ được Tha lực của chư Phật và Bồ
tát cùng người bạn hộ niệm cho mình phối hợp với tinh thần của y lúc bấy
giờ mà dắt y về cảnh Cực lạc Tây phương.
Về mặt vật lý (theo bản báo cáo của BS
Nguyễn Khánh Dư về thành tích hoạt động của Bệnh viện Chợ Rẫy (Saigon)
trong ngành chữa trị bệnh tim, đăng trong báo Saigon Giải Phóng) thì tâm
là một chiếc máy bơm thần diệu bền bỉ hơn sắt, thép, có sức hút được một
khối lượng máu, bằng cả một khối nước chứa đầy một cái hồ dài 10 cây số,
rộng 7 cây số, và sâu 2,50 thước để nuôi cơ thể một người trung bình thọ
60 tuổi, hoặc có thể nâng bổng một cơ thể nặng 60 Kg lên tới đỉnh ngọn
núi chọc trời Everest cao 8848 thước, bằng sức của nó chỉ mới tích luỹ
trong vòng một tháng mà thôi ? Thế mà ta lại cứ tưởng nó yếu ớt tầm
thường, không đáng kể !
- Tâm ấy gây sóng gió, làm cho đời người
điên đảo, điêu linh mà cũng chính nó lại mở đường cho chúng ta nhập cảnh
giới Niết bàn, hạnh phúc nên mới có câu:
Vị bất tòng thức pháp giới lưu,
Mạc bất hoành quy thức pháp giới.
Pháp giới ở đây là Pháp giới tính là tâm
của vũ trụ mà cũng là tâm của con người, nơi xuất sinh vạn hữu, và là
nơi vạn hữu quay về. Đó cũng là lý nghĩa của câu kinh: “Tam giới duy
tâm, vạn pháp duy thức”. Nếu tâm thức của con người mà không quân bình
thì trời đất đều bị điên đảo, đảo điên.
Nếu Tâm con người mà ngả nghiêng nghiêng
ngả, chỉ biết cái Ta, chẳng còn lưu ý đến cái tốt, cái hay và quyền lợi
của thiên hạ thì bao nỗi mâu thuẫn, bất đồng, xâu xé nhau từ đó phát
sinh. Bổn phận và lý tưởng của mọi người là đi theo con đường chính
hướng về Chân, Thiện, Mỹ. Giữa hai nẻo Thiên đường và Địa ngục, con
người có toàn quyền tự do lựa chọn. Bổn phận của ta là phải thoát ly
cảnh mờ tối của tâm hồn vì vô minh che lấp ánh sáng của chân tâm để trở
về với chân tính sáng suốt của mình. Bởi vì chân tâm là cái vô hình, vô
tướng, khó hiểu và khó chỉ bày nên Phật mới phải mượn những vật hữu hình
để chỉ cái vô hình vô tướng ấy, do đó mà kinh Phật, bộ nào cũng chứa đầy
mật nghĩa khó hiểu.
Xét trong kho tàng kinh điển Phật giáo
có hai bộ Kinh A Di Đà và Địa Tạng có những mối liên hệ mật thiết với
nhau, vì cả hai đều được chọn làm Kinh cầu siêu cho người chết, do đó,
luận về Kinh A Di Đà mà không bàn qua về Kinh Địa Tạng e bị lỗi thiếu
sót.
b. Kinh Địa Tạng.
Cũng giống như Kinh A Di Đà, Kinh Địa
Tạng là một bộ Kinh Đại Thừa liễu nghĩa, khế lý, khế cơ, viên đốn, Lý sự
viên dung, có gì lợi cho người còn, người mất, bởi vì người sống nhờ đọc
tụng các bộ Kinh này được giác ngộ, giải thoát, thì kẻ chết cũng nhờ các
bộ Kinh này mà được chuyển nghiệp siêu sinh. Người Phật tử dốc lòng tin
lời Phật dạy trong hai bộ kinh này mà tu theo về Sự hay Lý đến mức độ ba
la mật đều đắc quả như nhau, cùng tăng trưởng Bi Trí, Phúc Tuệ, cùng đạt
tới Lý Sự viên dung.
1. Về mặt Sự tướng: Theo Kinh điển thì Đức Địa Tạng là một
người có thật (cũng như Phật A Di Đà là một vị Phật bằng thịt bằng
xương), nếu không vì nguyện lớn độ tận chúng sinh trong cõi đời ô trược,
ác thế này thoát vòng tử sinh thì Ngài đã thành Phật từ nhiều kiếp trước
rồi. Ngài nguyện rằng: “Chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ đề. Địa
ngục vị không thệ bất thành Phật”. Lời nguyện của Bồ tát Địa Tạng
sâu rộng vô cùng, bởi vì đối tượng của Ngài vô tận. So với những nguyện
lớn của Ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc, Quán Thế Âm Bồ tát, còn bao la
vĩ đại hơn nhiều bởi vì dù các vị này có hiện ra trăm ngàn muôn ức hoá
thân để tế độ chúng sinh khắp mười phương thế giới thoát vòng khổ đau,
song những Phật sự của các vị này còn có lúc hoàn mãn, chứ nguyện của
Ngài Địa Tạng thề cứu độ hết thảy chúng sinh trong sáu ngả, trải qua vô
số kiếp như số cát của muôn ngàn ức sông Hằng thì thật là vô cùng tận.
(Phẩm Địa Thần Hộ Pháp thứ 11 Kinh Địa Tạng. Chỉ có 48 lời nguyện của
Phật A Di Đà mới sánh ngang với lời nguyện của Ngài Địa Tạng mà thôi).
*
Tâm của Bồ tát Địa Tạng viên chiếu, tịch
tĩnh, đồng thể với Phật. Vì nguyện độ lớn nên Ngài mới tự nguyện ở ngôi
Bồ tát trong thời gian vô tận để hành đạo. Ngài có đủ cả tam Thân:
a. Pháp thân của Ngài Địa Tạng Bồ tát
trùm cả tam thiên đại thiên thế giới, hoà đồng cùng vũ trụ.
b. Ứng thân của Ngài hiện diện tại cung
Trời Đao Lợi khi Phật Thích Ca thuyết Kinh Địa Tạng cho hàng Trời và Bồ
tát nghe. Lúc ấy Phật đã lấy tay xoa đầu Bồ tát Địa Tạng và giới thiệu
Ngài với Trời Đế Thích.
c. Báo thân của Ngài ví như thân của
Thánh nữ Bà la môn Quang Mục trong Kinh Địa Tạng. Như vậy theo Kinh
điển, về mặt Sự, rõ ràng Đức Địa Tạng Bồ tát là một nhân vật lịch sử
(cũng như Phật A Di Đà), có đời sống như người thường, nghĩa là có tu
hành, phát thệ và có mật độ, không thể bảo Ngài là một nhân vật huyền
thoại, có danh vô thực, cũng như không thể bảo Pháp Tạng Tỳ kheo, tiền
thân Phật A Di Đà là một nhân vật bịa đặt. Theo tục lệ người đời thường
vẽ hoặc đắp tượng Ngài giống như một vị Hoà thượng, tay cầm viên minh
châu để soi đường nơi âm phủ, và cây tích trượng để phá cửa ngục thiết
vi, giải thoát cho những vong hồn tù đày.
* Trong Kinh Địa Tạng, Phật Thích Ca đã
giới thiệu Ngài Địa Tạng cho Trời Đế Thích rõ, cũng như Phật đã từng
giới thiệu cảnh Cực lạc Tây phương cho Hoàng Hậu Vi Đề Hy hay và cũng
như Phật đã tự giới thiệu mình với hàng đệ tử là Ngài chính là em ruột
Phật A Di Đà trong tiền kiếp. Ta phải tin lời Phật dạy trong những
trường hợp này bởi vì Phật không bịa đặt bao giờ cả. Đã tin lời nguyện
của Phật A Di Đà thề độ tận chúng sinh trong khắp các nẻo mê đồ, hễ kẻ
nào thành tâm niệm danh hiệu Phật tới mức nhất tâm bất loạn thì được
thoát ly sinh tử, được về thế giới Cực lạc Tây phương thì ta cũng phải
tin lời nguyện của Bồ tát Địa Tạng thề cứu vớt hết thảy chúng sinh khỏi
khổ đau và thoát ly địa ngục vô gián. Bởi nặng lòng thương chúng sinh
sống trong cảnh nhà lửa bốn bề đốt cháy, và bởi Phật đã rõ những lời đại
nguyện của Bồ tát Địa Tạng về tiền kiếp nên Phật đã uỷ thác cho Bồ tát
Địa Tạng trong thời gian Phật không còn tại thế và Đức Di Lặc chưa xuất
hiện để cứu đời, lãnh lấy trọng trách độ hết chúng sinh cương cường khó
dạy, còn ngụp lặn trong biển sinh tử nhất là ở cõi địa ngục trần gian
này, cũng như ở mọi nơi uế độ khác đều được giải thoát khỏi bát nạn tam
đồ. Đức Địa Tạng đã vâng chịu, nhận lãnh lời phó thác ấy tới ba lần. Đọc
tới đoạn Kinh trên, ai là người chẳng cảm động trước tấm lòng Từ Bi cao
cả và tuyệt đối của bậc Thánh cứu thế ấy ?
Theo Triết lý thì Kinh Địa Tạng được gọi
là Hiếu Kinh, một bộ Kinh dạy về chữ Hiếu đứng hàng đầu. Trong Kinh Địa
Tạng, Phật dạy: “Phận làm con phải thờ cha mẹ, cố giữ chữ hiếu đạo đối
với mẹ cha mới đền đáp được công ơn sâu dầy dưỡng dục sinh thành”.
Nhưng cha mẹ của chúng ta là những ai ?
- Theo lời Phật dạy ông A Nan trong kinh
Đại Báo Phụ Mẫu trọng ân thì không những chúng ta có cha mẹ trong đời
hiện tại, mà ta còn có cả phụ mẫu trong các kiếp quá khứ nữa. Đống xương
khô của vô số chúng sinh, trong hằng hà sa số kiếp về trước, có thể là
hài cốt của cha mẹ ta, bởi vì trong muôn lần kiếp tái sinh, ta đã phải
đoạ hết làm loài nọ lẫn loài kia, thì trong chuỗi dài vô tận của thời
gian, tất cả chúng sinh trong khắp các cõi mê đồ, người còn kẻ mất đều
có thể là cha mẹ của chúng ta, chỉ vì vô minh che khuất bản tâm thanh
tịnh mà ta không nhận ra đó thôi. Hiểu lẽ đạo làm con phải hết lòng hiếu
kính đối với cha mẹ khi còn, khi mất để đền đáp công ơn sanh thành dưỡng
dục trong muôn một, lại hiểu rằng chúng sinh đều có thể là phụ mẫu của
mình, thì cũng hiểu được vì sao Phật A Di Đà đã nguyện độ tận chúng
sinh, ai nhắc tới tên Ngài đều được Ngài đưa về cõi Tây phương Cực lạc.
Bồ tát Địa Tạng đã nguyện cứu vớt chúng sinh thoát khỏi ngục A Tỳ và Bồ
tát Quán Thế Âm cũng như các Bồ tát khác lại phân thân ứng hiện khắp
nơi, dưới mọi hình tướng để cứu giúp muôn loài khổ đau. Đối với người có
tâm Bồ tát thì chúng sinh là những vị ân nhân bởi vì nếu vắng bóng chúng
sinh thì Bồ tát không có dịp may để hành đạo và chứng quả Bồ đề, luyện
Tứ Vô Lượng Tâm và Lục độ ba la mật.
* Theo lý Tương tức, tương nhập và bình
đẳng trên mặt thể tính thì mình là chúng sinh, chúng sinh là mình. Sự
sống của muôn loài trên trái đất đều linh thiêng như nhau, và không có
loài nào phải hy sinh tính mạng mình cho loài khác để họ được đỏ da thắm
thịt cả. Đứng trước thảm cảnh những con thú bị thọc huyết phanh thây,
tiếng kêu la thảm thiết, dẫy dụa trên máu đỏ lòm, hay giương đôi mắt lờ
đờ nhìn cảnh vật chung quanh ai là người có chút từ tâm lại chẳng mũi
lòng, thương xót ? Không ai có quyền được dùng trí óc khôn lanh của mình
để săn, bẫy, giết hại muông thú, hòng thoả mãn lòng tham ích kỷ và tính
hiếu sát của mình ! Cũng vì nhớ tới công lao của chúng sinh đã tạo cho
mình nguồn sống mà người có đạo tâm không nỡ sát sinh súc vật và phải ăn
chay suốt đời.
Hiểu được lẽ chúng sinh có thể là phụ
mẫu của ta trong tiền kiếp, chúng sinh đồng một bản thể với ta, và là
những vị Phật sẽ thành thì cũng hiểu được vì sao mà ta phải có tâm vô
phân biệt, không nên tự kiêu, coi oán thân không khác và phải sống với
chân lý Bất Nhị, Một là Tất cả và Tất cả là Một.
Trong Kinh Hoa Nghiêm có câu: “Ở sa mạc
có một hồ nước. Trên bờ mọc lên một gốc đại thụ cành, lá, hoa quả sum
xuê. Nước ở trong hồ ví như chúng sinh. Rễ cây, thân cây và cành, lá
tượng trưng cho Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, còn hoa quả là Phật. Nếu
không có nước ở trong hồ thấm nhuần vào rễ thì cây ấy không mọc được để
nẩy chồi, đâm lộc sinh hoa kết trái”. Quả Phật thuộc về chúng sinh. Nếu
không có chúng sinh thì Bồ tát không có nơi nương tựa để hành đạo và
thành tựu được quả vị Bồ đề. Cũng vì lẽ đó mà các khoá lễ Phật đều kết
thúc lời Kinh bằng hồi hướng công đức khắp tất cả, âu cũng là nghĩa cử
thông thường nhằm nghĩ đến ân sâu đối với chúng sinh.
Người học đạo Phật cần phải hiểu đạo
Phật, hiểu đạo không phải chỉ là nghiên cứu Kinh điển, mà còn phải trải
qua một quá trình lâu dài thấy Đạo, hành Đạo và chứng Đạo tức là hiểu
Đạo qua thực nghiệm của bản thân, vượt ra ngoài lý luận viễn vông, nghĩa
là phải đi qua nhiều chặng đường thử thách của Tri Hành hợp nhất. Những
mớ hiểu biết lỏng lẻo, lý thuyết ban đầu rất cần thiết. Đó là phần tư
lương dự trữ trong bọc hành lý buổi đăng trình. Nhưng Trí có thể dễ mà
Hành mới thật là khó. Người học đạo Phật chịu khó nghiên cứu và nghe
những lời thuyết pháp có thể hiểu được Phật pháp phần nào, nhưng làm
những lời vàng ngọc của Phật dạy thì ít ai làm được, chỉ có Phật mới làm
theo đúng những lời mình đã nói. Hiểu thiên kinh vạn điển còn dễ, chứ
Hành, dù chỉ một chữ thôi (như chữ Xả, chữ Nhẫn, chữ Hiếu chẳng hạn)
thực khó vô cùng ! Do đó, đôi khi ta phải coi Hành nặng hơn Tri. Hiểu
thì phải cố gắng hành trì theo như mình đã hiểu. Nếu Tri mà không Hành,
Lý mà thiếu Sự thì Lý phỏng có ích gì ?
Nếu ta coi chúng sinh những kiếp trước
và kiếp này đều là ân nhân của ta thì ta phải hết lòng nhớ ơn họ, và
phải làm đúng theo lời Phật dạy.
Trong Kinh Địa Tạng, Phật đã chỉ bảo
tường tận bổn phận làm con phải giữ hiếu đạo đối với cha mẹ, mà một việc
cần phải làm là dâng lễ cầu siêu cho cha mẹ quá cố. Phật sự này nhằm đạt
hai lợi ích cụ thể, vừa độ sinh lại vừa độ tử như sau:
1. Đối với người còn sống thì dậyi nấy
phải hết lòng hiếu kính đối với cha mẹ, dù phải khoét mắt, cắt da, lóc
thịt để làm thuốc thang cứu chữa cho cha mẹ mắc bệnh cũng không đền đáp
được công ơn dưỡng dục một trong muôn phần.
2. Đối với người chết, trong thời gian
hấp hối, thần thức hay thân trung ấm hãy còn, phần hồn chưa lìa khỏi
xác, mặc dù xác thân bất động nhưng thần thức hãy còn nghe và cảm thọ
chính là lúc nghiệp lực nổi dậy chiêu cảm, và cũng là thời gian thuận
tiện nhất để chuyển nghiệp nặng thành nghiệp nhẹ, và nghiệp nhẹ được
tiêu tan, do đó mới có tục lệ muốn cho người chết được hưởng lợi ích để
chuyển nghiệp thì thân nhân của họ thường tổ chức những buổi tụng Kinh A
Di Đà hay Địa Tạng để cầu siêu cho người chết, mong thoát ly cảnh khổ
địa ngục và được siêu thăng về cảnh giới Cực lạc, Niết bàn, có ý nghĩa
thoả mãn lòng hiếu và xót thương của người sống đối với người đã qua
đời, đó là một mỹ tục và việc làm đúng theo lời Phật dạy. Tóm lại, về
mặt Sự Tướng thì tín ngưỡng về sự hiện hữu của Phật A Di Đà cũng như của
Bồ tát Địa Tạng đã khắc sâu vào tâm khảm của quảng đại tín đồ Phật giáo
xuyên qua các kinh điển và hình tượng của các Ngài, những vị Phật và Bồ
tát cứu nhân độ thế có những đại nguyện rộng lớn như nhau. Tín ngưỡng đó
không bao giờ phải lạt, bởi vì về mặt tâm lý quần chúng thì Đức Phật A
Di Đà cũng như Bồ tát Địa Tạng là những điểm tựa tinh thần vững chắc và
cần thiết để người đời an tâm, tin hễ cứ niệm Phật A Di Đà hay cầu
nguyện Bồ tát Địa Tạng thì người sống, kẻ chết đều được lợi ích cả.
Đối với người còn sống, việc niệm hồng
danh A Di Đà là phương pháp thần diệu để an tâm, tĩnh trí, phá tan phiền
não để trở về với Phật tính, Chân Tâm. Việc tụng Kinh Địa Tạng, cầu siêu
cho người chết, dạy người đời chữ Hiếu, nhắc nhở ai nấy làm tròn đạo làm
con, tỏ lòng biết ơn đối với người khuất bóng.
3. Đối với người đã chết thì chuyển được
nghiệp nặng biến thành nghiệp nhẹ, và nghiệp nhẹ được tiêu tan. Tin như
vậy là chính tin. Muốn cho đức tin thành tựu được công đức tốt lành thì
việc lễ bái, cúng dường, cầu siêu, niệm Phật phải được thực hành đúng
cách (không sát sinh không đốt vàng mã), làm với tâm thành tuyệt đối, vì
thiếu tâm thành thì tín ngưỡng chẳng sâu xa và quả đạt được chẳng đáng
là bao, người sống kém phần lợi lạc, mà người chết lại càng hưởng phúc
ít hơn. Phật dạy: Kẻ hết lòng tôn kính và biết ơn Như Lai là kẻ đã hành
trì đúng theo lời Phật dạy. Chính kẻ ấy đã làm cho giáo pháp của Như Lai
trường tồn trên thế gian này.
2. Về mặt Lý tính:
Kinh A Di Đà cũng như Địa Tạng, hoặc bất cứ một bộ Kinh liễu nghĩa nào
khác của đạo Phật đều nhằm mục tiêu thanh tịnh hoá tâm của con người đọc
tụng. Xét về ý nghĩa những danh từ Địa Tạng, U Minh, Bản Tôn và địa
ngục, ta thấy:
Địa
là đất; Tạng là chỗ chứa.
Đất có tính chất cứng rắn, sâu dầy, dung
chứa muôn loài. Hạt giống nào gieo xuống đất được chăm sóc, gặp duyên
lành đều mọc thành cây, đâm hoa kết trái. Lấy đất dụ cho tâm con người
nên mới có danh tự Tâm địa. Bởi vì đất khó đo lường được mức độ nông sâu
nên tâm con người, cũng như đất, khó đoán được tầm mức nông sâu. Bởi bản
thể của tâm vô hình vô tướng, không đập phá nổi, nên đất cũng như tâm
cứng rắn và trường tồn. Bởi tâm con người thiếu từ bi, đầy tham vọng, vị
kỷ, cũng như đất thiếu nước sẽ khô cằn, không gieo trồng gì được. Tâm
như bầu thái hư, bao trùm tất cả, không vật gì ở ngoài tâm, tâm sinh ra
vạn hữu, rồi vạn hữu lại trở về với tâm, cũng như mọi vật đều từ đất
sinh ra rồi lại trở về với lòng đất nên tâm cũng như đất, bất sinh, bất
diệt, rộng lớn vô lượng vô biên.
U Minh
là tối tăm, hắc ám như lòng đất. Lấy cái
tối tăm của địa ngục để dụ cho cái đen tối vô minh trong lòng người mê
muội. Mặt biển tuy rộng song không bằng bầu trời bao la. Bầu trời tuy
mênh mông bát ngát song đã thấm gì với lòng người rộng lượng vô biên ?
Nhìn vào đâu mà thấy có ánh hào quang rực rỡ hay có bóng tối đen ngòm
bằng nhìn vào lòng người thanh cao đạo đức hay nham hiểm thâm trầm ?
Bản
là gốc, ám chỉ nguồn gốc của muôn loài
là đất hay tâm.
Tôn
là kính trọng. Bản Tôn là vật đáng kính
trọng, quý báu trong ta. Đó là tâm, phần quý giá nhất trong cơ thể của
một sinh vật.
Như vậy về mặt Lý Tính thì Địa Tạng là
danh từ chỉ cái gì cực kỳ tôn quý trong con người, có khả năng phá tan
vô minh phiền não và giải thoát con người ra khỏi địa ngục hắc ám, thoát
vòng khổ đau, dẫn con người từ địa vị phàm phu tiến tới nơi cao quý là
nhập Niết bàn, thành Phật.
Danh từ Địa Tạng đồng nghĩa với danh từ
Pháp Tạng (một ẩn danh của tâm), và Bồ tát Địa Tạng cũng chỉ là một cái
tên ngụ ý như Pháp Tạng Tỳ kheo (tức Phật A Di Đà trong tiền kiếp) và Bồ
tát Địa Tạng cũng như Phật A Di Đà (Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô
Lượng Công Đức) chỉ là những danh từ có tên không thực, tượng trưng cho
tâm con người mà thôi.
Còn địa ngục là gì ? Theo Phật
học đại Từ điển thì địa ngục (tiếng Phạn là Naraka hay Niraya) có nghĩa
là nơi chứa đầy khổ não, chốn tù đày chẳng lúc nào yên vui cần phải được
thoát ly ra khỏi. Mà địa ngục sâu kín nhất trần gian chính là địa ngục
thiết lập trong tâm hồn của mỗi cá thể. Đó là thứ địa ngục khổ hơn mọi
thứ địa ngục và cũng xuất phát mọi quang cảnh khổ đau nơi trần gian. Khi
ngọn lửa tâm tư bùng cháy trong mỗi cá nhân thì ngọn lửa khổ đau của
toàn thể nhân loại không sao dập tát nổi. Bởi tâm trạng của thế giới
loài người là phản ảnh trung thực của đời sống nội tâm và cộng nghiệp
của nhân loại là tổng số các biệt nghiệp của từng cá nhân. Thế giới
ngoại cảnh biến hiện tuỳ thuộc vào sự biến đổi của tâm thức mỗi người và
của toàn thể quần chúng. Khi đôi mắt đã đỏ ngầu cuồng vọng tham tàn thì
cảnh vật bên ngoài sao không ngập tràn khói lửa ? Nhìn tha nhân qua
sương mù cách biệt, ảm đạm, thì sao thấy được cảnh đời lung linh mầu sắc
? Trái lại, nếu dùng con mắt Phật mà “từ nhãn thị chúng sinh” thì sao
còn diễn ra cảnh đâm chém giết nhau trên chiến trường không thương xót ?
Đeo cặp kính màu đen thì cảnh vật hiện ra trong một mầu ảm đạm. Nhìn
thiên hạ qua cặp kính màu hồng thì cõi trần gian này hoá thành Tiên
cảnh, Bồng lai.
* Kinh A Di Đà cũng như Kinh Địa Tạng
chứa đựng một chân lý: khuyên người đời nên trở về với Chân Tâm, diệt
trừ vô minh để hiển bày Tự tính Di Đà hay Phật tính của mình. Với ý
nghĩa trên thì Ngài Địa Tạng Bồ tát chỉ là một vị Bồ tát tiêu biểu cho
những đức tính kiên quyết mong đạt tới Chân Tâm, bản tính của mình. Đó
là người đã dùng trí tuệ Bát Nhã và ý chí sắt đã muốn diệt trừ phiền
não, phá tan hắc ám vô minh để trở về với tự tính sáng suốt thanh tịnh
của mình. Khi nào tâm ta buồn phiền, tuyệt vọng, bứt rứt, khổ đau, bị
cuồng nộ vò xé, thì lúc đó ta đang sống trong địa ngục tối đen. Sống
trong địa ngục vô gián là sống trong ngu muội, si mê triền miên, tâm bị
đảo điên cuồng loạn. Người bị giam trong ba nghiệp thân, khẩu, ý cũng ví
như người bị tù đày trong địa ngục thiết vi khó thoát.
* Kinh Địa Tạng nói: Trong việc cứu độ
chúng sinh thì lời nguyện của Bồ tát Địa Tạng thâm trọng hơn cả bốn vị
Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm và Di Lặc. Ý Kinh muốn nói: Muốn được
giải thoát khỏi khổ đau thì ngoài bốn đức tính: Trí tuệ (của Ngài Văn
Thù), Hạnh nguyện (của Phổ Hiền), Đại Bi (của Quan Âm) và Đại Từ (của Di
Lặc), còn cần phải có lòng dũng cảm, cương quyết và tinh tiến (của Địa
Tạng) với hạt minh châu và cây tích trượng trong tay tiêu biểu cho Trí
sáng suốt và lòng dũng cảm, quyết tâm thoát cảnh vô minh, ra khỏi ràng
buộc của lục dục, thất tình, để được tự do, hạnh phúc.
Trong đoạn kinh nói về Bồ tát Địa Tạng
nhận lãnh trọng trách cứu vớt chúng sinh từ thời Đức Thích Ca Niết bàn
đến thời Đức Di Lặc ra đời, ý Phật muốn nói: Gặp thời mạt pháp, không
có Phật tại thế thì phải nương tựa vào tâm mình. Quy y Bồ tát Địa Tạng
của mình, mong được giải thoát phải có đủ hai điều kiện là Thệ và
Nguyện.
Thệ
là thề cương quyết hành động, không rụt
rè lùi bước trước mọi khó khăn cản trở, do nội ma và ngoại ma thử thách
lòng mình. Nguyện là phải thiết tha mong đạt tới mục
tiêu. Muốn
được thoát nạn, khỏi khổ đau mà không thề với lương tâm mình sẽ
không
tái phạm, lại chẳng cương quyết diệt trừ phiền não, vô minh thì
không
thể thành công được. “Nhất thiết duy tâm tạo” thì Cực lạc, Niết
bàn hay
Ta bà, địa ngục đều ở tâm ta và do ta tự tạo cả. Những gì ta tạo
được
thì ta cũng phá được, do đó chỉ có Bồ tát Địa Tạng của mình (hay
tâm ta)
mới phá được địa ngục do ta tạo ra, và chỉ có Phật A Di Đà của
ta (hay
tâm mình) mới dẫn ta tới miền Cực lạc được. Người theo về Lý bảo
rằng:
Nếu tin có Đức Địa Tạng và tin rằng Ngài có đủ khả năng phá tan
địa
ngục để giải cứu cho chúng sinh có tội cũng như tin có Phật A Di
Đà và
tin luôn rằng Phật A Di Đà có thừa hùng lực dẫn dắt chúng sinh,
dù nặng
nghiệp về cõi Cực lạc Tây phương thì chẳng hoá ra luật nhân quả
nghiệp
báo lại chẳng có tác dụng sao ? Nếu sinh thời mà con người tha
hồ gây
tội ác, rồi ỷ lại, sau khi chết đã có người sống bỏ tiền ra
thiết lễ cầu
siêu đọc tụng các bộ Kinh A Di Đà và Địa Tạng, nhờ oai lực của
Bồ tát
Địa Tạng phá tan cửa ngục thiết vi để cứu vớt vong linh kẻ có
tội ấy
thoát khỏi địa ngục, rồi lại nhờ tha lực hùng hậu của Phật A Di
Đà và
Thánh chúng tiếp dẫn vong linh kẻ đầy nghiệp ác ấy về cõi Cực
lạc Tây
phương, thì chẳng hoá ra các Ngài lại nhận sự lạy lục, cúng
dường của
thân nhân họ mà cứu vớt họ thoát khỏi ngục tù và cho họ hưởng
hạnh phúc
đời đời hay sao ? Nếu muốn được giác ngộ giải thoát, diệt trừ vô
minh để
trở về với Chân Tâm thanh tịnh của mình thì bất cứ bộ Kinh Phật
nào liễu
nghĩa dùng để tụng cũng đều công hiệu cả, nhưng dùng Kinh A Di
Đà và Địa
Tạng để mong giải thoát khổ đau được kết quả hoàn toàn theo ý
muốn của
người sống thì khó đạt được lắm, bởi vì Kinh Địa Tạng, phẩm thứ 7
có nói: Nếu thân nhân người quá cố biết cách cúng dường và tụng Kinh
đúng phép
thì trong bảy phần công đức, người chết chỉ được hưởng một phần,
với
điều kiện là thần thức của người chết biết hướng về Phật pháp,
ăn năn
sám hối, có Tín Tâm sâu xa, nghĩa là tha lực phải cộng với tự
lực mới
mong được cứu vớt. Ta nên biết rằng trong lúc ta nằm mộng khi
còn sống,
hay thời gian sau khi chết, còn ở trong thân trung ấm, thần thức
chưa đi
đầu thai kiếp khác thì Tiềm thức trở thành Thức và lúc đó là
thời gian
quyết định cho cuộc đời sau của mình. Nếu trong đời vừa qua ta
làm được
nhiều việc thiện thì Tiềm thức tạo ra những giấc mơ êm đềm đưa
hồn ta
vào cõi Niết bàn tưởng tượng, nhưng nếu trong cõi đời qua, ta
lại làm
nhiều điều ác thì sẽ có những giấc mộng hãi hùng đưa hồn ta tới
địa ngục
tưởng tượng để phải chịu cực hình. Song nếu Niết bàn hay địa
ngục chỉ là
những nơi tưởng tượng thì sự khổ đau, sợ hãi hay sung sướng,
mừng vui
trải qua trong thời gian đó, đối với người trong cuộc lại là sự
thực,
cũng như lúc thôi miên, Pháp sư tạo ra những cảnh vui buồn,
sướng khổ
tưởng tượng, song kẻ bị thôi miên lại cảm thấy thật sự có buồn
vui,
sướng khổ trong cơn hôn mê, chẳng khác nào kẻ bị mê sảng phải
chịu cực
hình trong cơn ác mộng vậy. Những hành động thiện hay ác đều để
lại
trong A lại da thức hay Tiềm thức những tấm âm bản (Plaque
négative) hay
hạt giống để hiện hình trong kiếp sau như những tấm âm bản trở
thành
dương bản trong cuốn phim ảnh được chiếu ra.
Như vậy thì sướng hay khổ, Cực lạc hay
Ta bà đều do tâm tạo, và Đức Phật A Di Đà cùng Bồ tát Địa Tạng cũng do
tâm ta tạo ra mà thôi. Ta không làm điều ác chẳng phải vì lo sợ Trời,
Phật bắt tội, phải chịu hình phạt đoạ địa ngục. Ta phải hiểu rằng chính
bản thân ta phải trả giá đắt vì những hành vi phạm tội của mình.
Khi ta làm điều thiện thì gây được quả
báo tốt lành cho mình được hưởng, dù ta không lưu tâm đến việc thiện đó.
Cũng chẳng phải là Phật, Trời đã ban phúc cho ta khi ta làm điều lành.
Chính ta tự ban thưởng cho mình nếu ta làm được điều thiện. Nghiệp báo
là mối quan hệ theo luật nhân quả và biểu hiện cho hai phương diện:
hoạt động tâm lý và hưởng thụ hoạ phúc. Người toạ nghiệp lành làm cho
mình thành người tốt và tự cảm thấy mình được hạnh phúc do việc làm của
mình gây ra, còn người tạo nghiệp ác thì trái lại.
* Nếu hiểu rõ lý “Nhất thiết duy tâm
tạo” thì ta quyết phải thực hiện lời Phật dạy: “Chư ác mạc tác, chúng
thiện phụng hành”, dù việc làm của ta không ai chứng kiến, ta cũng cố
gắng làm điều thiện, tránh điều ác. Ta chẳng quan tâm, lo buồn vì đại
nghĩa chưa thành, và quả tu chưa viên mãn tới lúc lâm chung. Hoặc nếu ta
đã trót gây nghiệp ác lúc sinh thời thì ta cũng chẳng nên nghĩ rằng chết
là hết, bởi lẽ bánh xe nhân quả nghiệp báo vẫn âm thầm lăn đều qua không
gian và thời gian.
Kính thưa quý vị,
Trong phần bình luận về Kinh Địa Tạng ở
trên, tôi đã đưa ra những ý kiến khách quan và tương phản của hai phái:
một bên thiên về Sự Tướng, tin có Bồ tát Địa Tạng bằng thịt, bằng xương;
một bên thiên về Lý Tính, cho rằng vị Bồ tát ấy tượng trưng cho tâm con
người muốn tích cực thoát ly đau khổ, diệt trừ vọng niệm để trở về nguồn
thanh tịnh của bản tâm hồi nguyên thuỷ. Cả hai phái đó đều lấy Kinh Địa
Tạng làm căn bản để biện minh cho lập trường của mình. Một bên theo
nghĩa đen, một bên theo nghĩa bóng; một bên theo Sự Tướng hay pháp Hữu
vi, một bên theo Không Tính hay pháp Vô vi; một bên hướng ngoại cầu Tha
lực, nặng về lễ bái, tín ngưỡng (như phái Sự trì danh của tông Tịnh độ
thuần tuý), một bên thì xoay ngược luồng nhãn quang, hướng nội, nương
vào Tự lực, quán chiếu tự tâm, hay “minh tâm kiến tính” (như phái Lý trì
danh hiệu Phật của Thiền Tịnh song tu); một bên tu theo Phúc, một bên tu
theo Tuệ, nhưng Tính Tướng vốn Bất Nhị, Lý Sự vốn không hai, bên nào
cũng làm theo lời Phật dạy cả. Bởi vậy, người tu, tuỳ theo tình cảm và
trình độ của mình mà chọn lối tu, không nên bài bác lẫn nhau. Tốt hơn
hết là nên theo cả lối tu Phúc lẫn tu Tuệ, luyện cả Bi lẫn Trí, chẳng
nên bám chặt vào Có hoặc Không. Theo về Sự hay tu Phúc thì được quả báo
tốt lành, được sinh về Cõi Tây phương Cực lạc, tiếp tục đường tu, không
sợ chướng ngại làm cho tâm thoái chuyển. Cho nên những vị Đại Bồ tát như
Di Lặc, nhất sinh bổ xứ, tuy đã ngộ được tâm thanh tịnh rồi, nhưng vẫn
tiếp tục hành trì tu Phúc, chuyên cần niệm Phật A Di Đà, cầu được vãng
sinh Tịnh độ, không bỏ lỡ cơ hội nào chẳng lập đức bồi công, sáu thời
siêng năng sám hối để tiêu trừ sạch nghiệp chướng tế vi cho mau chóng
đạt tới ngôi chính đẳng, chính giác, đủ cho chúng ta thấy không thể bỏ
Sự mà thuần theo về Lý được.
Với công đức thậm thâm vi diệu của sáu
chữ hồng danh, cộng với sự tinh tiến hành trì thì mỗi câu niệm Phật diệt
được một phần vô minh, trừ được một phần phiền não, hưởng được hai phần
Phúc - Trí, lần lần hành giả đi sâu thêm vào cảnh giới thanh tịnh Chân
Như.
Xem tiếp Phần3 (2)
---o0o---